You are on page 1of 5

Chiến lược quản trị thanh khoản của ngân hàng:

1. Định hướng chung về quản trị thanh khoản


Để quản trị thanh khoản có hiệu quả tốt, một số nguyên tắc mang tính chất chỉ đạo sau
đây cần thiết được tuân theo:
- Người quản trị thanh khoản thường xuyên bám sát hoạt động của các bộ phận chịu
trách nhiệm huy động vốn và sử dụng vốn trong phạm vi ngân hàng và điều phối
hoạt động các bộ phận này với nhau. Chẳng hạn, bất cứ khi nào bộ phận phụ trách
tài khoản tiết kiện dự kiến nhận một số chứng chỉ tiền gửi có giá trị lớn trong một vài
ngày tới, thông tin này cần được chuyển ngay tới người quản trị thanh khoản hoặc bộ
phận cho vay đã thoả thuận cấp hạn mức tín dụng mới cho khách hàng, nhà quản trị
thanh khoản cần chuẩn bị khả năng khách hàng rút tiền từ hạn mức đó.
- Nhà quản trị thanh khoản cần phải biết trước khả năng ở đâu và khi nào khách hàng
gửi tiền/ vay tiền dự định rút vốn hoặc bổ sung thêm tiền gửi/ trả nợ. Điều này cho  phép
người quản trị thanh khoản hoạch định đón đầu để xử lý hiệu quả hơn phần
thanh khoản thặng dư hay thâm hụt đang xuất hiện.
- Nhu cầu thanh khản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề
thanh khoản phải được phân tích trên cơ sở liên tục để tránh kéo dài một trong hai
trạng thái: thặng dư hoặc thâm hụt thanh khoản phải được xử lý nhanh chóng nhằm
tránh sự khẩn trương gây gắt trong việc phải vay mượn hay bán tài sản.
2. Chiến lược quản trị thanh khoản
Để xử lý vấn đề thanh khoản, các ngân hàng có thể tiếp cận theo 3 cách sau đây:
+ Tạo ra nguồn cung cấp thanh khoản từ bên trong (tài sản)
+ Vay mượn bên ngoài (nguồn vốn) để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
+ Phối hợp cân bằng cả hai hướng trên.
Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản (sử dụng vốn)
Đây là cách tiếp cận truyền thống để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của NHTM.
Chiến lược này đòi hỏi dự trữ thanh khoản dưới hình thức tài sản có tính thanh
khoản cao, chủ yếu là tiền mặt và các chứng khoán. Khi xuất hiện nhu cầu thanh
khoản, ngân hàng bán các tài sản dự trữ để lấy tiền cho đến khi tất cả nhu cầu thanh
khoản được đáp ứng đầy đủ. Chiến lược quản trị thanh khoản theo hướng này thường
được gọi là sự chuyển hoá tài sản bởi vì ngân hàng tăng nguồn cung cấp thanh khoản
bằng cách chuyển đổi các tài sản phi tiền mặt thành tiền mặt.
Tài sản có tính thanh khoản có 3 đặc điểm sau:
+ Luôn có sẵn thị trường tiêu thụ để có thể chuyển đổi thành tiền mau chóng.
+ Giá cả ổn định để không ảnh hưởng đến tốc độ và doanh thu bán tài sản.
+ Có thể mua lại dễ dàng với ít rủi ro mất mát giá trị để người bán có thể khôi  phục
khoản đầu tư.
Đối với các ngân hàng, những tài sản có tính thanh khoản cao nhất là trái phiếu kho
bạc, các khoản vay NHTW, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác,
chứng khoán các cơ quan chính phủ... Như vậy, trong chiến lược quản trị thanh khoản
dựa trên tài sản, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu nó có thể tiếp
cận các nguồn cung cấp thanh khoản ở chi phí hợp lý, số lượng tiền vừa đủ theo yêu
cầu và kịp thời vào lúc nó được cần đến.
Tuy nhiên, sự chuyển hoá tài sản không phải cách tiếp cận ít chi phí đối với quản trị
thanh khoản:
- Một khi bán tài sản cũng có nghĩa là ngân hàng mất nguồn thu nhập mà các tài  sản
này tạo ra. Như vậy, có chi phí cơ hội để dự trữ khả năng thanh khoản bằng tài sản.
- Phần lớn các tài sản đem bán cũng liên quan đến chi phí giao dịch, chẳng hạn hoa
hồng phí phải trả cho người môi giới chứng khoán.
- Ngân hàng sẽ bị tổn thất vốn đáng kể nếu các tài sản cần phải bán có sự giảm giá
trên thị trường.
- Nhìn chung khả năng sinh lợi của các tài sản có tính thanh khoản càng cao là  thấp
nhất trong số các tài sản tài chính. Nếu ngân hàng đầu tư nhiều vào tài sản có
tính thanh khảon cao thì ngân hàng buộc phải từ bỏ lợi nhuận cao hơn tạo ra từ những
tài sản khác.
Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn
Vào thập niên 60 và 70 nhiều ngân hàng, nhất là các ngân hàng lớn đã bắt đầu gia tăng
nhiều hơn các nguồn vốn có tính thanh khoản thông qua vay mượn trên thị trường  tiền
tệ. Yêu cầu của các ngân hàng là vay mượn tức thời nguồn vốn khả dụng để trang trải
tất cả nhu cầu thanh khoản đã dự phòng. Tuy nhiên, việc vay mượn thường chỉ
được triển khai khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện để tránh dự trữ quá mức cần thiết.
Nguồn vay mượn thanh khoản chủ yếu đối với một ngân hàng bao gồm: chứng  chỉ tiền
gửi khả nhượng có giá trị lớn, tiền vay NHTW, các hợp đồng mua lại, chiết khấu tại
NHTW... Chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên nguồn vốn được hầu hết các
ngân hàng lớn sử dụng rộng rãi và có thể lên đến 100% nhu cầu thanh khoản của họ.
Vay mượn thanh khoản là cách tiếp cận nhiều rủi ro để một ngân hàng giải quyết vấn
đề thanh khoản (nhưng cũng đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất do bởi dao động  lãi
suất trên thị trường tiền tệ và khả năng thay đổi về sự sẵn có của các khoản tín dụng).
Sẽ là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng trên cả hai phương diện: chi phí và sự  sẵn
có nguồn vốn. Chi phí vay mượn thường xuyên biến động và tất nhiên là tăng
thêm mức độ không ổn định của lợi nhuận. Hơn nữa, một ngân hàng có khó khăn về tài
chính thì hầu như thường là về nguồn thanh khoản đã vay mượn, nhất là khi sự hiểu
biết về những khó khăn của ngân hàng lan rộng và những người gửi tiền bắt đầu rút
vốn ồ ạt.
Đồng thời các tổ chức tài chính khác, để dính líu rủi ro, sẽ thận trọng, dè dặt hơn
trong việc tài trợ vốn cho ngân hàng đang có khủng hoảng thanh khoản.
Chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng
Do những rủi ro vốn có khi phụ thuộc vào nguồn thanh khoản vay mượn và  những chi
phí dự trữ thanh khoản bằng tài sản, phần lớn ngân hàng đã dung hòa trong việc chọn
chiến lược quản trị thanh khoản của họ, nghĩa là kết hợp đồng thời cả hai loại chiến
lược trên để tạo ra chiến lược quản trị thanh khoản cân bằng.
Chiến lược này đòi hỏi, các nhu cầu thanh khoản có thể dự kiến, được dự trữ bằng
chứng khoán khả nhượng và tiền gửi tại các ngân hàng khác; trong khi đó các nhu
cầu thanh khoản đã dự phòng trước (theo thời vụ, chu kỳ, và xu hướng) được hỗ trợ
bằng các thoả thuận trước về hạn mức tín dụng từ các ngân hàng đại lý hoặc những
nhà cấp vốn khác.
Nhu cầu thanh khoản không thể dự kiến được đáp ứng từ vay mượn ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ. Các nhu cầu thanh khoản dài hạn cần được hoạch định và nguồn vốn
để đáp ứng nhu cầu thanh khoản là các khoản tiền vay ngắn và trung hạn, chứng
khoán sẽ chuyển hóa thành tiền khi nhu cầu thanh khoản xuất hiện.
Nguồn: Ths. Thái Văn Đại (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)
Từ năm 2008 đến nay, thanh khoản của hệ thống ngân hàng luôn là vấn đề được
Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quan tâm chỉ đạo, được cảnh báo. Các
chỉ số về an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung, về an toàn thanh khoản nói
riêng đã được NHNN ban hành. Trong thực tiễn hoạt động, đa số các ngân hàng
thương mại (NHTM) cũng quán triệt và tuân thủ khá tốt những chỉ số an toàn này.
Tuy nhiên, trên thị trường ở một số thời điểm, những cuộc đua lãi suất (LS) lại
xuất hiện và thường được lý giải bởi nguyên nhân “các NHTM nhỏ gặp phải vấn
đề thanh khoản, phải tăng lãi suất huy động tiền gửi….”. Để hạn chế tình trạng này
cần phải xem xét một số vấn đề trong quản trị rủi ro thanh khoản của một số
NHTM riêng lẻ và chính sách định hướng về quản trị rủi ro thanh khoản của hệ
thống ngân hàng.

Quản trị rủi ro thanh khoản của mỗi NHTM

Để đảm bảo khả năng chi trả mọi thời điểm, NHTM phải giám sát hàng ngày
ngân quỹ/ dự trữ thanh khoản của mình. Dự trữ thanh khoản bao gồm cả dự trữ
bằng tiền (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi NHNN, tiền gửi các tổ chức tín dụng khác) và
dự trữ thứ cấp (giấy tờ có giá có đủ điều kiện để tái cấp vốn/ tái chiết khấu; hạn
mức tín dụng được cấp bởi tổ chức tài chính khác…). Ở khía cạnh này, một số ít
NHTM đã không chú trọng/ không nắm giữ đủ một khối lượng những giấy tờ có
giá như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN... do vậy TCTD rất bị động khi có
biến động hơi bất thường về cung/ về cầu thanh khoản trong hoạt động; khi không
thể vay nhanh chóng nguồn tín dụng tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN.

Mức độ dự trữ ngân quỹ/ dự trữ thanh toán cần thiết của mỗi NHTM là rất
khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín của NHTM trên thị trường, bao
gồm cả thị trường liên ngân hàng và thị trường với tổ chức kinh tế, dân cư; chính
sách tái chiết khấu, tái cấp vốn của NHNN; chất lượng tín dụng…v..v..Trong thực
tiễn, một số NHTM không lượng định tốt hoặc không thể định lượng được mức độ
dự trữ ngân quỹ/ dự trữ thanh toán cần thiết của mình; cơ cấu dư nợ tín dụng trên
tổng tài sản có hoặc trên tổng nguồn vốn huy động tiền gửi ở ngưỡng cao. Tình
huống sau có thể xảy ra: Những chỉ số tài chính giám sát thanh khoản của một
NHTM riêng lẻ chỉ ở ngưỡng bình quân chung của ngành hoặc hơi thấp hơn,
nhưng cũng đã là rất cao so với bản thân NHTM đó vì (i) nguồn tiền gửi của
NHTM không ổn định;(ii) khả năng vay NHNN, vay NHTM khác thấp;(iii) khả
năng huy động vốn từ tổ chức kinh tế, dân cư thấp do màng lưới hạn chế hoặc chất
lượng dịch vụ chưa đa dạng và chưa có chất lượng cao; (iv) rủi ro tín dụng cao,
nhiều khoản vay đến hạn nhưng không được trả; (v) tỷ lệ cho vay trung dài hạn
cao..v..v Thời gian qua, một số NHTM phải tăng vốn điều lệ theo lộ trình, Ban
lãnh đạo NHTM chạy theo mục tiêu lợi nhuận/hoặc để đảm bảo mức chi trả cổ tức
cho cổ đông, trong khi nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào thu lãi cho vay..v..v
thường rơi vào tình huống nêu trên. Thông thường, với mục tiêu phát triển bền
vững, khi hạ tầng cơ sở kinh doanh và khả năng cung ứng dịch vụ chưa tốt khi tăng
vốn điều lệ thì Ban lãnh đạo cũng như cổ đông của NHTM phải biết chấp nhận
mức tỷ suất sinh lợi/ mức chi trả cổ tức khiêm tốn, nếu không cái giá phải trả sẽ là
rất đắt, thậm chí là khả năng phá sản. Tiền lãi trả do phải vay nóng trên thị trường
và rủi ro tín dụng sẽ triệt tiêu hết thu lãi cho vay, các khoản thu nhập khác có được.

Tại Điều 93 Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã quy định “…
TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với hoạt động nghiệp vụ
của tổ chức tín dụng, bảo đảm có cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi
ro gắn với từng quy trình nghiệp vụ kinh doanh, phương án xử lý những trường
hợp khẩn cấp……d) Quy định về quản lý thanh khoản, trong đó có thủ tục và các
giới hạn quản lý thanh khoản;….”. Thời gian tới, thanh tra NHNN cần triển khai
tốt hơn thanh tra trên cơ sở rủi ro, trong đó việc đánh giá năng lực quản trị rủi ro
thanh khoản của từng TCTD nên là một trọng tâm.

Chính sách quản trị rủi ro chung cho hệ thống TCTD

Khả năng thanh khoản của các NHTM tốt hoặc chưa tốt có vai trò quan
trọng của cơ chế, chính sách, xin đề cập đến hai vấn đề sau:

Thứ nhất, kỷ luật trên thị trường hiện nay còn lỏng lẻo, còn cho phép những
sản phẩm trái với thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng dễ tạo ra sự không ổn
định của nguồn vốn tiền gửi, thậm chí là những “đột biến” rút tiền gửi mỗi khi thị
trường có biến động/hoặc khi tâm lý người gửi tiền bị tác động bởi các thông tin
sai lệch. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kỳ hạn “được rút gốc linh hoạt” và
khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi”; “tiết kiệm lãi
suất thả nổi” với đặc tính “cho phép khách hàng được rút trước hạn mà vẫn được
hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫn”.

Tùy theo cung cầu trên thị trường tiền tệ, tùy theo chiến lược kinh doanh của
từng ngân hàng có thể thiết kế và đưa ra những sản phẩm thích hợp nhằm huy động
vốn. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động của một NHTM hay của cả hệ thống cần phải
có tính ổn định mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng dòng
vốn chạy lòng vòng giữa các ngân hàng, tránh tình trạng do nguồn vốn không ổn
định khiến NHTM phải dự trữ thanh khoản cao nên giá vốn bị đội lên quá cao so
với mức lãi suất huy động, đồng thời tránh được những cuộc đua lãi suất để huy
động vốn giữa các ngân hàng.

Đề nghị NHNN nghiên cứu, thực hiện lại nội dung tương tự như Điều 16
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN ngày 13/9/2004 trước đây: Theo đó, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không
được rút trước hạn, trừ trường hợp đặc biệt khi khách hàng có thoả thuận trước với
ngân hàng. Lãi suất áp dụng khi rút trước hạn không được vượt quá lãi suất không
kỳ hạn/ mức lãi suất trần đã được quy định chung. Điều này nhằm hạn chế việc tạo
thói quen, tạo động lực kinh tế cho khách hàng trong việc phá bỏ hợp đồng tiền gửi
hoặc thói quen rút tiền gửi trước hạn.

Thứ hai, xây dựng cơ chế tái cấp vốn, tái chiết khấu hợp lý hơn để hỗ trợ
thanh khoản cho các NHTM, trong đó chú trọng đồng thời các vấn đề sau: (i) Mức
lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu phải cao (có biên độ, ví dụ ± 1%/ năm tùy theo
từng giai đoạn khác nhau của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng) so với mức lãi suất
trái phiếu Chính phủ cùng thời điểm/ mặt bằng huy động lãi suất thị trường chung
của ngành. Khi NHNN ấn định mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn ở mức
nhất định và có thể cung ứng vốn đâỳ đủ cho nhu cầu vốn của các NHTM ở mức
lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đó thì NHNN sẽ chủ động xác lập được mặt bằng
chung về mức lãi suất của các NHTM trên thị trường. Như vậy, sử dụng đồng bộ
nhiều công cụ khác nhau nhưng cần sử dụng công cụ lãi suất là công cụ chủ đạo
trong việc điều hành CSTT. (ii) Khối lượng vốn tái cấp vốn/ tái chiết khấu: Đảm
bảo “bơm tiền” đáp ứng nhanh và đủ nhu cầu hợp lý của các NHTM. (iii) Giám sát
chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng tài sản của từng NHTM. Tránh
tính trạng dòng vốn được tái cấp vốn/ tái chiết khấu không đi vào sản xuất kinh
doanh/ tăng trưởng tín dụng nóng/ chạy vào đầu cơ bất động sản, chứng khoán.

Một trong những nhiệm vụ của Ngành Ngân hàng trong thời gian tới thực
hiện lãi suất cho vay ở mức hợp lý. Điều đó có nghĩa là cần tiếp tục giảm tiếp lãi
suất cho vay hiện đang còn ở mức cao khi so sánh với tỷ suất sinh lời của các
doanh nghiệp. Nâng cao trình độ quản trị thanh khoản ở từng NHTM và có những
cơ chế, chính sách cần thiết để đảm bảo và hỗ trợ thanh khoản của các NHTM sẽ là
một yếu tố cần thiết để xác lập mức lãi suất hợp lý.

Thanh Hương

You might also like