Professional Documents
Culture Documents
Chiến lược quản trị thanh khoản của ngân hàng
Chiến lược quản trị thanh khoản của ngân hàng
Để đảm bảo khả năng chi trả mọi thời điểm, NHTM phải giám sát hàng ngày
ngân quỹ/ dự trữ thanh khoản của mình. Dự trữ thanh khoản bao gồm cả dự trữ
bằng tiền (tiền mặt tại quỹ, tiền gửi NHNN, tiền gửi các tổ chức tín dụng khác) và
dự trữ thứ cấp (giấy tờ có giá có đủ điều kiện để tái cấp vốn/ tái chiết khấu; hạn
mức tín dụng được cấp bởi tổ chức tài chính khác…). Ở khía cạnh này, một số ít
NHTM đã không chú trọng/ không nắm giữ đủ một khối lượng những giấy tờ có
giá như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHNN... do vậy TCTD rất bị động khi có
biến động hơi bất thường về cung/ về cầu thanh khoản trong hoạt động; khi không
thể vay nhanh chóng nguồn tín dụng tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN.
Mức độ dự trữ ngân quỹ/ dự trữ thanh toán cần thiết của mỗi NHTM là rất
khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín của NHTM trên thị trường, bao
gồm cả thị trường liên ngân hàng và thị trường với tổ chức kinh tế, dân cư; chính
sách tái chiết khấu, tái cấp vốn của NHNN; chất lượng tín dụng…v..v..Trong thực
tiễn, một số NHTM không lượng định tốt hoặc không thể định lượng được mức độ
dự trữ ngân quỹ/ dự trữ thanh toán cần thiết của mình; cơ cấu dư nợ tín dụng trên
tổng tài sản có hoặc trên tổng nguồn vốn huy động tiền gửi ở ngưỡng cao. Tình
huống sau có thể xảy ra: Những chỉ số tài chính giám sát thanh khoản của một
NHTM riêng lẻ chỉ ở ngưỡng bình quân chung của ngành hoặc hơi thấp hơn,
nhưng cũng đã là rất cao so với bản thân NHTM đó vì (i) nguồn tiền gửi của
NHTM không ổn định;(ii) khả năng vay NHNN, vay NHTM khác thấp;(iii) khả
năng huy động vốn từ tổ chức kinh tế, dân cư thấp do màng lưới hạn chế hoặc chất
lượng dịch vụ chưa đa dạng và chưa có chất lượng cao; (iv) rủi ro tín dụng cao,
nhiều khoản vay đến hạn nhưng không được trả; (v) tỷ lệ cho vay trung dài hạn
cao..v..v Thời gian qua, một số NHTM phải tăng vốn điều lệ theo lộ trình, Ban
lãnh đạo NHTM chạy theo mục tiêu lợi nhuận/hoặc để đảm bảo mức chi trả cổ tức
cho cổ đông, trong khi nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào thu lãi cho vay..v..v
thường rơi vào tình huống nêu trên. Thông thường, với mục tiêu phát triển bền
vững, khi hạ tầng cơ sở kinh doanh và khả năng cung ứng dịch vụ chưa tốt khi tăng
vốn điều lệ thì Ban lãnh đạo cũng như cổ đông của NHTM phải biết chấp nhận
mức tỷ suất sinh lợi/ mức chi trả cổ tức khiêm tốn, nếu không cái giá phải trả sẽ là
rất đắt, thậm chí là khả năng phá sản. Tiền lãi trả do phải vay nóng trên thị trường
và rủi ro tín dụng sẽ triệt tiêu hết thu lãi cho vay, các khoản thu nhập khác có được.
Tại Điều 93 Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã quy định “…
TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với hoạt động nghiệp vụ
của tổ chức tín dụng, bảo đảm có cơ chế kiểm soát, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi
ro gắn với từng quy trình nghiệp vụ kinh doanh, phương án xử lý những trường
hợp khẩn cấp……d) Quy định về quản lý thanh khoản, trong đó có thủ tục và các
giới hạn quản lý thanh khoản;….”. Thời gian tới, thanh tra NHNN cần triển khai
tốt hơn thanh tra trên cơ sở rủi ro, trong đó việc đánh giá năng lực quản trị rủi ro
thanh khoản của từng TCTD nên là một trọng tâm.
Khả năng thanh khoản của các NHTM tốt hoặc chưa tốt có vai trò quan
trọng của cơ chế, chính sách, xin đề cập đến hai vấn đề sau:
Thứ nhất, kỷ luật trên thị trường hiện nay còn lỏng lẻo, còn cho phép những
sản phẩm trái với thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng dễ tạo ra sự không ổn
định của nguồn vốn tiền gửi, thậm chí là những “đột biến” rút tiền gửi mỗi khi thị
trường có biến động/hoặc khi tâm lý người gửi tiền bị tác động bởi các thông tin
sai lệch. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kỳ hạn “được rút gốc linh hoạt” và
khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi”; “tiết kiệm lãi
suất thả nổi” với đặc tính “cho phép khách hàng được rút trước hạn mà vẫn được
hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫn”.
Tùy theo cung cầu trên thị trường tiền tệ, tùy theo chiến lược kinh doanh của
từng ngân hàng có thể thiết kế và đưa ra những sản phẩm thích hợp nhằm huy động
vốn. Tuy nhiên, nguồn vốn huy động của một NHTM hay của cả hệ thống cần phải
có tính ổn định mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng dòng
vốn chạy lòng vòng giữa các ngân hàng, tránh tình trạng do nguồn vốn không ổn
định khiến NHTM phải dự trữ thanh khoản cao nên giá vốn bị đội lên quá cao so
với mức lãi suất huy động, đồng thời tránh được những cuộc đua lãi suất để huy
động vốn giữa các ngân hàng.
Đề nghị NHNN nghiên cứu, thực hiện lại nội dung tương tự như Điều 16
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-
NHNN ngày 13/9/2004 trước đây: Theo đó, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không
được rút trước hạn, trừ trường hợp đặc biệt khi khách hàng có thoả thuận trước với
ngân hàng. Lãi suất áp dụng khi rút trước hạn không được vượt quá lãi suất không
kỳ hạn/ mức lãi suất trần đã được quy định chung. Điều này nhằm hạn chế việc tạo
thói quen, tạo động lực kinh tế cho khách hàng trong việc phá bỏ hợp đồng tiền gửi
hoặc thói quen rút tiền gửi trước hạn.
Thứ hai, xây dựng cơ chế tái cấp vốn, tái chiết khấu hợp lý hơn để hỗ trợ
thanh khoản cho các NHTM, trong đó chú trọng đồng thời các vấn đề sau: (i) Mức
lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu phải cao (có biên độ, ví dụ ± 1%/ năm tùy theo
từng giai đoạn khác nhau của CSTT là thắt chặt hay nới lỏng) so với mức lãi suất
trái phiếu Chính phủ cùng thời điểm/ mặt bằng huy động lãi suất thị trường chung
của ngành. Khi NHNN ấn định mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái cấp vốn ở mức
nhất định và có thể cung ứng vốn đâỳ đủ cho nhu cầu vốn của các NHTM ở mức
lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đó thì NHNN sẽ chủ động xác lập được mặt bằng
chung về mức lãi suất của các NHTM trên thị trường. Như vậy, sử dụng đồng bộ
nhiều công cụ khác nhau nhưng cần sử dụng công cụ lãi suất là công cụ chủ đạo
trong việc điều hành CSTT. (ii) Khối lượng vốn tái cấp vốn/ tái chiết khấu: Đảm
bảo “bơm tiền” đáp ứng nhanh và đủ nhu cầu hợp lý của các NHTM. (iii) Giám sát
chặt chẽ tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng tài sản của từng NHTM. Tránh
tính trạng dòng vốn được tái cấp vốn/ tái chiết khấu không đi vào sản xuất kinh
doanh/ tăng trưởng tín dụng nóng/ chạy vào đầu cơ bất động sản, chứng khoán.
Một trong những nhiệm vụ của Ngành Ngân hàng trong thời gian tới thực
hiện lãi suất cho vay ở mức hợp lý. Điều đó có nghĩa là cần tiếp tục giảm tiếp lãi
suất cho vay hiện đang còn ở mức cao khi so sánh với tỷ suất sinh lời của các
doanh nghiệp. Nâng cao trình độ quản trị thanh khoản ở từng NHTM và có những
cơ chế, chính sách cần thiết để đảm bảo và hỗ trợ thanh khoản của các NHTM sẽ là
một yếu tố cần thiết để xác lập mức lãi suất hợp lý.
Thanh Hương