You are on page 1of 303

Phản đề | Trần Văn Đức

2
Phản đề | Trần Văn Đức

TRẦN VĂN ĐỨC

PHẢN ĐỀ

NHÀ XUẤT BẢN TỰ DO

3
Phản đề | Trần Văn Đức

© Nhà xuất bản Tự Do - tháng 09/2022


Tác phẩm của Trần Văn Đức
Bản quyền thuộc về NXBTD và tác giả Trần Văn Đức. Nội
dung của cuốn sách này có thể được sử dụng và sao chép,
từng phần hay toàn bộ, vì mục đích giáo dục và các mục
đích phi thương mại khác, với sự chấp thuận của NXBTD.
Biên tập: Ngọc Minh
Thiết kế bìa: Mje Mje
Trình bày: Park Bùi

Website: www.nhaxuatbantudo.wixsite.com/website
Pinetbook:www.pinetbook.com/NhaxuatbanTuDo
Facebook: www.facebook.com/NhaxuatbanTuDo
Twitter: www.twitter.com/NhaxuatbanTuDo

4
Phản đề | Trần Văn Đức

MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU .................................................. 7

LỜI MỞ ĐẦU ......................................................... 10

BÀN VỀ CON NGƯỜI ........................................... 23

BÀN VỀ CHÍNH TRỊ ........................................... 39

THỂ CHẾ VÀ HỆ THỐNG BẦU CỬ NÀO LÀ PHÙ

HỢP CHO VIỆT NAM ........................................... 96

ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT............................................ 147

BA YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG LỚN ĐẾN SỰ PHÁT

TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC ..................................... 162

CHÚNG TA ĐÁNH GIÁ NHƯ THẾ NÀO VỀ BỐI

CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG CỦA

NƯỚC TA HIỆN NAY? ....................................... 182

LỰA CHỌN PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH .......... 209

TỔNG KẾT ........................................................... 287

5
Phản đề | Trần Văn Đức

6
Phản đề | Trần Văn Đức

LỜI GIỚI THIỆU

Bạn đọc của NXB Tự Do đã từng biết đến tác giả trẻ
Trần Văn Đức với tác phẩm “Một quan điểm triết học”
của anh được NXB Tự Do xuất bản vào tháng 11/2020.

Tác giả Trần Văn Đức là một người trẻ mang nhiều trăn
trở về vận mệnh đất nước. Anh là người sinh ra, lớn lên
trong chế độ độc tài Cộng sản, đã từng bị nền giáo dục
định hướng này nhồi sọ, đã từng tin yêu vào hình tượng
Hồ Chí Minh… Nhưng rồi, khi nhận ra mình bị lừa dối,
anh đã thay đổi quan điểm. Khác với nhiều người, sau
khi biết sự thật về Cộng sản thì mang lòng thù hận, chỉ

7
Phản đề | Trần Văn Đức

muốn lật đổ chế độ, Trần Văn Đức lại muốn tìm đường
đi cho tương lai của dân tộc. Con đường đó, theo anh, là
tìm ra phương pháp đấu tranh hữu hiệu, xây dựng và
bảo vệ nền dân chủ một khi nó đã hình thành, dựa trên
những quan điểm trung dung, khách quan, không chứa
đựng cảm xúc cá nhân, không thù hận... Để tìm ra con
đường đó, Trần Văn Đức đã bỏ ra rất nhiều thời gian và
công sức để tìm tòi, nghiên cứu các quan điểm triết học,
các mô hình thể chế, các phương thức để hình thành nên
mỗi một thể chế đó… Từ đó anh đưa ra những đề xuất
có giá trị cho người dân và những người đấu tranh dân
chủ Việt Nam thông qua cuốn sách “Một quan điểm
triết học” và nay được bổ sung, chỉnh sửa trong cuốn
“Phản đề”.

Xã hội vốn là đa nguyên, mỗi người đều có nhận thức


và quan điểm riêng của mình, dù đó là quan điểm chủ
quan theo cảm xúc cá nhân hay quan điểm khách quan
dựa trên nghiên cứu. Bạn có thể đồng ý hay không đồng
ý với các quan điểm của Trần Văn Đức, nhưng khi bạn
đọc và tìm hiểu về một quan điểm, nhất là một quan
điểm đã qua quá trình chọn lọc, thì chắc chắn quan

8
Phản đề | Trần Văn Đức

điểm ấy sẽ cung cấp cho bạn những điều mới mẻ,


những góc nhìn khác mà trước đó bạn chưa tiếp cận.

Với tác phẩm thứ hai - Phản đề - tác giả Trần Văn Đức
chỉ tập trung vào phần chính trị, không bàn luận nhiều
về triết học và đề xuất một phương thức bầu cử khác
với cuốn “Một quan điểm triết học”. Điều này cũng thể
hiện tư duy mở và đa chiều của tác giả. Tất nhiên, quan
điểm của một cá nhân không thể nào là tuyệt đối đúng
hay chân lý như kiểu độc tài hay tuyên truyền, nhưng
các quan điểm và sự nỗ lực của tác giả Trần Văn Đức
rất đáng được xem trọng và tìm hiểu.

NXB Tự Do trân trọng giới thiệu tác phẩm “Phản đề”


đến Quý độc giả và rất mong nhận được sự góp ý và
phản hồi của quý vị. Mọi đóng ý xin được gửi về email
nhaxuatbantudo@protonmail.com

9
Phản đề | Trần Văn Đức

LỜI MỞ ĐẦU

Để mở đầu, quyển sách này xin trích dẫn câu nói của
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (TBT ĐCSVN)
Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong lần làm việc tại tỉnh
Bắc Ninh năm 2016: “Mặc dù bây giờ ra đường lắm
chuyện khó chịu, nghe báo chí nói rất nhiều chuyện tiêu
cực hàng ngày, rất là bực mình. Tệ nạn tham nhũng,
cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất
nước ta có bao giờ được thế này không?”. Ý của ông
Trọng là ông ấy đang so sánh thời kì hiện tại với quá
khứ của đất nước ta ngày xưa (tức là thời cận đại và
phong kiến). Đây rõ ràng là điều hiển nhiên, con người
với trí tuệ của mình có thể tích lũy kiến thức, kinh

10
Phản đề | Trần Văn Đức

nghiệm, cải tạo công cụ lao động, dẫn đến gia tăng năng
suất lao động theo thời gian, từ đó phát triển kinh tế thì
có gì đáng nói. Thế nhưng, ông Trọng với cương vị là
người lãnh đạo tối cao của đất nước lại lấy đó là niềm
tự hào, thật khiến người ta phải lo lắng.

Điều mà chúng ta thật sự quan tâm phải là: “Sự phát


triển của đất nước cho đến hiện tại có đang tương xứng
với tiềm năng mà đất nước ta có hay không?”. Về mặt
tài nguyên thiên nhiên, chúng ta vẫn luôn vỗ ngực tự
hào rằng: “Việt Nam rừng vàng, biển bạc”. Về vị trí địa
lí chúng ta là một quốc gia bán đảo, có bờ biển dài và
đẹp, thế nhưng lại không bị động đất hay sóng thần. Về
phía biển, chúng ta ở ngay cửa ngõ tàu thuyền đi vào
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng
Kông… đều là những nơi sản xuất và tiêu thụ một
lượng lớn hàng hóa so với thế giới. Về con người, thông
qua lịch sử chúng ta có quyền tự hào về cốt cách và trí
tuệ của cha ông mình, cũng từ đó có thể kết luận tố chất
con người Việt Nam chúng ta hiện nay cũng không thua
kém bất kì dân tộc nào trên thế giới.

Thế nhưng thực tế thì sao?

11
Phản đề | Trần Văn Đức

Chúng ta đang ngày càng tụt hậu so với các nước trong
khu vực, trong khi cách đây khoảng 100 năm trở về
trước, chúng ta không hề thua kém họ, thậm chí là còn
hơn. Hay như Sài Gòn cách đây chừng 50 năm được
xem như “Hòn Ngọc Viễn Đông”, là mô hình mẫu mực
về kinh tế cho các nước khác trong khu vực noi theo.
Vậy thì chúng ta đã phát triển đúng với tiềm năng của
đất nước hay chưa? Thế điều gì đã làm chúng ta tụt hậu
so với các nước trong khu vực như vậy? Câu trả lời sau
khi loại trừ đi các khả năng chỉ còn lại là thể chế và các
chính sách do các lãnh đạo trong thể chế đó gây ra.

Vậy thì thể chế và chính sách đã phạm phải lỗi gì để


đất nước tụt hậu như vậy?

Với chính sách trong quá khứ, Đảng Cộng sản đã phạm
phải hai sai lầm lớn:

1. Đó là đi theo nền kinh tế kế hoạch, tập trung


Với việc ngăn sông cấm chợ không cho giao thương,
buôn bán. Mà mua bán trao đổi hàng hóa mới là
huyết mạch của nền kinh tế. Lí do là vì có mua bán
trao đổi hàng hóa thì người dân mới có thể tập
trung vào một vài ngành nghề lợi thế của mình. Một

12
Phản đề | Trần Văn Đức

ông thợ rèn không phải kiêm cả may vá hay trồng


trọt, bởi ông có thể mang các sản phẩm nông, công
cụ mà ông đã rèn được đi đổi lấy những thứ đó,
tương tự các ngành khác cũng vậy. Điều này dẫn
đến chuyên môn hóa và chính sự chuyên môn hóa
dẫn đến gia tăng năng suất lao động. Ông thợ rèn vì
được tập trung vào nghề rèn của mình mà ngày
càng tạo ra những sản phẩm chất lượng, và tinh xảo
hơn. Nhờ đó cũng đổi lại được cho mình những sản
phẩm giá trị hơn. Và chính gia tăng năng suất là
động lực, là nguyên nhân phát triển kinh tế. Trên
thực tế việc chúng ta phát triển như ngày nay không
phải công trạng gì của ĐCSVN mà thực ra là quá
trình nới lỏng hay tự do hóa nền kinh tế. Từ ngăn
sông cấm chợ đến cho phép các công ty tư nhân
được thành lập, thu hẹp các công ty vốn nhà nước,
rồi đến mở cửa thị trường thu hút các công ty vốn
đầu tư nước ngoài, mỗi lần như vậy tốc độ tăng
trưởng của đất nước lại tăng lên một bậc. Tốc độ
tăng trưởng sẽ đúng với tiềm năng của đất nước khi
tự do hóa nền kinh tế hoàn toàn.

13
Phản đề | Trần Văn Đức

2. Quá trình đấu tranh giai cấp, diệt tư sản ở


miền Bắc (1953-1956) do ĐCS tổ chức.
Theo thống kê thì quá trình này đã giết chết khoảng
170.000 người. Một con số khá nhỏ so với số người
chết do chiến tranh, càng nhỏ hơn so với dân số
thời đó. Nhưng khoan hãy nghĩ theo chiều hướng
này. Thực chất những người này là những người có
điều kiện ăn học nhất đất nước ta thời đấy, có thể
nói họ là trí thức của miền Bắc, việc giết họ không
khác nào rắn bị chặt đầu. Không còn ai đủ khả
năng lèo lái nền kinh tế đi đúng hướng nữa. Nó
giống như việc giám đốc một công ty bị giết vậy,
toàn bộ công nhân viên của công ty đó sau đó sẽ thế
nào? Rõ ràng đây là một thiệt hại lớn cho đất nước.
Thảm kịch này một lần nữa tái hiện lại tại miền
Nam năm 1975 và tiếp diễn sau đó. Những người bỏ
nước ra đi ở miền Nam những năm 1975 đa số là trí
thức của miền Nam, có thể ý thức được tác hại của
chính quyền độc tài cho nên đã lũ lượt ra đi. Hậu
quả là Sài Gòn từ Hòn Ngọc Viễn Đông ngay lập
tức trở thành cái xác không hồn. Sài Gòn mặc dù có
cơ sở vật chất tốt nhưng không còn thành phần có

14
Phản đề | Trần Văn Đức

năng lực vận hành cơ sở vật chất đó, bởi những


người đó đã bỏ nước ra đi. Cho dù có một cỗ máy
hiện đại, nhưng lại không cho người vận hành cỗ
máy đó thì kết quả vẫn là phải đi bán đồng nát.
Thành phố Hồ Chí Minh sa sút thấy rõ những năm
sau đó là điều chúng ta có thể hiểu được.

Với thể chế hiện tại, người dân đang sống dưới sự áp
đặt của một chính quyền quan liêu, tham nhũng và nó
ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế, văn hóa của đất nước ta.
Nói chung hai vấn đề quan liêu và lạm quyền để tham
nhũng là hai căn bệnh nan y mà chính quyền độc tài nào
cũng mắc phải, chỉ khi nào chúng ta thoát khỏi độc tài
tiến tới dân chủ thì hai căn bệnh này mới được giải
quyết.

Vậy tại sao độc tài lại là nguyên nhân gây ra căn bệnh
trên?

Lấy Việt Nam làm ví dụ: Chúng ta hiện nay đang sống
dưới sự cai trị của ĐCSVN (mà theo như họ tự nhận về
mình thì họ là lãnh đạo nhân dân). Vấn đề là, chúng ta
chỉ có duy nhất một đảng lãnh đạo (Đảng Cộng sản,
cũng như sự ngỗ ngược mà ĐCS tự cho mình cái quyền

15
Phản đề | Trần Văn Đức

là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước) đảng này làm tốt
thì dân được nhờ, còn nếu làm dở thì dân cũng phải
chịu, bởi người dân không thể kiếm đâu ra đảng khác để
thay thế, hay được quyền lựa chọn đảng tốt hơn tạo ra
sự cạnh tranh giữa các đảng. Mặt khác ĐCS là đảng duy
nhất có quyền lãnh đạo đất nước, họ không gặp một đối
trọng nào đáng kể, mọi tiếng nói đối lập với họ đều bị
đập tơi tả từ trong trứng nước, điều này có nghĩa là họ
không chỉ có quyền mà thực chất là toàn quyền lãnh đạo
đất nước, tức là ở đất nước này ĐCS là vua. Những gì
chúng ta thấy trong các vụ bắt bớ bỏ tù các lãnh đạo,
thực chất chính là sự đấu đá giữa các phe cánh nội bộ
ĐCS. Bởi vì không ai làm gì được ĐCS dẫn đến sự tha
hóa đạo đức trong nội bộ quan lại, sự lạm quyền, tham
nhũng, vòi vĩnh cấp dưới và người dân bắt đầu từ đây.

Vậy thì tại sao những tật xấu này lại dẫn đến kìm hãm
sự phát triển của đất nước?

Bởi vì ĐCS không có đảng đối trọng để cạnh tranh công


khai lành mạnh, ngôi vị lãnh đạo đất nước của họ không
bị đe dọa, vậy thì tại sao họ lại phải cần quan tâm
những thứ bên ngoài đảng (ý ở đây là lý do gì để họ

16
Phản đề | Trần Văn Đức

phải quan tâm chăm sóc người dân)? Thế nên, nếu có
thứ gì đó có thể ngăn trở sự thăng tiến của quan chức thì
nó xuất phát từ ngay chính ĐCS. Tức là ĐCS không
phải là một khối thống nhất, mà thực chất là chia bè kéo
cánh đấu đá nội bộ lẫn nhau, các quan chức tuy có
quyền nhưng không lo vận dụng đem lại lợi ích cho
quốc gia, mà lại dùng nó để tiêu diệt phe phái khác
nhằm củng cố địa vị và sự thăng tiến của bản thân. Nội
bộ ĐCS luôn có những con sóng ngầm như thế mà
người ngoài như chúng ta nhìn không thấy hết được. Vì
có toàn quyền nên những ông quan lớn sẵn sàng bán rẻ
lợi ích quốc gia thông qua những hợp đồng có hại cho
đất nước, miễn sao tiền lại quả cho họ được cao, cũng
đúng thôi vì nào có ai làm gì được họ. Ngoài ra các
quan còn bao che người nhà làm sằng làm bậy bên
ngoài, hiếp đáp người dân, dẫn đến trắng đen lẫn lộn
đến mức mà người dân ví von công lý ở Việt Nam chỉ
là một diễn viên hài. Rồi lại đến thói tham nhũng, vòi
vĩnh, mở miệng ra là tiền, dùng tiền là có thể qua hết
các ải, ai nhiều tiền hơn kẻ đó thắng, dẫn đến các cơ sở
kinh doanh không có đạo đức tha hồ phát triển, hàng
hóa kém chất lượng tràn lan trên thị trường, thực phẩm

17
Phản đề | Trần Văn Đức

bẩn, ô nhiễm môi trường sống… là vấn đề luôn nhức


nhối. Người dân không tin vào chính quyền, cũng như
không còn tin tưởng lẫn nhau nữa, giữa người với người
cũng tạo nên lá chắn vô hình phòng thủ lẫn nhau bởi
không biết ai là người tốt ai là người xấu. Điều này
cũng tạo ra sự sụp đổ văn hóa, bởi văn hóa tốt đẹp chỉ
được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau.

Tóm lại chế độ độc tài kéo theo sự sụp đổ văn hóa và
thụt lùi về phát triển kinh tế so với các nước khác.

Hiện trạng đất nước là như vậy, nguyên nhân cũng


đã rõ ràng, thế chúng ta muốn hướng tới một đất
nước như thế nào? Làm sao để đưa đất nước đến
được đó và như thế nào thì có thể được xem là tạm
ổn?

Rõ ràng rồi! Chúng ta muốn một đất nước thanh bình,


nơi mọi người có thể thoải mái sinh sống mà không cần
lo sợ bất kì điều gì, mọi thứ tốt đẹp đều được tôn trọng
và đảm bảo. Một môi trường sạch, không ô nhiễm, tốt
cho chúng ta và cả thế hệ con cháu chúng ta nhiều đời
sau nữa. Thực phẩm sạch, đa dạng, giá cả phải chăng
mà ai cũng có thể mua được. Hệ thống y tế hiện đại,

18
Phản đề | Trần Văn Đức

đầy đủ để phục vụ mọi người. Các quyền chính đáng


của con người được đảm bảo, bao gồm quyền tự do
ngôn luận, tự do thông tin - báo chí, tự do tư tưởng, tự
do lập hội - đảng, tự do bầu cử và tự ứng cử vào các cơ
quan chính quyền để phục vụ đất nước. Một nền giáo
dục khai phóng (không phải nhồi sọ) miễn phí toàn
quốc đến hết cấp trung học phổ thông (cấp 3), để các
em sau này thật sự là những người có tâm - tầm góp
phần phát triển đất nước. Một chính quyền tinh giản,
trong sạch, vững mạnh lo cho dân, xứng đáng là những
người lãnh đạo tối cao của đất nước. Nhìn tổng thể cả
nước thì những người có tài năng đều được phát hiện,
bồi dưỡng, trọng dụng và giao công việc phù hợp với
năng lực của mình, nơi nguồn lực cả nước đều được
phân bổ một cách hợp lí. Chỉ khi đó nước ta mới phát
triển đúng với tiềm năng của mình, mà chắc chắn sẽ là
một quốc gia văn minh, giàu mạnh mà các quốc gia
khác không thể xem thường.

Vậy làm thế nào để tới được đó?

Như đã viết ở trên, mọi nguyên nhân dẫn đến tình trạng
bi đát, tụt hậu của nước ta như bây giờ đều là do thể chế

19
Phản đề | Trần Văn Đức

độc tài, độc đảng và các chính sách sai lầm mà một
phần cũng là vì sự cố chấp của nó gây ra. Vậy nên câu
trả lời là thay thế thể chế độc tài (độc đảng) này bằng
thể chế dân chủ. Mấu chốt chính là thay thế thể chế độc
đảng bằng thể chế đa đảng, để các đảng cạnh tranh lành
mạnh với nhau trong việc giành quyền lãnh đạo đất
nước.

Người dân có quyền được tự do nói, tìm hiểu, đưa


tin và thành lập hội nhóm, đảng phái mà không gặp
bất cứ sự ngăn trở nào, đây là quyền cơ bản của con
người và nó hoàn toàn hợp pháp ở các nước dân
chủ. Nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo những
quyền này, không phải là ngăn trở nó.

Những phần tiếp theo chúng ta sẽ phân tích, mổ xẻ


nguyên nhân tại sao lại hình thành thể chế độc tài, tác
hại của nó, cách chống lại độc tài và phòng tránh độc tài
quay lại.

Một số lưu ý nhỏ khi đọc quyển sách này.

Quyển sách này được viết với một số lý do. Một trong
số đó là tôi không tán thành các nhìn nhận vấn đề về bối

20
Phản đề | Trần Văn Đức

cảnh lịch sử cận đại của Việt Nam và thế giới của cả hai
bên dân chủ và Cộng sản. Theo tôi, góc nhìn của mỗi
bên đều có phần cực đoan, nghiêng lệch về cảm tính
chứ không phải lý trí. Cá nhân tôi mong muốn đưa ra
một nhận định mà tôi cho rằng nó khách quan và trung
dung hơn. Từ đó phác họa ra con đường đấu tranh cũng
khác. Vậy nên quyển sách mới có tên là “Phản Đề”.

Lý do thứ hai là tôi muốn chỉnh sửa, bổ sung cho phần


triết học chính trị trong quyển sách “Một quan điểm về
triết học” cũng được Nhà xuất bản Tự Do xuất bản.
Nhất là phần hệ thống bầu cử. Nhiều người đọc đã cho
rằng việc mặc định đảng chiến thắng được 60% phiếu là
không phù hợp, do nó bất công với các đảng còn lại.
Vậy nên tôi suy nghĩ và đề xuất một phương pháp bầu
cử khác. Mặt khác do quyển “Một quan điểm về triết
học” bàn luận khá rộng bao gồm cả phần siêu hình, vậy
nên tôi muốn tách ra phần chính trị để người đọc có thể
tập trung vấn đề mình quan tâm hơn. Và quyển này
trích dẫn khá nhiều từ phần triết học chính trị của quyển
sách trên, nên những dữ liệu lấy từ 2020 có phần đã
không còn tính thời sự.

21
Phản đề | Trần Văn Đức

Cuối cùng, vì là quyển sách do một cá nhân viết nên


không khỏi mang ý kiến chủ quan và thiếu sót. Vẫn
mong người đọc thông cảm và xem nó như một quan
điểm tham khảo trong thế giới quan của người đọc.

Xin cảm ơn!

Trần Văn Đức

22
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 1
BÀN VỀ CON NGƯỜI

Việc đầu tiên phải khẳng định rằng, con người là sản
phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hóa lâu
dài của sinh vật. Do đó bản chất con người cũng mang
bản năng của sinh vật giống như những sinh vật khác
trong tự nhiên. Ở đây là thói ích kỷ, vị lợi (vị kỷ).

Lý giải của thói vị kỷ là kết qủa của quá trình tiến hóa
và thích nghi với môi trường trong hàng tỷ năm, không
phải sinh vật trong quá trình tiến hóa mới xuất hiện tính
vị lợi, mà thực chất sinh vật nhờ ngẫu nhiên mang tính
vị lợi nên mới tồn tại và phát triển đến ngày nay. Hay
nói cách khác các cá thể không mang tính vị lợi rất khó

23
Phản đề | Trần Văn Đức

để duy trì nguồn gen của mình. Thực ra một cá thể


không vị lợi rất khó để tồn tại trong tự nhiên bởi vì
chúng sẽ bị những cá thể khác cạnh tranh lấn át, cả về
thức ăn và bạn tình để duy trì nguồn gen. Hoặc các loài
không vị kỷ, con đực mạnh khỏe không tranh giành mà
lại nhường quyền giao phối con cái cho con đực mang
bộ gen tật nguyền, thì liệu thế hệ sau có thể thích nghi
với môi trường được không? Và nếu các cá thể không
chủ động cạnh tranh với nhau thì làm sao để biết cá thể
nào là khỏe mạnh để ưu tiên duy trì nguồn gen trong
đàn. Con đực thường đánh nhau để tranh giành bạn tình
là vì vậy, đây giống như một dạng chủ động thích nghi
với môi trường.

Thuyết vị lợi xuất phát từ tiền đề cá thể tự cho rằng bộ


gen mình đang mang là tốt nhất, nó xứng đáng được ưu
tiên di truyền hơn những bộ gen mà cá thể khác đang
mang. Tức là giống loài càng mang nhiều gen giống nó
thì xác xuất tồn tại của giống loài càng cao. Xuất phát
từ niềm tin này các cá thể luôn tìm mọi cách để sinh
tồn, để chứng minh bản thân mang bộ gen ưu việt hơn
những cá thể khác, từ đó các cá thể thích được các cá

24
Phản đề | Trần Văn Đức

thể khác công nhận. Thậm chí trong nhiều loài động
vật, các cá thể còn phát triển các chiến lược như: lôi
kéo, lừa lọc, đe dọa, chiến đấu,… tất cả để mong muốn
bộ gen của mình đang mang được phổ biến nhiều nhất
có thể trong bầy đàn. Có như vậy các gen tốt mới có thể
nhanh chóng phổ biến trong đàn, và nhờ vậy đàn mới có
thể nhanh chóng thích nghi với sự biến đổi môi trường
mà nó đang sống. Như vậy sự ích kỷ của cá thể chính là
một phần không thể thiếu của chọn lọc tự nhiên.

Đối với con người, sự vị kỷ còn biểu hiện ở hành vi


thích được khen, được công nhận, cái tôi cao, thích áp
đặt tư duy (ý chí) của mình lên người khác.

Đối với từng cá thể là như vậy, còn đối với mối quan hệ
xã hội thì cá thể ưu tiên bảo vệ nguồn gen gần giống
mình trước, rồi giảm dần. Nhìn vào quần thể thì nguồn
gen gần chính là con cái, anh em, họ hàng, rồi đến hàng
xóm, bạn bè giảm dần xuống đến dân tộc, quốc gia….
Đây cũng là biểu hiện vị kỷ của cá thể.

Để làm rõ hơn chúng ta xét từng trường hợp sau:

25
Phản đề | Trần Văn Đức

1. Ở những động vật có cấu tạo cơ thể đơn giản, đặc


biệt là những sinh vật có khả năng sinh sản vô tính, thì
chúng không cần quan tâm nhiều đến đồng loại.

1.1 Là nó không đủ phức tạp để có thể nhận biết


đồng loại.

1.2 Chỉ cần bản thân chúng có thể sống sót thì
chúng có thể tự nhân bản và tăng nhanh về mặt số
lượng. Tức là sự tồn tại của giống loài, phụ thuộc rất
nhiều vào từng cá thể riêng biệt.

Ở những sinh vật này chúng ta thấy biểu hiện của việc
tối đa hóa lợi ích cá nhân là rõ nhất.

2. Ở những sinh vật mà sự tồn vong của giống loài phụ


thuộc vào sự góp sức của từng cá thể, và các cá thể
cũng sẽ không thể duy trì sự tồn tại của bản thân hoặc
duy trì nòi giống khi sống một mình (động vật lưỡng
tính). Tức là từng cá thể cũng phụ thuộc vào những cá
thể khác, thì ta sẽ thấy bản năng bảo vệ và duy trì nòi
giống của chúng thể hiện ngay xung quanh ta. Việc bảo
vệ con của mình cũng chính là bảo vệ nguồn gen của

26
Phản đề | Trần Văn Đức

mình. Nhưng hãy chia thành các trường hợp để dễ phân


tích.

TH1: Con non mới sinh (nở) đã có khả năng tự lập, tự


kiếm ăn thì bố mẹ gần như không phải chăm sóc, thậm
chí là bỏ mặc chúng. Nhất là trong những trường hợp
con non được sinh (nở) ra với số lượng lớn, và trong
một vòng đời con mẹ có thể đẻ được rất nhiều lần. Con
cái chỉ phải cạnh tranh để sinh tồn, còn con đực vừa
phải cạnh tranh để sinh tồn lại còn phải cạnh tranh với
con đực khác nữa.

TH2: Con non mới sinh không thể tự lập được, trong
trường hợp này, nếu xét vị lợi lên cá nhân thì bố mẹ sẽ
không cần phải nuôi chúng, bởi chi phí rất lớn. Nhưng
nếu xét cá thể vị lợi là để duy trì nguồn gen của mình,
thì những con non chính là bản sao nguồn gen của bố
mẹ chúng. Và như vậy bố mẹ phải nuôi đến khi con non
có thể tự lập. Mức độ bảo vệ con non cũng tăng tỷ lệ
nghịch với khả năng sinh sản của chúng. Ở những động
vật mà vòng đời bố mẹ đẻ được ít con thì bố mẹ có thể
liều mạng để bảo vệ con non.

27
Phản đề | Trần Văn Đức

TH3: Đó là các loài động vật đã sống theo bầy đàn. Nếu
ta quan sát có thể thấy trong trường hợp bầy đàn gặp
nguy hiểm, các thành viên trong đàn liều mạng để bảo
vệ đàn của mình. Lý giải hiện tượng này chính là các
thành viên còn lại trong đàn ít nhiều mang một phần
gen mà những thành viên đang liều mạng bảo vệ mang.
Và thông qua đó chúng cũng đang bảo về nguồn gen
của mình.

3. Ở người

- Người là sinh vật sống bầy đàn với số lượng thành


viên lớn, và quy mô đã lên tầm quốc gia và hơn thế.
Vậy nên thứ tự ưu tiên bảo vệ cũng tỉ lệ với sự tương
đồng gen trong đó. Ưu tiên đầu là con cái, sau đó là anh
em trong nhà, rồi đến hàng xóm (bởi khả năng cao họ là
anh em lâu đời), rồi đến dân tộc, quốc gia.

- Vòng đời của người phụ nữ không sinh nhiều, mỗi


lần sinh thường chỉ một con. Và thời gian để nuôi một
đứa trẻ đến trưởng thành thường rất lâu và cần một sự
hy sinh lớn mà nhiều khi một mình người phụ nữ không
thể nuôi nổi. Điều này dẫn đến hệ quả:

28
Phản đề | Trần Văn Đức

3.1 Người phụ nữ thường rất thương yêu con của


mình

3.2 Người phụ nữ lựa chọn người đàn ông không


chỉ vì chất lượng gen, mà còn khả năng đảm bảo
nuôi con (ở đây ám chỉ vật chất), cũng như dạy dỗ
con cái của người đàn ông. Vậy nên yêu cầu mức
độ chung tình cao của người đàn ông, ám chỉ mức
độ cam kết nuôi, dạy con và không chia sẻ tài
nguyên kiếm được cho người phụ nữ khác. Ngược
lại với phụ nữ, đàn ông dễ đa tình hơn, bởi mục
tiêu của đàn ông là nhân bản gen càng nhiều càng
tốt.

Tóm lại: Con người cũng là sinh vật nên ưu tiên hàng
đầu (bản năng) của mỗi cá nhân là duy trì nguồn gen
của mình và nhân bản nó ra càng nhiều càng tốt, và để
thực hiện được mục tiêu này bắt buộc mỗi cá nhân phải
vị lợi.

Tuy nhiên, ngoài là thực thể sinh học ra, con người còn
có yếu tố tinh thần. Cũng tức là con người tồn tại đồng
thời nhu cầu sinh học và nhu cầu hưởng thụ các giá trị
tinh thần. Mà trong quá trình tìm cách làm lợi cho bản

29
Phản đề | Trần Văn Đức

thân, sau nhiều lần đấu tranh qua lại giữa các cá nhân,
giữa các tầng lớp hay giữa các dân tộc, mới rút ra được
bài học là: Cá nhân muốn được lợi ích (hưởng thụ hay
được sự công nhận từ người khác) thì cũng phải tôn
trọng hay làm lợi cho người đó (có qua có lại). Mở rộng
cho cá nhân là dân tộc, quốc gia. Con người dần đi đến
những thống nhất chung như: Các giá trị về quyền tự
do, bình đẳng… gọi chung là nhân quyền.

Ví dụ như quyền tự do: “quyền tự do của một cá nhân


có thể được nảy nở tùy ý cho đến khi nó chạm vào
quyền tự do của người khác” hay “giới hạn tự do của
một người là tự do của người khác” - trích tác phẩm
Bàn về Tự Do của John Stuart Mill.

Nhu cầu về tinh thần thì chỉ động vật với trí thông minh
bậc cao có tập tính sinh sống thành bầy đàn mới có.
Chính việc tăng cường sự gắn kết (thân thiết) giữa các
thành viên trong đàn, mới xuất hiện nhu cầu về tinh
thần. Nhu cầu về tinh thần xuất phát đơn giản như nhu
cầu chia sẻ cảm xúc giữa các thành viên. Một cá thể
muốn chia sẻ với các cá thể khác, cảm xúc mà nó đang
mang như: sợ hãi, vui vẻ, tức giận, tò mò… và cũng

30
Phản đề | Trần Văn Đức

muốn được chia sẻ cảm xúc từ các thành viên khác. Dễ


hiểu thì chính là tìm kiếm sự đồng cảm giữa các thành
viên trong đàn. Con người là động vật với trí thông
minh vượt trội so với phần còn lại của tự nhiên. Vậy
nên nhu cầu về tinh thần cũng phát triển rất phức tạp.
Với con người, nhu cầu về tinh thần cũng quan trọng
không kém nhu cầu về vật chất.

Trí tò mò là một đặc tính trong quá trình tiến hóa, nó


khiến các cá thể luôn phải chủ động tìm hiểu môi
trường xung quanh, từ đó chủ động thích nghi với sự
biến đổi của môi trường. Ngược lại với sự tò mò chính
là sự sợ hãi, sợ hãi giúp cho cá thể tránh né các tác nhân
nguy hiểm chưa rõ ràng. Trong một quần thể thì tò mò
lớn hơn sợ hãi trước một tác nhân lạ. Bởi vì có thể cho
một cá nhân thử trước và nếu gặp nguy hiểm thì cả đàn
biết để né tránh. Đây cũng được xem là hành vi bảo vệ
đàn, bảo vệ nguồn gen của mình. Ngược lại, nếu cá thể
đơn lẻ thì trước một tác nhân lạ sự sợ hãi sẽ lớn hơn tò
mò. Trong trường hợp này bảo tồn tính mạng là ưu tiên
hàng đầu.

31
Phản đề | Trần Văn Đức

Tóm lại: Trong phần này, tôi cho rằng, vị lợi là bản
chất của con người, nhưng nó là công cụ phục vụ mục
đích tối hậu là duy trì và bảo vệ nguồn gen của mình.
Để tìm hiểu thêm về phần này thì người đọc có thể tìm
tác phẩm “Gen vị kỷ” của tác giả Richard Dawkins1,
đây là cuốn sách rất nổi tiếng, và là sự bổ sung cho
thuyết tiến hóa của Darwin. Bạn đọc cũng có thể tìm
đọc những sách về “tâm lý học tiến hóa”. Thuyết vị lợi
là công cụ cho việc duy trì và bảo vệ nguồn gen, có thể
giải thích rất nhiều các hiện tượng trong giới sinh vật
nói chung và con người nói riêng. Nhà kinh tế học

1 Clinton Richard Dawkins (sinh 26/03/1941) là một nhà tập tính học và sinh học
tiến hóa người Anh. Ông là nghiên cứu sinh danh dự của trường New College,
Oxford, và là giáo sư ngành Nhận thức chung về khoa học tại đại học Oxford từ
năm 1995 sẽ đến năm 2008.
Ông nổi tiếng với cuốn sách xuất bản năm 1976 The Selfish Gene (Gen vị kỷ), trong
đó phổ biến quan điểm tiến hóa với gen là trung tâm tiến hóa và giới thiệu thuật
ngữ meme. Năm 1982, ông đã đưa vào ngành sinh học tiến hóa một khái niệm
mang tầm ảnh hưởng được giới thiệu trong cuốn sách The Extended Phenotype
(Kiểu hình gen mở rộng), với nội dung rằng hiệu ứng kiểu hình gen không nhất thiết
giới hạn trên một vật thể sống, mà có thể mở rộng sang môi trường, bao gồm
những vật thể sống khác nhau.
Ông còn được biết đến với những tranh cãi về sáng tạo luận và thiết kế thông
minh. Trong cuốn sách xuất bản năm 1986 The Blind Watchmaker (Người chế tạo
đồng hồ mù), ông lý luận chống lại những tranh cãi về sự tồn tại của Chúa dựa trên
sự phức tạp của những cơ thể sống. Ông đã khám phá ra phương cách thiên nhiên
tạo ra dáng vẻ của sự thiết kế – ngay cả những thiết kế chi li và phức tạp mà không
cần đến sự can thiệp của đấng tạo hóa. Ông mô tả quá trình tiến hóa tương tự như
một người chế tạo đồng hồ mù.

32
Phản đề | Trần Văn Đức

Adam Smith đề xuất lý thuyết “bàn tay vô hình” trong


kinh tế cũng xuất phát từ tiền đề là “thuyết vị lợi”.

Con người là sinh vật vị lợi, tổ chức được lập nên bởi
con người nên bản năng của tổ chức cũng là vị lợi. Tức
là, nếu không có sự kìm hãm thì nó sẽ không ngừng mở
rộng bành trướng quyền lực. Ngắn gọn thì một tổ chức
nếu “không bị kìm thì sẽ phá”, đó là quy luật muôn đời.
Tức là, một đảng nếu chịu sự kìm hãm từ bên ngoài
đảng đó thì nó cứ thế phát triển và tiến đến độc tài là
một lẽ hoàn toàn tự nhiên. Đúng hơn tổ chức đảng vì lợi
ích của mình sẽ luôn tìm cách chiếm quyền lực để tiến
đến độc tài, không có cái gọi là lương tri hay đạo đức ở
đây như mọi người vẫn nghĩ. Khi tiến đến độc tài thì
đảng tha hóa về đạo đức là hoàn toàn tự nhiên, bởi nếu
không có sự kìm hãm thì bản năng sinh học trong con
người tha hồ nảy nở, và đương nhiên các thành viên
trong đảng sẽ ưu tiên lợi ích của mình mà không quan
tâm đến lợi ích của người khác cho đến khi nó bị kìm
hãm là điều hoàn toàn bình thường. Mọi thứ hoàn toàn
hợp lý như nó phải diễn ra.

33
Phản đề | Trần Văn Đức

Đây là tiền đề rất quan trọng liên quan đến phần còn
lại của quyển sách.

Bàn về bản chất của chủ nghĩa Marx

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nam Tư Milovan Djilas đã


nói rằng “20 tuổi mà không theo Cộng sản là không có
trái tim. 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng sản, là không có
cái đầu”. Những người hiểu chủ nghĩa Marx đều nói
“Chủ nghĩa Marx đẹp nhưng không thực”. Vậy thì tại
sao nó đẹp nhưng lại không thực tế?
Chủ nghĩa Marx vẽ ra một xã hội tốt đẹp nhất mà con
người có thể nghĩ tới. Khi nó hình dung xã hội “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, còn gì tốt đẹp hơn?
Vì lí do ngoại cảnh mà một người lao động có thể
không bằng những người khác nhưng quyền lợi về vật
chất là được hưởng tương đương nhau.
Lý do mà Marx vẽ ra một xã hội như vậy là vì ông tin
vào con người. Ông cho rằng bản chất con người (số
đông) là tốt. Chỉ do điều kiện hoàn cảnh mà con người
bị tha hóa và trở nên xấu xa, chỉ cần tạo ra điều kiện
phù hợp là con người có thể sống tốt đẹp và hòa hợp
được với nhau.

34
Phản đề | Trần Văn Đức

Để có thể “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” đòi
hỏi con người phải có niềm tin tuyệt đối vào nhau. Mọi
người đều cố gắng làm việc không vụ lợi và cũng nghĩ
những người khác cũng đang làm vậy. Một người sỡ dĩ
làm việc năng xuất thấp hơn mình là do năng lực thực
sự của anh ta có đến vậy, chứ không phải anh ta không
cố hết mình. Điều này có thể thông cảm được, bởi năng
lực bẩm sinh của con người là khác nhau. Họ không cho
rằng một người làm việc năng suất thấp hơn là vì họ
lười chứ không phải do năng lực.
Chính vì có niềm tin tuyệt đối vào con người vậy nên
Marx mới vẽ ra một thể chế xã hội kiểu thiên đường
như: mô hình độc đảng, sự tiêu biến của chính quyền
dần dẫn đến không còn tầng lớp cai trị, không còn đất
nước mà chỉ có con người với nhau. Về kinh tế thì là
kinh tế tập thể, cùng nhau làm cùng nhau hưởng.
Nhưng thực ra bản chất của con người là vị lợi. Vậy nên
những mô hình xã hội được xây dựng theo kiểu đặt
niềm tin vào sự tốt đẹp của con người (kiểu đức trị) chỉ
là giấc mơ chứ không xảy ra trên thực tế.

35
Phản đề | Trần Văn Đức

Thực tế áp dụng như thế nào thì tất cả chúng ta đều đã


rõ, một xã hội trì trệ, không thể phát triển. Marx đã xây
dựng xã hội dựa trên nền tảng sai (bản chất của con
người). Mà nền tảng đã sai thì mọi thứ xây dựng nên từ
nền tảng cũng sai theo. Và nó đi chệch so với mục đích
ban đầu của người thiết kế ra nó là điều hiển nhiên.
Chính vì bản chất của con người là vị lợi nên phải thay
thế mô hình nhân trị bằng mô hình pháp trị. Tức là cần
phải có quy định để ngăn chặn những hành vi xấu của
con người có thể diễn ra. Và đề xuất các thể chế có cơ
chế kiểm soát quyền lực của một người (nhóm người),
không cho họ lạm quyền. Cái mà ngày nay chúng ta gọi
là độc tài.
Vậy nên từ bây giờ phải dứt khoát từ bỏ các mô hình
nhà nước theo kiểu đặt niềm tin vào con người như chủ
nghĩa xã hội của Marx là một ví dụ. Tuy nó đẹp nhưng
nó không thực, chỉ là giấc mơ chứ không thể xảy ra trên
thực tế.

36
Phản đề | Trần Văn Đức

Chủ nghĩa Marx và câu chuyện phúc lợi xã hội

Vào thế kỷ 18 Adam Smith đã đề xuất một cơ chế thị


trường tự do và chính sự tư lợi của con người sẽ dẫn dắt
nền kinh tế đi lên. Cái mà ngày nay chúng ta gọi là quy
luật bàn tay vô hình.

Nhược điểm của nó là tạo nên sự chênh lệch giàu nghèo.


Con nhà giàu được hưởng mọi điều kiện tốt để phát triển
vậy nên giàu lại càng giàu. Ngược lại con nhà nghèo do
không có điều kiện (học hành, công việc) nên không thể
phát triển và như vậy từ thế hệ này sang thế hệ khác làm
công cho người giàu. Như câu nói ở Việt Nam “con vua
thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Điều này vô
tình tạo nên sự bất công trong xã hội vì một đứa trẻ không
thể tự chọn cha mẹ cho mình.

Chính vì vậy xã hội cần có phúc lợi. Nói thẳng ra phúc lợi
xã hội chính là lấy của người giàu chia cho người nghèo,
để tạo công bằng cho xã hội. Nhất là giáo dục “con em các
gia đình nghèo có cơ hội được học hành tốt hơn, qua đó có
thể tham gia vào những ngành nghề có giá trị lao động
cao, giúp cải thiện đời sống”.

37
Phản đề | Trần Văn Đức

Có điều cần lưu ý là phúc lợi xã hội càng cao thì càng cực
tả tức càng gần với chủ nghĩa xã hội (hay chủ nghĩa Marx)
thứ mà những người đấu tranh dân chủ đang chống lại.

Nhưng phúc lợi xã hội càng cao thì tầng lớp tinh hoa của
dân tộc càng mất đi động lực làm việc. Lý do gì họ phải
làm khi không làm cũng được hưởng như vậy? Và như
vậy nền kinh tế sẽ không phát triển, kết quả là tất cả nghèo
như nhau.

Đến đây có thể kết luận rằng bất công trong xã hội là luôn
tồn tại. Đến cục đá còn khác nhau thì làm sao đòi hỏi con
người giống nhau được. Vậy nên nếu đòi hỏi công bằng
một cách thái quá thì lại khiến xã hội phát triển một cách
méo mó. Giả dụ như tất cả đều mù, điếc và nghèo.

Phúc lợi xã hội cản trở bàn tay vô hình vậy nên chương
trình phúc lợi phải hợp lý để tận dụng nhiều lợi thế và hạn
chế bớt rủi ro mang lại. Ví dụ như phúc lợi xã hội mang
lại công bằng về giáo dục hay phổ cập kiến thức thì sẽ tốt
hơn. Nhưng người lành lặn, đầu óc bình thường mà lại
muốn không làm nhưng vẫn có ăn, phúc lợi xã hội không
thể đáp ứng điều này. Bởi nếu đáp ứng bàn tay vô hình sẽ
chạy ngược và làm tất cả nghèo như nhau.

38
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 2
BÀN VỀ CHÍNH TRỊ

Chúng ta sẽ bàn luận về từng vấn đề cụ thể, đầu tiên là


trong một xã hội mà quyền con người bình đẳng với
nhau thì liệu chúng ta có cần lãnh đạo hay không?

Rất nhiều người cổ vũ cho chủ nghĩa vô chính phủ


(không cần nhà nước, hay cá nhân nào quản lí, lãnh
đạo). Quan sát các loài động vật sống theo bầy, chúng ta
thấy rằng, trong bầy luôn luôn có con đầu đàn, lãnh đạo.
Tại sao lại như vậy, khi mà con đầu đàn luôn được ưu
tiên phần hơn như thức ăn, bạn tình… rõ là bất công
cho những con còn lại nếu đem ra so sánh với con đầu
đàn kia. Để trả lời câu hỏi, hãy liên hệ đến chúng ta.

39
Phản đề | Trần Văn Đức

Giả sử rằng, có một nhóm 10 người có quyền như nhau,


tham gia tranh luận để đi đến thống nhất xử lý một vấn
đề nào đó phục vụ công việc chung. Vì quyền như nhau
nên họ không đồng ý cho ai đứng ra điều hành buổi
tranh luận đó, thì liệu họ có thể đi đến kết luận phương
án xử lý cho vấn đề đó được không?

Có thể, nhưng việc này khó khăn hơn nhiều so với việc
họ bầu một người am hiểu về lĩnh vực đó nhất trong
nhóm đứng ra điều hành buổi họp. Đương nhiên lời nói
của người điều hành là có trọng lượng hơn, dưới sự góp
ý của những người còn lại trong nhóm.

Tại sao lại như vậy?

Lí do là mỗi người chúng ta đều có một thế giới quan


khác nhau, không ai giống ai. Cùng một sự việc, có thể
với người này là đúng với người kia lại là sai, từ đó dẫn
đến khó thống nhất trong việc ra quyết định và thường
sẽ chậm trễ trong hành động. Số lượng người trong
nhóm càng lớn thì càng khó thống nhất. Ở quy mô lớn
như quốc gia thì hoàn toàn không thể thống nhất được ý
kiến của tất cả mọi người.

40
Phản đề | Trần Văn Đức

Việc có người lãnh đạo giải quyết được vấn đề này, bởi
vì mọi người đều tôn trọng ý kiến của người lãnh đạo
nên vấn đề được thông qua nhanh hơn. Vậy nên nhóm
có thể phản ứng kịp thời với các vấn đề xuất hiện trong
quá trình hoạt động, và nhóm có cơ hội tồn tại nếu giải
quyết đúng hướng.

Khác hoàn toàn với trường hợp không có lãnh đạo, bởi
vì xử lý công việc chậm trễ, không thể phản ứng kịp
thời với vấn đề đang đặt ra, thì cũng xem như là giải
quyết sai hướng của vấn đề, và nhóm sẽ không thể tồn
tại được.

Tuy nhiên, nhược điểm của việc có lãnh đạo là nó


không đại diện được cho nhiều người, khi mà những
người có ý kiến khác lại bắt buộc phải nghe theo người
lãnh đạo.

TÓM LẠI: Khác biệt giữa xã hội không cần lãnh đạo
và xã hội cần lãnh đạo, đó là sự đánh đổi tính đại diện
để lấy tốc độ phản ứng với vấn đề. Và tự nhiên đã
chứng tỏ rằng, thà chọn lãnh đạo để đổi lấy tốc độ phản
ứng nhanh với vấn đề, thì còn có khả năng tồn tại nếu
lựa chọn đúng, còn hơn là phản ứng chậm trễ với vấn

41
Phản đề | Trần Văn Đức

đề, và chắc chắn là không thể tồn tại được. Đó là lí do


vì sao các loài động vật sống theo nhóm thường có con
đầu đàn.

Vậy chúng ta cần thống nhất rằng, xã hội luôn cần lãnh
đạo (cá nhân, hoặc tập thể) để phản ứng kịp thời với các
thách thức được đặt ra nhằm duy trì sự sống còn của xã
hội đó.

Vấn đề tiếp theo là làm thế nào để phản ứng vừa nhanh
vừa có độ chính xác cao để tăng độ sống còn của xã hội,
hay nói rõ hơn là bộ phận lãnh đạo xã hội (đất nước)
làm thế nào để tăng độ chính xác trong phản ứng với
các thách thức được đặt ra.

Vấn đề xã hội dân sự (XHDS) và chính đảng

Trong một đất nước dân chủ, mọi cá nhân có quyền tự


do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do hội họp, tự do tổ
chức và thành lập các hội dưới nhiều hình thức khác
nhau của tổ chức phi chính phủ.

42
Phản đề | Trần Văn Đức

Những người có cùng điểm tương đồng, cùng sở thích,


cùng lợi ích, cùng tư tưởng… sẽ có xu hướng tập hợp
nhau lại thành lập các hội nhóm để tiện cho việc sinh
hoạt, trao đổi, phục vụ cho lợi ích của mình. Những hội
nhóm này được gọi chung là xã hội dân sự, chúng ta
thấy sự đa dạng trong các mục đích và kích cỡ của hội
nhóm. Khi những người có cùng mục đích tập hợp lại
với nhau, tiếng nói của họ sẽ gây được nhiều ảnh hưởng
hơn trong xã hội. Thông qua đó, họ có thể bảo vệ mình
trước các áp lực trong xã hội. Ví dụ: Chống lại sự bất
công, độc đoán…

Alexisde Tocqueville2, nhà nghiên cứu chính trị nổi


tiếng người Pháp thế kỉ 19 đã viết: “Không có một đất
nước nào mà sự đòi hỏi cấp thiết phải có các hiệp hội để
chống lại sự chuyên chế, bè cánh và sự độc đoán lãnh

2 Alexis-Charles-Henri Maurice Clérel de Tocqueville (1805–1859) là đại biểu Quốc hội


(1839–1848), Phó Chủ tịch Quốc hội và Bộ trưởng Ngoại giao (1849) của Pháp.
Ông là tác giả của một số khảo luận về hệ thống chính trị của Hoa Kỳ sau này trở thành
tác phẩm kinh điển. Tác phẩm “Nền dân trị Mỹ” là một trong những khảo luận đầu tiên
và sâu sắc nhất về lĩnh vực này, phân tích hệ thống lập pháp và hành pháp của Hoa Kỳ
cùng ảnh hưởng của những định chế xã hội và chính trị đối với thói quen và cách hành
xử của dân chúng. Ông phê phán mạnh mẽ vài khía cạnh của nền dân chủ Hoa Kỳ. Chẳng
hạn, ông cho rằng ý kiến quần chúng có xu hướng tạo ra tình trạng chuyên chế, và chế
độ cai trị thể theo số đông có thể cũng có tính chất đàn áp như là chế độ của một kẻ
chuyên quyền. Ông được cho là nhà thành lập môn chính trị khoa học so sánh.

43
Phản đề | Trần Văn Đức

đạo như một đất nước được xây dựng theo kiểu dân
chủ”.

Tập hợp những người có cùng mục tiêu chính trị tạo
thành hội nhóm với mục đích chính trị thì ta gọi là
chính đảng, như vậy chính đảng chính là trường hợp
đặc biệt của xã hội dân sự.

Chính đảng: Là một tập hợp có mục đích chính trị, một
tập thể cùng theo đuổi, thực thi một lý tưởng, một
đường lối, một chủ nghĩa chính trị. Hay nói một cách
khác, những thành viên trong cùng một chính đảng đều
có chung một tín ngưỡng chính trị.

Như vậy chúng ta thấy:

Trong một đất nước tự do, việc thành lập chính đảng là
việc hết sức bình thường, và vì có nhiều tư tưởng khác
nhau, mục đích chính trị khác nhau, cũng như đề ra
nhiều chương trình hành động để đạt được mục đích là
khác nhau, nên cũng hình thành nhiều đảng phái khác
nhau.

44
Phản đề | Trần Văn Đức

Lợi ích của chính đảng

1. Bởi vì các chính đảng là các tổ chức với mục đích là


chính trị, nên đây là môi trường chuyên nghiệp để đào
tạo các chính trị gia chuyên nghiệp, phục vụ đất nước.

2. Các chính trị gia lãnh đạo đất nước thường sẽ bị giới
hạn nhiệm kì, thế nhưng là đảng viên thì không bị giới
hạn thời gian. Hơn nữa các tổ chức chính đảng lớn
thường có thời gian tồn tại rất dài, vậy nên kinh nghiệm
của các chính trị gia khi lãnh đạo đất nước sẽ không bị
mất đi, mà được lưu giữ thông qua việc truyền đạt lại
kinh nghiệm cho các đảng viên khác trong đảng của họ.
Như vậy chính đảng có ưu điểm là nơi lưu giữ lâu dài
và truyền đạt lại các kinh nghiệm quản trị đất nước của
các chính trị gia.
3. Đảng phái là nơi tập hợp những người có chung mục
đích chính trị, nên phải có quan điểm chính trị, mục
đích, cương lĩnh chính trị, chương trình hành động rõ
ràng, bởi nếu không sẽ không thu hút được đảng viên.
Đây là sự ràng buộc rõ ràng giữa đảng và các đảng viên
của mình.

45
Phản đề | Trần Văn Đức

Vậy nên, một đảng phái, về cơ bản không thể lừa được
người dân nhằm gia tăng số phiếu ủng hộ cho mình.
Điều này khác hoàn toàn với việc bầu cho cá nhân, bởi
cá nhân không bị ràng buộc gì nên hoàn toàn có thể lừa
người dân nhằm gia tăng số phiếu ủng hộ.

Bầu cử lãnh đạo nên bầu cho cá nhân hay tập thể
(chính đảng)

STT Cá nhân Chính đảng

1 Cử tri (người dân) có Việc bầu cho chính


thể bầu cho một cá đảng, người dân chỉ có
nhân, mà cá nhân đó thể bầu cho một đảng
chiếm được cảm tình phái có chương trình
của cử tri. Việc chiếm hành động tốt.
được tình cảm không Loại bỏ hoàn toàn việc
nhất thiết đòi hỏi cá cử tri bầu lãnh đạo
nhân đó là người giỏi theo cảm tính.
về chính trị mà có thể
là ở nguyên nhân
khác. Ví dụ là một

46
Phản đề | Trần Văn Đức

người đẹp trai, hay


một ngôi sao giải trí
….

Với việc bầu một


người không giỏi về
chính trị lên làm lãnh
đạo đất nước, việc này
có thể gây ra những
hậu quả nghiêm trọng

2 Số nhiệm kì của một Với chính đảng thì


cá nhân thường có giới không xuất hiện trường
hạn. Ví dụ: Tổng hợp như ở cá nhân lãnh
thống thường chỉ có đạo.
tối đa hai nhiệm kì, Bởi vì số nhiệm kì mà
mỗi nhiệm kì khoảng chính đảng có thể đảm
4 năm. nhiệm là không bị giới
Trong và sau nhiệm kì hạn. Vậy nên, để có thể
đó, người dân hoàn lấy lòng cử tri và trúng
toàn không thể làm gì cử các nhiệm kì sau,
được vị tổng thống, chính đảng buộc phải

47
Phản đề | Trần Văn Đức

trừ trường hợp phát thực hiện lời hứa của


hiện vi phạm pháp mình.
luật. Ngược lại, với thời
Như vậy sẽ phát sinh gian hoạt động lâu dài
trường hợp người lãnh của chính đảng, cử tri
đạo hứa suông để lấy cũng đã rõ văn hóa, tổ
phiếu cử tri, mà không chức của chính đảng
thực hiện lời hứa đó, đó như thế nào. Từ đó
bởi cử tri không làm có thể đánh giá chính
được gì lãnh đạo sau xác các chính đảng, và
khi đã mãn nhiệm. chọn ra chính đảng phù
hợp nhất lãnh đạo đất
nước.

3 Bởi vì cá nhân lãnh Với chính đảng, một


đạo không liên quan khi trúng cử lãnh đạo
đến chính đảng, vậy đất nước, người lãnh
nên sẽ không được đạo sẽ được đảng của
chính đảng hỗ trợ các mình hỗ trợ các kinh
kinh nghiệm đã gặp nghiệm lãnh đạo mà
phải trong lịch sử. Từ đảng đó đã có trong

48
Phản đề | Trần Văn Đức

đó lúng túng không các nhiệm kì trước,


biết cách giải quyết như vậy công việc sẽ
một số tình huống như trôi chảy hơn.
thế nào, gây mất thời Kinh nghiệm lãnh đạo
gian, còn có thể gây đất nước nhiệm kì này
thiệt hại cho đất nước. cũng sẽ được chính

Ngược lại, những kinh đảng lưu giữ.


nghiệm trong thời gian Như vậy, chính đảng
cá nhân lãnh đạo gặp còn có chức năng lưu
phải, cũng không biết giữ các kinh nghiệm
truyền lại cho ai, xem lãnh đạo đất nước,
như những kinh không để nó bị thất
nghiệm quý báu đó bị thoát.
mất đi.

Như đã phân tích, chúng ta có thể thấy rằng, việc bầu


chính đảng lãnh đạo đất nước sẽ tốt hơn rất nhiều, so
với việc bầu một cá nhân lãnh đạo đất nước.

49
Phản đề | Trần Văn Đức

Đơn đảng, hay đa đảng lãnh đạo đất nước?

Đây là vấn đề khá phức tạp, đầu tiên chúng ta phải nhớ
rằng, tối đa hóa lợi ích cá nhân (hay thói tư lợi) là bản
chất của con người nói riêng, và của các loài động vật
nói chung, sau hàng tỉ năm tiến hóa.

Chính trị lại là trường hợp đặc biệt, nó cung cấp cho
người lãnh đạo rất nhiều đặc quyền, lợi ích, khiến cho
người lãnh đạo dễ bị cám dỗ và suy thoái đạo đức.
Đúng ra chúng ta không nên tin vào đạo đức của người
lãnh đạo khi cung cấp cho họ nhiều đặc quyền như vậy.

Chính đảng cũng là tổ chức do con người tạo ra, vậy


nên, lí do tồn tại của chính đảng cũng không nằm ngoài
bản chất của con người. Nói đúng hơn thì chính đảng
cũng chỉ là công cụ của con người mà thôi.

Vậy đã không tin vào con người thì cách duy nhất là
phải kiểm soát nó, làm sao cho người lãnh đạo không có
khe hở để lợi dụng tham nhũng, lạm quyền. Người lãnh
đạo muốn có lợi ích cho mình, cách duy nhất là người
đó phải làm lợi cho đất nước của họ. Những người chỉ
làm lợi cho bản thân mình, mà gây tổn hại cho đất nước

50
Phản đề | Trần Văn Đức

phải bị phát hiện và loại bỏ, tránh trường hợp các lãnh
đạo có kẽ hở để bao che dung túng tội ác cho nhau.

Vậy đơn đảng, hay đa đảng lãnh đạo đất nước, thực ra
là để xem trường hợp nào có cơ chế kiểm soát tốt hơn.

Kurt3 phát biểu định lý bất toàn như sau:

Bất kì một hệ tiên đề hình thức độc lập đủ mạnh để


miêu tả số học cũng hàm chứa những mệnh đề không
thể khẳng định cũng không thể phủ định.

Tức là bất kì một hệ thống lí thuyết kín nào đều không


thể tự chứng minh được nó là đúng.

Từ định lí bất toàn của Kurt chúng ta có các hệ quả sau:

(1) một hệ thống lý thuyết kín phải dựa vào những tiên
đề có trước, mà những tiên đề đó chỉ được thừa nhận

3Kurt Gödel (1906 – 1978) là một nhà toán học và logic học nổi tiếng người Áo, người
đã được tờ tạp chí danh tiếng Time bình chọn là một trong 100 người có tầm ảnh hưởng
nhất thế kỷ 20.
Ông là tác giả của một định lý nổi tiếng trong toán học: "Định lý bất toàn". Đây là một
định lý được giới khoa học so sánh với Thuyết tương đối của Einstein và Định lý này đã
đập tan niềm tin tuyệt đối của các nhà toán học vào sức mạnh của các công cụ hình thức
được đề xuất bởi David Hilbert và các cộng sự nhằm loại bỏ những mâu thuẫn và nghịch
lý ra khỏi toán học.) Nguyên lý bất định của Heisenberg. Định lý này được chứng minh
vào năm 1930 và công bố một năm sau đó.

51
Phản đề | Trần Văn Đức

chứ không thể chứng minh. Hoặc

(2) chúng ta phải đi ra ngoài hệ thống lí thuyết đó và


nhờ một hệ thống lí thuyết khác để chứng minh nó.

Bản thân “nghịch lí tôi nói dối” và “định lí bất toàn”


khẳng định một điều rằng, bản chất việc chúng ta tự
đánh giá (nhận xét) về bản thân mình, mà không có sự
tham khảo từ người khác là tự mâu thuẫn, không đáng
tin cậy. Mở rộng ra một tổ chức cũng vậy, để người
trong tổ chức ấy tự đánh giá về tổ chức của mình thì
đều không đáng tin cậy.

Nghịch lí “Tôi nói dối” do Eubulides thế kỷ thứ tư


trước Công nguyên đặt ra, cụ thể như sau: “Một
người nói rằng, anh ta đang nói dối. Vậy anh ta nói
thật hay nói dối”. Nghịch lí này về sau được rút gọn
thành “tôi nói dối” (1).

Tôi nói dối có nghĩa là tôi nói không đúng sự thật,


mà tự nhận mình nói không đúng sự thật thì có
nghĩa là tôi đang nói thật. Nhưng nếu tôi đang nói
thật, thì mệnh đề “tôi nói dối” đang thể hiện là tôi

52
Phản đề | Trần Văn Đức

đang nói dối. Mà tôi nói dối có nghĩa là tôi nói


không đúng sự thật....

Quá trình cứ thế lặp lại không thể kết luận được là
câu (1) đúng hay sai.

Bằng những biến đổi khéo léo, Godel Kurt đã


chuyển Nghịch lý Kẻ Nói Dối thành một định lí toán
học, “Định lí bất toàn”. Hay nói cách khác định lí
bất toàn là trường hợp đặc biệt của nghịch lí “tôi
nói dối” được thể hiện trong toán học.

Trong chính trị, điều này có nghĩa là, bản thân người
trong một đảng không thể nào đánh giá đúng về đảng
của mình được, cũng như không thể nào kiểm soát được
nó. Phải nhờ người, tổ chức bên ngoài nhìn vào đánh
giá, mới có thể cho kết quả khách quan, chính xác được.
Người hoặc tổ chức bên ngoài có thể là người dân, tổ
chức xã hội, hoặc các chính đảng đối lập.

Chúng ta sẽ tìm hiểu mối quan hệ giữa người dân và


các chính đảng thông qua câu chuyện sau:

“Phải sống cùng sói hoặc sư tử, cuối cùng bầy cừu đã
lựa chọn ra sao?”

53
Phản đề | Trần Văn Đức

Bầy cừu phải chọn sống chung với một loại thiên địch
của mình, chúng có hai lựa chọn: Sống chung với sói
hay sống chung với sư tử? Và kết quả thực sự khiến
chúng ta phải suy ngẫm.

Trên một vùng thảo nguyên có hai bầy cừu, Thượng đế


đã an bài một bầy sống ở phía Nam, một bầy sống ở
phía Bắc. Thượng đế còn cho hai bầy cừu tự tìm kiếm
hai loại kẻ thù tự nhiên (thiên địch), một là sư tử, một
nữa là sói.

Thượng đế nói với bầy cừu rằng: “Nếu như các ngươi
chọn sói thì ta sẽ cấp cho các ngươi một con và nó có
thể tùy ý cắn giết các ngươi. Còn nếu như các ngươi
chọn sư tử, thì ta sẽ cấp cho các ngươi hai con, các
ngươi có quyền lựa chọn sống cùng một con trong
chúng và tùy thời điểm mà hoán đổi”.

Nếu như là bạn, thì bạn sẽ chọn sói hay chọn sư tử? Rất
dễ dàng để lựa chọn phải không nào? Lựa chọn xong
rồi, bạn hãy nhớ kỹ lựa chọn của mình và theo dõi tiếp
để biết lựa chọn của bầy cừu.

54
Phản đề | Trần Văn Đức

Bầy cừu ở phía Nam nghĩ rằng, sư tử thì dũng mãnh


hơn sói rất nhiều, hay là chúng ta chọn sói đi! Thế là,
chúng chọn một con sói.

Bầy cừu ở phía Bắc nghĩ rằng, mặc dù sư tử dũng mãnh


hơn sói rất nhiều, nhưng chúng ta lại có quyền hoán đổi
một trong hai con sư tử nên chúng ta chọn sư tử đi! Thế
là chúng chọn hai con sư tử.

Ở phía Nam, sau khi sói tiến vào bầy cừu, nó liền bắt
đầu ăn thịt chúng.

Thân thể sói nhỏ, sức ăn cũng nhỏ, cho nên một con cừu
cũng đủ cho nó ăn mấy ngày. Và như thế, bầy cừu vài
ngày mới bị truy đuổi một lần.

Bầy cừu ở phía Bắc chọn một con sư tử, con sư tử còn lại
được lưu lại ở nơi của Thượng đế. Sư tử sau khi tiến vào
bầy cừu, nó cũng bắt đầu ăn chúng. Sư tử không những
dũng mãnh hơn sói, mà sức ăn của nó cũng kinh người.
Mỗi ngày nó đều phải ăn một con cừu. Như vậy, bầy cừu
ngày ngày bị truy sát nên cũng vô cùng hoảng loạn.

Bầy cừu phía Bắc đã vội vã xin Thượng đế đổi con sư


tử kia. Nhưng thật không ngờ rằng, con sư tử kia khi

55
Phản đề | Trần Văn Đức

lưu lại chỗ Thượng đế đã không hề được ăn gì, đói khát


không chịu được, nên đã nhào vào bầy cừu mà cắn giết
còn điên cuồng hơn con lúc trước.

Bầy cừu phía Bắc suốt ngày chỉ lo trốn chạy để khỏi
chết, ngay cả cỏ cũng không kịp ăn.

Bầy cừu phía Nam may mắn khi đã lựa chọn đúng kẻ
thù thiên địch, lại cười nhạo bầy cừu phía Bắc không có
con mắt tinh tường khi lựa chọn.

Bầy cừu phía Bắc thấy hối hận vô cùng và thống thiết
kể khổ với Thượng đế, cầu mong được thay đổi thiên
địch – đổi thành sói.

Thượng đế trả lời: “Một khi đã lựa chọn thiên địch rồi
thì không thể thay đổi được, nhiều đời sau cũng phải
tuân theo, các ngươi chỉ có quyền lợi duy nhất là ở cùng
hai con sư tử đã lựa chọn đó mà thôi”.

Bầy cừu phương Bắc đành phải không ngừng hoán đổi
chung sống với hai con sư tử.

Nhưng hai con sư tử đều hung tàn như nhau, hoán đổi
con nào thì cũng bị thê thảm hơn bầy cừu phương Nam
rất nhiều. Chúng dứt khoát không hoán đổi nữa, khiến

56
Phản đề | Trần Văn Đức

cho một con ăn đến béo mập, cơ thể cường tráng, con
còn lại thì bị đói bụng đến gầy còm.

Khi con sư tử gầy đói kia sắp chết, bầy cừu liền lên
Thượng đế xin đổi sang ở cùng với nó.

Con sư tử gầy trải qua thời gian dài đói khát dần dần
hiểu ra một đạo lý: Bản thân tuy dũng mãnh phi thường,
100 con cừu cũng không là đối thủ, nhưng vận mệnh
của nó là nằm trong tay bầy cừu điều khiển. Bầy cừu
bất cứ lúc nào cũng có thể đưa nó trở về chỗ Thượng
đế, cho nó chịu đủ sự dày vò, hành hạ của đói khát,
thậm chí có thể bị chết đói.

Sau khi nghĩ thông suốt đạo lý đó, con sư tử gầy gò đối
xử với bầy cừu rất khiêm nhường, nó chỉ ăn con cừu
chết hoặc con cừu bị bệnh, mà không ăn con cừu khỏe
mạnh nào nữa.

Bầy cừu mừng rỡ, có mấy con cừu nhỏ muốn đề nghị ở
cố định với con sư tử gầy, không muốn con sư tử mập
kia nữa.

Một cừu già liền nhắc nhở: “Con sư tử gầy này là sợ


chúng ta trả nó lại nơi Thượng đế để nó chịu đói chịu

57
Phản đề | Trần Văn Đức

khát nên mới đối tốt với chúng ta như thế. Nhưng ngộ
nhỡ con sử tử mập kia chẳng may chết đói thì chúng ta
sẽ không có sự lựa chọn nào nữa, vì con sư tử gầy này
sẽ rất nhanh chóng khôi phục lại bản tính hung tàn của
nó”.

Bầy cừu cảm thấy con cừu già nói rất có lý, vì không
muốn cho con sư tử mập kia chết đói, chúng vội vàng
đổi nó về sống cùng.

Con sư tử béo tốt trước kia bây giờ cũng đã đói bụng,
đến nỗi chỉ còn lại da bọc xương, hơn nữa cũng đã hiểu
được đạo lý rằng, số mệnh của mình là nằm trong sự
điều khiển của bầy cừu. Để có thể sống trên thảo
nguyên lâu hơn, nó lại tìm mọi cách để nịnh nọt bầy
cừu. Còn con sư tử bị trả về nơi Thượng đế thì khổ sở
đến chảy nước mắt.

Bầy cừu phía Bắc sau khi đã trải qua trùng trùng điệp
điệp những trắc trở, cuối cùng chúng đã vượt qua và
sinh sống tự do tự tại.

Tình cảnh của bầy cừu phía Nam thì càng ngày càng bi
thảm, con sói kia vì không có đối thủ cạnh tranh, bầy

58
Phản đề | Trần Văn Đức

cừu lại không có cách gì thay thế nó, nó lại được thể
làm xằng làm bậy. Mỗi ngày đều muốn cắn chết mấy
chục con cừu. Con sói từ sớm đã không thèm ăn thịt
cừu nữa, nó chỉ uống máu của cừu, còn không cho phép
con cừu nào được kêu. Con cừu nào mà kêu thì sẽ bị nó
cắn chết ngay lập tức.

Bầy cừu phía Nam lúc này chỉ có thể than thở trong
lòng: “Sớm biết như thế này, chi bằng lựa chọn hai con
sư tử còn hơn!”

Câu chuyện nhỏ nhưng mang lại cho chúng ta thật


nhiều bài học sâu sắc.

Bạn muốn được sống một cuộc đời vui vẻ thoải mái, thì
ngoài khả năng mạnh yếu bên ngoài, còn cần tự mình “nắm
giữ quyền quyết định” nữa. Cuộc đời mỗi người đôi khi
phải đứng trước nhiều sự lựa chọn, vì vậy chúng ta phải
chọn phương án giúp nắm chắc vận mệnh của mình.

Cuộc sống có thể vui vẻ, hoặc khổ đau, nhưng hãy để tự
mình quyết định mang đến những điều chúng ta khao
khát.

59
Phản đề | Trần Văn Đức

Nếu không nắm trong tay quyền quyết định, thì dù bạn
có mạnh đến đâu cũng không thắng được số phận. Bầy
cừu phương Nam chọn sói vì nghĩ nó ít hung hãn hơn,
và với sức ăn của sói, chúng ngỡ rằng mình sẽ không bị
ăn thịt nhanh chóng. Thế nhưng, quyền làm chủ thuộc
về sói nên bầy cừu phương Nam phải chịu một kết cục
thương tâm.

Ngược lại, hai chú sư tử tưởng mạnh mẽ, dữ dằn, có thể


điều khiển được bầy cừu phương Bắc, nhưng cuối cùng,
khi nhận ra, nó không điều khiển được số phận của
mình, nó đã phải nhượng bộ.

Có nhiều người nghĩ mình tài giỏi, và chỉ cần có sức


mạnh là có thể làm được mọi thứ, nhưng khi quyền
quyết định không nằm ở bạn, thì mọi “vật ngoại thân”
ấy đều không có nghĩa lý gì.

Trong chính trị thì con sói trong bài viết này tượng
chưng cho chế độ độc đảng. Mặc dù triết lí của đảng đó
có tốt đẹp đến đâu nhưng nếu như không có cơ chế
kiểm soát nó, thì cuối cùng, nó cũng sẽ thoái hóa về mặt
đạo đức và quay lưng lại với nhân dân. Khi đó người
dân sẽ phải chịu kiếp sống lầm than, khổ sở.

60
Phản đề | Trần Văn Đức

Còn hai con sư tử kia tượng trưng cho hai đảng cạnh
tranh với nhau để điều hành đất nước. Sư tử tuy mạnh
nhưng quyền kiểm soát số phận của nó lại thuộc về bầy
cừu (tức nhân dân). Nếu làm sai, chúng sẽ phải chịu
trừng phạt (bỏ đói). Đối với đảng phái thì đó là sự giảm
sút tín nhiệm của nhân dân, kết quả là phải nhường
quyền lãnh đạo đất nước cho một đảng khác được người
dân tín nhiệm hơn. Để không bị bỏ đói, sư tử phải nịnh
bợ bầy cừu. Chúng chỉ dám ăn những con sắp chết,
thậm chí còn làm mọi cách để đàn cừu sinh sản với số
lượng lớn, mà thông qua đó mới có nhiều con cừu già
sắp chết để chúng ăn.

Với con người, trong một hệ thống đa đảng, các đảng


phải ra sức để chăm sóc, nịnh bợ công dân của mình,
nhằm giữ được tín nhiệm của nhân dân đối với họ trước
các đảng khác. Và thông qua đó có thể lãnh đạo đất
nước được lâu dài hơn (tức không bị bỏ đói).

Qua câu chuyện trên, chắc bạn cũng đủ hiểu việc chọn
đơn đảng hay đa đảng thì sẽ tốt hơn.

Chọn đơn đảng thì người dân mất quyền kiểm soát đảng
đó, chọn đa đảng thì quyền kiểm soát đảng thuộc về

61
Phản đề | Trần Văn Đức

người dân. Có nhiều đảng tự do cạnh tranh nhau để


giành quyền lãnh đạo đất nước, cách kiểm soát ở đây là
cho các đảng giám sát lẫn nhau.

Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh, đây là


cách kiểm soát tốt nhất (khi một đảng nắm quyền lãnh
đạo, những đảng còn lại vì muốn thay thế sẽ tìm ra
những lỗi của đảng lãnh đạo để chỉ trích, nhằm làm
giảm uy tín của đảng đó trong mắt người người dân.
Vậy nên đảng lãnh đạo chỉ còn cách làm thật tốt để
không bị các đảng khác thay thế). Điều này dẫn đến chế
độ dân chủ. Đây là lý thuyết dùng đảng trị đảng, dùng
quyền lực trị quyền lực.

Thêm nữa, đừng bao giờ nghe người trong đảng nói về
đảng của mình.

Tóm lại: Chúng ta có sơ đồ về nhà nước như sau:

Đất nước không có lãnh đạo < đất nước có lãnh đạo

Đất nước cá nhân trị < đất nước đảng phái trị

Đất nước đơn đảng < đất nước đa đảng

62
Phản đề | Trần Văn Đức

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

Bộ máy nhà nước là tổng thể các cơ quan nhà nước từ


trung ương tới địa phương, hợp thành hệ thống được tổ
chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo
thành cơ chế đồng bộ nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức
năng của nhà nước.

Cấu tạo bộ máy nhà nước cơ bản theo chiều ngang, bao
gồm: hành pháp, tư pháp, lập pháp. Còn theo chiều dọc
là từ trung ương đến địa phương.

63
Phản đề | Trần Văn Đức

Sơ đồ mô hình Tổng thống chế, mà đại diện là Mỹ

Ba cơ quan chủ yếu cấu thành nhà nước:

1. Hành pháp (chính phủ): Thực thi chính sách, pháp


luật.

2. Lập pháp (quốc hội): Ban hành luật pháp.

3. Tư pháp (tòa án): Duy trì công lý trong xã hội.

64
Phản đề | Trần Văn Đức

LẬP PHÁP (QUỐC HỘI)

Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban
hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lập pháp do quốc
hội tiến hành.

Cơ quan lập pháp (quốc hội) là kiểu hội đồng thảo luận
đại diện, có quyền thông qua các luật, bộ luật. Những
thành viên trong quốc hội được gọi chung là nghị sĩ
hoặc dân biểu, họ được người dân bầu lên, đại diện cho
nhân dân để làm luật.

Lập pháp có nhiều tên gọi khác nhau, phổ biến nhất là
nghị viện và quốc hội (có thể là quốc hội lưỡng viện
(thượng viện, hạ viện) hoặc nhất viện), mặc dù những
tên này có nhiều nghĩa đặc trưng khác nữa. Trong hệ
thống nghị viện của chính phủ (Đại nghị), cơ quan lập
pháp là cơ quan tối cao chính thức và chỉ định cơ quan
hành pháp. Ở hệ thống Tổng thống, cơ quan lập pháp
được xem là phân nhánh quyền lực tương đương và độc
lập với cơ quan hành pháp. Ngoài việc ban hành luật ra,
cơ quan lập pháp còn có quyền tăng thuế, thông qua
ngân sách và các khoản chi tiêu khác.

65
Phản đề | Trần Văn Đức

HÀNH PHÁP (CHÍNH PHỦ)

Cơ quan hành pháp là cơ quan thi hành hiến pháp và


các đạo luật do quốc hội ban hành.

Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính nhà nước


thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ
của mình.

Quyền hành pháp bao gồm hai quyền: Quyền lập qui và
quyền hành chính.

Quyền lập qui là quyền ban hành những văn bản pháp
qui dưới luật, để cụ thể hoá luật pháp do các cơ quan
lập pháp ban hành trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.

Quyền hành chính là quyền tổ chức quản lý tất cả các


mặt, các quan hệ xã hội bằng cách sử dụng quyền lực
nhà nước. Quyền hành chính bao gồm các quyền về tổ
chức nhân sự trong cơ quan hành chính, quyền tổ chức
thực thi và áp dụng pháp luật trong các mối quan hệ
giữa tổ chức với cá nhân, tổ chức với tổ chức và giữa
các cá nhân với nhau trong đời sống xã hội.

66
Phản đề | Trần Văn Đức

Bộ máy hành chính bao gồm chính phủ (nội các) và các
cơ quan hành chính công.

Hành chính và hành pháp – (Trích chính trị bình dân -


Phạm Đoan Trang.)

Theo Austin Ronney, hành pháp là những cơ quan được


bầu cử hay được chỉ định làm việc trong những nhiệm
kì có giới hạn để khởi xướng các chính sách, định
hướng, hướng dẫn công việc của cơ quan hành chính.
Còn hành chính là những cá nhân được chỉ định để thực
hiện công việc thực thi pháp luật, thực thi các chính
sách. Nhiệm kì và sự thăng tiến của họ phụ thuộc vào
công trạng, thành tích chuyên môn hơn là những liên hệ
đảng phái. Điểm khác biệt quan trọng là, nhân viên
hành chính hay công chức không phải là chính trị gia,
nghĩa là họ không tìm cách gây ảnh hưởng, tự mình
hoặc thông qua đảng phái để giành và giữ quyền lực
nhà nước. Họ không được tranh cử và bầu chọn bằng lá
phiếu cử tri, họ là người được chỉ định làm công ăn
lương (cụ thể là nhận lương từ ngân sách nhà nước) để
làm công việc rất cụ thể nhằm triển khai và thực thi
chính sách.

67
Phản đề | Trần Văn Đức

Việc tuyển dụng và thăng tiến của nhân viên hành chính
phụ thuộc vào thành tích chuyên môn của họ chứ không
phải dựa vào khả năng “làm chính trị”, “gây ảnh
hưởng” của họ và các đảng của họ. Đó là chưa nói đến
chuyện nhân viên hành chính cần phải giữ địa vị trung
lập, phi đảng phái. Cũng đòi hỏi giống như tư pháp (tòa
án và công tố viên). Nhân viên hành chính phải thực
hiện chức năng của mình một cách tận tụy và công bằng
đối với tất cả mọi người. Để làm được điều đó môi
trường công việc của họ phải bình yên, ổn định, họ
không phải chịu sức ép chính trị nào như mất việc, bị
trừ lương hoặc bị tống cổ ra đường khi chính quyền
thay đổi, hay nội các thay đổi, đảng này lên đảng kia
xuống.

Nói chung, một nền hành chính tốt cần phải trung lập,
tức là phi đảng phái và tận tụy, công bằng với tất cả. Do
vậy, ở nhiều nước, công chức bị hạn chế hoặc không
được khuyến khích tham gia chính trị. Ở Mỹ chẳng hạn,
công chức không được làm thuê cho đảng nào, không
được gây quỹ hay vận động cho đảng nào.

68
Phản đề | Trần Văn Đức

TƯ PHÁP (TÒA ÁN)

Quyền tư pháp là quyền bảo vệ luật pháp, đảm bảo cho


pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật. Quyền tư pháp do tòa án và viện kiểm
sát tiến hành.

Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là


một hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà
nước để thực thi công lý, một cơ chế để giải quyết các
tranh chấp.

Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến cả quan


tòa ở các cấp, những người thiết lập nền móng cho một
bộ máy tư pháp và cả những người trợ giúp cho hệ
thống này hoạt động tốt. Tòa án là nơi diễn giải luật
nhưng không được tạo ra luật, vì vậy không được ban
hành các quyết định bao quát các vụ án thực có thể
được xét xử.

Trong chế độ đại nghị hành pháp và lập pháp có thể vừa
độc lập vừa ít nhiều có ảnh hưởng lẫn nhau. Thế nhưng
để đảm bảo công bằng trong việc thực thi công lí,
không thiên vị cho bất cứ cá nhân hay tổ chức nào, tư

69
Phản đề | Trần Văn Đức

pháp bắt buộc phải đứng độc lập hoàn toàn với hai cơ
quan còn lại.

Để thể hiện tính độc lập của mình, các thẩm phán không
được phép tham gia bất cứ đảng phái nào. Các thẩm
phán phải là người hiểu rõ luật pháp, đạo đức cũng như
văn hóa, phong tục của các vùng miền khác nhau trong
cả nước, để đảm bảo tính khách quan trong các quyết
định của mình.

Chính vì vậy, thẩm phán phải là người có nhiều năm


hoạt động trong ngành tư pháp, trước khi được mời làm
thẩm phán. Thẩm phán làm việc cho đến khi về hưu
(không có nhiệm kì) cũng như không phải chịu trách
nhiệm của mình trong và sau xét xử. Những ưu tiên này
giúp cho thẩm phán không phải chịu áp lực tâm lí nào
trong quá trình xét xử, để có thể ra quyết định một cách
khách quan và công tâm nhất.

Thẩm phán cũng còn gọi là quan toà, là người thực hiện
quyền xét xử chính trị tại một phiên tòa. Có thể là chủ
tọa một mình hoặc là một thành phần trong hội đồng xét
xử gồm nhiều thẩm phán. Thẩm phán thực hiện xét xử
một cách không thiên vị tại các phiên tòa công khai.

70
Phản đề | Trần Văn Đức

Thẩm phán nghe những người làm chứng và các bên


trong vụ án trình bày chứng cứ, đánh giá mức độ xác
thực của các bên, và sau đó đưa ra phán quyết về các
vấn đề đã trình bày, dựa trên việc giải thích pháp luật và
đánh giá chủ quan của mình.

Để đảm bảo tính khách quan, thẩm phán có người nhà


liên quan tới vụ việc hoặc thẩm phán có tham gia quá
trình điều tra, sẽ không được quyền tham gia xét xử vụ
án đó.

71
Phản đề | Trần Văn Đức

THỂ CHẾ CỦA CÁC NƯỚC DÂN CHỦ

“Thể chế tốt là thể chế giúp cho nhân cách con người
tốt lên, còn thể chế xấu là thể chế làm tha hóa con
người ta”

Đầu tiên chúng ta cần phân biệt, như thế nào thì được
gọi là một đất nước dân chủ, và như nào thì được gọi là
một đất nước độc tài.

Thực ra cũng rất dễ hiểu, nước dân chủ là nước mà


nhân dân có thể kiểm soát được chính quyền. Ngược lại,
nếu nhân dân không thể kiểm soát được chính quyền thì
được gọi là nước độc tài.

Thông qua “định lý bất toàn” và câu chuyện “Phải sống


cùng sói hoặc sư tử, cuối cùng bầy cừu đã lựa chọn ra
sao?”, chúng ta biết rằng, chế độ độc đảng thì người
dân không thể kiểm soát được đảng đó, và như vậy nó
tương ứng với chế độ độc tài. Ngược lại chế độ đa đảng
cho phép người dân (có thể có cơ hội) kiểm soát được
các đảng, và như vậy nó là điều kiện tiên quyết để tiến
tới chế độ dân chủ (để tiến tới dân chủ chúng ta cần
thêm nhiều điều kiện khác nữa).

72
Phản đề | Trần Văn Đức

Hãy khảo sát một ví dụ nữa để hiểu tại sao đa đảng lại
giúp đất nước phát triển so với độc đảng.

Tại tập đoàn Microsoft, nhân viên được phục vụ cả bữa


trưa lẫn bữa tối. Tuy nhiên, số lượng người ăn trưa luôn
đông hơn ăn tối, bởi lẽ không phải ai cũng phải làm việc
ngoài giờ. Do đó, nhà cung cấp bữa trưa sẽ có lợi hơn.

Nhưng có một vấn đề phát sinh, nhân viên Microsoft


phàn nàn rằng, chất lượng bữa trưa ở đây rất tệ.

Nhiều người yêu cầu nhà bếp đổi công thức nấu ăn,
thay đầu bếp thường xuyên... Nhưng Microsoft cho rằng
chúng không phải là giải pháp hiệu quả. Thay vào đó,
tập đoàn này đã lựa chọn 2 nhà cung cấp khác nhau cho
bữa trưa và bữa tối. Cứ 3 tháng một lần, họ sẽ khảo sát
xem nhân viên thích bữa trưa hay bữa tối hơn. Nếu câu
trả lời là "bữa tối" nhiều hơn, tập đoàn sẽ đổi nhà cung
cấp bữa tối lên bữa trưa.

Kể từ ngày đó, các nhà cung cấp đều cố gắng cải thiện
để đáp ứng khẩu vị nhân viên. Sự hài lòng của nhân
viên cũng tăng lên rất nhiều.

73
Phản đề | Trần Văn Đức

Bài học rút ra: Khi gặp phải vấn đề này, người bình
thường sẽ nhắc nhở hoặc đổi hẳn nhà cung cấp. Tuy
nhiên, những bộ óc hàng đầu ở Microsoft lại tư duy
khác hẳn: Họ tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa 2 nhà cung
cấp bữa trưa và bữa tối, để họ giám sát lẫn nhau. Nhờ
đó, dịch vụ cũng trở nên tốt hơn nhiều.

Như vậy đa đảng có hai tác dụng:

1. Đa đảng cho ta có nhiều lựa chọn thay thế, nếu


đảng này làm không tốt sẽ có đảng khác lên thay.

Khác hẳn với độc đảng, chúng ta hoàn toàn không


có lựa chọn để thay thế. Vậy nếu đảng đang lãnh
đạo làm không tốt, thì cũng đành chịu để họ lãnh
đạo đất nước. Như vậy sẽ kéo lùi sự phát triển của
đất nước và chính người dân chúng ta phải chịu khổ
chứ không phải ai khác.
2. Đa đảng thì các đảng sẽ tự giám sát lẫn nhau, vì
quyền lợi, lợi ích của mỗi đảng.
Người dân lúc này đóng vai trò như ông chủ, dựa
vào kết quả thực tế và kết quả các đảng phái tố giác
lẫn nhau, để lựa chọn đảng phái hợp với ý mình
lãnh đạo đất nước trong nhiệm kì kế tiếp.

74
Phản đề | Trần Văn Đức

Còn với độc đảng, người dân không được quyền lựa
chọn đảng, vì vậy việc giám sát đảng trở thành một
công việc nhọc nhằn hơn nhiều, so với việc lựa chọn
đảng. Một vấn đề nữa là, người dân giám sát đảng
cũng chẳng được lợi gì, mà nhiều khi còn chịu thiệt
vào thân. Vậy nên nói dân giám sát nhưng thực tế là
không bao giờ có, bởi vì “cha chung không ai
khóc”.
Tóm lại, đa đảng giúp cho người dân chuyển từ
giám sát sang lựa chọn đảng, một công việc dễ
dàng, hiệu quả hơn nhiều.
Như vậy, chúng ta đã hiểu là các nước dân chủ là như
thế nào và ích lợi của nó. Thế nhưng, thể chế của các
nước dân chủ cũng hết sức đa dạng, mỗi nước có một
đặc thù riêng, phù hợp với lịch sử hình thành và văn hóa
con người tại các nước ấy.

Nhìn chung, nó đi theo ba dạng chế độ khác nhau:

1. Chế độ tổng thống, điển hình là Mỹ.

2. Chế độ đại nghị, điển hình là Nhật Bản, Singapo,


Anh, Đức, ...

75
Phản đề | Trần Văn Đức

3. Chế độ bán tổng thống, là một dạng lai giữa chế độ


đại nghị và tổng thống. Điển hình là Pháp.

Tất cả các chế độ dân chủ đều có hai đặc điểm không
thể thiếu về cấu tạo bộ máy nhà nước sau đây:

1. Chúng đều do hệ thống đa đảng tạo thành.

2. Hệ thống tư pháp (tòa án) của các nước dân chủ hoạt
động độc lập với hai nhánh còn lại là lập pháp (quốc
hội) và hành pháp (chính phủ).

Để làm được điều này các thành viên của cơ quan tư


pháp bắt buộc phải trung lập, khách quan và không là
thành viên của bất cứ đảng phái nào.

Thực ra, không phải chỉ mình tư pháp mới không được
tham gia đảng phái, mà toàn bộ cơ quan hành chính, trừ
chính phủ (do thủ tướng và các bộ trưởng thành lập ra
hay gọi nội các cũng được), phần còn lại đều phải giữ
lập trường trung lập, không được tham gia bất kì đảng
phái nào. Nhằm đảm bảo rằng, bất kì đảng nào lên lãnh
đạo đất nước họ đều hết sức phục vụ, không thiên vị
đảng phái nào cả. Quân đội, cảnh sát cũng vậy, tuyệt
đối không được tham gia vào đảng phái, hoàn toàn

76
Phản đề | Trần Văn Đức

trung lập. Họ được giao trách nhiệm bảo vệ tổ quốc và


an ninh trật tự, chứ không phải phục vụ, cung phụng
cho bất kì đảng nào.

Thiếu một trong hai điều trên thì không còn là chế độ
dân chủ nữa, mà nó sẽ chuyển dần sang chế độ độc tài,
tùy từng mức độ. Đối với các nước độc đảng, họ độc tài
bằng cách bắt ép các thành viên của cơ quan tư pháp
phải là đảng viên của đảng cầm quyền, để nó có thể
thao túng cơ quan tư pháp.

Bạn hãy tưởng tượng thế này, trên một sân bóng, một
bên là nhân dân, một bên là cơ quan nhà nước (người
đứng sau điều hành cơ quan nhà nước này là thành viên
của đảng cầm quyền), bây giờ trọng tài cũng là người
thuộc đảng đó, tức là họ có quyền vừa đá bóng vừa thổi
còi. Vậy thì trận đấu có còn công bằng nữa không. Chắc
chắn nhân dân sẽ là người chịu thiệt thòi.

Thực ra là còn một thứ nữa được xem là nhánh quyền


lực thứ tư trong nền dân chủ, đó là: tự do báo chí. Nếu
báo chí không được tự do tức là phải chịu sự sắp đặt và
kiểm duyệt nội dung từ một thế lực nào đó. Thì báo chí
đã mất đi cái quyền truyền tải sự thật đến người dân.

77
Phản đề | Trần Văn Đức

Mà chỉ là công cụ tuyền truyền một chiều (nhồi sọ


người dân), nịnh bợ thế lực kiểm soát họ. Người dân
cũng mất đi cộng cụ nhận thức đúng sai trong tình hình
hiện tại, và do phán đoán sai (nguyên nhân là bị tuyên
truyền, định hướng) mà tự nguyện làm theo ý của thế
lực độc tài. Thậm trí còn tung hô thế lực độc tài như ân
nhân cứu giúp mình. Như vậy mức độ tự do báo chí,
cũng là một trong những thước đo quan trọng, để đánh
giá mức độ dân chủ của một quốc gia.

78
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪNG CHẾ ĐỘ

Chế độ tổng thống:

Ba cơ quan lập pháp (quốc hội), hành pháp (cơ quan


hành chính đứng đầu là tổng thống), tư pháp (tòa án)
hoạt động hoàn toàn độc lập với nhau, tức là tam quyền
phân lập. Và ba cơ quan này cũng có tác dụng kiềm chế
lẫn nhau, mục đích là để không cho cơ quan nào trở nên
quá mạnh và dẫn đến lạm quyền.

Lý thuyết là vậy nhưng thực ra nó cũng không hiệu quả


lắm.

Đặc thù: Tổng thống được toàn dân bỏ phiếu bầu ra


nên có quyền lực rất lớn và mang tính biểu tượng cho
đất nước rất cao. Các chính sách được tổng thống quyết
định một cách nhanh chóng.

Trong thời kì đất nước có biến động lớn, chế độ tổng


thống tỏ ra khá hiệu quả.

Chế độ đại nghị:

79
Phản đề | Trần Văn Đức

Hai cơ quan lập pháp, hành pháp (đứng đầu là thủ


tướng) không độc lập với nhau như chế độ tổng thống,
trong khi cơ quan tư pháp hoàn toàn độc lập với hai cơ
quan kia. Bạn có thể hiểu chế độ đại nghị là chế độ
lưỡng quyền phân lập cũng được.

Đặc thù: Người đứng đầu cơ quan hành pháp là thủ


tướng do quốc hội bầu ra. Như vậy, đảng có số ghế
nhiều nhất trong quốc hội sẽ nắm quyền quyết định. Nói
một cách dễ hiểu thì đảng có số ghế nhiều nhất trong
quốc hội, sẽ chỉ định người làm thủ tướng, và thường
thì thủ tướng cũng chính là người lãnh đạo đảng đó.

Do đó, gần như chính sách gì của nhà nước cũng phụ
thuộc vào quốc hội, vậy nên có tính dân chủ cao hơn.

Nhưng ngược lại, việc thông qua chính sách khá chậm
so với chế độ tổng thống. Chế độ đại nghị thường phù
hợp với một đất nước hòa bình và ổn định.

Một điều nữa, thủ tướng là người điều hành cơ quan


hành chính do đảng bầu ra, nên không mang tính đại
diện cho đất nước. Thông thường thì ở những nước theo
thể chế đại nghị, sẽ có một hội đồng sẽ chịu trách nhiệm

80
Phản đề | Trần Văn Đức

bỏ phiếu bầu ra một người đại diện cho đất nước nhưng
không có thực quyền, hoặc người đại diện này theo thể
thức cha truyền con nối.

Người đại diện cho đất nước là tổng thống, ví dụ:


Singapo, Đức,… hoặc người đại diện là quốc vương
theo thể thức cha truyền con nối (chế độ quân chủ lập
hiến, một dạng của chế độ đại nghị), ví dụ: Nhật hoàng
của Nhật Bản, Nữ hoàng của nước Anh, …

Ở Việt Nam, người nắm quyền là thủ tướng, người đại


diện là chủ tịch nước, khá giống với chế độ đại nghị.
Tôi nói là khá giống thôi, bởi vì ở Việt Nam chỉ có một
đảng hoạt động và cơ quan tư pháp bị khống chế bởi
Đảng Cộng sản, vi phạm cả hai điều cơ bản của một thể
chế dân chủ nên nó không thể là chế độ đại nghị.

81
Phản đề | Trần Văn Đức

Chế độ bán tổng thống:

Đây là chế độ lai giữa chế độ tổng thống và chế độ đại


nghị. Tổng thống do dân bầu lên, thủ tướng do quốc hội
bầu, cả hai đều có quyền lực ngang nhau và cơ chế cân
bằng quyền lực khá phức tạp. Tuy phức tạp nhưng độ
hiệu quả lại không tương xứng với độ phức tạp đó, vậy
nên chúng ta sẽ bỏ qua chế độ này.

Nhược điểm của chế độ dân chủ:

Chế độ dân chủ, mặc dù là kết quả sau hàng nghìn năm
đấu tranh của nhận thức nhân loại, với biết bao nhà tư
tưởng vĩ đại đã góp sức tạo nên nó. Nói không ngoa,
chế độ dân chủ là chế độ tốt nhất mà chúng ta có được
đến bây giờ. Thế nhưng nó cực kì mỏng manh, chỉ cần
cơ chế kiểm soát có một chút bất ổn, ví dụ: nội chiến
chẳng hạn, thì ngay lập tức lạm quyền có thể xảy ra và
đưa đất nước trở lại thời kì độc tài. Vậy nên để đất nước
có dân chủ là một phần, bảo vệ được nền dân chủ đó lại
là chuyện khác.

82
Phản đề | Trần Văn Đức

Chế độ tổng thống có nhược điểm như sau:

Đó là quyền lực của chức vụ tổng thống quá lớn, rất khó
để kiểm soát. Chỉ cần trong nước có một chút bất ổn,
tổng thống có thể lợi dụng điều đó để gia tăng quyền
lực cho mình, tiến đến độc tài. Vậy nên nó không thích
hợp với những nước mới chuyển từ độc tài sang dân
chủ.

Bởi vì dưới sự bưng bít thông tin của chế độ độc tài cũ,
nhận thức về dân chủ của người dân là rất thấp, và
thường thờ ơ với chính trị. Người lãnh đạo mới của đất
nước hoàn toàn có thể lợi dụng sự thờ ơ đó để chiếm
quyền lực, đưa đất nước trở lại độc tài một lần nữa.

Trong thực tế, chế độ tổng thống chỉ hoạt động ổn định
ở những nước có nền dân chủ lâu đời, ví dụ như Mỹ
chẳng hạn. Trên thế giới, có rất nhiều tổng thống lợi
dụng quyền lực của mình để tham quyền cố vị, để trở
nên độc tài, ví dụ Tổng thống Putin của Nga. Ông làm
Tổng thống Nga từ năm 2000 – 2008, sau đó lại tiếp tục
làm Tổng thống từ 2012 và dự định đến năm 2024 mới
kết thúc. Tức là nếu không có gì thay đổi, Putin có thể
làm tổng thống 20 năm. Một điều nữa, kết quả bỏ phiếu

83
Phản đề | Trần Văn Đức

tín nhiệm của ông năm nào cũng cao đến mức khó tin.
Trong khi nước Mỹ, đa số các tổng thống chỉ làm tổng
thống không quá 8 năm.

Một nhược điểm nữa là nhiệm kì tổng thống thường kéo


dài từ 4 - 6 năm, và trong khoảng thời gian đó rất khó
để thay thế hay lật đổ họ, bởi quyền lực của họ rất lớn.
Vì vậy nên, nếu như đất nước bầu lên một tổng thống
ngu dốt và bất tài, thì đất nước đó sẽ phải chịu đựng
trong ít nhất 4 - 6 năm mới có thể thay thế được họ.
Chừng đó thời gian là đủ để một tổng thống bất tài phá
nát đất nước mà nhiều năm sau chưa chắc đã có thể
khắc phục được.

Tổng thống Philippines, Duterte là một ví dụ điển hình,


những câu phát ngôn của ông khiến ai cũng phải bật
cười và tự hỏi, đó có phải là một lãnh đạo quốc gia hay
không? Còn chính sách của ông thì chỉ khiến cho đất
nước Philippine thụt lùi.

Nếu một đất nước dưới sự lãnh đạo của tổng thống độc
tài và ngu dốt, thì đó là một thảm họa cho đất nước.
Venezuela là một ví dụ khác, dưới sự lãnh đạo của
Tổng thống Hugo Chávez và sau này là Nicolás

84
Phản đề | Trần Văn Đức

Maduro, Venezuela từ một đất nước phát triển hàng đầu


thế giới, trở thành đất nước mà người dân phải bới rác
để ăn qua ngày. Một đất nước mà chỉ số lạm phát có thể
lên tới 1.000.000% một năm (một triệu %) thì đất nước
đó làm sao có thể phát triển được?
Trên thế giới cũng có một vài nhà lãnh đạo độc tài tận
tâm vì đất nước, nhưng tỉ lệ này cực kì thấp. Nếu áp
dụng chế độ độc tài để mong chờ vào một minh quân
như thế, thì tỉ lệ rủi ro quá lớn, đến mức không thể chấp
nhận được.
Cựu Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-hee là một ví
dụ, tuy là người độc tài, nhưng trong vòng 20 năm ông
đã đưa Hàn Quốc từ một đất nước nghèo nàn trở thành
một đất nước hàng đầu Châu Á. Ông nổi tiếng với câu
nói: “Tôi sẽ bắn chết kẻ nào ăn trộm của công dù chỉ
một đồng”.
Và bạn đừng mong chờ Việt Nam sẽ có một người như
vậy xuất hiện.
Vì những khuyết điểm trên, chúng ta không nên chọn
chế độ tổng thống làm chế độ áp dụng cho đất nước sau
này.

85
Phản đề | Trần Văn Đức

Nhược điểm của chế độ đại nghị:

Trong chế độ đại nghị xảy ra hai trường hợp.

1. Đó là, nếu không có một đảng nào chiếm ưu thế để


thành lập chính phủ và điều hành đất nước, tình trạng bế
tắc chính trị có thể xảy ra.

Tức là, có nhiều đảng mà mỗi đảng chỉ chiếm 15 – 20%


số ghế quốc hội, không đủ điều kiện để thành lập chính
phủ. Như vậy sẽ tạo nên một chính phủ yếu, rất dễ sụp
đổ, và không thể điều hành đất nước.

2. Một đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội, tức là


quyền lực của đảng đó rất lớn và có thể lợi dụng điều đó
để chèn ép các đảng khác, không cho họ có ghế quốc
hội trong những lần bầu cử sau.

Tức là, nếu một đảng nào đó chiếm ưu thế quá lớn,
cũng rất dễ có xu hướng độc tài.

Đất nước Campuchia cũng vừa trải qua một cuộc bầu
cử Quốc hội vào giữa năm 2018. Trong đó có khoảng
20 đảng tham gia tranh cử. Thế nhưng, đảng của Thủ
tướng Hun Sen chiếm trọn 100% ghế Quốc hội, bạn
hiểu như vậy là thế nào rồi đấy.

86
Phản đề | Trần Văn Đức

Việc có một đảng nào đó chiếm số ghế vừa đủ để thành


lập chính phủ, để điều hành đất nước, khá khó xảy ra.
Vậy nên các đảng trong chế độ đại nghị có xu hướng
liên minh lại với nhau để thành lập chính phủ, nhưng
theo tôi đây cũng chỉ là phương pháp tạm thời. Bởi vì
khi liên minh tức là phải ràng buộc, ràng buộc trong
chính sách điều hành đất nước, ràng buộc trong đường
lối của đảng...

Trong quyển sách này, tôi đề nghị một phương pháp


khác, nhưng sẽ được trình bày ở phần sau.

Chúng ta hiện tại đang là một đất nước độc tài,


tương lai sẽ có dân chủ. Khi đó chúng ta sẽ phải lựa
chọn thể chế của mình.

Là một đất nước nghèo nàn lạc hậu do chế độ độc


tài gây ra, tương lai để đuổi kịp các nước phát triển,
bắt buộc chúng ta phải lựa chọn thể chế tốt nhất mà
hiện tại con người có thể nghĩ ra. Bởi một khi đã
lựa chọn thể chế cho đất nước mình, bạn sẽ không
thể thay đổi hoặc phải đợi rất lâu để thay đổi thể
chế đó. Vì vậy nếu lựa chọn sai sẽ là một mất mát
rất lớn cho dân tộc.

87
Phản đề | Trần Văn Đức

Thế nhưng, là một nước đi sau, nó cho phép mọi


người có thể bình tâm suy nghĩ, để lựa chọn chế độ
nào phù hợp nhất cho dân tộc mình.

Nhưng nếu không suy nghĩ sớm thì cũng sẽ là quá


muộn.

Với mất mát hiện tại của Việt Nam, chúng ta không
thể thay thế cái sai này bằng một cái sai khác được
nữa. Vì vậy tôi mong bạn đọc sau khi đọc quyển
sách này của tôi, hãy sớm suy nghĩ, bàn bạc và lựa
chọn sớm chế độ tương lai cho chúng ta bằng
những lí luận logic cũng như thực tiễn.

Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ


máu, đừng để đến khi cần đến rồi mới lo chuẩn bị.

88
Phản đề | Trần Văn Đức

LỰA CHỌN THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ


CHO VIỆT NAM TƯƠNG LAI

(ĐẠI NGHỊ, TẢN QUYỀN)

Ngoài những ưu điểm của thể chế đại nghị đã được nêu
ở phần trước ra, thì còn một điều nữa, đó là thể chế của
Việt Nam hiện tại rất gần với thể chế đại nghị. Chỉ cần
cho phép đa đảng là đã giống chế độ đại nghị đến 90%
rồi, toàn bộ bộ máy hành chính có thể giữ nguyên, và
thay thế từ từ trong thời gian dài.

Như vậy ta thấy rằng việc chuyển từ thể chế độc tài hiện
nay sang chế độ đại nghị, là sự chuyển đổi êm đềm, ít
gây xáo trộn (tổn hại ban đầu) cho xã hội nhất, nếu so
với sự chuyển tiếp sang các dạng thể chế khác. Chính vì
nó ít gây xáo trộn nên nó có thể đảm bảo an toàn cũng
như tài sản cho các lãnh đạo đảng Cộng sản hiện tại,
vậy nên nó cũng dễ được Đảng Cộng sản và nhân dân
chấp nhận nhất, về mặt lý thuyết.

Tại sao tôi nói là về mặt lý thuyết, bởi vì là đa số người


dân Việt Nam có ấn tượng mạnh rằng, chỉ có chế độ
tổng thống với tam quyền phân lập (họ cũng chưa thực

89
Phản đề | Trần Văn Đức

sự hiểu tam quyền phân lập hoạt đông như thế nào) mới
có thể chống độc tài, tham nhũng. Thậm chí họ còn
chưa biết là ngoài chế độ tổng thống còn nhiều dạng thể
chế dân chủ khác.

Lí do người Việt Nam có nhận thức kém vậy là vì họ bị


ảnh hưởng mạnh bởi nước Mỹ. Họ bị choáng ngợp với
sự thành công của nước Mỹ dưới chế độ tổng thống, mà
không biết rằng, ngay bên cạnh nước họ cũng đầy rẫy
những đất nước thành công dù không theo chế độ tổng
thống, như: Singapore, Nhật Bản, Indonesia, Malaysia,
hay thậm chí là Thái Lan…

Một vấn đề nữa là người dân Việt Nam thực sự hiểu


biết về chính trị rất thấp, nếu không muốn nói là gần
bằng không. Lí do là bởi vì sự tuyên truyền, nhồi sọ của
Đảng Cộng sản khiến họ cảm thấy sợ khi bàn về chính
trị. Kiến thức về chính trị của người dân đã ít lại còn bị
méo mó dưới sự xuyên tạc của Đảng Cộng sản.

Vậy nên, nếu sau này tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý
để lựa chọn thể chế thì đa số sẽ lựa chọn thể chế tổng
thống, hoặc ít nhất là sẽ ủng hộ số đông cho một đảng

90
Phản đề | Trần Văn Đức

lựa chọn thể chế tổng thống cho đường lối chính trị của
mình.

Tôi có thể khẳng định luôn rằng nếu lựa chọn thể chế
tổng thống, với mức độ hiểu biết về chính trị của người
dân thấp như hiện nay, thì chắc chắn sẽ tạo kẽ hở cho
một thể chế độc tài khác mà thôi (từ độc tài độc đảng
sang độc tài cá nhân “tổng thống nắm trọn quyền lực”).

Cũng có thể hình dung luôn rằng, đất nước sẽ sáng sủa
hơn hiện tại một chút, nhưng vẫn bất công và tụt hậu so
với các nước khác, bởi mức độ dân chủ chỉ nhỉnh hơn
một chút so với hiện nay. Kết quả là sinh viên và tầng
lớp trí thức lại lũ lượt đi biểu tình để phản đối chính
sách của tổng thống này hay tổng thống khác. Quá trình
chuyển đổi đầy máu này có thể phải mất đến 30 năm
trước khi đạt đến dân chủ thực sự, một chế độ tổng
thống thực sự vì dân.

Đây không phải là do tôi tưởng tượng ra, mà là thực tế


các nước chuyển đổi sang thể chế tổng thống đã trải
qua, như Hàn Quốc, Đài Loan trước khi có dân chủ thực
sự cách đây không lâu. Hàng loạt các nước châu Phi
theo chế độ tổng thống cuối cùng bị chuyển về độc tài

91
Phản đề | Trần Văn Đức

cá nhân trị dưới cái mác chế độ tổng thống. Kể cả Nga


hay Venezuela cũng đang phải khổ sở dưới chế độ độc
tài giả danh tổng thống, và không biết khi nào mới thoát
được.

Thế nhưng có một điều khiến tôi lạc quan là, với sự
chuyển đổi dần dần từ độc tài độc đảng sang đa đảng
khó có khả năng để Việt Nam chúng ta đi theo thể chế
tổng thống, trừ khi có một biến động dữ dội làm xáo
trộn đất nước.

Tuy nhiên vì thể chế đại nghị không phân biệt rõ ràng
lập pháp và hành pháp nên để tránh những điều luật vi
phạm vào quyền con người chúng ta phải có một bản
hiến pháp rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ.

Tiếp theo chúng ta định hướng quốc gia Việt Nam sẽ là


quốc gia như thế nào?
“Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu
tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một
lãnh thổ có chủ quyền, có một chính quyền và những
con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn
bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn
giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc,

92
Phản đề | Trần Văn Đức

và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như
lịch sử lập quốc đó cùng chịu sự chi phối của chính
quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng như hiện
tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên
vùng lãnh thổ có chủ quyền.”

Theo Wikipedia

Quốc gia của Việt Nam tương lai không phải là quốc
gia của riêng một dân tộc, tổ chức, đảng phái nào, mà
quốc gia Việt Nam là của chung tất cả mọi người có
cảm tình với Việt Nam hoặc là công dân của Việt Nam.

Ở đây có bốn ý chính:

1. Bất kì người nước ngoài nào có cảm tình với đất


nước Việt Nam, muốn đóng góp cho lợi ích, cho
quốc gia Việt Nam nói chung, thì đều được nồng
nhiệt chào đón, đối xử như người một nhà, không kì
thị. Trừ quyền bầu cử và mua đất ở Việt Nam (họ có
thể mua chung cư) bởi không ai biết tự đáy lòng con
người như thế nào, đề phòng là cách tốt nhất cho cả
chúng ta và người nước ngoài.

93
Phản đề | Trần Văn Đức

2. Trong đất nước Việt Nam thì mọi người đều được
đối xử bình đẳng như nhau, không phân biệt chủng
tộc, vùng miền. Tất cả mọi dân tộc trong quốc gia
đều được nhìn nhận công bằng như nhau, được
khuyến khích tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của dân
tộc mình.

Đất nước Việt Nam tuyệt đối không phải là đất nước
của riêng một dân tộc nào. Không một dân tộc nào
trong đất nước được quyền áp đặt lối sống, văn hóa
của dân tộc mình lên dân tộc khác.
Chỉ có nhìn nhận một cách thẳng thắn, công bằng,
tôn trọng lẫn nhau, chúng ta mới có thể hòa giải,
hòa hợp và tiến tới một tương lai chung.
3. Đã là công dân Việt Nam, vì một lí do nào đó mà
đang sinh sống tại nước ngoài, thì họ vẫn là công
dân Việt Nam. Họ có đầy đủ đặc quyền của một
công dân Việt Nam, như tất cả mọi người.
4. Đã là công dân Việt Nam nhưng nếu phạm tội thì
họ cũng vẫn là công dân Việt Nam, không ai có
quyền tước bỏ dòng máu đang chảy trong người họ.
Và vì tước bỏ quốc tịch của họ, mà con cháu của họ

94
Phản đề | Trần Văn Đức

sau này sinh ra không phải là người Việt Nam nữa


là tuyệt đối sai, không ai có quyền làm vậy.

Họ chỉ không là công dân Việt Nam khi họ tự ý từ


bỏ quốc tịch Việt Nam, và điều đó chỉ đúng với cá
nhân họ, nó hoàn toàn không áp dụng với người
thân của họ.
Chỉ có thực hiện được những điều này thì từng công
dân Việt Nam mới có cảm giác nơi đây là quê hương, là
nhà của họ. Và sẽ cố gắng giữ gìn, cũng như đóng góp
cho sự phát triển ngôi nhà chung này trong niềm tự hào,
hân hoan.

95
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 3
THỂ CHẾ VÀ HỆ THỐNG
BẦU CỬ NÀO LÀ PHÙ
HỢP CHO VIỆT NAM

Việc lựa chọn thể chế và hệ thống bầu cử phù hợp cho
Việt Nam tương lai là một việc vô cùng hệ trọng, bởi
nó là yếu tố chính quyết định sự thịnh vượng và văn
minh của một đất nước. Vì vậy cần được thảo luận và
suy nghĩ cẩn thận trước khi đưa ra lựa chọn. Trong mục
này cũng giải thích vì sao những gì mà chúng ta nguyện
ý đấu tranh để đất nước phát triển, là có cơ sở vững
chắc chứ không phải là một ước mơ viễn vông như
Đảng Cộng sản từng vẽ ra “làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu”.

96
Phản đề | Trần Văn Đức

Nếu ví thể chế giống như thể xác, thì hệ thống bầu cử
lại giống như tinh thần (tâm trí) của con người vậy, tuy
có thể phân biệt nhưng lại không thể tách rời nhau. Vì
vậy, việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng quan trọng
không kém việc lựa chọn thể chế chính trị cho một quốc
gia. Thậm chí, tôi đánh giá rằng lựa chọn hệ thống bầu
cử khó khăn hơn lựa chọn thể chế.

Phần viết này được trình bày với quy ước ngầm rằng,
“người đọc đã thống nhất quan điểm Viêt Nam tương
lai phải là một thể chế đa nguyên đa đảng”, và phần này
chỉ là lựa chọn hệ thống thể chế và bầu cử phù hợp với
Việt Nam nhất, trong điều kiện đa đảng được chấp
thuận ở Việt Nam.

I. Lựa chọn thể chế.


Đa số người dân ở nước ta nghĩ rằng, thể chế ở các
nước Tư bản (phe Cộng sản hay gọi như vậy) đa số là
thể chế tổng thống, lí do là vì hình ảnh quá lớn của siêu
cường Hoa Kỳ, và do yếu về kiến thức chính trị, nên
người dân không biết đến thể chế nào khác ngoài thể
chế tổng thống cả.

97
Phản đề | Trần Văn Đức

Thực ra chúng ta có rất nhiều thể chế khác nhau nhưng


tựu chung lại thì được chia thành 3 loại chính:

- Tổng thống chế: điển hình là Mỹ, Indonesia,


Philippines, hay Việt Nam Cộng Hòa….

- Đại nghị chế: điển hình là Nhật Bản, Singapore,


Anh quốc, Đức, Israel…

- Bán tổng thống (hay thể chế lai): Đây là dạng thể
chế lai giữa tổng thống chế và đại nghị chế, với mục
địch là tận dùng ưu điểm của hai loại thể chế trên. Thế
nhưng nó lại dẫn đến sự chồng chéo chức năng và
quyền lực giữa tổng thống và thủ tướng, cuối cùng lại
trở nên phức tạp và nhiêu khê. Chúng ta sẽ loại bỏ thể
chế này. Điển hình của thể chế này là: Pháp, Hàn Quốc,
Nga, Đài Loan…

Chúng ta cũng sẽ đi đến ba nhánh quyền lực chính trong


một thể chế:

- Lập pháp (quốc hội): Đây là cơ quan được người


dân trực tiếp bầu lên, các thành viên được gọi là nghị sĩ
hoặc dân biểu (hay đại biểu quốc hội). Làm việc theo
kiểu hội nghị. Chức năng chính là đề xuất và thông qua

98
Phản đề | Trần Văn Đức

các điều luật (làm luật). Văn bản quyền lực thứ hai chỉ
đứng dưới hiến pháp của nước đó.

- Hành pháp (chính phủ): Là cơ quan có chức năng đề


xuất, khởi xướng việc hoạch định chính sách và điều
hành chính sách. Đảm bảo an ninh trật tự trong cộng
đồng. Hành pháp cũng có quyền ra các văn bản có
quyền lực dưới luật. Ví dụ: lập ra các quy định.

- Tư pháp (toà án): là một hệ thống tòa án nhân danh


quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ
chế để giải quyết các tranh chấp.

ð Dễ hiểu thì thế này: Lập pháp được quyền làm


luật nhưng lại không được quyền sử dụng luật. Tư
pháp được quyền sử dụng luật để thực thi công lý,
nhưng lại không có quyền làm luật. Hành pháp
không có quyền làm luật nhưng lại có quyền lập
quy và ra chính sách, miễn sao chúng không được
trái với luật đã đề ra. Đây được gọi là tam quyền
phân lập mà nhiều người hay nhắc tới.

99
Phản đề | Trần Văn Đức

Vậy thì hành pháp được lập ra như thế nào?

Người đứng đầu hành pháp nếu như được người dân cả
nước trực tiếp bầu ra, họ sẽ có quyền lực rất lớn. Và chỉ
chịu trách nhiệm trước nhân dân, người này được gọi là
tổng thống. Thể chế với cách thành lập cơ quan hành
pháp như thế này được gọi là thể chế tổng thống.

Người đứng đầu hành pháp nếu như được quốc hội bầu
ra thì được gọi là thủ tướng. Vậy nên hành pháp ở thể
chế này chịu trách nhiệm trước quốc hội, do đó cũng
một phần phải phụ thuộc vào quốc hội. Đây được gọi là
thể chế đại nghị

ð Tóm lại thể chế tổng thống hay đại nghị là cách
gọi để phân biệt cách mà cơ quan hành pháp được
lập ra như thế nào.

Tư pháp bầu thẩm phán (hay quan tòa): Những người


làm trong ngành tư pháp, đủ tiêu chuẩn theo quy định,
nếu muốn sẽ được đưa vào danh sách trình lên quốc hội
tiến hành bỏ phiếu nếu thông qua sẽ trở thành thẩm
phán (nếu quốc hội lưỡng viện thì quyền bỏ phiếu bầu
thẩm phán sẽ thuộc thượng viện). Ở đây do thẩm phán

100
Phản đề | Trần Văn Đức

có rất nhiều đặc quyền, trong đó có quyền được hành


nghề cho đến khi sức khỏe không cho phép (nguyện ý
xin nghỉ) hoặc có bằng chứng vi phạm luật, nên không
lo thẩm phán sẽ phải phụ thuộc vào quốc hội, nơi bầu ra
họ.

Tòa bảo hiến: có chức năng bảo vệ hiến pháp. Tòa bảo
hiến có chức năng phủ quyết những điều luật mà quốc
hội đã thông qua, nếu như họ thấy rằng chúng vi phạm
hiến pháp. Tòa bảo hiến thường có 9 người, ở đây vì
vinh dự và trách nhiệm mà họ mang nên sẽ không do
quốc hội bỏ phiếu thông qua nữa. Mà chính người trong
cơ quan tư pháp bầu cử chọn ra, những người được bầu
vào tòa bảo hiến ít nhất đã làm thẩm phán được một số
năm quy định (giả sử 5 năm). Như vậy đây sẽ là danh
vọng cao nhất mà một người làm trong ngành tư pháp
có thể hướng đến.

Ở đây mục đích của tôi là: các thành viên muốn vào tòa
bảo hiến ngoài được đề cử ra còn được tự ứng cử, và chỉ
các thành viên liên quan đến tư pháp mới có quyền bầu
cho họ. Tức đây là chuyện nội bộ của cơ quan tư pháp.
Bằng cách này các thành viên thuộc cơ quan bảo hiến sẽ

101
Phản đề | Trần Văn Đức

độc lập với đảng phái và quốc hội, hoàn toàn không
chịu sự chi phối của quốc hội trong quá trình làm việc.

Hiến pháp: đây là văn bản quan trọng, quyền lực tối cao
của đất nước. Luật pháp do quốc hội thông qua phải
không được trái với hiến pháp. Tại sao nó lại quan trọng
đến mức cần phải có một tòa bảo hiến để bảo vệ nó. Tại
vì nó là đạo luật cơ bản nhất của một nhà nước, nó thể
hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân
nước đó.

102
Phản đề | Trần Văn Đức

HIẾN PHÁP

Chính là bản khế ước xã hội cơ bản nhất, là nền tảng


cho tất cả các thỏa ước khác của cộng đồng. Thông qua
hiến pháp, con người chính thức đánh đổi quyền tự do
tự nhiên để trở thành một công dân. Chính thức đánh
đổi một phần quyền tự do quyết định của mình vào tay
một số người cầm quyền để có được sự che chở của xã
hội, đại diện bởi luật pháp.

Để cho bản hợp đồng trao đổi này được công bằng,
trong khế ước xã hội cần phải định rõ nguyên tắc chọn
người cầm quyền. Nguyên tắc bình đẳng thể hiện ở chỗ
ai cũng có thể lên nắm quyền miễn là được đa số thành
viên ủng hộ. Về phía người cầm quyền, đối trọng với
quyền lực anh ta có, là những ràng buộc về trách nhiệm
với cộng đồng. Nếu người cầm quyền không hoàn thành
trách nhiệm của mình, bản hợp đồng của anh ta với
cộng đồng phải bị coi như vô hiệu, và cộng đồng phải
có quyền tìm ra một người thay thế mới. Việc hình
thành nên hiến pháp một cách dân chủ, tức là người dân
có quyền tham gia, thảo luận, đóng góp ý kiến và phê

103
Phản đề | Trần Văn Đức

chuẩn hiến pháp hay còn gọi là quyền phúc quyết hiến
pháp thông qua trưng cầu dân ý…

Hiến pháp phải là sự kết tinh của trí tuệ, đạo đức, văn
hóa, tâm linh của cả một dân tộc, do chính người dân
tạo ra thì người dân sẽ tự nguyện tuân thủ và bảo vệ bản
hiến văn đó. Tuy nhiên quyền lực là một thứ đáng sợ
nếu không được kiểm soát. Bất cứ đâu có quyền lực, thì
đều xảy ra nguy cơ lạm quyền, chuyên quyền, dù cho
người nắm quyền có là ai, đạo đức đến đâu, chính
quyền ở đó có một lý tưởng tốt đẹp thế nào. Do vậy, khi
nhà nước được người dân trao quyền quản lý xã hội,
hiến pháp phải ghi rõ giới hạn quyền lực của nhà nước,
và cơ chế giám sát những quyền lực đó, nhằm tránh
việc tập trung quyền lực vào tay một cá nhân hay một
nhóm người sẽ dẫn đến lạm quyền, chuyên quyền.

Trích: Con đường Việt Nam

Tác giả: Trần Huỳnh Duy Thức

104
Phản đề | Trần Văn Đức

Hiến pháp nên được chia làm hai phần một phần không
thể sửa đổi hoặc nếu muốn sửa đổi sẽ phải tiến hành
trưng cầu dân ý toàn quốc. Đó là những điều khoản liên
quan đến quyền cơ bản của con người, đã được ghi
trong Hiến chương Liên Hợp Quốc, đây là những quyền
thiêng liêng tối cao của con người. Phần thứ hai có thể
được bỏ phiếu thông qua với sự đồng thuận cao tại quốc
hội, giả sử là 80% thành viên quốc hội đồng ý thì mới
được thông qua việc bổ sung, chỉnh sửa điều khoản đó.
Việc lấy con số 80% hoàn toàn là có ý đồ sẽ nêu ở bên
dưới.

Cá nhân tôi chọn thể chế Đại nghị, tản quyền, lí do cơ


bản là vì:

- Thể chế này gần với thể chế của Việt Nam hiện tại
nhất, chính vì vậy quá trình chuyển đổi sẽ ít tạo ra bất
ổn, gây thiệt hại cho đất nước. Điều quan trọng là chúng
ta phải tạo được áp lực để ĐCS phải nhượng bộ, phải
thay đổi điều 4 Hiến pháp hiện hành, cho phép các đảng
phái khác được tự do thành lập và tham gia tranh cử
Quốc hội. Làm được điều này là chúng ta đã tiến được

105
Phản đề | Trần Văn Đức

một bước rất dài trong quá trình chuyển đổi thành thể
chế đại nghị rồi.

Việc tiếp theo là để cơ quan tư pháp (tòa án) hoạt động


độc lập với hai cơ quan còn lại là lập pháp (quốc hội),
hành pháp (cơ quan hành chính đứng đầu là chính phủ).
Việc cuối cùng là tách quân đội ra khỏi đảng phái để có
thể đứng trung lập, không nghiêng về bất cứ đảng phái
nào.

Điều này khác với tổng thống chế. Cuộc chuyển đổi từ
thể chế hiện tại sang chế độ tổng thống sẽ phải toàn
diện hơn, do tổng thống chế có cấu trúc khác rất nhiều
so với chế độ hiện tại. Do vậy quá trình chuyển đổi sẽ
khó khăn hơn, trong trường hợp nếu có chuyển đổi sẽ
gây ra nhiều xáo trộn trong xã hội hơn, nên khó được
chấp nhận.

- Thể chế tổng thống không ổn định bằng chế độ đại


nghị, bởi nó trao quá nhiều quyền lực cho một cá nhân
“Tổng thống”, trong đó có vai trò là tổng tư lệnh quân
đội (có thể điều động quân đội). Vậy nên, nếu một khi
đất nước có biến cố xảy ra, tổng thống rất có thể sẽ
nhân cơ hội đó để đưa đất nước quay trở lại độc tài.

106
Phản đề | Trần Văn Đức

Trong tình thế mà ý thức về chính trị của người dân


Việt Nam còn thấp, chưa biết lo lắng và bảo vệ các
quyền của mình như hiện nay thì nỗi lo trên là hoàn
toàn thực tế. Đối với những đất nước có ý thức chính trị
cao thì tổng thống chế là ổn, nếu so với thể chế đại nghị
nó có những đặc sắc riêng của nó. Ví dụ: Trong trường
hợp đất nước gặp nhiều thách thức, lòng người tản mát
thì tổng thống với quyền hành pháp cao của mình tỏ ra
phản ứng nhanh hơn so với chế độ đại nghị, bởi vì tổng
thống do trực tiếp dân chúng bầu ra nên tính đại diện rất
cao. Thủ tướng trong thể chế đại nghị không có điều
này mặc dù quyền lực có thể tương đương. Thực tế trên
thế giới có rất ít nước áp dụng chế độ tổng thống mà
thành công, phần lớn đều quay trở lại chế độ độc tài, bởi
trình độ dân trí nước họ lúc đó chưa cao. Tuy nhiên với
dân trí cao thì lại có thể xóa nhòa những nhược điểm
đó, tại đây tổng thống chế hay đại nghị chế đều được.

- Tổng thống chế thường có giới hạn nhiệm kì làm Tổng


thống đối với mỗi cá nhân, thường là hai nhiệm kỳ. Vì
vậy gần như không có gì ràng buộc một tổng thống khi
đã sang nhiệm kì thứ hai. Điều này thường dẫn đến sự

107
Phản đề | Trần Văn Đức

quan liêu trong các phát ngôn và ra các chính sách.


Khác với chế độ đại nghị vốn không có sự ràng buộc
nhiệm kì cho các đảng, vậy nên để trúng cử các nhiệm
kì sau, các đảng phái sẽ phải cố gắng thực hiện lời hứa
của mình, để gây ấn tượng trong lòng công chúng.
Nhưng chúng ta cũng không thật sự chắc chắn một lãnh
đạo đảng cầm quyền nhiều năm trong chế độ đại nghị
có tốt không, sợ rằng họ sẽ áp đặt ý chí chủ quan (cổ
hủ) của họ trong các chính sách. Để hạn chế điều này,
phải có quy định thủ tướng tương lai có độ tuổi mặc
định từ 45 - 65.

II. Lựa chọn quốc hội


Trước tiên quốc hội được tạo ra với chức năng làm luật,
vậy nên phải có tòa bảo hiến để bác bỏ những điều luật
mà quốc hội thông qua bị cho là vi hiến. Đương nhiên
quốc gia đó phải có hiến pháp dân chủ.

Về cơ bản quốc hội được chia thành hai loại.

- Quốc hội đơn viện

Ưu điểm: Quốc hội gọn nhẹ, không có sự chồng chéo


chức năng với thượng viện. Có thể thông qua các điều

108
Phản đề | Trần Văn Đức

luật một cách nhanh chóng, do đó có thể đáp ứng nhanh


với điều kiện thay đổi của đất nước.

Nhược điểm: Do không có thượng viện giám sát nên


trên thực tế là các đảng trong quốc hội tự giám sát lẫn
nhau. Và có thể thông qua các điều luật một cách vội
vàng, tức ưu điểm lại cũng chính là nhược điểm. Chúng
ta có hai thành phần giám sát đảng chiến thắng thông
qua luật đó là đảng đối lập và tòa bảo hiến.

- Quốc hội lưỡng viện

Thường thì thượng viện được tạo ra với chức năng giám
sát hạ viện, hạn chế các điều luật được thông qua một
cách vội vàng, ít khi có trường hợp chức năng của hai
viện này phân bổ độc lập (không liên quan) với nhau.

Tùy vào cách bầu cử của thượng viện và mức độ quyền


lực của nó mà có những đặc điểm khác nhau.

Nếu như thượng viện được các đảng phái bầu lên thì sẽ
hình thành hai trường hợp

1. Thượng viện và đảng chiến thắng hạ viện là cùng một


đảng, trong trường hợp này chức năng của thượng viện
là thừa.

109
Phản đề | Trần Văn Đức

2. Thượng viện không cùng đảng với đảng chiến thắng


hạ viện điều này có thể dẫn đến sự bế tắc trong quốc
hội, khi các điều luật rất khó có thể được thông qua.

Nếu thượng viện là những cá nhân trung lập, tức là các


nghị sĩ muốn được bầu vào thượng viện thì bắt buộc
phải trung lập không thuộc người của đảng phái nào.

Với trường hợp này thượng viện sẽ bỏ phiếu có thông


qua điều luật mà hạ viện trình lên một cách công tâm
nhất. Và đảng chiến thắng chịu tới 3 thành phần giám
sát: đảng đối lập, thượng viện, tòa bảo hiến.

Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng thượng viện nếu
có thì các thượng nghị sĩ nên là những cá nhân hoàn
toàn trung lập với đảng phải (không là thành viên của
đảng nào) là tốt nhất. Tuy nhiên điều này cũng khá khó
bởi vì các thành viên thượng viện có thể không trong
đảng phái nào, nhưng khó có thể ngăn chặn họ có cảm
tình với một đảng nào đó.

Vậy thì có nên thành lập thượng viện không?

- Không nên khi lựa chọn bầu phiếu theo tỉ lệ, bởi khi
đó quốc hội có nhiều đảng nhỏ, các đảng này phải liên

110
Phản đề | Trần Văn Đức

kết với nhau để thành lập chính phủ. Sự ràng buộc và


tương đồng về số ghế, dẫn đến các đảng có tiếng nói
với nhau, thông qua đó việc tự giám sát lẫn nhau là
hiệu quả. Một điều luật có thể đã trở nên rất chậm chạp
mới được thông qua, vậy thì thêm thượng viện có khi
lại dẫn đến bế tắc thêm trong việc thông qua luật, như
vậy lại thành hại. Chúng ta vẫn còn một ải cuối để
chính thức thông qua luật đó là tòa bảo hiến.
- Nên khi chúng ta muốn tạo ra một đảng mạnh (giả sử
đảng chiến thắng chiếm hơn 50% ghế quốc hội) để hậu
thuẫn tạo nên một hành pháp mạnh cho thủ tướng.
Trong trường hợp này các đảng đối lập gần như không
có thực quyền trong việc quyết định một điều luật có
được thông qua hay không. Chúng ta cần thượng viện
để hạn chế những điều luật được hạ viện thông qua
một cách vội vàng (của đảng chiến thắng). Tuy nhiên
nếu hạ viện thông qua với mức đồng thuận cao, ví dụ
70%, thì có thể bỏ qua thượng viện.
Vì thượng viện chỉ có chức năng phủ quyết các điều
luật vậy nên không cần số lượng nhiều, để công bằng
thì mỗi tỉnh sẽ bầu một người. Có 64 tỉnh thành nên có
64 người, cứ 3 năm thượng viện sẽ bầu lại một nửa.

111
Phản đề | Trần Văn Đức

Đương nhiên số lượng thượng nghị sĩ trong này chỉ là


giả định, thực tế có thể sẽ khác. Thượng viện cũng nên
thêm một số ghế cho cộng đồng ở hải ngoại. Bởi tuy
sinh sống ở ngoại quốc nhưng họ vẫn là một phần máu
mủ của dân tộc nên họ cần được phản ánh tâm tư
nguyện vọng của mình lên quốc hội. Và nếu thành viên
thượng viện là trung lập thì nên để họ bỏ phiếu bầu
thẩm phán.

III. Tản quyền hay tập quyền

Tản quyền là như thế nào?

Một chế độ lí tưởng phải thỏa mãn hai điều kiện:

1. Một chế độ minh bạch, thượng tôn pháp luật.

2. Một chế độ gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả.

Với điều kiện 1 chúng ta có chế độ đại nghị, có thể thõa


mãn yêu cầu.

Với điều kiện 2 chúng ta phải cân nhắc, điều chỉnh bộ


máy hành chính nhà nước sao cho phù hợp với điều
kiện đất nước từng thời kì.

112
Phản đề | Trần Văn Đức

Một cơ quan hành chính chỉ nên quan tâm và thực thi
nhiệm vụ của mình được giao, không nên ôm đồm
những việc khác. Và nên cân nhắc, sát nhập các cơ quan
hành chính lại với nhau, để giảm tải nhân sự cho bộ
máy hành chính. Vì như ta biết, số nhân sự phục vụ bộ
máy hành chính là rất nhiều, nếu có thể cắt giảm được
sẽ giảm tải rất nhiều cho ngân sách nhà nước.

Với tình hình hiện tại, chúng ta có 64 tỉnh thành, điều


này làm cho cơ quan hành chính phình ra đáng kể, vậy
nên chúng ta nên gộp một số tỉnh lân cận thành vùng
lớn hơn, để cho bộ máy hành chính trở nên gọn nhẹ.

Tản quyền tức là chúng ta giao nhiều hơn quyền tự


quyết cho các vùng để giảm tải gánh nặng cho cơ quan
trung ương. Một điều nữa, tản quyền giúp cho các vùng
có quyền tự quyết nhiều hơn, nhờ đó có thể khai thác tối
đa lợi thế của vùng miền mình, cũng như cạnh tranh với
nhau một cách công bằng trong công cuộc phát triển
kinh tế vùng miền.

Với cơ chế tản quyền, các vùng cũng sẽ tự tiến hành


bầu cử nghị viện cho mình. Nghị viện ở vùng cũng chỉ

113
Phản đề | Trần Văn Đức

có một viện, tức là chỉ có hạ viện không có thượng viện.


Điều này có ưu điểm như sau:

1. Giúp cho các vùng có một bộ máy lãnh đạo trong


sạch và am hiểu sâu sắc điều kiện của từng vùng, từ đó
khai thác tối ưu lợi thế của vùng đó.

2. Do sự giới hạn số dân biểu tối đa của một đảng chỉ


chiếm 60% ghế quốc hội vùng, nên nó luôn thừa ghế
cho những đảng khác tại vùng đó.

Hệ quả là các đảng phân bố đan xen, lồng vào nhau trải
dài khắp đất nước, chứ các đảng không tập trung thành
từng khu vực. Giúp cho người dân không bị áp đặt bởi ý
thức hệ của riêng một đảng nào đó, mà dẫn đến quyết
định sai lầm.

Ví dụ: Đảng A thì tập trung ngoài miền Bắc, còn đảng
B chỉ tập trung ở miền Nam. Nhưng với việc giới hạn
số ghế tối đa của đảng thắng cuộc là 60%, dẫn đến cả
hai đảng A và B phải đan xen nhau, và trải đều khắp đất
nước. Điều này giúp cho người dân được hưởng lợi
nhiều hơn.

114
Phản đề | Trần Văn Đức

3. Nó cho phép các đảng yếu hơn (mới thành lập) có cơ


hội phát triển. Bằng cách: Đầu tiên với cử tri bỏ phiếu
cho họ còn thấp, họ sẽ tập trung chạy đua vào quốc hội
vùng (địa phương) trước khi đủ mạnh để ra tranh cử tại
trung ương.

Vậy thì một đất nước có thể có bao nhiêu vùng?

Có hai nguyên nhân ảnh hưởng đến việc phân chia số


vùng:

1. Số nhân sự của bộ máy hành chính: Càng nhiều vùng


thì bộ máy hành chính càng lớn, dẫn đến chi phí nhân
sự cho bộ máy hành chính cũng lớn theo.

2. Quyền lực thực tế của mỗi vùng: Càng ít vùng thì


quyền lực của các vùng càng tiệm cận với quyền lực
của chính quyền trung ương. Dẫn đến trên bảo dưới
không nghe và gây ra sự bế tắc trong việc thi hành
chính sách và luật pháp của chính quyền trung ương.

Ví dụ: Một nước được phân thành hai vùng, nếu như có
bất kì sự bất đồng nào đó giữa hai vùng, thì hai vùng
này hoàn toàn có thể tách ra thành hai nước độc lập,
trước sự bất lực của chính quyền trung ương.

115
Phản đề | Trần Văn Đức

Vì vậy, việc phân vùng là sự giao hòa giữa 1 và 2 để


đảm bảo cho các chính sách, luật lệ ban hành ở trung
ương phải được thông suốt trên toàn quốc và chi phí cho
bộ máy nhân sự phải không quá lớn. Vậy nên đất nước
nên chia thành khoảng từ 15 - 20 vùng, tốt nhất là 20.

Mặc dù chia ra các vùng nhưng vẫn phải giữ nguyên


tỉnh, huyện. Đây là đặc thù của riêng Việt Nam, một đất
nước nhỏ có nền văn hiến lâu đời. Vậy nên huyện, tỉnh
có giá trị lịch sử rất lớn (có huyện được thành lập cách
đây mấy trăm năm). Không thể bỏ huyện, tỉnh đi được
mà chỉ có liên minh tỉnh, huyện tạo thành một đơn vị
hành chính lớn hơn, nhưng vẫn phải giữ nguyên biên
giới các giữa huyện cũ với nhau.

Vì vậy có thể tiến hành sát nhập các xã trong huyện,


nhưng không được sát nhập các xã thuộc hai huyện
khác nhau lại với nhau để đảm bảo ranh giới giữa các
huyện.

116
Phản đề | Trần Văn Đức

Lựa chọn hệ thống bầu cử vào Quốc Hội

I. Ý nghĩa của bầu cử chính trị.


Bầu cử chính trị là một phương tiện (công cụ) để người
dân có thể chọn ra người (nhóm người) lãnh đạo đất
nước, phù hợp với nguyện vọng của đa số người dân
trong một quốc gia, thay mặt cho người dân quyết định
các vấn đề trọng đại của quốc gia. Đúng hơn, người dân
kì vọng ở người lãnh đạo đất nước phải có tâm, có bản
lĩnh, có trí tuệ và tầm nhìn rộng (bởi không phải lúc nào
ý kiến số đông cũng là đúng) để mang lại nhiều lợi ích
cho quốc gia nhất có thể.

Lãnh đạo chính trị không giống như những dạng lãnh
đạo khác, bởi lẽ nó cung cấp cho nhà (tổ chức) lãnh đạo
rất nhiều công cụ có quyền lực mạnh. Ví dụ: làm luật,
ra các chính sách, điều động quân đội, sử dụng ngân
sách của nhà nước… Như vậy các nhà lãnh đạo rất có
thể sử dụng các công cụ đó để làm lợi cho mình. Chính
vì lẽ đó đối với những kẻ có tham vọng thì quyền lực
chính trị luôn là thứ mà họ thèm khát. Họ sẵn sàng làm
những việc mà chúng ta cho rằng không trong sạch
(gian lận bầu cử) để đạt được mục đích của họ.

117
Phản đề | Trần Văn Đức

Để hạn chế việc quyền lực chính trị có thể rơi vào tay
kẻ xấu, hoặc người lãnh đạo không đủ năng lực để lãnh
đạo quốc gia, thì cuộc bầu cử phải diễn ra công bằng.

Vậy thì công bằng trong một cuộc bầu cử là gì?

Tạm thời chúng ta có ba ý chính sau:

1. Ý thứ nhất được rút ra dưới mệnh đề sau: Tất cả mọi


người đều bình đẳng trước nhau, không phân biệt tuổi
tác, chủng tộc, địa vị… Mệnh đề này trong bầu cử được
thể hiện thành hai ý:

- Mỗi người dân (cử tri) khi đủ tuổi, và không có vấn đề


về nhận thức đều được quyền tham gia bầu cử.

- Mỗi lá phiếu do người dân (cử tri) bầu chọn đều có giá
trị như nhau không có sự phân biệt nào ở đây.

2. Bất kỳ ai (hay tổ chức nào) cũng có quyền tham gia


vận chuyển, và giám sát kiểm phiếu để kết quả thực sự
công bằng.

3. Ứng cử viên không được dối trá lý lịch bản thân


nhằm đánh lừa cử tri.

118
Phản đề | Trần Văn Đức

II. Các yêu cầu của một hệ thống bầu cử.

Thiết kế hệ thống bầu cử cũng giống như lựa chọn thể


chế chính trị vậy, nó phức tạp và cũng có thể tùy biến ra
nhiều loại khác nhau, phù hợp với từng quốc gia. Vậy
nên không thể tùy tiện lấy hệ thống bầu cử của một
quốc gia khác, đem về áp dụng một cách máy móc cho
mình được, mà phải biết tùy biến, chắt lọc những thứ
phù hợp với điều kiện văn hóa của đất nước để áp dụng.
Tuy nhiên, về cốt lõi, lựa chọn một hệ thống bầu cử
phải tuân theo ba nguyên tắc: đơn giản, dễ hiểu và hiệu
quả.

1. Đơn giản: Tức là loại bỏ đi các khâu không cần thiết,


không mang lại hiệu quả cao. Tâm lí người dân không
thích đi bầu cử nhiều lần, vậy nên nếu thiết kế hệ thống
bầu cử rườm rà quá thì sẽ ít người đi bầu cử, như vậy lại
thành không đạt hiệu quả. Nếu được thì nên ưu tiên hệ
thống bầu cử mà người dân chỉ phải đi bầu một hai lần.

2. Dễ hiểu: Cách thức bầu cử có dễ hiểu mới mong phổ


quát được cho dân chúng, nhất là với những dân tộc ít
hiểu biết về chính trị như Việt Nam ta. Từ đó mới gia

119
Phản đề | Trần Văn Đức

tăng được số người quan tâm cũng như thực sự đi bầu


cử.

3. Hiệu quả: Việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng giống


như ta đang nấu canh vậy. Nhiều muối quá thì mặn mà
ít quá thì lại nhạt, cũng tương tự như vậy với mì chính
hay bột nêm, rồi lại phụ thuộc vào khẩu vị hay thể trạng
của người ăn nữa. Cùng một món canh nhưng hai người
ăn khác nhau lại có tỉ lệ cho gia vị khác nhau.

Tương tự, việc lựa chọn hệ thống bầu cử cũng vậy, phải
dựa vào đặc điểm của đất nước ta hiện tại để cân nhắc
nên ưu tiên điều gì và cái gì thì có thể giảm nhẹ được.

Đặc điểm của đất nước Việt Nam chúng ta cho đến hiện
tại có thể viết ngắn ngọn như sau:

Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lập quốc sớm, trải
qua nghìn năm thăng trầm, chắt lọc tạo ra một bề dày
văn hóa tốt đẹp cần phải được lưu giữ và phát huy. Là
một quốc gia thống nhất về lãnh thổ, đa dân tộc nhưng
chỉ có một dân tộc nắm chủ đạo về mặt dân số (dân tộc
Kinh chiếm khoảng 86% dân số). Là một quốc gia (gần
như) thống nhất về mặt ngôn ngữ, chữ viết trên toàn

120
Phản đề | Trần Văn Đức

quốc. Điều này dẫn đến người dân Việt Nam có văn
hóa, phong tục khá tương đồng nhau.

Tuy Việt Nam trải qua nghìn năm dựng nước nhưng đều
là chế độ quân chủ (phong kiến), hiện nay đang sống
dưới chế độ độc tài do Đảng Cộng sản nắm quyền, và
chưa từng biết đến chế độ dân chủ (trừ chế độ bán dân
chủ VNCH tồn tại rất ngắn ở miền Nam). Vậy nên nhận
thức về chính trị của người Việt khá thấp, lại còn bị méo
mó do sự tuyên truyền sai lệch của ĐCS Việt Nam.

Vậy, thứ chúng ta cần ưu tiên trong đề xuất hệ thống


bầu cử là: Ngăn chặn độc tài quay trở lại trong tình
trạng dân trí chưa cao (vốn dĩ có sức đề kháng thấp đối
với độc tài).

Có thể giảm nhẹ tính đa nguyên: Bởi Việt Nam là một


quốc gia có một dân tộc nắm chủ đạo về mặt dân số,
thống nhất về ngôn ngữ, tương đồng về mặt văn hóa.
Tức là, Việt Nam là một quốc gia có tính đồng nhất cao.
Sự sai khác của chúng ta chủ yếu là sai khác về vị trí
địa lý dẫn đến điều kiện phát triển kinh tế có chút khác
biệt. Tính đa nguyên chỉ cần chú trọng khi một quốc gia
có nhiều dân tộc cùng chung sống, mà các dân tộc đó

121
Phản đề | Trần Văn Đức

gần như tương đồng về mặt dân số (không có dân tộc


nào nắm chủ đạo). Ở những quốc gia như vậy có sự
khác biệt về văn hóa, tôn giáo, phong tục của người dân
là rất lớn.

Có một sự khác nhau tương đối giữa việc lựa chọn thể
thức bầu cử vào quốc hội của đại nghị và tổng thống
chế. Thể chế tổng thống quyền lực của hành pháp khá
độc lập với quốc hội, chủ yếu quyền lực đã được quy
định rõ vậy nên việc lựa cách thức bầu cử vào quốc hội
không cần phải xem trọng như đại nghị.

Chế độ đại nghị thì quyền lực của thủ tướng phụ thuộc
chặt chẽ vào số ghế của đảng ông ấy đang có ở trong
quốc hội. Cũng tức là quyền lực của hành pháp phụ
thuộc rất nhiều vào cách thức lựa chọn hệ thống bầu cử.

Trong bản thân lựa chọn thể thức bầu cử người ta cũng
chạy theo các xu hướng khác nhau.

Xu hướng đặt nặng tính công bằng, thường thì lối bỏ


phiếu theo tỉ lệ là đảm bảo tính công bằng nhất, trong
lối bỏ phiếu đa số thì phát sinh hệ thống chấm điểm các

122
Phản đề | Trần Văn Đức

ứng cử viên, trong bầu cử song song hoặc hỗn hợp thì
lại có cơ chế bù ghế...

Tôi không phải người đặt nặng tính công bằng hay khả
năng đại diện, thứ tôi muốn nhắm đến là mục đích cuối
cùng, cái chính phủ, quốc hội đó rốt cuộc có làm được
việc hay không. Có chương trình hành động lâu dài
cũng như đồng thời phản ứng nhanh với sự thay đổi các
điều kiện bên ngoài nằm ngoài dự liệu được hay không?

Thứ làm tôi lăn tăn trong lựa chọn hệ thống bầu cử, đó
là bước nhảy quyền lực của thủ tướng nằm ngoài kiểm
soát. Để dễ hiểu hơn thì chúng ta biết rằng quyền lực
của ông thủ tướng tăng dần lên theo số ghế mà đảng của
ông ta có trong quốc hội. Cái khó là quyền lực của ông
thủ tướng lại không tăng theo tỉ lệ thuận với số ghế mà
đảng của ông ta có trong quốc hội, mà nó có một bước
ngoặt. Cụ thể ở đây là đảng chiến thắng chiếm ghế
trong khoảng từ 49% - 51% ghế quốc hội. Tuy chỉ 2%
rất nhỏ nhưng lại tạo nên một bước ngoặt rất lớn trong
quyền lực của thủ tướng.

Với đảng chiến thắng có 49% ghế quốc hội, muốn lấy
được thêm hơn 1% phiếu bầu để thông qua luật, một

123
Phản đề | Trần Văn Đức

ông thủ tướng và đảng của ông có thể phải nhượng bộ


rất lớn. Sự nhượng bộ này sẽ càng lớn nếu như các đảng
còn lại liên kết chặt chẽ với nhau.

Với đảng chiến thắng có 51% ghế quốc hội, thủ tướng
và đảng của ông ta có thể phớt lờ các đảng còn lại trong
quốc hội. Trong trường hợp này, các đảng còn lại chỉ
đóng vai trò giám sát và tham khảo, hoàn toàn không có
quyền lực thực tế. Không ai có thể giải tán chính phủ
hoặc quốc hội của ông ta, trừ trường hợp xảy ra mâu
thuẫn trong nội bộ đảng của ông ấy. Ông thủ tướng bây
giờ có quyền hành pháp ngang bằng hoặc thậm chí vượt
qua cả tổng thống, bởi tổng thống vẫn phát sinh trường
hợp: “tổng thống thuộc một đảng và đảng khác không
chế quốc hội, nếu hai đảng mâu thuẫn với nhau có thể
dẫn đến bế tắc trong hoạt động chính trị của tổng
thống”. Thủ tướng với 51% ghế quốc hội không bị
khống chế bởi điều này. Vậy nên cần có thượng viện
trong trường hợp này để tránh thông qua luật một cách
vội vàng.

Bản thân tôi muốn chọn lựa một chính phủ với một
quyền hành pháp mạnh, một ông thủ tướng với quyền

124
Phản đề | Trần Văn Đức

hành pháp yếu vốn không làm được gì cả. Nó cũng như
vua nhà Nguyễn dưới thời Pháp vậy, vua thì oai thật
đấy nhưng không làm được gì. Điều này cũng có nghĩa
là ủng hộ các phương pháp bầu cử đưa đến một đảng
chiếm đa số trong quốc hội, và cũng có nghĩa rằng tôi
phải bỏ qua tính công bằng như đã viết ở phần trên.

II. Các hệ thống bầu cử chính trên thế giới


Tôi sẽ lấy ví dụ về Việt Nam mình cho dễ hiểu. Chúng
ta giả sử rằng, Quốc hội Việt Nam trong tương lai có số
thành viên là 500 đại biểu.

Các nước trên thế giới hiện nay có hai hệ thống bầu cử
chính, đó là:

1. Hệ thống bầu cử theo quy tắc số nhiều/ đa số.

Đặc điểm nổi bật của biệt hệ thống bầu cử này là:
Người chiến thắng là người giành được nhiều phiếu
nhất, hoặc giành được đa số phiếu (trên 50%).

Ở hệ thống này, nếu chúng ta muốn bầu bao nhiêu đại


biểu quốc hội thì có bấy nhiêu khu vực bầu cử. Mỗi khu
vực bầu cử chỉ chọn ra một người duy nhất, cũng là
người giành được nhiều phiếu bầu nhất. Mỗi cử tri được

125
Phản đề | Trần Văn Đức

nhận một lá phiếu trên đó có ghi tên của tất cả các ứng
cử viên và cử tri chỉ được chọn lấy một cái tên duy nhất
trong số đó. Với phương pháp bầu cử này, người ta
thiên về hình tượng cá nhân ứng cử đại biểu quốc hội
mà xem nhẹ các đảng mà họ tham gia. Hiểu đơn giản
người dân thích ai, họ bầu cho người đó, ít khi vì là họ
thuộc đảng nào. Và cũng có thể xuất hiện các cá nhân
cùng đảng ra tranh cử cạnh tranh với nhau.

Ví dụ: ở Việt Nam có 500 đại biểu Quốc hội, vậy thì
chúng ta phải chia đất nước thành 500 khu vực bầu cử,
với số dân ở mỗi khu vực không chênh nhau quá nhiều.
Cử tri ở mỗi khu vực nhận được một lá phiếu có ghi tên
tất cả các ứng cử viên trong khu vực đó, và cử tri chỉ
được bầu cho duy nhất một ứng cử viên. Kết thúc bầu
cử, ứng cử viên nào nhận được phiếu nhất là người
chiến thắng, trở thành đại biểu Quốc hội đại diện cho
khu vực đó.

Một số điểm lợi của hệ thống này là trong các nước


theo chế độ đa đảng, hệ thống này giúp tạo lập chính
phủ một đảng cầm quyền ổn định trong suốt nhiệm kỳ
mà không phải liên minh với các đảng nhỏ khác. Hệ

126
Phản đề | Trần Văn Đức

thống này là một trong những nhân tố góp phần tạo ra


tình trạng hai đảng lớn thay nhau cầm quyền tại Mỹ
(Cộng hòa và Dân chủ), hay tại Anh (Công đảng và Bảo
thủ), góp phần loại bỏ đại diện các đảng cực hữu ra khỏi
cơ quan lập pháp. Do hệ thống này bầu ra người chiến
thắng đại diện cho một khu vực địa lý nhất định nên nó
cũng tạo ra mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa đại biểu
được bầu với cử tri của khu vực bầu cử. Một số nhà
bình luận cho rằng, đây là đặc tính “giải trình trách
nhiệm theo khu vực địa lý”, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng ở các xã hội nông nghiệp và các nước đang phát
triển.

Nó cũng cho phép những cá nhân có sức ảnh hưởng


trong cộng đồng tham gia tranh cử mà không cần phải
gia nhập đảng.

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo nguyên tắc “ai nhiều


phiếu nhất là thắng” cũng có nhiều khiếm khuyết,
thường bị chỉ trích vì thiếu sự “công bằng” và thiếu tính
chính đáng. Trong các chế độ đa đảng, hệ thống này
loại bỏ các đảng nhỏ ra khỏi cuộc chơi quyền lực, và
các đảng nhỏ không có được tỷ lệ đại diện công bằng

127
Phản đề | Trần Văn Đức

mà họ đáng được có trong cơ quan lập pháp. Ví dụ như


trong cuộc bầu cử Liên bang năm 1993 tại Canada,
đảng Bảo thủ Tiến bộ giành được 16% số phiếu bầu
nhưng chỉ có được 0,7% số ghế trong Quốc hội. Hệ
thống này còn có xu hướng loại bỏ tỷ lệ đại diện công
bằng của các nhóm sắc tộc thiểu số và của phụ nữ ra
khỏi Quốc hội.

Nó cũng để lại hệ lụy, đó là nó khiến người dân phải bỏ


phiếu chiến lược, tức là họ muốn bầu cho một người
nhưng vì thấy người đó khó có khả năng chiến thắng
nên đành phải bỏ cho người mà họ ít muốn hơn nhưng
lại có khả năng chiến thắng cao hơn. Như vậy là không
được như ý nguyện.

2. Hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện

Nguyên lý chung của hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại


diện là việc chuyển số phiếu mà một đảng chính trị
nhận được trong bầu cử thành số ghế tương ứng trong
cơ quan lập pháp cho đảng đó. Tức là bầu theo tỉ lệ đại
diện là bầu cho đảng và chương trình hành động của
đảng, giảm nhẹ việc bầu cho cá nhân ứng cử đại biểu
quốc hội.

128
Phản đề | Trần Văn Đức

Một nguyên tắc chung đối với hệ thống bầu cử theo tỷ


lệ đại diện là mỗi khu vực bầu cử phải được bầu nhiều
hơn một đại biểu.

Ở một số nước nhỏ, dân số ít như Israel và Hà Lan, cả


nước là một đơn vị bầu cử, được bầu nhiều đại biểu. Ở
một số nước khác, ví dụ như Argentine và Bồ Đào Nha,
đơn vị bầu cử được lấy căn cứ theo tỉnh.

Phương pháp bầu cử tỷ lệ đại diện theo danh sách cho


phép mỗi đảng được trình một danh sách các ứng cử
viên tại mỗi đơn vị bầu cử, cử tri bỏ phiếu cho một đảng
nào đó và đảng này nhận được số ghế tương ứng với tỷ
lệ phiếu bầu mà họ nhận được. Người thắng cử được
chọn ra từ danh sách ứng cử viên của đảng, theo trật tự
thứ tự đã đăng ký trong danh sách. Số ghế được phân bổ
được tính toán theo công thức lấy trị số trung bình cao
nhất hoặc tính số dư lớn nhất. Công thức tính toán thế
nào ảnh hưởng khá lớn đến tỷ lệ ghế của mỗi đảng.

Nếu áp dụng cho Việt Nam chúng ta, có thể áp dụng


mỗi tỉnh là một khu vực bầu cử, như vậy cả nước có 64
khu vực bầu cử, mỗi tỉnh có số đại biểu quốc hội tỉ lệ
thuận với số dân của tỉnh đó. Bởi vì một khu vực phải

129
Phản đề | Trần Văn Đức

bầu nhiều đại biểu Quốc hội, nên ta phải gộp các khu
vực lại thành một khu vực lớn. Đây là điểm khác so với
cách tổ chức với hệ thống bầu cử số nhiều/ đa số.

Điểm thuận lợi là: Kết quả bầu cử sẽ cho phép có một
cơ quan lập pháp có tính đại diện cao hơn hệ thống bầu
cử theo quy tắc số nhiều hay đa số. Lợi ích rõ ràng của
nó là tại những nước vốn có sự chia rẽ xã hội sâu sắc,
việc bao gồm các nhóm xã hội khác nhau, không loại
trừ nhóm yếu thế trong cơ quan lập pháp là điều kiện
cần thiết để đảm bảo hòa hợp dân tộc và ổn định. Hệ
thống này được nhiều nhà phân tích ca ngợi là tránh
được kết quả bất công hay nguy cơ bất ổn do giảm thiểu
khả năng chi phối tuyệt đối của các đảng lớn, đồng thời
vẫn tạo cơ hội tiếp cận quyền lực nhà nước cho các
đảng nhỏ. Để làm được như vậy, đòi hỏi phải có sự nhất
trí của các đảng chính trị khi nộp danh sách ứng cử viên
của đảng, những người thể hiện ý chí và tư tưởng của
đảng.

Hệ thống này cũng tránh được lãng phí phiếu bầu, bởi
lẽ, bất kỳ lá phiếu nào cũng đóng góp vào kết quả cuối
cùng và có khả năng là thay đổi kết quả bầu cử, dù là

130
Phản đề | Trần Văn Đức

nhỏ. Do hệ thống này khuyến khích tính đại diện, tính


bao gồm, nên các đảng nhỏ, các lực lượng thiểu số đều
có cơ hội, nó hạn chế được đáng kể tình trạng “lãnh địa
bầu cử”, dẫn đến tính liên tục và ổn định cao hơn của
chính sách, khuyến khích hoạt động chia sẻ quyền lực
giữa các đảng phái chính trị và các nhóm lợi ích.

Tuy nhiên, hệ thống bầu cử theo tỷ lệ đại diện cũng có


những điểm bất lợi đáng kể. Hệ thống này có xu hướng
dẫn đến các chính phủ liên hiệp và hệ thống đảng phái
bị manh mún, bất ổn định. Hệ thống này cũng tạo điều
kiện cho các đảng cực hữu hoặc cực tả có đất sống. Kết
quả của hệ thống bầu cử này thường là có một chính
phủ liên hiệp nhưng lại thiếu cơ sở liên minh vững chắc
là những điểm đồng thuận về chính sách, tư tưởng và cơ
sở ủng hộ, nên hay mất ổn định và dễ đổ vỡ.

Thêm vào đó, hệ thống này cũng tạo ra nhiều quyền lực
cho các đảng nhỏ trong cuộc mặc cả để thành lập chính
phủ liên hiệp với các đảng lớn, gây áp lực lớn đối với
các đảng lớn, và cử tri rất khó có thể loại bỏ hoàn toàn
được đảng nào ra khỏi quyền lực nhà nước.

131
Phản đề | Trần Văn Đức

Đến đây tôi muốn nhắc thêm một đặc điểm nữa của Việt
Nam hiện tại: Đó là, chúng ta đang sống dưới chế độ
độc tài Cộng sản và đảng này luôn tìm cách để gia tăng
quyền lực của mình. Đây hoàn toàn là xu hướng tâm lí
bình thường, bất kì đảng nào nếu được cũng đều muốn
gia tăng quyền lực và sự chính danh của đảng mình. Nó
chỉ nhượng bộ khi có sức ép từ sự gia tăng nhận thức
của người dân hoặc áp lực từ nước ngoài.

Vậy nên ta có thể dễ dàng hình dung, Đảng Cộng sản sẽ


nhượng bộ một cách từ từ. Ví dụ: Nới rộng quyền tự do
ngôn luận của người dân; cho các tổ chức dân sự hoạt
động độc lập; rồi đến cho phép các đảng được thành
lập; sau đó có thể cho các chính đảng được tham gia
tranh cử nhưng Đảng Cộng sản vẫn giữ một lượng ghế
nhất định tối thiểu trong Quốc hội; cuối cùng là tự do
ngôn luận hoàn toàn và việc tranh cử giữa các đảng diễn
ra một cách công bằng.

Điều này có nghĩa là, tuy cho phép các đảng khác được
tham gia tranh cử, nhưng Đảng Cộng sản sẽ làm mọi
thứ có thể để chèn ép các đảng khác (kể cả mưu hèn kế
bẩn), làm sao để Đảng Cộng sản nắm được nhiều ghế

132
Phản đề | Trần Văn Đức

trong Quốc hội nhất, thông qua đó giữ vững quyền lực
cho mình.

Trong bối cảnh người dân vì sự thiếu hiểu biết về chính


trị dẫn đến thờ ơ đối với chính trị, không đi bầu cử và
giám sát bầu cử. Điều này càng tạo cơ hội cho Đảng
Cộng sản dễ dàng thao túng quá trình bầu cử.

Bởi vì có thể lường trước được tình trạng này, chúng ta


phải thiết kế hệ thống bầu cử sao cho có thể hạn chế tối
đa những vi phạm đó. Đợi đến khi nhận thức về chính
trị của người dân thực sự cao, ý thức được nghĩa vụ của
mình, thì những ưu tư về việc chống độc tài không còn
là gánh nặng nữa. Lúc đó chúng ta sẽ nhắc đến các mặt
khác của hệ thống bầu cử như: sự công bằng, khả năng
đại diện, tính đa nguyên…

Do hai hệ thống bầu cử cơ bản trên đều có những ưu và


nhược điểm, vậy nên đa số các nước lựa chọn hệ thống
bầu cử hỗn hợp, pha trộn tùy tỉ lệ giữa hai hệ thống bầu
cử để hạn chế nhược điểm và tận dụng ưu điểm của hai
hệ thống đó. Dưới đây tôi giới thiệu ba hệ thống bầu cử
hỗn hợp được thiết kế ra với mục đích đó.

133
Phản đề | Trần Văn Đức

1. Hệ thống bỏ phiếu song song (50% bầu theo tỉ lệ,


50% bầu theo kiểu số nhiều/đa số)

Hệ thống này được sử dụng ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài


Loan, Nga …

Ta sẽ lấy ví dụ với hệ thống bầu cử ở Việt Nam tương


lai cho dễ hiểu:

Giả sử rằng, Việt Nam tương lai lấy 50% đại biểu Quốc
hội được bầu cử theo tỉ lệ đại diện; 50% còn lại theo
quy tắc số nhiều/đa số. Với quy ước ban đầu chúng ta
có 500 đại biểu Quốc hội, như vậy có 250 ghế được bầu
theo tỉ lệ đại diện và 250 ghế được bầu theo quy tắc
theo số nhiều đa số. Để có thể bầu được 250 ghế theo số
nhiều/đa số, chúng ta phải phân cả nước thành 250 khu
vực, mỗi khu vực bầu một đại biểu Quốc hội. Còn về tỉ
lệ đại diện chúng ta phải mở rộng (địa lí) khu vực bầu
cử ra (thu hẹp số khu vực bầu cử lại) để có thể tiến hành
bầu cử.

Với hệ thống bầu cử số nhiều/ đa số: Chúng ta hình


thành thế lưỡng đảng với số ghế gần như nhau (hệ quả

134
Phản đề | Trần Văn Đức

của kiểu bầu cử này). Giả sử đảng A được 50% của 250
= 125 ghế, đảng B được 50% của 250 = 125 ghế.

Với hệ thống bầu cử tỉ lệ đại diện: Chúng ta có nhiều


đảng, tất nhiên mỗi đảng sẽ có số ghế ít hơn 50%. Giả
sử chúng ta có ba đảng tham gia tranh cử và mỗi đảng
có số ghế gần tương đương nhau, tức là: đảng A = đảng
B = đảng C = 33% của 250 = 83 ghế.

Sau khi hoàn tất bầu cử, chúng ta có số ghế của các
đảng là: đảng A = đảng B = (125+83 = 208) = 41,6%
ghế quốc hội; đảng C = 83 = 16,6% ghế quốc hội.

Hệ thống này kế thừa ưu điểm của hai hệ thống cơ bản


bên trên nhưng cũng kế thừa luôn cả nhược điểm của
nó.

Với việc đảng chiến thắng chiếm được trên 41,6% ghế
quốc hội, như vậy đảng chiến thắng muốn thông qua
điều luật vẫn phải nhượng bộ một chút cho các đảng đối
lập.

Với hệ thống bầu cử này trong một quốc gia thực sự


dân chủ, nó cho phép đảng chiến thắng có đủ số ghế để
tạo thành một chính phủ tương đối mạnh và ổn vững.

135
Phản đề | Trần Văn Đức

Đồng thời cũng cho phép các đảng nhỏ có đại diện của
mình trong quốc hội tạo nên tính đa dạng, đại diện được
cho nhiều thành phần ngoài xã hội ở trong Quốc hội (tỉ
lệ đại diện). Nó cũng cho phép các cá nhân được tranh
cử với tư cách độc lập, mà không cần phải tham gia bất
cứ đảng nào (một nửa bầu theo số nhiều/đa số).

Đây là hệ thống được nhiều quốc gia lựa chọn, vậy nên
chúng ta có thể lựa chọn hệ thống này nếu muốn an
toàn.

Bên cạnh hệ thống song song, chúng ta có hệ thống đại


diện tỷ lệ thành viên hỗn hợp cũng tương tự. Điểm khác
biệt ở chỗ, hệ thống đại diện tỷ lệ thành viên hỗn hợp có
cơ chế bù ghế, và cơ chế bù ghế này khá phức tạp. Đại
diện của hệ thống này là cách thức bầu cử ở Đức.

2. Hệ thống bầu cử với phần thưởng

Trên thế giới có các quốc gia như San Marino, Ý, Hy


Lạp (đã bãi bỏ năm 2019) áp dụng hệ thống này.

Với ý tưởng rằng nếu chúng ta sợ:

2.1 Trong quá trình chuyển đổi sang dân chủ của
Việt Nam, Đảng Cộng sản sẽ cố gắng tìm cách hạn chế

136
Phản đề | Trần Văn Đức

các đảng khác tham gia bầu cử để giành tối đa lợi ích
cho đảng của mình, kể cả gian lận (thực tế là tất cả các
đảng nếu được đều muốn tối đa hóa lợi ích cho đảng
mình, bất kể theo trường phái chính trị, lí tưởng nào).
Hoặc người dân vì thiếu hiểu biết chính trị mà quá ưu ái
bầu cho một đảng nào đó, dẫn đến đảng này có quá
nhiều quyền lực trong Quốc hội và khó bị kiểm soát.

2.2 Hoặc chúng ta sợ theo chiều ngược lại với hệ


thống bỏ phiếu theo tỉ lệ đại diện sẽ tạo thành quá nhiều
đảng nhỏ. Cộng với việc các đảng khi mới thành lập
vẫn cứng nhắc theo đuổi lập trường riêng của mình,
không thể tìm được tiếng nói chung. Điều này dẫn đến
không thành lập được Chính phủ, hoặc một Chính phủ
yếu, chậm trễ trong công tác điều hành đất nước.

Trong tình trạng của Việt Nam chúng ta, trường hợp
một là có khả năng xảy ra. Như vậy thứ chúng ta lo ngại
không phải là một Chính phủ yếu mà là có một đảng, vì
một lí do nào đó có thể không minh bạch mà chiếm
được đa số ghế trong Quốc hội.

Có rất nhiều minh chứng trong thực tế ở các nước mới


chuyển đổi dân chủ về việc một đảng tìm mọi cách để

137
Phản đề | Trần Văn Đức

chiếm đa số ghế trong quốc hội, trước khi đảng đó suy


yếu dần và phải chấp nhận một cuộc bầu cử công khai,
minh bạch, như ở Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và
gần đây là Campuchia (đảng của Thủ tướng Hunsen
chiếm 100% ghế Quốc hội, mặc dù có hơn 30 đảng
tham gia tranh cử vào năm 2018).

Nếu đã dự đoán trước được điều này có khả năng cao sẽ


xảy ra, vậy thì tại sao chúng ta không mặc định số
lượng ghế cố định cho đảng chiến thắng? Hoặc ít nhất
chúng ta sẽ đề xuất một giới hạn trần mà một đảng có
thể có trong quốc hội. Ví dụ: Đưa ra quy định một đảng
không thể quá 60% ghế trong Quốc hội. Nếu số phiếu
bầu của cử tri vượt quá 60% thì số % phiếu bầu dư đó
sẽ được chia cho các đảng khác theo tỉ lệ % số phiếu
bầu mà đảng đó nhận được từ cử tri theo hệ thống đại
diện tỉ lệ.

Với việc mặc định số ghế cho đảng chiến thắng, giả dụ
là 51% (hoặc 60%) ứng với Quốc hội Việt Nam là 255
(hoặc 300) ghế. Các đảng còn lại chia nhau 49% (hoặc
40%) số ghế còn lại, dựa trên tỉ lệ phiếu bầu của cử tri.
Như vậy chúng ta không phải lo một đảng chiếm quá

138
Phản đề | Trần Văn Đức

nhiều ghế trong Quốc hội dẫn đến độc tài. Hoặc các
đảng có số ghế với tỉ lệ ngang nhau dẫn đến không có
đảng nào đủ mạnh để thành lập Chính phủ, do đó tạo ra
một Quốc hội và Chính phủ yếu, thậm chí không thành
lập được Chính phủ.

Một nhược điểm mà mọi người thường chê trách hệ


thống bầu cử này là nó không công bằng khi sự phân bổ
số ghế trong Quốc hội, sai lệch quá nhiều so với phiếu
bầu của cử tri. Thực ra lối bầu phiếu theo số nhiều/đa số
cũng tạo ra tình trạng tương tự. Ví dụ như trong cuộc
bầu cử Liên bang năm 1993 của Canada, đảng Bảo thủ
Tiến bộ giành được 16% số phiếu bầu, nhưng chỉ có
được 0,7% số ghế trong Quốc hội.

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: Hình thức không


quan trọng, cái chúng ta cần là mục đích, chúng ta
muốn hướng tới cái gì?

Nếu chúng ta muốn một cuộc bầu cử công bằng thể hiện
đúng nguyện vọng của người dân, chúng ta có hệ thống
bầu cử theo tỉ lệ, vấn đề là hệ thống bầu cử theo tỉ lệ
thường bị chệch hướng hoặc là một đảng chiếm quá
nhiều ghế (A), hoặc nhiều đảng có số ghế gần ngang

139
Phản đề | Trần Văn Đức

nhau (B) dẫn đến một quốc hội yếu, và thường thì sẽ
nghiêng về phương án (B) hơn. Nếu chúng ta mặc định
cho đảng chiến thắng một số ghế vừa phải, chúng ta có
một chính phủ và một quốc hội mạnh mẽ và ổn định.
Nhưng nhược điểm là nó chỉ thể hiện được cho ý chí
của một nhóm người ủng hộ đảng chiến thắng mà thôi.

3. Hệ thống song song và trích ra 10% ghế để làm phần


thưởng.

(45% - 45% - 10%), đồng thời có áp mức trần là 60%.

Đây là hệ thống bầu cử do tôi đề xuất sau khi đã suy


nghĩ và xem xét các khả năng bầu ra.

Cụ thể như sau: 45% được bầu theo đa số, 45% bầu
theo tỉ lệ, 10% dùng để làm phần thưởng, và không
đảng nào được chiếm quá 60% ghế trong quốc hội.

Ta tính toán như sau:

Với cách bầu đa số dẫn hệ quả là hai đảng lớn với 45%
ghế ta có mỗi đảng A = B = 22,5% ghế.

Với cách bầu tỉ lệ ta có hệ quả là hình thành 3 đảng với


45% ghế ta có mỗi đảng A = B = C = 15% ghế. Như
vậy sau quá trình bầu cử ta được như sau

140
Phản đề | Trần Văn Đức

A = B = 37,5% ghế, C = 15% ghế. Với cơ chế phần


thưởng theo tỉ lệ là 10% ta có:
A = 37,5% + 10% = 47,5% ghế, B = 37,5% ghế, C =
15% ghế. Đảng A với 47,5% ghế đã gần tiệm cận được
mức trên 50% để có thể tạo thành một đảng mạnh trong
quốc hội.
Thực tế bầu cử nếu đảng A được người dân ủng hộ thì
hoàn toàn có thể có trên 50% ghế.
Một số lưu ý như sau:

1. Tại sao lại phải áp mức trần là 60% cho số ghế tối đa
mà một đảng có thể có.

1.1 Trong tình trạng dân trí Việt Nam trong tương lai
gần vẫn còn thấp, chúng ta phải phòng ngừa một đảng
dùng mưu hèn kế bẩn để thao túng bầu cử, nhằm chiếm
đa số quốc hội. Với việc mặc định này, ý đồ đó phá sản,
và như vậy chúng ta đảm vệ được nền dân chủ non trẻ
của mình.
1.2 Với việc ước định rằng, với 80% phiếu thuận sẽ
thay đổi được hiến pháp. Vậy có thể xảy ra trường hợp
một đảng chiến thắng với trên 80% ghế quốc hội thì làm
thế nào? Rõ ràng họ có thể sửa đổi điều luật hiến pháp

141
Phản đề | Trần Văn Đức

để có lợi cho họ. Đây là một việc vô cùng tai hại. Với
việc ước định rằng một đảng chỉ có tối đa 60% ghế, như
vậy để thông qua hiến pháp đảng chiến thắng phải
thuyết phục 20% phiếu của đảng đối lập nữa. Và nhờ
đảng đối lập chúng ta có thể bảo vệ vẹn toàn hiến pháp.
1.3 Với việc giới hạn một đảng chỉ có tối đa 60% ghế
quốc hội, điều này ở nghị viện vùng có rất nhiều ý
nghĩa. Nó không cho phép một đảng có thể chiếm trọn
vẹn một vùng bang nào, từ đó áp đặt ý chí của đảng đó
lên dân chúng, bởi luôn phải trừ 40% ghế cho đảng đối
lập, nhờ vậy đảng đối lập nhanh chóng phát triển để bù
vào khoảng trống mà đảng chiến thắng không thể
chiếm được đó. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nó giúp
cho các đảng phái và xã hội dân sự nhanh chóng nở rộ
và góp tiếng nói cho đất nước.

2. Tại sao lại không bầu theo đa số.

Bởi vì bầu đa số hình thành hai chính đảng lớn, từ đó


tạo thành hành pháp mạnh. Điều này đúng thế, nhưng
với việc bầu theo đa số thì không thể áp mức trần là
60% ghế được. Bởi vì bầu theo đa số là bầu cho cá nhân
mà một khi cá nhân chiến thắng trong cuộc bầu cử

142
Phản đề | Trần Văn Đức

chúng ta không thể loại họ đi với lí do là đảng của họ đã


có nhiều ghế được. Việc áp mức trần chỉ có thể thực
hiện được với cách bầu cử tỉ lệ, với việc bầu cho đảng,
khi một đảng đạt quá số ghế, chúng ta chỉ việc gạch bớt
tên trong danh sách của đảng đó đi cho vừa đủ. Tôi
cũng đề xuất là tại phiếu bầu tỉ lệ thì ở quốc hội trung
ương một đảng phải có tối thiểu 5% phiếu bầu mới có
ghế theo tỉ lệ. Việc làm này để loại bỏ những đảng nhỏ
cực đoan vào quốc hội. Nhưng tại nghị viện vùng thì
không cần để đảm bảo tính đa dạng trong quốc hội.

3. Dùng 10% để thưởng nhưng cũng không phải là


thưởng hết cho đảng chiến thắng. Chúng ta sẽ chỉ
thưởng cho họ đến 55% ghế quốc hội thôi. Nếu muốn
đạt 60% thì tự họ phải tự giành lấy. Phần dư ra của số
ghế thưởng chúng ta sẽ chia theo % theo kết quả bầu cử
tỉ lệ cho các đảng đối lập. Ta có ba ví dụ sau:

3.1 Đảng chiến thắng với 39% phiếu, như vậy ta sẽ


thưởng hết 10% ghế cho họ, tức lúc này họ sẽ có 49%
ghế để tạo thành một quốc hội mạnh.

143
Phản đề | Trần Văn Đức

3.2 Đảng chiến thắng với 49% ghế, ta chỉ cho họ 6%


để tạo thành 55%, 4% còn lại chia theo tỉ lệ phiếu bầu
của các đảng đối lập.
3.3 Đảng chiến thắng với 70% ghế, như vậy chúng ta
sẽ lấy 10% ghế từ cách bầu cử theo tỉ lệ của đảng này,
chia cho các đảng đối lập. Lúc này các đảng đối lập
được thưởng 20% số ghế theo tỉ lệ, do có 10% nữa đến
từ số ghế thưởng.
Với việc chỉ dùng 10% ghế quốc hội để thưởng, thì nó
cũng không có gì để cho là bất công.
Và cũng cần lưu ý thêm rằng để tránh rắc rối, chúng
ta nên ghi rõ ràng, 10% ghế thưởng này là dành cho
đảng có nhiều phiếu nhất, chứ không phải liên minh
đảng có nhiều phiếu nhất. Tránh tình trạng các đảng biết
mình thua nên dở trò kiếm thêm ghế từ 10% thưởng
này.
4. Như cách bầu phiếu trên, chúng ta cũng có các đảng
đối lập có tiếng nói khá lớn trong quốc hội, mặc dù họ
có thể không có thực quyền. Nhưng thông qua những
lần tranh luận ở quốc hội và các phương tiện truyền
thông, tiếng nói của họ sẽ đến được với dân chúng để
người dân đánh giá, tiến hành bỏ phiếu những lần sau,

144
Phản đề | Trần Văn Đức

cũng như tiếng nói của đảng đối lập được đảng cầm
quyền lắng nghe và phân tích. Tại đây chúng ta cũng
phải cung cấp cho họ những công cụ quyền lực như:
4.1 Quyền đề xuất các dự luật: Đảng chiến thắng có
thể phủ quyết các dự luật đó, nhưng không thể không
bàn bạc tại quốc hội, một khi đảng đối lập yêu cầu.
4.2 Quyền sử dụng các phương tiện truyền thông
ngang hàng với đảng chiến thắng.
4.3 Quyền được chất vấn công khai thủ tướng và nội
các của thủ tướng. Thủ tướng và nội các không thể từ
chối. Đồng thời người lãnh đạo đảng đối lập cũng được
cung cấp một kênh liên lạc riêng để lắng nghe ý kiến
của người dân cả nước, để xem đảng chiến thắng có
thực sự làm tốt hay không. Việc có kênh liên lạc riêng
và quyền được chất vấn sẽ tạo thành một quyền lực
mềm giám sát đảng chiến thắng.
4.4 Các đảng đối lập có quyền thành lập nội các, nội
các này cũng được trả lương, có đầy đủ ban ngành,
nhưng nhỏ hơn và chỉ có việc tư vấn, theo dõi, giám sát
nội các của đảng chiến thắng, không có thực quyền.
5. Còn về tổng thống thì sẽ do thượng viện bầu ra (nếu
là lưỡng viện) hoặc quốc hội bầu nếu đơn viện. Tổng

145
Phản đề | Trần Văn Đức

thống trong chế độ đại nghị chủ yếu mang tính đại diện,
không có thực quyền.

Tổng kết

Như vậy chúng ta đã xem xét một cách tổng quát các
thể chế và hệ thống bầu cử trên thế giới. Với thể chế thì
chúng ta dễ dàng lựa chọn chế độ đại nghị. Thế nhưng
với hệ thống bầu cử, bắt buộc chúng ta phải đánh đổi
giữa tính công bằng, khả năng đại diện trong bỏ phiếu
lấy một quốc hội mạnh, ổn định hỗ trợ tối đa cho thủ
tướng để có thể làm được việc. Tôi cũng đã đề xuất hệ
thống bầu cử mà tôi cho rằng sẽ phù hợp cho Việt Nam
tương lai để người đọc tham khảo.

Nhiều người cho rằng các phương pháp bầu cử tôi liệt
kê ra không công bằng ngoài bầu cử theo tỉ lệ, nó thể
hiện được toàn vẹn ý nguyện của người dân. Tôi không
phản đối điều này, nhưng có thể nó sẽ là lần bầu cử dân
chủ cuối cùng, đường phía trước sẽ là màn đêm độc tài
chưa biết khi nào mới thoát ra được.

146
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 4
ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT

Định nghĩa:

Đạo đức là hệ thống các quan điểm được đúc kết qua
quá trình tiếp thu thông tin (kiến thức) từ bên ngoài của
cá nhân. Với cộng đồng thì đó là một hệ thống các quan
điểm (quy tắc) chung được đúc kết sau một thời gian
dài chung sống. Nó có tác dụng điều chỉnh hành vi cá
nhân sao cho đúng với lương tâm của mình, cũng như
đúng với quan điểm (chuẩn mực) chung của cộng đồng.

Đạo đức điều chỉnh hành vi bằng cách cộng đồng bày
tỏ thái độ, vui mừng, tức giận… đối với hành vi của các

147
Phản đề | Trần Văn Đức

cá nhân trong cộng đồng đó. Vậy nên đặc điểm của đạo
đức là khá chung chung và không rõ ràng.

Luật là một hệ thống quy tắc xử sự chung do tổ chức,


cộng đồng đặt ra để điều chỉnh hành vi của các cá nhân
thuộc tổ chức, cộng đồng đó. Nó điều chỉnh hành vi
bằng cách xử phạt theo quy định do tổ chức, cộng đồng
đó đặt ra.

Đặc điểm của pháp luật là sự rõ ràng, chặt chẽ cho từng
hành vi cụ thể, không giống như đạo đức, luật sẽ vô
hiệu nếu cá nhân tìm được kẽ hở trong các quy tắc đó
để lách luật.

Một đặc điểm khác là không ai có thể quy định hết các
hành vi trong từng trường hợp cụ thể, vì chúng quá
nhiều. Vậy nên, đôi khi luật được áp dụng một cách
máy móc, không uyển chuyển như đạo đức.

Ngược lại, đạo đức điều chỉnh hành vi dựa trên thái độ
của cộng đồng dành cho cá nhân, vậy nên nhiều khi nó
không đủ sức răn đe. Đặc biệt với những cá nhân có hệ
thống quan điểm khác với quan điểm của cộng đồng, thì
đạo đức gần như không có tác dụng. Đây lại là ưu điểm

148
Phản đề | Trần Văn Đức

của luật, nếu mức xử phạt thích đáng, thì khả năng điều
chỉnh hành vi của các cá nhân trong tổ chức, cộng đồng
khá cao.

Đây chính là sự bù khuyết giữa đạo đức và luật, một


bên có sự uyển chuyển nhưng khả năng điều chỉnh hành
vi không cao, một bên có sự điều chỉnh hành vi cao
nhưng lại không uyển chuyển. Vậy nên, trong việc điều
chỉnh hành vi của cá nhân trong tổ chức và cộng đồng,
người ta luôn phải đan xen giữa đạo đức và luật.

Pháp luật ngăn cản chúng ta làm điều xấu, phân định
các hành vi phạm tội một cách rõ ràng, và áp dụng cho
tất cả mọi người, tức mọi tầng lớp trong xã hội. Người
có ý đồ muốn phạm tội phải cân nhắc giữa lợi ích của
mình và cái giá phải trả, được quy định rõ trong luật
pháp, nếu bị phát hiện và xác xuất có thể bị phát hiện.
Nếu cái giá phải trả đủ lớn, thì về mặt lí trí, họ phải từ
bỏ hành vi của mình.

Đạo đức giúp khuyến khích những hành động tốt đẹp
của một cá nhân hay tập thể, bằng cách ghi nhận công
lao và tôn vinh họ. Nhưng đạo đức rất khó có thể hạn
chế những hành vi xấu, bởi quan điểm đạo đức của mỗi

149
Phản đề | Trần Văn Đức

cá nhân hay tập thể là khác nhau. Thứ duy nhất mà cộng
đồng có thể làm là bày tỏ thái độ với đối tượng mà cộng
đồng cho rằng đối tượng đó hành động không đúng về
mặt đạo đức. Điều này trong nhiều trường hợp không
đủ sức răn đe đối với đối tượng mà cộng đồng cho rằng
hành vi của họ là trái với đạo đức.

Ví dụ: Khi bạn nhìn thấy một người mẹ đang đánh con
của mình giữa đường, bạn muốn ngăn cản người mẹ đó
thì bạn phải làm thế nào.

Nếu bạn nhân danh đạo đức rằng đánh đập bạo hành
con cái là xấu, họ sẽ trả lời bạn rằng họ đang giáo dục
con cái của họ và hành vi này không liên quan đến bạn.
Rõ ràng ở đây đạo đức bộc lộ yếu điểm của mình, bởi vì
quan điểm đạo đức của bạn và họ khác nhau.

Còn nếu bạn nhân danh pháp luật, nói rằng người mẹ
kia đánh đập con của mình là phạm pháp, và nếu bạn tố
giác thì người mẹ sẽ bị xử lí theo pháp luật. Ở đây, nếu
khung hình phạt đủ mạnh, thì rất có thể bạn sẽ ngăn cản
được hành vi xấu này.

150
Phản đề | Trần Văn Đức

Qua ví dụ trên, ta có thể thấy rằng, đạo đức và pháp luật


là hai phạm trù tương hỗ bổ sung, không thể tách rời
nhau, một mặt hạn chế hành vi xấu, một mặt khuyến
khích hành vi tốt. Vậy nên, trong một quốc gia có các
giá trị đạo đức - pháp luật hợp lí, phổ quát và công
bằng, đất nước đó nhất định phát triển.

Hợp lí có nghĩa là hình phạt hay phần thưởng phải


tương xứng với thiệt hại hay lợi ích mà một người hay
nhóm người gây ra cho cộng đồng. Không thể quy định
một người phạm tội đánh người khác với thương tích
nhẹ lại bị tử hình, trong khi giết người lại chỉ bị đi tù vài
tháng. Nếu quy định như thế này được đưa ra, chắc
chắn nó sẽ đưa đến những hành vi lệch lạc của công dân
trong xã hội.

151
Phản đề | Trần Văn Đức

NGUỒN GỐC CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ LUẬT

Có bao giờ bạn thắc mắc là tại sao con người chúng ta
không sống riêng rẽ mà lại sống thành cộng đồng?

Câu trả lời thực ra rất đơn giản, sống thành cộng đồng
mặc dù cũng có một số mất mát, nhưng về tổng quan,
sống thành cộng đồng mang lại cho cá nhân nhiều lợi
ích hơn so với việc tách ra sống đơn lẻ.

Vậy mất mát đó là gì?

Để cộng đồng có thể tồn tại và phát triển, thì cộng đồng
cũng có những quy tắc chung dành cho các cá nhân
trong cộng đồng đó. Mất mát của cá nhân là phải tuân
theo những quy tắc do cộng đồng đặt ra, nếu không sẽ
bị phạt theo quy định.

Quy tắc mà cộng đồng đặt ra cũng đơn giản. “Bất cứ cá


nhân nào có hành vi gây tổn hại đến sự tồn tại và phát
triển của cộng đồng, thì đều sẽ bị phạt, và ngược lại,
nếu cá nhân nào đóng góp cho sự phát triển của cộng
đồng thì sẽ được cộng đồng đó thưởng”.

Đây chính là nguồn gốc của đạo đức và luật.

152
Phản đề | Trần Văn Đức

Như chúng ta đã biết, đạo đức hoàn toàn là một hệ


thống quan điểm của một cộng đồng nào đó, vậy nên
các quan điểm về đạo đức của cộng đồng này chưa chắc
đã đúng, nếu so với quan điểm của cộng đồng khác.
Tức là, các quan điểm ngẫu nhiên về đạo đức của nhiều
cộng đồng khác nhau không thể làm tiêu chuẩn để tạo
thành luật, vì luật vốn đặt nặng tính công bằng.

Để làm nền tảng tạo thành luật, người ta phải khái quát
hóa các quan điểm đạo đức, hình thành các hệ thống lý
thuyết chặt chẽ dựa trên quy tắc gốc mà cộng đồng đặt
ra cho từng cá nhân. Nhân loại đã hình thành nên hai
chủ thuyết đạo đức chính, đó là thuyết vị lợi và chủ
nghĩa tự do cá nhân.

Chủ nghĩa vị lợi cho rằng, hành động tốt nhất là hành
động đạt được một cách cao nhất những gì được cho là
hữu ích, lợi ích với cùng một mức chi phí bỏ ra. “Lợi
ích” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau,
thường là theo thuật ngữ “cảm xúc tích cực của các sinh
vật sống”, như là con người hay các động vật khác.

Chủ nghĩa vị lợi giải thích một cách đơn giản thì đó
chính là vấn đề “chi phí – lợi ích”, tức là bất cứ phương

153
Phản đề | Trần Văn Đức

án giải quyết nào mà lợi ích nhiều hơn chi phí bỏ ra thì
đều nên làm. Chủ nghĩa này được áp dụng rộng rãi
trong kinh doanh.

Thoạt nhìn thì chủ nghĩa này có vẻ hoàn toàn đúng, nhưng
thực ra nó vẫn có nhược điểm.

Ví dụ: Giả sử rằng có 5 người bị tai nạn giao thông và


phải nhập viện, mỗi người bị hỏng một cơ quan nội tạng
khác nhau trong cơ thể. Bệnh viện hoàn toàn không có các
cơ quan nội tạng dự trữ để thay thế. Điều này có nghĩa là 5
bệnh nhân này đang đối mặt với nguy cơ tử vong. Tuy
nhiên vẫn có một giải pháp khác, đó là giết một người
trong số 5 người và lấy nội tạng thay thế cho 4 bệnh nhân
còn lại, và nhờ vậy, 4 bệnh nhân đó sẽ được cứu sống.

Theo thuyết vị lợi thì điều này hoàn toàn nên làm, còn theo
bạn, sẽ chọn nên hay không nên làm như vậy? Vì sao?

Chúng ta xét chủ thuyết thứ hai, đó là thuyết tự do cá


nhân. Nhưng trước tiên chúng ta phải tìm hiểu tự do là
gì, thông qua trích đoạn trong bài viết “Tự do và Tự do
cá nhân” sau đây:

154
Phản đề | Trần Văn Đức

Tự do là một chữ bao hàm rất nhiều ý nghĩa, có thể


gợi lên những tình cảm mãnh liệt và sự nhiệt thành
hăng hái của quần chúng, ngay cả những lúc họ
chưa rõ nghĩa. Chữ ấy đã được bao nhiêu dân tộc
cương cường nêu cao: “Sống tự do hay là chết”. Đó
là lời thề của các chiến sĩ trong cuộc Cách mạng
Pháp. Đó là lời thề chung của những tâm hồn khí
khái mong thoát ly ra ngoài vòng áp chế, nô lệ. Tự
do là một lý tưởng đẹp đẽ của loài người, một ngôi
sao dẫn đường cho nhân loại, cao quý và sáng láng,
từ ở bên Tây phương theo văn minh Âu châu đến
chiếu rõi hang cùng ngõ hẻm của Viễn Đông, làm
sôi nổi tâm can hàng ức triệu người đương chìm
đắm trong giấc mê ngàn năm.
Một chữ có sức mạnh như thế, ta cần phải phân
tách giảng giải cho rõ nghĩa. Có nhiều người vô
tình dùng sai nghĩa, khiến cho nhiều kẻ cố ý mạt sát
vịn vào đấy để chê bai ý tưởng tự do, mà họ cho là
cùng một nghĩa với sự phóng túng.
Theo nghĩa đen thì tự do là quyền muốn làm gì thì
làm, không có gì ngăn cản được.
Nhưng sự tự do hoàn toàn, tuyệt đích như vậy không
có. Là vì, trước sự tự do của người này, còn có sự tự
do của người khác, những quyền tự do ấy làm giới
hạn lẫn cho nhau. Ta có quyền làm nẩy nở bản năng
của ta, nhưng sự nẩy nở ấy không được phương hại
đến bản năng của người cạnh ta. Đó là một nguyên

155
Phản đề | Trần Văn Đức

tắc hợp với công lý và với sự kính trọng nhân phẩm


của “con người”.
Làm khác đi, nghĩa là chỉ nghĩ đến sự tự do riêng
của mình, cố mà phát triển ra, dẫu có hại đến sự tự
do của người khác cũng mặc, ấy là sự phóng túng.
Sự phóng túng, mà nhiều người lầm với tự do, lẽ tự
nhiên là một điều bỉ ổi. Mà sự phóng túng, trong
lịch sử, dễ thường ta chỉ kiếm ra được hai ví dụ:
Một là người Bản cổ, ăn lông ở lỗ, sống một mình,
tự do một cách triệt để; hai là những ông hoàng đế
chuyên chế, uy quyền vô hạn, có thể dùng sự tự do
của họ cho đến phóng túng, mặc cho việc sử dụng
ấy làm hại đến tự do, đến sinh mệnh của thần dân.
Tự do của một người thích hợp với sự tự do của
người khác đã đành, lại còn phải thích hợp cả với
sự sống còn của xã hội nữa. Người ta sinh ra trong
xã hội, được xã hội bảo vệ cho quyền lợi, hẳn là cần
phải bảo vệ lại xã hội. Nếu sự phát triển của tự do
riêng một người có phương hại cho cả xã hội, thí dụ
như vấn đề vệ sinh chung, thì sự phát triển ấy không
thể có được.
Nói tóm lại, tự do là quyền làm hết mọi việc không
có phương hại đến người khác và xã hội. Đó là
nghĩa của sự tự do, theo tờ tuyên ngôn của Đại
Cách Mệnh Pháp. Giới hạn của tự do người này,
chính là sự tự do của người khác, và giới hạn ấy,
chỉ có một đạo luật, do toàn thể xã hội ưng chuẩn,

156
Phản đề | Trần Văn Đức

mới có thể định được, cho nên “Tất cả mọi điều mà


luật không cấm là không ai ngăn không cho làm
được, và không ai có thể bị buộc phải làm những
điều mà luật không bắt làm”.
Nguồn: Tự Lực Văn Đoàn –
Báo Ngày Nay, số 169 ngày 8/7/1939
Tác giả: Hoàng Đạo
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tu-do-
va-tu-do-ca-nhan.html#

Vậy thì tự do cá nhân là gì? Các nhà triết học theo chủ
nghĩa tự do cá nhân tin rằng cá nhân mới là tối cao, chứ
không phải nhà nước hay bất cứ tổ chức nào.

Như vậy có nghĩa rằng, ngoài việc xâm phạm đến


quyền tự do của người khác, thì bạn có quyền được làm
bất kể việc gì mình muốn. Ngược lại, nếu người ngoài
muốn xâm phạm vào quyền tự do của bạn phải được sự
đồng ý của bạn.

Quay lại ví dụ về 5 người bị tai nạn giao thông và phải


nhập viện mà tôi đã nêu ở phần trên, với quan điểm về
chủ nghĩa tự do cá nhân, chúng ta thấy rằng, bởi vì cá

157
Phản đề | Trần Văn Đức

nhân là tối thượng, vậy nên nếu không được sự đồng ý


của riêng cá nhân nào đó, thì không ai được quyền giết
cá nhân đó để cứu 4 người còn lại.

Mặc dù chúng ta biết rằng, nếu không được cứu thì 5


người sẽ cùng chết, tổn thất rất lớn nếu so với một
người chết.

Tóm lại, nền tảng của đạo đức và luật được đặt trên
hai chủ thuyết là “thuyết vị lợi” và “thuyết về tự do”.

Ở phần trên tôi có viết rằng “thuyết vị lợi” và “thuyết tự


do” là hai học thuyết làm nền tảng cho đạo đức và pháp
luật, nhưng nó chỉ đúng khi xã hội tương đối ổn định,
không gặp sự đe dọa diệt vong nào!

Bây giờ ta giả sử rằng: Trái Đất vì một lí do nào đó, ví


dụ bị một thiên thạch va chạm, vụ nổ gây nên khói bụi
che phủ bầu khí quyển dẫn đến ánh sáng chiếu xuống
mặt đất bị giảm, nhiệt độ giảm đột ngột, gần như toàn
bộ thực vật, động vật bị tiêu diệt, loài người cũng đang
đứng trước nguy cơ tồn vong vì bị mất đi nguồn thức ăn
của mình. Nguồn thức ăn ngoài tự nhiên đã mất, nguồn
thức ăn dự trữ thì đang vơi đi nhanh chóng, trong khi

158
Phản đề | Trần Văn Đức

chưa biết đến khi nào khói bụi trong bầu khí quyển sẽ
tan.

Con người chỉ còn hai lựa chọn:

1. Con người vẫn tôn trọng quyền tự do của nhau, và


dẫn đến nhân loại sẽ diệt vong vì thiếu thức ăn.

2. Con người sẽ ăn thịt đồng loại của mình, hơn nữa,


phải ăn thịt một cách có trình tự, chứ không phải chém
giết một cách hỗn loạn, mới đảm bảo cơ hội sống sót ở
mức cao nhất.

Đầu tiên là sẽ ăn thịt người già, bởi nếu để người già


sống sót thì sau này cũng không còn khả năng sinh sản
để duy trì nòi giống.

Nếu ăn hết người cao tuổi, sẽ chuyển sang ăn thịt những


đứa trẻ, từ nhỏ tuổi nhất ăn dần lên, bởi nếu người lớn
chết hết thì những đứa trẻ ấy cũng sẽ chết vì không có
khả năng tự chăm sóc mình.

Cứ như vậy sẽ ăn, và thu hẹp lứa tuổi xuống độ tuổi


thanh niên, bởi đây là độ tuổi khỏe mạnh, cũng như có
khả năng sinh sản tốt nhất, để đảm bảo có khả năng gây
dựng lại loài người sau khi đại nạn đi qua.

159
Phản đề | Trần Văn Đức

Tuy nhiên, nếu ăn hết trẻ em, lỡ như đại nạn kéo dài
quá, thì nhân loại sẽ không có người kế tục. Mà tuổi
thanh niên cũng sẽ già, sẽ dẫn đến sự diệt vong của loài
người. Như vậy phải cân nhắc hết sức chặt chẽ, nên ăn
ở những lứa tuổi nào, trai hay gái, ăn số lượng bao
nhiêu…

Vấn đề là, trong số những người bị giết có người tự


nguyện (không tính trường hợp này), nhưng cũng có
người không tự nguyện. Nhất là những đứa trẻ, chúng
hoàn toàn bị động trước vấn đề.

Vậy thì giết họ là đang tước đoạt đi quyền tự do vốn có


của họ, có nên làm hay không?

Nếu bạn là lãnh đạo trong hai trường hợp trên bạn sẽ
lựa chọn trường hợp nào?

Với cá nhân tôi thì tôi sẽ chọn trường hợp hai.

Lí do cũng rất đơn giản, nếu nhân loại biến mất sẽ


không còn ai biết về loài người nữa, mọi thứ chấm hết.
Thế nhưng, nếu như chúng ta làm mọi thứ để nhân loại
có tương lai, thì dù con cháu chúng ta có nghiệt ngã khi

160
Phản đề | Trần Văn Đức

đọc những trang sử đen tối đó, mọi thứ đều có thể được
sữa chữa, bù đắp, nếu tương lai còn tiếp diễn.

Nếu tương lai không còn, cơ hội sửa chữa bằng không.

Cũng như vậy đối với nòi giống, dân tộc, không cần
biết bạn nhân danh điều gì, chính nghĩa gì, nhưng đưa
bất kì dân tộc nào vào sự đe dọa tồn vong thì đều là sai,
nhất là trong thời hiện đại ngày nay. Cái sai đó không
thể sửa chữa được.

Hãy nhớ rõ điều này, trong việc tìm ra một con đường
cho Việt Nam tương lai, mà phần sau chúng ta cũng sẽ
có bàn đến.

161
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 5
BA YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
LỚN ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC

Đây là ba yếu tố chủ chốt, càng làm tốt thì đất nước
càng phát triển.

1. Tự do ngôn luận.

2. Phân công lao động.

3. Công bằng xã hội.

162
Phản đề | Trần Văn Đức

1. Tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận là quyền trình bày một ý kiến rõ ràng


mạch lạc của một người nào đó, mà không sợ sự trả thù
hoặc sự kiểm duyệt của chính quyền, hay chịu sự trừng
phạt của xã hội.

Nói cách khác bạn có quyền nói và tuyên truyền về bất


cứ tư tưởng, suy nghĩ, ý kiến nào, mà không sợ bất cứ ai
làm gì bạn, trừ những lời lẽ mang tính chất đe dọa, vu
cáo, khủng bố đến những người khác. Bạn có thể tìm
hiểu thêm về nhân quyền, trong phần quyền dân sự có
ghi rõ rằng “Con người có quyền tự do tư tưởng, tự do
lương tâm, tự do quan niệm và phát biểu quan điểm”.

Điều quan trọng nhất của tự do ngôn luận là người ta


có quyền trình bày những ý kiến, tư tưởng trái chiều với
số đông trong cộng đồng. Về mặt lí luận, chúng ta phải
chấp nhận một điều rằng, không ai hoàn hảo về mặt
nhận thức. Thế nên chúng ta cần những ý kiến khác
nhau, để có cái nhìn tổng quan về vấn đề mà chúng ta
đang quan tâm, từ đó tiến gần hơn đến sự thật.

163
Phản đề | Trần Văn Đức

Về mặt xã hội những ý kiến trái chiều là những nguyên


liệu cơ bản để phát triển xã hội. Hãy tưởng tượng một
xã hội mà không ai có ý kiến khác, tức là xã hội đó
không có một ý tưởng nào để cải tiến vấn đề, xã hội
ngay lập tức dừng lại không phát triển nữa. Từ đây
chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của tự do ngôn luận.

Một ví dụ của ý kiến trái chiều là tác phẩm dân gian


“thầy bói xem voi”. Giả sử các thầy bói mù đều không
biết con voi trông như thế nào. Sau khi cho xem voi,
mỗi ông hình dung con voi theo một cách khác nhau.
Ông thì hình dung con voi giống như con đỉa to (cái
vòi), ông thì hình dung nó giống như cái quạt lớn (tai),
ông thì bảo nó giống như cột đình (cái chân)....

Bây giờ các ông ấy đến tranh luận với nhau và đều nhận
ra chỗ còn thiếu của mình, rất có thể họ sẽ hình dung ra
được con voi thật sự, hoặc ít nhất là phác họa ra được
hình ảnh cơ bản của con voi.

Tuy nhiên, ta giả sử một trường hợp khác, trong số các


ông thầy bói có một ông có địa vị và quyền lực cao hơn.
Ông ta tuyên bố rằng con voi giống như con đỉa to và
các ông khác không được cãi (vi phạm quyền tự do

164
Phản đề | Trần Văn Đức

ngôn luận). Thì có lẽ các ông ấy suốt đời không biết con
voi thật sự là như thế nào? Tức là các ông thầy bói sẽ
không gia tăng được nhận thức của mình.

Những thứ thuộc phạm trù kiến thức, tư tưởng, bạn có


thể hưởng ứng hoặc lên án, thậm chí có thể nhạo báng
khi người khác có những ý kiến không đúng hoặc
không giống bạn, nhưng bạn không thể dùng hình phạt
để xử lí họ, cho dù bạn nhân danh bất kì điều gì.... Mọi
người được tự do theo đuổi các niềm tin, lý tưởng, các
trường phái khoa học, triết học hay tôn giáo khác nhau,
mà không một ai có quyền cấm đoán. Chúng ta có thể
không đồng ý, nhưng không thể bắt ép người khác nghe
theo chúng ta, bởi đó là quyền chính đáng của họ.

Đối với học sinh thì nhà nước có thể ra các chương trình
khung (kiến thức bắt buộc). Bởi vì các em chưa có nhận
thức, chúng ta là người từng trải hơn, chúng ta phải có
nghĩa vụ định hướng cho các em, để các em sớm được
trang bị kiến thức cần thiết cho cuộc sống sau này. Thế
nhưng khi các em học xong các kiến thức đó, hoặc đến
một độ tuổi nhất định, chúng ta phải để các em tự do tìm
hiểu, theo đuổi những thứ mình thích, đó là quyền lợi

165
Phản đề | Trần Văn Đức

của các em. Cũng như vậy, các trường phái triết học, tôn
giáo cũng không được ngăn cấm bất cứ ai tìm hiểu và
gia nhập các trường phái triết học, tôn giáo khác.

Quyền tự do ngôn luận là hệ quả của hai tiên đề.

1. Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng trước nhau.

2. Đã là con người không ai là hoàn hảo cả, hiểu theo


mọi khía cạnh. Mỗi người đều có điểm mạnh, điểm
yếu riêng không ai giống ai.

Từ 1 và 2 dẫn đến một hệ quả là, trong một cộng đồng,


từng cá nhân đều vừa phụ thuộc vừa độc lập với nhau
theo từng mức độ. Tức là, hành động của một người thì
đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến những người
còn lại trong xã hội.

Bàn luận một chút đến lập luận của Karl Marx, ông cho
rằng, mâu thuẫn là động lực phát triển xã hội, thực ra
điều này không đúng. Nếu nói đến mâu thuẫn thì nó chỉ
có một trường hợp, cái này đúng thì cái kia phải sai.
Tức là A đúng thì B phải sai hoặc B đúng thì A phải sai
và hệ quả của mâu thuẫn là dẫn đến xung đột.

166
Phản đề | Trần Văn Đức

Ở đây ông bỏ sót một điều, mà điều đó lại quan trọng


nhất, đó là trường hợp A đúng một phần, B đúng một
phần. Trong trường hợp này, hệ quả của nó là hai bên
phải bàn bạc, lắng nghe ý kiến của nhau mới có thể dẫn
đến kết quả tốt nhất. Tức là, thay vì lấy mâu thuẫn và
xung đột làm động lực phát triển, thì phải lắng nghe
những ý kiến trái chiều làm động lực cho sự phát triển.
Cũng tức là tôn trọng quyền tự do ngôn luận!

Trong cuốn “Bàn về tự do” John Stuart Mill4 cho rằng


đối thoại tự do là điều kiện cần thiết cho sự phát triển trí
tuệ và tiến bộ xã hội. Ông bàn rằng, chúng ta không thể
khẳng định một quan điểm bị trấn áp là quan điểm
không chứa đựng sự thật. Ông cũng cho rằng việc cho
phép người khác đưa quan điểm sai lệch là tốt, vì hai lí
do: Thứ nhất, cá nhân có xu hướng từ bỏ những niềm
tin sai trái nếu họ tham gia trao đổi cởi mở. Thứ hai,

4 John Stuart Mill (1806 – 1873), thường được viết dưới tên J. S. Mill, là nhà triết học,
kinh tế chính trị và là công chức người Anh. Là một trong những nhà tư tưởng gây ảnh
hưởng nhất lịch sử chủ nghĩa tự do, ông đóng góp trong nhiều lĩnh vực như lí thuyết xã
hội, kinh tế chính trị, lý thuyết chính trị, và kinh tế chính trị. Mill được coi là "Nhà triết
học Anh ngữ lớn nhất thế kỉ 19". Tư tưởng của ông về tự do bảo vệ cho quyền tự do cá
nhân đối lập với mô hình cho phép quyền lực nhà nước là vô hạn và kiểm soát xã hội.
Là thành viên của Đảng Tự Do, Mill cũng là thành viên thứ 2 của Quốc hội Anh kêu gọi
cho quyền bầu cử của phụ nữ sau Henry Hunt vào năm 1832.

167
Phản đề | Trần Văn Đức

buộc những cá nhân khác phải tự kiểm tra và tự khẳng


định niềm tin trong quá trình tranh luận, những niềm tin
ấy sẽ không rơi vào độc đoán. Với Mill, một quan điểm
không thể vô tình trở nên đúng; cá nhân phải hiểu vì sao
niềm tin ấy đúng. Trong quá trình này, Mill viết: "Lời
lăng mạ vô lí mà bên mạnh hơn sử dụng sẽ thực sự ngăn
cản người khác bộc lộ quan điểm đối lập và tước đi của
chính họ quyền lắng nghe những người này".

2. Phân công lao động (PCLĐ)

Phân công lao động khiến cho từng cá nhân phụ thuộc
vào cộng đồng, thế mạnh của từng cá nhân sẽ được họ
phát huy hết cỡ khi có thêm thời gian để học tập, rèn
luyện. Ngược lại, giao phó những thứ không thuộc sở
trường của mình cho những người khác. Phân công lao
động cũng gián tiếp thừa nhận rằng con người không ai
là hoàn hảo.

PCLĐ biến một người sống tự cấp, tự túc thành một


người sống phụ thuộc vào cộng đồng. Trong xã hội, mỗi
cá nhân đều có một chức năng riêng, không ai có thể
sống tự cấp, tự túc được nữa. Vì tất cả mọi người đều
cần sự trợ giúp và ủng hộ của những người khác.

168
Phản đề | Trần Văn Đức

“Khi một làng đã chia thành các phe nhóm, ông thợ

rèn vào phe bên này, còn ông thợ giày vào phe bên

kia. Thì một bên sẽ khổ vì không có giày, còn bên

kia sẽ khổ vì không có công cụ, vũ khí. Điều này

có nghĩa là chiến tranh triệt tiêu sự phân công lao

động. Việc phân công lao động chỉ có thể xảy ra

trong xã hội mà người ta tin rằng sẽ có hòa bình

kéo dài. Phân công lao động chỉ có thể phát triển

khi an ninh được đảm bảo, không có điều kiện tiên

quyết như thế, quá trình phân công lao động không

thể vượt quá ranh giới một ngôi làng hay thậm chí

một gia đình. Phân công lao động giữa thành thị và

nông thôn, người nông dân cung cấp lương thực

cho thành thị để đổi lấy những món hàng do người

thành thị làm ra. Giả định rằng nền hòa bình được

đảm bảo ít nhất trong khu vực đó. Nếu phân công

169
Phản đề | Trần Văn Đức

lao động bao trùm lên cả nước thì ít nhất nội chiến

phải bị loại bỏ, còn khi phân công lao động bao

trùm lên thế giới thì phải đảm bảo được nền hòa

bình giữa các quốc gia.

Trích: “Chủ nghĩa tự do truyền thống”

Tác giả: Ludwig von Mises (1881-1973)5

Một trong những ưu điểm lớn nhất của PCLĐ là nó dẫn


đến chuyên môn hóa, tức là mỗi cá thể tồn tại trong xã
hội không thể một mình và tự làm tất cả mọi việc được,
bắt buộc họ phải hợp tác với những người khác. Đơn
giản, họ chỉ cần làm những việc mà họ cảm thấy làm

5 Ludwig Heinrich Edler von Mises nhà kinh tế học Trường phái Áo, nhà sử học, nhà luận
lý học và nhà xã hội học. Mises viết và giảng dạy nhiều về đóng góp xã hội của chủ nghĩa
tự do cổ điển. Ông nổi tiếng về hành vi học, ngành nghiên cứu lựa chọn và hành động
của con người.
Mises di cư từ Áo tới Hoa Kỳ năm 1940. Từ giữa thế kỉ 20, phong trào chủ nghĩa tự do cá
nhân chịu tác động mạnh từ Mises. Học trò Friedrich Hayek (tác giả “Đường về nô lệ”)
coi thầy Mises là một trong những nhân vật chính chấn hưng chủ nghĩa tự do cổ điển sau
Thế chiến II.
Mises's Private Seminar là một nhóm hàng đầu các nhà kinh tế học. Nhiều cựu sinh viên,
trong đó gồm cả Hayek và Oskar Morgenstern, di cư từ Áo sang Hoa Kỳ và Anh Quốc.
Viện Mises ở Mỹ được thành lập để tiếp nối sự nghiệp giảng dạy của ông.

170
Phản đề | Trần Văn Đức

được và làm tốt, đồng thời giao những việc họ không có


khả năng hoặc làm chưa đạt yêu cầu cho những người
họ tin là sẽ làm tốt hơn họ ở lĩnh vực ấy.

Chính vì họ chỉ làm một số việc thuộc sở trường của họ


trong một xã hội đa ngành đa nghề, điều này dẫn đến
chuyên môn hóa. Từ chuyên môn hóa dẫn đến họ am
hiểu sâu hơn về những việc họ làm, điều này lại dẫn đến
những cải tiến để cải thiện công việc như làm nhanh
hơn, chất lượng hơn... và cuối cùng dẫn đến gia tăng
năng suất lao động. Mà như chúng ta đã biết, gia tăng
năng suất lao động dẫn đến gia tăng thu nhập và phát
triển kinh tế.

Tóm lại, nền kinh tế của một đất nước có phát triển
được hay không, phụ thuộc rất nhiều vào việc phân
công lao động trong nền kinh tế đó có hợp lí hay không.

Hiện nay nhiều người cho rằng phi thương bất phú
(không kinh doanh thì không giàu được). Từ lối suy
nghĩ này mà biết bao người tính cách không phù hợp
với công việc kinh doanh lại từ bỏ thế mạnh vốn có của
mình để tập tành buôn bán, khởi nghiệp, với hi vọng
mình sẽ giàu có, thành đạt hơn.

171
Phản đề | Trần Văn Đức

Thực ra, việc giàu có hay không, không phụ thuộc vào
bạn làm nghề gì, mà phụ thuộc vào việc bạn đóng góp
được bao nhiêu giá trị cho xã hội mà bạn đang sinh
sống, hay khả năng thay thế bạn bởi những thứ khác.
Bạn càng đóng góp nhiều giá trị cho xã hội, xã hội cũng
sẽ trả công lại cho bạn một cách tương xứng bằng nhiều
hình thức khác nhau. Trong một ngành nghề, năng lực
của bạn càng giỏi thì bạn càng khó bị thay thế và thu
nhập của bạn cũng theo đó mà tăng lên.

Tóm lại, để trở nên giàu có thành đạt chỉ có một con
đường duy nhất, đó là trở nên có giá trị cho xã hội. Và
cũng đừng cố gắng khắc phục yếu điểm về năng lực của
mình (nơi mà bạn không có năng khiếu). Bởi nếu cố
gắng khắc phục yếu điểm của mình, thì bạn giỏi lắm sẽ
trở thành người trung bình về mọi mặt. Mà trong xã hội
có sự chuyên môn hóa cao như hiện nay, trung bình về
mọi mặt cũng tức là dễ bị thay thế nhất.

Vậy nên đừng cố gắng khắc phục nhược điểm, hãy chấp
nhận nó, giao nó lại cho những người giỏi hơn bạn và
cố gắng phát huy thế mạnh của mình để trở nên không
thể bị thay thế.

172
Phản đề | Trần Văn Đức

3. Công bằng xã hội

Công bằng xã hội có nghĩa là quyền lợi của người dân


phải được đảm bảo, ở đây có hai ý.

3.1 Sở hữu tư nhân: Mọi công dân phải được đảm


bảo tài sản, tức là cái gì của họ thì phải là của họ và họ
có toàn quyền sử dụng nó. Việc này phải được quy định
chặt chẽ trong các văn bản của pháp luật.

3.2 Những gì họ đóng góp cho xã hội, phải được trả


công xứng đáng về tài sản, danh dự, cũng như tạo điều
kiện để họ có thể tiếp tục cống hiến đúng với khả năng
của họ.

“Cây sáo tốt nhất phải trao cho người thổi hay nhất -
Aristoteles”. Nếu cảm thấy đối tác không đáp ứng được
yêu cầu của mình, họ có thể chọn phương thức bất hợp
tác, mà không ai có thể ép buộc.

Chỉ có như vậy người dân mới có thể yên tâm phấn đấu
phục vụ lợi ích cho xã hội. Một khi quyền lợi của họ
không được đảm bảo, tức là những gì họ nhận được
không tương xứng với những gì họ đóng góp cho xã
hội. Điều này là không công bằng, dễ gây tâm lí chán

173
Phản đề | Trần Văn Đức

nản. Từ đó mất đi động lực làm việc và gián tiếp làm


giảm năng suất lao động, kết quả là làm giảm sự phát
triển của xã hội.

Một người làm nhiều mà được trả ít hơn, điều đó có


nghĩa là tồn tại ít nhất một người làm ít, nhưng lại nhận
được nhiều hơn những gì họ xứng đáng. Điều này tạo
nên mâu thuẫn xã hội và khi mâu thuẫn này đủ lớn nó
có thể tạo nên sự bất ổn xã hội.

Ví dụ: Bạn đi làm lương 6 triệu/ tháng, thế nhưng hàng


tháng có một tổ chức cử người đại điện đến thu của bạn
3 triệu/ tháng, với hàng ngàn lí do. Nếu những lí do này
là chính đáng, có giám sát, báo cáo chi tiêu rõ ràng thì
không sao. Thế nhưng bạn phát hiện ra rằng, tất cả hoạt
động mà họ nói đó chỉ cần đóng 1 triệu/ tháng là đủ.
Vậy thì 2 triệu còn lại đã đi đâu? Cảm giác của bạn sẽ
thế nào?

Vi phạm công bằng xã hội tồn tại ở nhiều dạng khác


nhau, ví dụ: ăn cắp, ăn cướp, bóc lột, lừa đảo, sưu cao
thuế nặng, tham nhũng, ...

174
Phản đề | Trần Văn Đức

Vi phạm công bằng xã hội thường đi kèm với vi phạm


quyền tự do ngôn luận. Ví dụ: Những người ăn cắp cái
gì đó của bạn thường che giấu thông tin, không cho bạn
biết được là họ đã ăn cắp của bạn. Hoặc ai đó ăn cướp
của bạn thì thường sẽ đe dọa không cho bạn nói với
những người khác. Nếu bạn nói ra thì họ sẽ làm một cái
gì đó gây thiệt hại cho bạn. Điều này là đương nhiên,
bởi vì họ biết rõ nếu mọi chuyện bị bại lộ thì kết quả sẽ
không có lợi cho họ.

Tương tự như vậy ở các dạng khác, nếu họ đánh thuế


nặng lên bạn thì họ cũng nghĩ ra một lí do hợp lí nào đó
nhằm che mắt bạn, không cho bạn biết được sự thật
phía sau...

Một khi công bằng xã hội bị vi phạm, điều đó thể hiện


sự bất ổn xã hội, tức là có một cái gì đó bất công đang
tồn tại trong xã hội đó.

175
Phản đề | Trần Văn Đức

TÓM LẠI

Một đất nước phát triển là một đất nước có khả năng
phân công lao động tốt. Nhưng để có phân công lao
động tốt thì phải có công bằng xã hội để làm động lực,
và tự do ngôn luận giúp cho phân công lao động tự
động điều chỉnh những chỗ chưa hợp lí và từ đó xã hội
ngày một tốt hơn.

Nền kinh tế bao cấp của Karl Marx tuy có chút phân
công lao động, nhưng cơ chế trả lương bất cập nên
không thành công. Bởi vì dù lao động nhiều hay ít thì
cũng trả công bằng nhau.

Chiếu theo quy tắc chi phí - lợi ích, thì ở đây lợi ích mà
người lao động được hưởng là không đổi mà chi phí thì
tùy người.

Chiếu theo quy luật tối đa hóa cá nhân, thì vì lợi ích
không đổi nên người lao động tìm cách giảm chi phí đi,
tức là họ sẽ tìm cách giảm giờ làm đi. Mà khi giảm giờ
làm đi thì thời gian lao động trung bình sẽ giảm (thời
gian lao động thực sự tạo ra sản phẩm, bởi vì họ có thể
bị ép buộc đi làm đủ giờ nhưng họ sẽ tìm cách ngồi

176
Phản đề | Trần Văn Đức

chơi, không thực sự làm), dẫn đến năng suất giảm theo
và hệ quả là khủng hoảng kinh tế.

Ở đây quy luật bàn tay vô hình chạy theo chiều ngược
lại. Đó là nguyên nhân tại sao kinh tế bao cấp lại dẫn
đến nghèo đói.

Có người biện minh rằng, vậy tại sao, miền Bắc Việt
Nam thời chiến tranh cũng áp dụng kinh tế bao cấp mà
(một số) người dân lại lao động hăng say vậy?

Lí do cũng rất đơn giản, bởi vì họ được thôi thúc bởi


một lí tưởng cao đẹp hơn làm động lực, hi sinh tất cả
nhằm mục đích đánh đuổi quân thù, thống nhất đất
nước.

Nhưng khi chiến tranh kết thúc, động lực đó không còn,
mất đi động lực thì họ lại quay về đúng bản chất của
con người, và được dẫn dắt bởi quy luật bàn tay vô
hình. Và đây là lúc nhược điểm của nền kinh tế bao cấp
thể hiện rõ ràng.

177
Phản đề | Trần Văn Đức

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Giấc mơ “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” là


một giấc mơ đẹp nhưng không thật. Với lí luận rằng tất
cả mọi người trong xã hội vì nhau mà cố gắng, làm hết
khả năng mình có, không tị nạnh với người khác, không
vị lợi. Lúc khỏe thì làm, mệt quá thì nghỉ, không quan
trọng sản lượng mỗi người làm ra, miễn là mỗi cá nhân
đều đã cố hết sức làm việc. Với tinh thần như vậy, kỳ
vọng sản lượng của cải vật chất sẽ gia tăng nhanh
chóng, có thể đến mức dư thừa. Và nếu như được như
vậy thì sản lượng gia tăng nhanh chóng vượt qua tư bản
là hoàn toàn bình thường. Mọi người có thể tha hồ
hưởng thụ thành quả chung, tức là hưởng theo nhu cầu.
Toàn bộ lý thuyết về chủ nghĩa xã hội đặt trên nền tảng
xem con người là nhân văn, đặt các giá trị đạo đức lên
trên quyền lợi cá nhân. Vậy nên CNXH mới không cần
đa đảng, CNXH không cần hệ thống tiền tệ, hay các
công ty tư nhân. Thay vào đó là hệ thống hợp tác xã,
mọi người cùng chung sức lao động, tình nguyện và
không vụ lợi. Từ quan điểm đó, CNXH mới mạnh dạn
tuyên bố, nhà nước cũng sẽ tiêu biến. Bởi vì khi mọi

178
Phản đề | Trần Văn Đức

người đều tự giác, ý thức, đối xử tốt với nhau, thì không
cần ai quản lý nữa cả. Chính vì đặt trên nền tảng xem
con người là nhân văn nên CNXH mới vẽ nên một thiên
đường nơi hạ giới. Vậy tại sao tôi lại nói đây là một
giấc mơ đẹp nhưng không có thật. Đơn giản là lý thuyết
của nó đặt trên nền tảng sai. Như tôi đã phân tích và dẫn
chứng, bản chất của con người là vị lợi chứ không hề
nhân văn như CNXH từng đề cập. Chính vì vị lợi nên
mới có thuyết bàn tay vô hình trong kinh tế, chính vì vị
lợi nên mới phải đặt ra các cơ chế kiểm soát quyền lực,
ngăn không cho người ta lạm dụng quyền lực để trục
lợi. Chính vì vị lợi nên mới cần phải đa đảng để các
đảng tự kiểm soát nhau chứ không phải đơn đảng như
trong lý thuyết của CNXH. Dù sao CNXH cũng đã thu
hút được rất nhiều người thuộc tầng lớp thấp (công
nhân, nông dân), bởi họ là tầng lớp dễ tổn thương, chịu
nhiều bất công nhất trong xã hội. Giấc mơ về một thiên
đường CNXH đánh trúng tâm lý, niềm mong mỏi của
họ nên được họ ủng hộ. Việc cải cách ruộng đất năm
1953-1954, đấu tố địa chủ xảy ra rộng rãi như vậy, cũng
là đánh vào tâm lý đố kỵ với người giàu của tầng lớp
công - nông.

179
Phản đề | Trần Văn Đức

Như vậy, chúng ta cũng hiểu rằng Marx không hề xấu,


động cơ của ông hoàn toàn tốt đẹp, chỉ có điều nó
không phù hợp với bản chất con người. Đúng hơn thì
bản chất con người không hề tốt đẹp như ông đã kỳ
vọng.

Khi đã hiểu rõ nguyên nhân thì không khỏi buông một


tiếng thở dài… cho vận mệnh dân tộc ta.

Tôi cũng phải nói thêm rằng, nhiều người ca tụng


những mặt tốt về nhân cách của con người như: không
vụ lợi. Trên thực tế việc “không vụ lợi” không phải là
không có tiêu cực. Mặt tiêu cực của nó là khiến cho con
người muốn an phận thủ thường, thậm chí là xuất thế,
lánh đời. Ai cũng chỉ ăn uống đạm bạc, xong ngồi thiền,
thì xã hội không thể phát triển máy móc và công nghệ
như bây giờ. Chúng ta làm gì có điện thoại thông minh
có kết nối mạng. Hay bệnh viện hiện đại như ngày nay
chữa được hầu hết các bệnh mà ngày xưa không chữa
được. Một hệ thống giao thương toàn cầu, nâng cao
mức sống của người dân.

Ngược lại, vị lợi giúp con người ta nhập thế. Nhưng vị


lợi cũng là con dao hai lưỡi. Một mặt nó tạo động lực để

180
Phản đề | Trần Văn Đức

con người hăng say lao động sáng tạo, cải thiện đời
sống xã hội. Mặt còn lại nếu không có kiểm soát, con
người vì lợi ích của mình bỏ qua lợi ích của người khác
và làm hại đến xã hội.

Như vậy xã hội vị lợi là tốt nếu kiểm soát được nhược
điểm của nó. Còn xã hội không vị lợi, xã hội đó giống
như cục đá vậy. Không tốt, không xấu, không phát triển
và do đó cũng không có gì để nhận xét.

181
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 6
CHÚNG TA ĐÁNH GIÁ
NHƯ THẾ NÀO VỀ BỐI
CẢNH LỊCH SỬ DẪN
ĐẾN TÌNH TRẠNG CỦA
NƯỚC TA HIỆN NAY?

Đây là một việc rất khó khăn bởi vì mỗi cá nhân có một
góc nhìn khác nhau tùy thuộc vào nhận thức, cảm tình
của cá nhân đó, nhất là lịch sử thời kì cận đại, sự yêu
ghét dành cho hai bên VNCH và Cộng sản lại càng
phân cực, nhiều khi mù quáng. Điều này không có lợi
cho việc hòa giải và hòa hợp dân tộc, cũng không có lợi
cho việc phân tích hoạch định một con đường đi cho
Việt Nam chúng ta. Muốn đánh giá đúng về bối cảnh
lịch sử đòi hỏi chúng ta phải có một cái nhìn đủ rộng và
một cái tâm khách quan. Bởi lịch sử chỉ có một nhưng

182
Phản đề | Trần Văn Đức

nó lại bị phủ lên rất nhiều câu chuyện mang sắc màu cá
nhân, phe nhóm. Vậy nên nếu tâm bạn không tĩnh lặng
có thể sẽ bị cuốn vào những câu chuyện không hoàn
toàn thật đó mà đánh giá sai về lịch sử. Nếu bạn đã đọc
tới đây thì xin lưu ý đọc và đánh giá những phân tích
dưới đây của tôi một cách cẩn thận.

1. MỌI VIỆC XẢY RA ĐỀU HỢP LÝ

Theo thời gian, nền văn minh nhân loại phát triển từ sơ
khai cho đến hiện đại, tương ứng với việc con người từ
phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên cho đến làm chủ
thiên nhiên.

Trong quá khứ, việc tồn tại phụ thuộc vào thiên nhiên,
dẫn đến thiên nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến số phận
của nhân loại. Nếu thiên nhiên thuận lợi thì nhân loại
phát triển, con người bình đẳng, hòa đồng. Còn ngược
lại thì cuộc sống con người khó khăn, xã hội phân chia
giai cấp nặng nề.

Phân tích sâu hơn chút nữa, thì từng quốc gia, dân tộc
trong quá khứ đều có số phận (diện tích quốc gia, dân
số, văn hóa,…) phụ thuộc trực tiếp vào thiên nhiên.

183
Phản đề | Trần Văn Đức

Ví dụ:

Những dân tộc có cuộc sống gắn liền với biển, khi ra
khơi đánh bắt tính mạng khó được đảm bảo (không biết
sống chết lúc nào), thì thường hình thành nên lối sống
hưởng thụ và tính cách dũng cảm, liều mạng.

Với những dân tộc sinh sống trên mảnh đất được thiên
nhiên ưu đãi, thì thường có tính cách ôn hòa, tôn trọng
con người (yếu tố căn bản để tạo thành nền dân chủ).

Với những dân tộc không được thiên nhiên ưu đãi,


không thể trồng trọt, thì lại thường có lối sống du mục
và có tính cách hiếu chiến, uy hiếp và cướp bóc các dân
tộc khác (có chút lưu manh).

Với những dân tộc sống trong điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt (động đất, lụt lội,…) thì xã hội thường phân
hóa mạnh, bởi vì cần sự áp đặt mạnh mẽ lên ý chí người
dân trong công tác chống thiên tai. Trong những xã hội
này thì người dân rất đoàn kết và cũng dễ chấp nhận chế
độ độc tài.

Với những dân tộc có vị trí địa lí được thiên nhiên ưu


đãi, thì dân số phát triển nhanh hơn, và phải tìm cách

184
Phản đề | Trần Văn Đức

giải quyết các vấn đề của một xã hội có dân số đông ấy,
từ đó dẫn đến văn hóa phát triển hơn các dân tộc khác.
Khi một dân tộc có văn minh tân tiến hơn các dân tộc
xung quanh, nó thường có xu hướng mở rộng lãnh thổ
và đồng hóa các dân tộc lân cận, dù là vô tình hay cố ý.
Ví dụ: ảnh hưởng văn hóa lên các dân tộc khác, hòa
huyết với các dân tộc có dân số ít hơn, hoặc đánh
chiếm, đồng hóa ép buộc các dân tộc khác.

Với dẫn chứng trên, chúng ta dễ có kết luận rằng, những


dân tộc được thiên nhiên ưu đãi ban đầu, thường phát
triển sớm và đồng hóa các dân tộc khác, dẫn đến việc
họ trở thành các dân tộc tồn tại sau cùng.

Tuy nhiên, chừng này là chưa đủ để kết luận, vẫn tồn tại
những dân tộc vì phải vật lộn, thích nghi với thiên nhiên
nên đã phát triển những kỹ thuật, kỹ năng lên một tầm
cao hơn và nhờ thế không những bảo vệ được nòi giống
mà còn mở rộng lãnh thổ, ảnh hưởng lên các dân tộc
khác.

Hoặc có những dân tộc mà thiên nhiên không ưu đãi


giai đoạn đầu, nhưng với tài nguyên thiên nhiên mà họ

185
Phản đề | Trần Văn Đức

có, lại giúp họ có những bước ngoặt lớn trong quá trình
phát triển sau này.

Ví dụ: Mông Cổ vì có đất đai cằn cỗi không thể trồng


trọt lâu dài được, nên họ không thể định cư, bắt buộc họ
phải có lối sống du mục. Vì có lối sống du mục nên
cưỡi ngựa đã trở thành kỹ năng thiết yếu của người dân
Mông Cổ. Họ đã phát triển kỹ năng đó lên một tầm cao
hơn so với những dân tộc còn lại cùng thời. Lịch sử đã
chứng minh điều đó, kỵ binh Mông Cổ dưới sự lãnh đạo
của Thành Cát Tư Hãn đã tung hoành khắp các lục địa
Á, Âu.

Như vậy, chúng ta thấy rằng, văn hóa, cốt cách, thể chế,
vận mệnh của các dân tộc, không do dân tộc đó quyết
định, mà là do thiên nhiên nơi họ sinh sống quyết định.
Sự phát triển hay diệt vong của một dân tộc trong lịch
sử, nó đến như một lẽ tất yếu phải diễn ra.

Kể cả khi con người chế ngự được thiên nhiên, thì mọi
thứ đã xảy ra (việc đã rồi) cũng không có cách nào lấy
lại được, thứ con người có thể làm là linh hoạt ứng phó
trong cái sự đã rồi đó, để làm sao cho dân tộc của mình
có thể tồn tại và phát triển.

186
Phản đề | Trần Văn Đức

2. NHÀ TƯ TƯỞNG VÀ CHÍNH TRỊ GIA

Chiến tranh không phải là nơi của những nhà tư tưởng,


mà đó là nơi để những chính khách tỏa sáng.

Có thể hình dung việc dẫn dắt đất nước giống như việc
lèo lái con tàu đang đi trên biển. Một nhà tư tưởng là
người hoạch định xem con tàu sẽ đi thế nào để đến đích
nhanh và an toàn nhất. Nhà tư tưởng sẽ nói rằng “Ồ,
nếu đi theo hướng này con tàu sẽ đi qua một rặng núi
ngầm lớn. Chúng ta không nên đi, bởi rủi ro sẽ rất cao”.

Vậy còn chính khách thì sao, có thể ví họ như người lái
tàu, như một thuyền trưởng kinh nghiệm. Họ biết cách
ứng phó linh hoạt với những khó khăn vướng phải trên
đường đi để đảm bảo con tàu có thể đến đích an toàn.
Khác với nhà tư tưởng, ông không có tầm nhìn xa để
phác họa một lộ trình an toàn cho con tàu ngay từ khi
xuất phát. Nhưng nhà tư tưởng lại chỉ phác họa lộ trình
cho con tàu trên bàn giấy chứ không đi thực tế.

Như vậy ta có thể thấy một nhà tư tưởng và một chính


khách có những ưu nhược điểm riêng, và phải phụ

187
Phản đề | Trần Văn Đức

thuộc lẫn nhau, làm sao để giúp con tàu đến đích một
cách nhanh và ít tổn thất nhất.

Cũng cần hiểu rằng, hệ thống tư tưởng phải có trước,


tức là phải biết chúng ta sẽ đi như thế nào trước khi con
tàu khởi hành. Còn khi nó đã khởi hành thì đó là công
việc của chính khách (người lái tàu), không còn là công
việc của tư tưởng gia (người hoạch định lộ trình cho
con tàu).

Bây giờ ta hiểu vì sao Chính phủ của Trần Trọng Kim
lại nhanh yếu thế như vậy. Lí do ông là một nhà tư
tưởng chứ không có phẩm chất của một chính khách.

Nếu chọn người có phẩm chất của một chính khách nhất
Việt Nam trong thời cận đại, thì không ai khác ngoài Hồ
Chí Minh. Ông hội tụ mọi yếu tố như quyết tâm, dã
tâm, mưu kế, ứng biến linh hoạt… Từ thời trai trẻ ông
đã ôm hoài bão lớn ra đi tìm đường cứu nước, gian khổ
trùng trùng.

Ông có đầy dã tâm, sẵn sàng hi sinh những lợi ích mà


ông cho là nhỏ nhoi để đạt được thắng lợi cuối cùng.
Rất nhiều vụ thảm sát dân thường để bịt miệng, tránh bị

188
Phản đề | Trần Văn Đức

lộ thông tin. Hay đặt điều nói xấu phe đối lập (Việt
Nam Cộng Hòa, Việt Quốc, Việt Cách,…) để gây phẫn
uất trong lòng dân, tức là ông lừa cả nhân dân để đạt
được mục đích cuối cùng. Là một người thông minh,
ứng biến linh hoạt, lắm mưu nhiều kế, khác xa với vẻ
ngoài giản dị, gần gũi với người dân mà ông cố gắng
xây dựng.

Từ việc chọn sống ở nước ngoài cận biên giới Việt Nam
ngay từ khi mới bắt đầu manh nha Cách mạng, để tiện
đi lại lôi kéo những người khác tham gia vào đội ngũ
của mình. Đến việc sắp xếp cho những người đi theo
mình biết ẩn náu chờ thời, đồng thời xâm nhập vào các
cơ sở quan trọng để tuyên truyền gây dựng Cách mạng.
Có mắt nhìn người khi phát hiện ra được những tài năng
trong hàng ngũ, để sắp xếp những công việc phù hợp
cho họ. Biết tìm kiếm, tận dụng triệt để các nguồn lực
để có chi phí trang trải và phát triển Cách mạng.

Về phần mình, ông là một người lắm mưu nhiều kế, biết
tự gây dựng, đánh bóng hình ảnh của bản thân, như một
người giản dị, ăn uống điềm đạm, như một vị thánh
nhân, hết lòng lo cho dân, như cha già dân tộc…

189
Phản đề | Trần Văn Đức

Sử dụng kế biến khách thành chủ, lợi dụng uy tín của


vua Bảo Đại để gây dựng hình ảnh cho mình. Khi chưa
có uy tín thì ông mời vua Bảo Đại làm cố vấn cấp cao
cho đảng của mình, bất cứ nơi nào ông xuất hiện đều có
vua Bảo Đại đi cùng, nhằm lợi dụng Bảo Đại gây dựng
hình ảnh cho mình.

Khi hình ảnh của mình đủ lớn, và cảm giác như vua
Bảo Đại có thể kìm hãm mình, thì ông đuổi vua Bảo
Đại đi nước ngoài, không cho về nước. Đồng thời tung
tin rằng, Bảo Đại đi du lịch, ăn chơi, không màng đến
chính trị trong nước, để người dân chỉ còn biết có mỗi
Hồ Chí Minh (quả thật quá cao tay). Mọi thứ đã được
hoạch định một cách hoàn hảo.

Chỉ tiếc rằng, ông là một chính khách giỏi, nhưng tư


tưởng của ông lại quá dở tệ, khi không có khả năng
phản tỉnh lí tưởng Cộng sản và để cho chính nó mê
hoặc, dẫn dắt. Dù sao thì ông cũng chỉ đại diện cho tầng
lớp dân chúng Việt Nam, vốn rất linh hoạt trong công
việc nhưng lại thiếu tầm nhìn xa, cũng như khả năng lí
luận.

190
Phản đề | Trần Văn Đức

Một người dù tài năng đến đâu cũng không thể thoát nổi
tư tưởng của dân tộc. Những người có tầm nhìn vượt ra
xa ý thức của người dân, thì sẽ không được người dân
ủng hộ và cuối cùng cũng thất bại, Việt Nam Cộng Hòa
là một ví dụ đau đớn.

Ngày xưa, khi Ngô Quyền giành lại độc lập cho dân tộc,
thì không phải là Việt Nam ta may mắn có một người
như Ngô Quyền. Mà là nhận thức của dân tộc ta đã hội
tụ đủ để một người như Ngô Quyền xuất hiện. Hay việc
đóng cọc ở sông Bạch Đằng nó cũng không phải là một
kế sách lạ gì, mà nó kết tinh từ cuộc sống thường ngày
của dân tộc ta, đó là cuộc sống sông nước vốn đã quen
với việc thủy triều lên xuống. Đương nhiên đối với
những dân tộc khác vốn không quen cuộc sống sông
nước thì đó quả là một kế sách cao minh, không thể ngờ
đến được.

Viết như vậy để mọi người hiểu rằng, một người tài
năng xuất hiện và lãnh đạo đất nước đi đến thắng lợi,
vốn dĩ không phải là một may mắn gì, mà nó là kết tinh
của nhận thức dân tộc trong thời kỳ đó. Hay nói cách

191
Phản đề | Trần Văn Đức

khác, nhận thức của dân tộc đã hội tụ đủ, để một người
phù hợp xuất hiện và đi đến thắng lợi.

Một người có nhận thức vượt xa mức nhận thức của dân
tộc, vốn dĩ sẽ không được người dân chấp nhận và
không thể chiến thắng, nếu chỉ dựa vào sức mạnh nội tại
của dân tộc. Tức là nếu muốn chiến thắng họ phải mượn
một sức mạnh khác nằm bên ngoài dân tộc đó.

Viết vậy để người đọc nhận thức được rằng, việc lựa
chọn Chủ nghĩa Cộng sản không phải hoàn toàn do lỗi
của ông Hồ Chí Minh. Đúng ra đó là con đường đau
khổ nhưng tất yếu mà dân tộc ta phải đi qua.

Lí do là việc chuyển đổi từ thể chế phong kiến sang chế


độ dân chủ là một cuộc chuyển biến quá dữ dội, lại
trong thời gian ngắn, nhận thức của người dân (nói
chung) không tăng tiến theo kịp. Chỉ một số rất ít tầng
lớp trí thức mới có thể hiểu, tại sao lại cần dân chủ, còn
đa phần người dân không thể hiểu, mà cá nhân họ cảm
thấy cũng không cần hiểu những thứ như vậy.

Điều tệ hại nữa là những động cơ thúc đẩy sự chuyển


đổi về dân chủ đó, lại do sự áp đặt từ ngoại lực bên

192
Phản đề | Trần Văn Đức

ngoài, mà không phải từ nội tại bên trong dân tộc ta,
dẫn đến có sự đối kháng với các tư tưởng được du nhập
từ các thế lực bên ngoài đó.

Và điều tất yếu là quá trình quá độ về tư tưởng của


người dân thời đó rơi vào tư tưởng của Chủ nghĩa Cộng
sản. Những vấn đề này, tôi viết trong phần “Khi lỗi
thuộc về những vì sao” ở ngay sau đây.

Tóm lại, việc áp đặt chủ nghĩa độc tài Cộng sản lên dân
tộc chúng ta, không phải là lỗi lớn của cá nhân ông Hồ
Chí Minh. Đúng ra chính dân tộc ta đã lựa chọn điều đó,
vì sự nhận thức chưa hoàn chỉnh của dân tộc mình. Và
Hồ Chí Minh chỉ là người hiện thực hóa điều đó mà thôi.

Vậy nên, nếu không có Hồ Chí Minh, thì cũng sẽ có


người tương tự như ông đứng lên để đưa chủ nghĩa
Cộng sản vào Việt Nam.

Ở một góc độ khác của vấn đề, nếu như ông Hồ Chí
Minh sinh ra ở thời phong kiến, thì tất cả những việc
ông làm có lẽ đã được lịch sử ca ngợi là người có công
dẫn dắt đất nước giành lại được nền độc lâp dân tộc,
ông là một anh hùng dân tộc đúng nghĩa đen. Nếu bạn

193
Phản đề | Trần Văn Đức

trách ông Hồ Chí Minh không mang lại nền dân chủ cho
dân tộc, vậy tại sao bạn không trách Lê Lợi hay Ngô
Quyền, là sau khi giành được nền độc lập dân tộc các
ông không từ bỏ quyền lực của mình để biến đất nước
thành chế độ đại nghị (dân chủ) ngay từ thời đó? Có lẽ
đọc đến đây chắc các bạn đang phì cười. Đúng vậy đấy,
ngày nay đa số dân chúng còn không biết dân chủ là gì
thì lấy đâu ra ngày đó họ biết được mà thực hiện. Quan
trọng hơn, sự mê hoặc của quyền lực là rất lớn, việc gì
họ phải từ bỏ quyền lực của mình khi không gặp bất kì
chống đối nào yêu cầu họ phải từ bỏ quyền lực. Vậy
nên tất cả những việc ông Hồ Chí Minh làm đều có thể
hiểu được, ngay cả Chủ nghĩa Xã hội đều đúng cho đến
khi nó gặp phải một thứ ưu việt hơn hoàn toàn “Chủ
nghĩa Tự do”, mà tôi cá rằng ông Hồ Chí Minh không
hề biết tới sự ưu việt của chủ nghĩa này.

Ở đây tôi cũng xin được nói thêm rằng, chỉ có hai loại
người đáng bị chê trách đó là:

1. Kiểu người không chịu mở mang kiến thức, tuy


rằng không biết không có tội, nhưng việc tự cho phép
mình được quyền thiếu hiểu biết thì lại là tội rất nặng.

194
Phản đề | Trần Văn Đức

Với việc không chịu mở mang kiến thức có thể nói kiểu
người này sống phí hoài một đời (một đời vô nghĩa).

2. Đó là kiểu người làm trái với nhận thức của


mình. Tức là họ biết rõ hành vi đó là sai nhưng họ vẫn
làm vì mưu lợi cá nhân. Đây là kiểu người đáng khinh.

Thêm một lưu ý nữa: Đó là muốn xét phẩm hạnh của


một người phải xét động cơ hành động của họ. Còn
muốn xét tài năng của một người thì phải xét đến kết
quả mà họ tạo ra. Nhưng đa phần người dân có thái độ
nhận xét dựa trên tình cảm, mà tình cảm thì dễ liên quan
đến kết quả đang hiện hữu, mà họ cảm nhận được. Như
vậy là sai lầm. Một người hành động vì đất nước nhưng
cuối cùng lại gây ra những hệ quả tại hại. Thì người đó
là không có năng lực chứ không phải không có đạo đức.

Nhiều người cho rằng lãnh đạo Cộng Sản sau chiến
tranh chỉ giỏi đánh trận mà không giỏi làm kinh tế. Điều
này càng thể hiện họ chỉ tập trung vào chiến đấu. Con
người không ai hoàn hảo cả, để tập trung vào lĩnh vực
này thì bắt buộc họ phải hi sinh các lĩnh vực khác. Hai
võ sĩ đánh nhau thì người nào luyện võ nhiều hơn người
đó sẽ thắng. Người hi sinh việc luyện tập các môn khác

195
Phản đề | Trần Văn Đức

để tập trung cho luyện võ sẽ là người chiến thắng những


người còn lại. Đã xác định đối đầu với đối phương bằng
võ lực thì luyện võ phải được ưu tiên, luyện văn chỉ là
thứ yếu. Để bị đối phương tiêu diệt thì có luyện văn (dù
là một ít) cũng không có cơ hội mà thi thố tài năng. Như
vậy trong từng hoàn cảnh khác nhau phải có chính sách
ưu tiên phù hợp.

3. KHI LỖI THUỘC VỂ NHỮNG VÌ SAO

Chúng ta hiện nay đang sống trong chế độ độc tài Cộng
sản, một trong những chế độ độc tài cuối cùng còn sót
lại trên Trái Đất. Và đương nhiên không tốt lành gì vì
phải sống dưới chế độ ấy, khi bất công trong xã hội xảy
ra như cơm bữa.

Thế nhưng, đã bao giờ bạn tự hỏi mình rằng, nguyên


nhân nào dẫn đến chế độ độc tài này? Và lỗi do ai?

Để hiểu hơn điều đó, chúng ta phải đặt mình trong bối
cảnh lịch sử thời bấy giờ, khi mà Chủ nghĩa Cộng sản
du nhập vào nước ta.

196
Phản đề | Trần Văn Đức

1. Do thời kì này đất nước ta đang bị Thực dân Pháp


đô hộ, trình độ dân trí của nhân dân Việt Nam thời bấy
giờ thực sự rất thấp. Đại đa số dân chúng không biết
chữ, nghèo đến mức phải lo ăn từng bữa.

Vậy nên thứ mà họ quan tâm nhất là đánh đuổi


những người đang bóc lột họ và chia lại ruộng đất cho
họ, để họ có thể làm lụng nuôi sống bản thân và gia
đình.

2. Trong hàng nghìn năm họ đã quen sống dưới chế


độ phong kiến (một dạng độc tài cá nhân trị, khi quyền
lực được tập trung vào một người), họ đã quen với việc
lệ thuộc vào người khác để những người đó sắp đặt cho
mình, thiếu những người đó người dân không biết phải
làm gì.

Đối với người dân lúc đó, khái niệm quyền bình
đẳng giữa người với người hoàn toàn xa lạ, “con vua thì
lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”, chứ chưa nói
đến phải tìm cách phải kiểm soát quyền lực nhà nước.
Khái niệm tam quyền phân lập là khái niệm quá phức
tạp, đến nỗi không thể hiểu và cũng không cần phải

197
Phản đề | Trần Văn Đức

hiểu. Bởi hàng ngàn năm nay họ vẫn sống mà không


cần thứ đó.

Tóm lại, với trình độ nhận thức thời bấy giờ của Việt
Nam, người dân chưa sẵn sàng để đón nhận dân chủ.
Nếu may mắn được áp đặt một chế độ dân chủ lên đất
nước, thì nó cũng chỉ như một món quà được tặng
không. Giả sử có được sống dưới chế độ dân chủ, thì
cũng phải mất rất nhiều năm người dân mới hiểu được
tầm quan trọng của chế độ dân chủ. Trong quãng thời
gian đó, nền dân chủ rất mong manh, dễ đánh mất và
chuyển về lại chế độ độc tài. Bởi khi người dân chưa
hiểu tầm quan trọng của chế độ dân chủ thì sẽ không
sẵn sàng để bảo vệ nó.

Tiền thân của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản là
những người yêu nước và dũng cảm, dám đấu tranh cho
dân tộc. Nhưng xuất thân của họ chính là từ những
người dân thời đó. Vậy thì mức độ hiểu biết của họ
cũng thấp như nhận thức cùng thời. Và cũng xuất phát
từ quần chúng, nên họ kế thừa ý chí của quần chúng.

Tức là, mục tiêu hàng đầu của họ là đánh đuổi thực dân,
khôi phục chủ quyền đất nước và trả đất nước, về tay

198
Phản đề | Trần Văn Đức

người dân. Và bởi vì họ bị chế độ Thực dân (chế độ Tư


bản, tiền thân của chế độ dân chủ) đô hộ, bóc lột nên họ
căm ghét tư bản là điều hoàn toàn hợp lí.

Bây giờ ta xét ba đặc điểm chính của người dân thời đó:

1. Người dân đã quen với chế độ độc tài (phong


kiến) từ hàng nghìn năm, khái niệm kiểm soát quyền
lực nhà nước là quá xa lạ với họ.

2. Căm ghét chế độ Thực dân, Tư bản vì đi đô hộ,


bóc lột họ.

3. Cần chính quyền quan tâm tới họ, chia cho họ


ruộng đất để họ có thể làm ăn sinh sống.

Giờ ta sẽ xét đến chế độ Cộng sản:

1. Là một chế độ độc tài toàn trị, loại bỏ hoàn toàn


khái niệm kiểm soát quyền lực nhà nước hay cơ chế tam
quyền phân lập phức tạp.

2. Đối đầu với chế độ Tư bản, Thực dân thời đó.

3. Coi trọng giai cấp công nhân, nông dân và ủng hộ


họ đứng lên chống lại chế độ Tư bản Thực dân.

199
Phản đề | Trần Văn Đức

⇨ Giờ ta đã hiểu vì sao những người lãnh đạo


phong trào Cách mạng và nhân dân lại lựa chọn chế độ
Cộng sản rồi phải không. Bởi nó tương đồng với ý chí
của người dân thời bấy giờ.

Có một việc, đó là, vào thời kì đó, chế độ Thực dân


gần như đô hộ cả thế giới, và đó cũng là nguyên nhân
chế độ Cộng sản nảy nở nhanh như thế. Để đối kháng
lại chế độ Thực dân đang đô hộ mình, người dân đã lựa
chọn chế độ Cộng sản. Vì vậy chế độ Cộng sản được
nhiều nước lựa chọn và mạnh ngang ngửa chế độ Thực
dân Tư bản thời đó.

Như vậy:

1. Chế độ Cộng sản không phải do ai đó cố tình đem


về để rắp tâm hãm hại dân tộc ta. Mà là do người dân
thời đó với nhận thức chưa cao (do phải sống dưới chế
độ phong kiến và thực dân đô hộ) đã lựa chọn.

2. Chế độ Cộng sản phát sinh trong quá trình phát


triển nhận thức của nhân loại, và dân tộc ta cũng không
nằm ngoài quá trình phát triển nhận thức đó.

200
Phản đề | Trần Văn Đức

Cái đen đủi của Việt Nam là chúng ta nằm sát biên
giới với một nước lớn cũng lựa chọn chế độ Cộng sản
và được nó chống lưng. Vậy nên chế độ Cộng sản Việt
Nam mới có thể tồn tại đến bây giờ.

Xét về góc độ nội chiến giữa hai miền Nam Bắc, đại diện
Cộng sản miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa miền Nam:

1. Người miền Bắc cho rằng Mỹ là một nước Tư


bản nên họ cũng giống như Pháp, họ vào Việt Nam là
để đô hộ Việt Nam và dựng nên chính quyền tay sai
Việt Nam Cộng hòa. Vậy nên người dân miền Nam
sống rất khổ cực, y như thời Pháp đô hộ vậy. Thế nên
họ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước và để giải thoát người dân miền Nam khỏi cảnh bị
bóc lột.

2. Về phía Mỹ, do là một nước dân chủ lâu năm,


nên họ hiểu được sâu sắc mối nguy của chế độ độc tài
hay chế độ Cộng sản.

Vì vậy họ vào miền Nam Việt Nam, thay thế Pháp,


để chặn đứng chế độ Cộng sản ngăn chặn nguy cơ có thể
lây lan xuống các nước phía Nam. Đồng thời ủng hộ,
viện trợ cho chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, để
201
Phản đề | Trần Văn Đức

chống chọi lại với Cộng sản Bắc Việt, và cũng để làm
hình mẫu dân chủ cho các đất nước khác học tập. Họ
hoàn toàn không có ý đồ xâm chiếm hay đô hộ miền
Nam Việt Nam như người miền Bắc vẫn lầm tưởng.

3. Với người dân miền Nam dưới thời Việt Nam


Cộng hòa, tuy chưa hoàn toàn dân chủ, nhưng người
dân vẫn được hưởng khá đầy đủ quyền lợi của một
nước dân chủ mang lại.

Có thể nói là đời sống người dân khá sung túc, Sài
Gòn ngày ấy được xem như hòn ngọc Viễn Đông. Người
dân miền Nam có thể sản xuất được ô tô với tỉ lệ nội địa
hóa tới 40%. Điều mà bây giờ, với việc hòa bình đã 45
năm chúng ta vẫn chưa làm được. Người dân miền Nam
đến giờ vẫn châm biếm rằng: “Thằng đi xe đạp giải
phóng thằng đi ô tô và bây giờ tất cả chúng ta đều đi xe
máy”. Câu này nghe chua xót nhưng lại là sự thật.

Lí do Việt Nam Cộng hòa thua Cộng sản là vì nền dân


chủ Việt Nam Cộng hòa là nền dân chủ còn non trẻ.
Đặc biệt, nền dân chủ này được cho không, không phải
do người dân nhận thức tranh đấu hi sinh mà có được.
Vậy nên người dân thực sự cũng không trân trọng nó.

202
Phản đề | Trần Văn Đức

Thực tế ra thì người dân miền Nam thời đó cũng chả


hiểu dân chủ là gì và ý nghĩa của nó ra sao.

Tóm lại:

Hai thể chế Việt Nam Cộng hòa miền Nam và Cộng sản
miền Bắc, rõ ràng dưới góc nhìn thời đó, thì cả hai đều
có lí của mình.

Những người lính dù chiến đấu cho chế độ Cộng sản hay
Cộng hòa đều đáng tự hào, vì đã dám hi sinh để bảo vệ
cho lí tưởng của mình. Dù rằng lí tưởng ấy sau này được
nhận định là đúng hay sai, thì vào thời điểm ấy cũng
đáng được trân trọng.

Nói sao nhỉ, dám chết cho lí tưởng của mình, mấy ai có
thể làm được như vậy? Nếu có gì đó sai thì do tạo hóa đã
trêu ngươi con người. Nhận thức của nhân dân chưa đủ
để hiểu và lựa chọn thứ được gọi là dân chủ. Lịch sử
tương lai chắc chắn phải khôi phục lại danh dự cho
những người lính Việt Nam Cộng hòa. Ghi nhận họ như
những anh hùng đã xả thân để bảo vệ nền dân chủ non
trẻ ở Việt Nam.

203
Phản đề | Trần Văn Đức

Ở một góc độ khác của vấn đề: Nếu như VNCH cùng
quân đồng minh được trang bị vũ khí tận răng, chiến
thắng quân CS vốn được nhân dân ủng hộ (vốn dĩ nhận
thức người dân không cao, như tôi đã phân tích) vậy thì
Việt Nam chúng ta là cái gì? Chẳng lẽ cái danh Việt Nam
là một dân tộc anh hùng, quật cường không chịu khuất
phục giặc ngoại xâm chỉ là cái danh hão thôi sao? Tôi
không hề có ý khen - chê ai ở đây, ý tôi muốn nói rằng
cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Bắc - Nam bắt buộc
phải nổ ra và chế độ độc tài Cộng sản là chế độ mà dân
tộc chúng ta phải đi qua, do sự gia tăng về dân trí không
đuổi kịp với yêu cầu thực tế thời bấy giờ. Mà xét sâu xa
hơn nữa thì đó là cả quá trình lâu dài ảnh hưởng từ tự
nhiên đến tính cách, văn hóa, nhận thức, dẫn đến chế độ.

Và nếu Nam - Bắc tiếp tục chia đôi thì tôi có thể chắc
chắn rằng Bắc Việt Nam vì để duy trì chế độ sẽ tiến hành
bế quan tỏa cảng giống như Triều Tiên. Nhiều người nhìn
vào số người chết trong chiến tranh Việt Nam, mà lên án
chế độ Cộng sản tàn ác. Nhưng họ không hiểu rằng số
người chết tại miền Bắc Việt Nam còn nhiều hơn nếu đất
nước chia đôi, không phải chết vì súng đạn mà là chết vì

204
Phản đề | Trần Văn Đức

đói. Và tôi tự hỏi rằng những thế hệ sinh sau như chúng
tôi ở miền Trung và Bắc Việt Nam vốn không tham gia
cuộc chiến có nên bị như vậy hay không?

Ngay cả bây giờ số người trong nước thực sự hiểu về dân


chủ cũng là rất hiếm. Nhưng những người thực sự hiểu,
họ vẫn đang làm đúng với lương tâm của họ, mặc dù biết
nguy hiểm, đó mới là thứ đáng để chúng ta tự hào.

Chúng ta với tư cách là thế hệ sau, dù có muốn từ chối


cũng không được, bởi máu chảy trong huyết quản thế hệ
ngày xưa cũng chính là máu chảy trong huyết quản của
chúng ta bây giờ. Vậy nên những gì tiền nhân chúng ta
gây ra, chúng ta cũng chịu một phần trách nhiệm, những
gì tiền nhân làm được, chúng ta cũng có quyền tự hào và
kế thừa. Tức là, chúng ta có quyền chọn lọc các giá trị
tinh thần như văn học, thơ - ca, tư tưởng… từ cả hai bên,
miễn là chúng ta thấy chúng hữu ích.

Cuối cùng lịch sử vẫn chỉ là lịch sử, nó là thứ đã qua,


hiện tại và tương lai mới là thứ cần hướng tới và nắm giữ.
Nếu cứ lấy lịch sử để hằn học nhau ở hiện tại thì chỉ gây
thêm sự rạn nứt giữa hai bên. Vậy thì quá trình hàn gắn
để tìm một hướng đi chung cho đất nước đến bao giờ mới

205
Phản đề | Trần Văn Đức

thành công? Nên chăng tạm gác lại lịch sử, hướng tới
tương lai, tìm ra con đường đúng đắn nhất đưa đất nước
đi đến dân chủ? Khi có dân chủ rồi, mọi người được
quyền tự do nói, tìm hiểu và truyền đạt thông tin mà
không bị áp lực gì, lúc đó tự nhiên việc đánh giá các sự
kiện trong lịch sử cũng sẽ trở nên khách quan và công
bằng hơn. Và việc hàn gắn dân tộc là hoàn toàn có thể.

Cuối bài viết này xin được gửi tới những người lính đã
chiến đấu và phục vụ dưới chế độ Cộng sản những năm
1990 trở về trước, thời kì mà nước ta chưa mở cửa, đặc
biệt là những người tham gia cuộc nội chiến Bắc – Nam.
Rất nhiều người trong các bác phủ nhận sự tồn tại của
VNCH, xem nó như là một chế độ tay sai. Bởi vì các bác
sợ rằng, nếu công nhận sự tồn tại của VNCH thì những gì
các bác đã chiến đấu, hi sinh với biết bao đồng đội nằm
xuống lại trở nên vô nghĩa. Cả tuổi thanh xuân của các bác
đã hi sinh cho cuộc chiến đó. Hay như thừa nhận chế độ
Cộng sản là độc tài, vậy chẳng phải là mình đang tiếp tay
cho Cộng sản hại nước hại dân hay sao. Như vậy không
những không có công mà lại còn có tội với nhân dân. Thế
thì chỉ còn lại sự xót xa, ân hận chứ tự hào sao được.

206
Phản đề | Trần Văn Đức

Trong quan điểm của cháu thì chả có gì sai ở đây cả. Các
bác đã làm đúng với vốn hiểu biết của các bác. Trong sự
hiểu biết của các bác thời đó chỉ có giặc ngoại xâm và một
lòng yêu nước nồng nàn, đã không chối bỏ trách nhiệm
với quê hương, dũng cảm lên đường chiến đấu bảo vệ
những thứ các bác cho là đúng đắn. Với cháu, một người
thuộc thế hệ sau cảm thấy rất tự hào về thế hệ các bác.
Một người đủ hiểu biết, sẽ không bao giờ áp hệ quy chiếu
của hiện tại cho quá khứ để phán xét cả. Mà kể cả bây giờ
Việt Nam vẫn đầy rẫy tầng lớp thanh thiếu niên không
hiểu các khái niệm cơ bản về chính trị như nhân quyền hay
thế nào là độc tài, thế nào là dân chủ… Cái từ đầy rẫy là từ
để nói giảm, nói tránh, chứ thực trạng hiện nay đại đa số
thanh thiếu niên đều như vậy. Hiện tại còn như vậy thì
trách sao được các bác thời điểm đó vốn không có điều
kiện để tiếp cận thông tin.

Mục đích cháu viết ra những lời này là để trút bỏ đi cái


tâm lý nặng nề, mà các bác sợ rằng mình sẽ bị thế hệ sau
phán xét. Thực ra chẳng có ai phán xét các bác cả. Các bác
đã làm đúng với lương tâm và vốn hiểu biết của các bác,
cũng như chúng cháu đang làm đúng với vốn hiểu biết của

207
Phản đề | Trần Văn Đức

mình, và hi vọng thế hệ sau cũng sẽ làm đúng với lương


tâm và vốn hiểu biết của họ. Vậy thì có thể tin tưởng rằng
Việt Nam chắc chắn sẽ ngày một tốt đẹp lên. Kể cả người
thân của các bác cũng vậy, không có gì để phải xấu hổ cả,
để rồi cố chấp bênh vực cho cái chế độ này khi mà bây giờ
nó đã không còn như xưa nữa. Thay vào đó hãy tự hào về
các chú, các bác của mình và hãy tiếp tục ý chí của họ. Ý
chí ở đây có nghĩa là dũng cảm đấu tranh với những bất
công trong xã hội.

Mỗi một thế hệ sinh ra đều đóng một vai trò khác nhau
trong dòng chảy lịch sử của quốc gia. Các bác đã làm đúng
vai trò của mình, cả người lính Cộng sản và người lính
VNCH đều đã chiến đấu quên mình và đều có quyền tự
hào về điều đó. Việc còn dang dở các bác hãy yên tâm
giao cho thế hệ sau này.

208
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 7
LỰA CHỌN PHƯƠNG
THỨC ĐẤU TRANH

Trước tiên tôi khuyến khích bạn tìm hiểu về “lý thuyết
trò chơi”, đây là một công cụ đắc lực cho việc hoạch
định một chiến lược. Thứ hai là giới thiệu về cuốn sách
“từ độc tài đến dân chủ” của tác giả Gene Sharp.
Muốn hoạch định một chiến lược đấu tranh cho nền dân
chủ, không gì hơn là bạn nên đọc cuốn sách mỏng này.
Nó có định dạng PDF bạn chỉ cần lên mạng tải nó về.

Trong nội dung của phần này, tôi chỉ viết một cách tổng
quát, bởi vì để hoạch định chi tiết một chiến lược chúng
ta cần rất nhiều thông tin, và cần những người có

209
Phản đề | Trần Văn Đức

chuyên môn sâu để xử lí các thông tin đó, mà cả hai


điều này tôi đều không có.

Tóm lại, để đưa ra một chiến lược chi tiết, chúng ta cần
phải thống kê hết các khả năng có thể xảy ra, xác xuất
để các khả năng đó xảy ra là bao nhiêu, và mức độ ảnh
hưởng nếu các khả năng đó xảy ra. Sau đó mới lựa chọn
phương án tối ưu nhất có thể, và dự đoán diễn biến tiếp
theo. Mà mỗi một bước đi của chúng ta hay của đối
phương đều làm cho các thông số bị thay đổi, làm cho
khả năng hoạch định trở nên khó hơn. Nói như vậy để
bạn đọc biết rằng, để hoạch định một chiến lược chi tiết
chúng ta cần nhiều thông tin cỡ nào để thiết lập đúng
các thông số, và những cái đầu khủng thế nào để xử lý
hết khối lượng thông tin đó, trong thời gian cho phép.
Thông tin càng nhiều thì việc xử lý thông tin càng
chuẩn xác, và những cái đầu có chuyên môn sẽ hoạch
định ra chiến lược càng chi tiết. Đương nhiên trong
giới hạn khả năng của mình, chúng ta vẫn có thể loại bỏ
bớt các tham số, chỉ giữ những tham số trọng yếu để
phác họa ra chiến lược cơ bản.

210
Phản đề | Trần Văn Đức

Nhưng trước đó chúng ta hãy cùng tham khảo một vài


khía cạnh xem liệu chúng ta đấu tranh thì nên tập trung
vào mặt nào của chế độ độc tài Cộng sản, và quá trình
đấu tranh đó liệu có điểm dừng để tiến hành thương
lượng được hay không? Nhằm tránh mọi thứ đi quá đà,
như vậy lại thành không tốt. Cũng là có thể tập trung
lực lượng vào điểm yếu của đối phương, tránh phân tán
(lãng phí) nguồn lực.

1. Ở khía cạnh chính sách (kinh tế)

Các chính sách của Đảng Cộng sản tuy ngày xưa sai
lầm rất nhiều, lí do là vì họ chủ yếu xuất thân từ quần
chúng không được học hành tử tế, dẫn đến đất nước kiệt
quệ. Thế nhưng theo thời gian họ cũng đã biết học tập,
sửa đổi. Đội ngũ lãnh đạo bây giờ và tương lai đều đã
có trình độ nhất định. Nhất là với con cháu của các lãnh
đạo CS được đi du học ở các nước tư bản, thế hệ này
khi về nước sẽ điều hành đất nước không thua kém
những lãnh đạo các nước phát triển khác (trong điều
kiện một đất nước tự do). Giả sử chúng ta được lãnh
đạo đất nước thì cũng không thể đưa ra các chính sách
tốt hơn họ được, nếu không muốn nói là ngược lại.

211
Phản đề | Trần Văn Đức

Ví dụ: Thời ông Nguyễn Tấn Dũng làm Thủ tướng,


trước áp lực mở cửa nền kinh tế và dòng vốn FDI (đầu
tư trực tiếp của nước ngoài) vào Việt Nam, đã có chính
sách tạo ra nhiều các công ty nhà nước, với sự hậu
thuẫn của Chính phủ sẽ nhanh chóng tạo thành những
tập đoàn quy mô lớn, trang thiết bị hiện đại, với tham
vọng những tập đoàn này một ngày nào đó sẽ cạnh
tranh được với các công ty nước ngoài, cũng như đưa
đất nước phát triển. Mà nhà nước thông qua các tập
đoàn này cũng vẫn khống chế được nền kinh tế, tức là
nhất cử lưỡng tiện. Thế nhưng các công ty này nhờ sự
nâng đỡ của nhà nước, đã trở nên quan liêu và tham
nhũng, không thể cạnh tranh được với các công ty tư
nhân và các công ty vốn đầu tư nước ngoài, dẫn đến làm
ăn thua lỗ. Chính hậu quả này đã dẫn đến việc cổ phần
hóa các công ty nhà nước, chỉ giữ lại những ngành thiết
yếu để thông qua đó chi phối nền kinh tế như điện,
xăng, khai thác tài nguyên thiên nhiên…

Những năm gần đây nhà nước có chính sách can thiệp
thông minh hơn, đó là tìm và hợp tác với những doanh
nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp tư nhân này nếu

212
Phản đề | Trần Văn Đức

“ngoan” thì sẽ được nhà nước nâng đỡ và phát triển, và


ngược lại sẽ bị chèn ép tiêu diệt. Những doanh nghiệp
được nâng đỡ điển hình là FLC, Vingroup, FPT…

Với cách làm này nhà nước đạt được hai mục đích đó là:

- Ủng hộ và phát triển các doanh nghiệp lớn có thể


cạnh tranh được với nước ngoài, bởi vì các doanh
nghiệp này là tư nhân nên cách quản lí hiệu quả, ít quan
liêu hơn những doanh nghiệp nhà nước. Cũng như
những người đứng đầu các doanh nghiệp này đều là
những người có thực tài, tự sinh tự diệt, ô dù không
mạnh như những lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước.
Chính vì vậy các doanh nghiệp tư nhân phát triển đều là
những doanh nghiệp có thực chất, khác hoàn toàn với
các doanh nghiệp nhà nước.
- Bóp chẹt những doanh nghiệp tư nhân từ trong trứng
nước, nếu các lãnh đạo doanh nghiệp này có tư tưởng
phản kháng, chống lại ý muốn của ĐCS. Và tạo điều
kiện cho những doanh nghiệp mà tư tưởng của các lãnh
đạo doanh nghiệp này thuần phục ý muốn của Đảng
Cộng sản.

213
Phản đề | Trần Văn Đức

Như vậy, với cách làm này, nhà nước vẫn tạo ra được
những doanh nghiệp lớn đủ sức cạnh tranh với các
doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời vẫn có thể thuần
phục và chi phối các doanh nghiệp này không cho họ có
tư tưởng phản kháng.

Bây giờ, giả sử chúng ta lên lãnh đạo đất nước, chúng ta
sẽ làm được điều gì ngoài việc tự do hóa nền kinh tế,
loại bỏ các ngành độc quyền nhà nước (xăng, điện…)
thông qua đó giảm tải bộ máy nhân sự nhà nước, hướng
đến một chính quyền gọn nhẹ. Khi đó, chính sách phát
triển kinh tế của chúng ta cũng vẫn phải ưu tiên các
doanh nghiệp trong nước trước, để các doanh nghiệp
này có điều kiện phát triển, tránh việc nền kinh tế bị chi
phối bởi các công ty nước ngoài.

Ví dụ: Nếu nhà nước có một dự án công cộng nào đó thì


việc đầu tiên là ưu tiên cho các doanh nghiệp trong
nước đấu thầu, năng lực họ làm được bao nhiêu, có cần
nhà nước hỗ trợ gì không? Kể cả giá đấu thầu cao hơn
một chút chúng ta cũng chấp nhận, để các doanh nghiệp
trong nước làm họ mới có kinh nghiệm để phát triển,
(rồi sau này mới có những doanh nghiệp tầm cỡ đủ sức

214
Phản đề | Trần Văn Đức

để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài). Sau đó


mới đến các doanh nghiệp nước ngoài đấu thầu.

Như vậy, tôi thấy các chính sách của nhà nước hiện tại
ngoài ý muốn chi phối nền kinh tế không cho các doanh
nghiệp có ý đồ phản kháng ra, thì phương hướng chung
cũng giống như chúng ta suy nghĩ. Tức là nếu như
chúng ta lên làm lãnh đạo ngoài việc tự do hóa nền kinh
tế ra, chúng ta cũng chẳng hơn họ điều gì, về đường lối
phát triển kinh tế, thậm chí về chuyên môn sâu chúng ta
thua hẳn họ.

2. Ở khía cạnh con người

2.1 Chế độ độc tài Cộng sản tuy bây giờ thối nát,
nhưng những ngày đầu nó không phải như vậy. Nhất là
những người lãnh đạo đời đầu, họ đều là những người
yêu nước và dũng cảm.

Những người lãnh đạo bây giờ tuy đa số đều tham


quyền cố vị, nhưng đã làm người thì đều có lương tri.
Nếu được chọn thì chắc họ cũng không lựa chọn sống
dưới chế độ độc tài. Vậy nên mọi người hãy có góc nhìn
vị tha hơn đối với họ.

215
Phản đề | Trần Văn Đức

Đặc biệt những người Cộng sản Việt Nam, họ đang


sợ, nếu như họ để mất đảng, mất quyền lực, thì người
dân sẽ không tha cho họ. Vậy nên đã trót cưỡi lên lưng
cọp thì phải cưỡi tới cùng, điều này về lâu dài sẽ không
có lợi cho người dân và cho cả Đảng Cộng sản. Nhưng
không tìm được cách nào giải quyết ổn thỏa thì tình
trạng này vẫn tiếp diễn.

Để cởi trói vấn đề này, thì người dân nên cho đảng
biết rằng, nhân dân sẽ sẵn sàng vị tha cho họ, nếu họ
quay đầu và trao quyền lực về tay nhân dân. Đây là kịch
bản nhanh nhất và êm thấm nhất.

Còn nếu không, đảng nên lựa chọn phương pháp


chuyển giao quyền lực một cách dần dần, từng ít một,
về tay nhân dân. Quan trọng là người dân phải sẵn sàng
vị tha cho những người Cộng sản. Đồng thời, những
người Cộng sản cũng phải hiểu rằng, chế độ độc tài này
trước sau gì cũng phải sụp đổ. Vậy nên hãy chủ động
trao lại quyền lực về tay nhân dân, để tránh đào sâu
thêm hận thù.

216
Phản đề | Trần Văn Đức

2.2 Đảng Cộng sản dù sao cũng nắm quyền lực của
đất nước trong nhiều năm. Do đó họ có kinh nghiệm
quản lí đất nước.

Vậy nên nếu bây giờ lật đổ họ hoàn toàn, thì nhà
nước mới sẽ không có khả năng quản lí, do không có
kinh nghiệm. Đây sẽ là một tổn thất rất lớn cho Việt
Nam.

Thứ nữa, có rất nhiều người sống bám vào bộ máy


của Đảng Cộng sản, và họ sẽ bảo vệ Đảng Cộng sản
(nồi cơm của họ) đến cùng. Thế nên, khi thay đổi thể
chế, chúng ta phải đảm bảo, bộ máy hành chính nhà
nước ít bị xáo trộn nhất có thể, thì quá trình chuyển đổi
thể chế mới diễn ra suôn sẻ.

2.3 Xét về mặt công bằng thì đúng là ĐCS từ lúc


hình thành đến nay đã gây ra rất nhiều tội lỗi với nhân
dân, các quan chức giàu lên từ tiền hối lộ, con cháu họ
du học nước ngoài cũng là cướp mồ hôi nước mắt của
nhân dân. Nhưng có phải vì thế mà chúng ta đòi lại
công bằng một cách triệt để hay không? Việc ăn thua và
đòi lại công bằng đến cùng đối với những người Cộng
sản là việc hết sức khó khăn, và trên thực tế nó còn kìm

217
Phản đề | Trần Văn Đức

hãm tiến trình dẫn tới dân chủ. Do những người Cộng
sản vì lợi ích của mình sẽ ra sức chống phá không cho
việc đó xảy ra. Ở khía cạnh khác, con cháu các quan
chức Cộng sản được đi du học nước ngoài đã có kiến
thức, bây giờ với lí do đòi lại sự bất công do bố mẹ họ
gây ra ngày xưa mà làm khó dễ họ, buộc họ phải ra
nước ngoài chẳng hạn, không thể phục vụ đất nước.
Như vậy, xét về tổng thể lợi ích quốc gia thì đây lại là
một sự thiệt thòi cho đất nước. Vậy nên các quan chức
của ĐCS và người thân của họ nếu có năng lực và thật
tâm muốn xây dựng đất nước, chúng ta vẫn phải tạo
điều kiện cho họ làm việc. Cuộc sống này nó bất công
vậy đấy.

Ở đoạn này xin trích lịch sử để làm rõ nghĩa:

“Sau khi lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh tan cuộc
xâm lăng lần thứ ba (1288) của giặc Nguyên - Mông,
Thượng hoàng Trần Thánh Tông và Vua Trần Nhân
Tông về lại kinh đô. Có người dâng lên Thượng hoàng
và nhà Vua những hòm tờ biểu của những người Việt
gửi cho quân Nguyên để xin được làm quan, Thượng
hoàng và nhà Vua đã có hành động “vô tiền, khoáng

218
Phản đề | Trần Văn Đức

hậu”: Ra lệnh đốt hết các bức thư ấy và không truy cứu
một ai. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng “Thượng
hoàng sai đốt đi để yên lòng những kẻ phản trắc”.

3. Ở khía cạnh chủ thuyết

Một đảng lựa chọn chủ thuyết nào là quyền của họ, kể
cả chủ thuyết đó có là sai trái. Trong một cuộc bầu cử tự
do và công bằng, nếu Đảng Cộng sản chiến thắng, thì
việc họ dẫn dắt đất nước đi theo con đường Xã hội Chủ
nghĩa trong nhiệm kì thắng cử đó, đó là quyền của họ.
Đơn giản, người dân đã chấp nhận để họ lãnh đạo, tức
là chấp nhận đường hướng chính sách của họ trong
nhiệm kì đó. Chúng ta có quyền phê phán rằng chính
sách, đường hướng mà họ đưa ra là sai, nhưng vẫn phải
chấp nhận chính sách lãnh đạo của họ. Đó mới là tinh
thần của một nước dân chủ mà chúng ta đang theo đuổi.
Cái mà tôi muốn nhấn mạnh với bạn đọc ở đây là:
Chúng ta không phê phán chủ thuyết của Đảng Cộng
sản, mà là lên án sự độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản.
Khi mà Đảng Cộng sản tự cho phép một mình họ lãnh
đạo đất nước, không cho phép các đảng phái khác được
thành lập và tranh cử tự do. Rõ ràng đây là một sự xấc

219
Phản đề | Trần Văn Đức

xược, vi phạm trắng trợn quyền tự do của con người.


Trong cuộc tranh luận nâng cao dân trí cho người dân,
chúng ta không tranh luận về các chủ thuyết của Đảng
Cộng sản hay công tội của các lãnh đạo của họ trong
quá khứ, làm vậy chỉ gây phân tán nguồn lực. Thay vào
đó chúng ta chỉ tập trung tranh luận và chỉ trích sự độc
tài toàn trị, đây cũng là điểm yếu của Đảng Cộng sản và
những người bị Đảng Cộng sản tuyên truyền.

Tóm lại phần này tôi muốn nhấn mạnh rằng: Chính
quyền Cộng sản dù sao họ cũng là đồng bào ruột thịt,
việc gì họ có khả năng tự sửa đổi thì có thể cho qua.
Chúng ta chỉ tập trung đấu tranh ở những mặt mà chính
quyền Cộng sản không thể tự sửa đổi, đó là sự độc tài
toàn trị mà hệ quả của nó là dẫn đến sự không trung
thực, quan liêu, tham nhũng. Đồng thời chúng ta cần
đòi lại quyền của người dân như tự do ngôn luận, tự do
thông tin-báo chí và tự do lập hội - đảng.

220
Phản đề | Trần Văn Đức

Cường quyền mà anh Thức nói ở đây có nghĩa là độc tài toàn trị

Tiếp theo để có thể hoạch định một chiến lược, trước


tiên chúng ta cần liệt kê những đặc điểm của cả hai bên
lực lượng đấu tranh dân chủ và tổ chức độc tài Cộng
sản.

221
Phản đề | Trần Văn Đức

LỰC LƯỢNG ĐẤU CHÍNH QUYỀN ĐỘC


TRANH DÂN CHỦ TÀI (CỘNG SẢN)

Là một lực lượng phân Là một lực lượng đồng


tán, thường thì là những nhất, được gắn với nhau
người đấu tranh độc lập, bởi lợi ích cá nhân và một
hoặc những hội nhóm nhỏ, hệ tư tưởng chung (đương
do nguồn lực không có và nhiên tư tưởng đó là sai
quan trọng hơn là do khác lầm).
nhau về tư tưởng, đường
lối đấu tranh.

Phương tiện đấu tranh Được hỗ trợ bởi một cỗ


nghèo nàn, chủ yếu là đấu máy tuyên truyền khổng
tranh bất bạo động. lồ, và một lực lượng quân
đội công an, hùng hậu sẵn
sàng nghiền nát đối
phương nếu có bạo động
xảy ra.

Những người đấu tranh Càng những người có hiểu


cho tự do chủ yếu đều là biết trong lực lượng này

222
Phản đề | Trần Văn Đức

những người tự nguyện, thì niềm tin về chủ nghĩa


do ý thức được trách càng không còn (do
nhiệm về nghĩa vụ của CNXH là sai lầm). Thứ
mình, đa số là trí thức. gắn kết họ lại với tổ chức
này là lợi ích họ có được,
lợi ích giảm dần thì sự gắn
kết với tổ chức càng giảm.

Lực lượng sẽ tăng khi dân Lực lượng giảm khi dân trí
trí tăng tăng

Mấu chốt của việc đấu tranh thắng lợi là tổ chức dân
chủ phải được nhân dân ủng hộ. Lịch sử Việt Nam đã
chứng minh rất nhiều lần rằng: Lực lượng nào được
nhân dân ủng hộ lực lượng đó tất thắng. Vậy nên, muốn
chiến thắng, chúng ta phải tìm cách đồng hóa bản thân
với quần chúng, trong khi cố tình tìm cách tách rời đối
phương ra khỏi quần chúng. Tức là làm quần chúng
không ủng hộ, thậm trí là thù ghét đối phương do có
nhiều khác biệt và xung đột. Người Cộng sản họ làm rất
tốt điều này. Rất nhiều chức danh, cơ quan nhà nước

223
Phản đề | Trần Văn Đức

được gắn thêm từ nhân dân như: Tòa án nhân dân, quân
đội nhân dân, công an nhân dân,… hoặc khẩu hiệu: của
dân, do dân và vì dân… Làm cho người nghe có cảm
giác gần gũi, thân thiện, được tôn trọng và như vậy
Cộng sản được lòng người dân. Ngoài ra chế độ độc tài
còn lập ra hàng loạt cơ quan để tuyên truyền nói xấu các
tổ chức, lực lượng khác và cũng là tô vẽ hình ảnh bản
thân trong mắt người dân. Tuyên truyền là công cụ chi
phí ít nhất nhưng lợi ích cao nhất. Bất kì lực lượng đấu
tranh dân chủ nào muốn thành công cũng phải làm điều
này.

Nhìn vào bảng trên ta thấy lực lượng dân chủ ban đầu
khá yếu cho với tổ chức độc tài, vậy thì yếu tố nào
khiến cho chúng ta có niềm tin rằng dân chủ sẽ chiến
thắng độc tài, để tiến hành đấu tranh dù có gian khổ?
Câu trả lời đơn giản là trình độ dân trí luôn chạy theo
một chiều từ thấp đến cao theo thời gian. Thế nên chúng
ta có niềm tin rằng lực lượng dân chủ sẽ ngày một mạnh
lên và cuối cùng có thể chiến thắng tổ chức độc tài, mà
ở đây là tổ chức độc tài Cộng sản. Từ đây cũng suy ra
chiến lược tổng thể của lực lượng dân chủ khi đấu tranh

224
Phản đề | Trần Văn Đức

là nâng cao dân trí. Đúng như câu nói: “khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh” của cụ Phan Châu Trinh.

Nhìn vào bảng trên chúng ta có hai gạch đầu dòng nữa
là:

- Các cá nhân, tổ chức dân chủ cũng nên tìm cách trao
đổi với nhau một cách khách quan để tìm ra những
đồng thuận chung. Chỉ khi cùng tư tưởng, quan điểm,
mục tiêu hướng tới… chúng ta mới có thể đoàn kết với
nhau, tạo thành những tổ chức lớn mạnh hơn. Huy động
được nhiều người hưởng ứng, tạo ra các phong trào lớn
và có tính tổ chức, chiến lược. Ít nhất đây là việc lực
lượng dân chủ chủ động được.
- Không bao giờ được đấu tranh bạo lực, nhất là vào
thời kì lực lượng dân chủ còn yếu như thế này. Ở Việt
Nam hiện nay, Đảng Cộng sản nắm quyền lực tuyệt đối.
Việc đấu tranh bằng bạo lực không những không mang
lại kết quả, mà còn là cái cớ để Đảng Cộng sản gia tăng
đàn áp những người đấu tranh dân chủ. Kể cả khi phe
dân chủ nhờ một ngoại lực nào đó mà đủ sức để đối đầu
với Cộng sản Việt Nam bằng bạo lực, thì cuộc chiến
cũng sẽ gây tổn thất lớn cho cả hai bên. Điều này có thể

225
Phản đề | Trần Văn Đức

dẫn đến năng lực phòng thủ quốc gia của Việt Nam suy
yếu. Việt Nam khi đó sẽ là miếng mồi ngon cho một
nước độc tài khác xâm chiếm. Nếu điều này xảy ra thì
hậu quả để lại rất lớn. Những gì chúng ta cố gắng khi đó
sẽ trở thành sai trái trong mắt hậu thế sau này.
Chiến lược cơ bản thì là vậy, nhưng ở đây tôi có bốn
lưu ý:

- Nếu như trên chiến lược tổng thể ta đang ở thế bí


chưa biết triển khai thế nào, thì chúng ta nên phân tích
từ một vấn đề lớn thành nhiều vấn đề nhỏ hơn, tận dụng
ưu thế từ những vấn đề nhỏ, nới dần lợi thế ra. Tức là đi
sâu vào chi tiết của vấn đề để tìm yếu điểm của đối
phương. Khi nhiều ưu thế nhỏ gộp lại thì nó thành ưu
thế lớn, từ đó giúp chúng ta dễ dàng triển khai các kế
hoạch lớn khác. Với đảng độc tài chúng ta cũng có thể
phân loại nội bộ đảng thành nhiều thành phần, mỗi
thành phần có ưu nhược điểm riêng, và có đối sách
riêng cho từng thành phần đó. Về cơ bản mọi tổ chức xã
hội đều được chia làm 3 thành phần chính:
1. Thành phần cực trung thành
2. Thành phần trung tính

226
Phản đề | Trần Văn Đức

3. Thành phần đã không còn mặn mà với tổ chức.


Chúng ta cần tập trung lôi kéo thành phần (3) sau đó là
thành phần (2) bỏ qua thành phần (1). Khi thành phần
(3) (2) bị lôi kéo thì thành phần (1) đã không còn nhiều
người, và cũng đã không đủ sức chống đối ta nữa.
Cũng có thể khoét sâu vào mâu thuẫn giữa các thành
phần đã được phân loại đó, khiến nội bộ đối phương
nghi kị và tự tiêu diệt lẫn nhau. Với việc phân loại này
có thể khiến đảng độc tài suy yếu từ bên trong.
- Trong một cuộc đối đầu, chúng ta không hẳn là cứ
phải đánh trực tiếp vào đầu não của đối phương, thay
vào đó chúng ta có thể tấn công một cách gián tiếp,
miễn sao nó gia tăng tỉ lệ thắng cho chúng ta. Ví dụ:
Trong một trận đấu cờ không hẳn chúng ta cứ chăm
chăm tìm cách bắt con vua của đối phương, thay vào đó
chúng ta có thể ăn dần từ con tốt, ngựa hay xe… khi đó
con vua còn sống cũng trở nên vô dụng.
- Trong một cuộc đối đầu, đối phương vì chiến thắng
(hay lợi ích của mình) sẽ không nhường bước, trông
chờ vào việc đối phương tự động nhường lợi ích cho
chúng ta là việc hoang đường. Họ chỉ chấp nhận khi họ
không thể kiểm soát lĩnh vực đó. Ví dụ: Họ sẽ không

227
Phản đề | Trần Văn Đức

chấp nhận quyền tự do ngôn luận cho chúng ta, thế


nhưng chúng ta cứ nói, càng nhiều người nói họ càng
khó kiểm soát, và cuối cùng là họ bất lực không thể
kiểm soát được, mặc dù trên danh nghĩa vẫn là cấm.
Tương tự các quyền khác cũng vậy, người dân càng sử
dụng nhiều thì chính quyền càng khó kiểm soát và đến
cuối cùng là bất lực.
- Trên thực tế, thứ mà chúng ta gọi là kế hoạch vốn dĩ
trên một không gian rộng lớn như xã hội Việt Nam thì
nó đã tự nhiên vận động không cần can thiệp. Những
khoảng trống sẽ tự nhiên được khỏa lấp dù là theo xu
hướng tích cực hay tiêu cực. Muốn thay đổi chúng ta
chỉ cần tranh thủ những khoảng trống mà nó tạo ra để
chuyển dịch xã hội theo hướng mà chúng ta muốn. Có
thể hiểu là một dạng chờ thời nhưng cũng không phải,
đơn giản chỉ cần làm đúng nghĩa vụ của mình là được,
không cần phải lo lắng, sốt ruột… Mọi thứ sẽ tự nó đến,
chỉ cần chuẩn bị tốt khi nó đến.

Để tôi lấy ví dụ cho dễ hiểu: Việc xã hội vận động


giống như một đoàn tàu chạy trên đường ray vậy, nó
dịch chuyển với một năng lượng rất lớn, con người vốn

228
Phản đề | Trần Văn Đức

không thể tay không điều khiển hướng đi của nó theo ý


mình, nếu không muốn bị đoàn tàu đè bẹp. Thay vào đó
chúng ta có bộ phận chuyển ray để hướng con tàu đi
theo lộ trình mà ta muốn. Ở đây, đoàn tàu di chuyển tức
là sự dịch chuyển của xã hội, còn bộ phận chuyển ray
chính là những khoảng trống, bằng cách chuyển ray
chúng ta có thể chuyển hướng được đoàn tàu, vậy
nhưng không phải chỗ nào người ta cũng làm đường ray
và bộ phận chuyển ray, nên chúng ta phải chờ đợi,
chuẩn bị để không bỏ lỡ khi đoàn tàu di chuyển đến ngã
rẽ. Sự vận động của xã hội đi kèm với việc tạo ra
khoảng trống ngay tại thời điểm đó, nếu không tỉnh táo
dự đoán được và chuẩn bị tốt, chúng ta sẽ bỏ lỡ. Còn lộ
trình đi của tàu hỏa và các điểm chuyển ray vỗn dĩ đã rõ
ràng ngay từ đầu.

Nhiều người cho rằng việc khai dân trí cho toàn dân là
lãng phí nguồn lực, bởi mức độ dân trí thấp nên khó tiếp
thu những tư tưởng mới, như vậy công sức để khai trí
cho một người là rất nhiều, trong khi mức độ tác động
đến quá trình dân chủ hóa của họ không cao. Thay vào
đó chúng ta nên tập trung khai trí cho tầng lớp trí thức,

229
Phản đề | Trần Văn Đức

bởi họ dễ giác ngộ tư tưởng đi kèm với việc tác động của
họ đến quá trình dân chủ hóa đất nước trở nên lớn hơn.

Điều này về mặt chiến lược là đúng. Nhưng có sự khác


nhau giữa khai trí toàn dân và vận động theo xu hướng
tự nhiên. Như tôi đã viết trong mục lưu ý thứ tư: “Trên
thực tế, thứ mà chúng ta gọi là kế hoạch vốn dĩ trên một
không gian rộng lớn như xã hội Việt Nam thì nó đã tự
nhiên vận động, không cần can thiệp. Những khoảng
trống sẽ tự nhiên được khỏa lấp dù là theo xu hướng
tích cực hay tiêu cực”. Vậy nó tự nhiên vận động như
thế nào? Ví dụ: Một người (A) trong quá trình giao lưu
khai trí cho những người khác, theo bản năng tự nhiên,
họ sẽ có thiện cảm và muốn truyền đạt nhiều hơn đến
những người đang chú ý lắng nghe so với những người
không chú ý. Như vậy không cần xét theo lý trí để chọn
lọc đánh giá từng người có đủ điều kiện để truyền đạt
hay không, mà theo bản năng tự nhiên, họ cũng tự động
truyền đạt cho những người có tiềm năng để khai dân
trí. Tiếp tục người A cũng lưu lại lâu hơn ở những nơi
mà có nhiều người nghe mình nói hơn là những nơi
khác, một cách hoàn toàn tự nhiên, mặc dù trong quá

230
Phản đề | Trần Văn Đức

trình đi khai trí đến các địa điểm là ngẫu nhiên không
hề có một chiến lược nào cả. Ngược lại, những người có
tiềm năng cũng có thể chủ động tìm đến người khai trí
để học hỏi. Kiểu “đồng thanh tương ứng, đồng khí
tương cầu”. Đây chính là cách một cỗ máy rộng lớn (xã
hội) vận động.

Chiến lược ưu tiên những người tiềm năng chỉ có lợi ích
khi chúng ta chủ động được việc phân loại và thuận lợi
tiếp cận những người đó. Ví dụ: Nên ưu tiên thành phố
hơn nông thôn bởi thành phố mức độ dân trí cao hơn,
dẫn đến có khả năng những gì bạn nói được nhiều
người nghe và hiểu hơn so với ở nông thôn. Tức là bạn
phải chủ động nhắn tin cho từng người đã được lựa
chọn, hoặc chủ động lựa chọn các địa điểm phù hợp
theo tiêu chí. Nhưng trên thực tế việc phân loại và tiếp
cận có thể gặp khó khăn. Theo quan sát thì thường một
cá nhân hay tổ chức dân chủ, họ sẽ đăng bài phổ biến
đến đại chúng nói chung sau đó tương tác với những
người quan tâm tới bài viết, hoặc lựa chọn đăng bài ở
những nhóm có mật độ người có nhu cầu đọc bài viết
cao hơn. Như vậy việc làm theo chiến lược phân loại và

231
Phản đề | Trần Văn Đức

để mọi thứ vận động theo xu hướng tự nhiên có sự trộn


lẫn vào nhau. Đôi khi cũng có thể xem như chiến lược
phân loại “ưu tiên những người có tiềm năng” ở mức độ
đơn giản là sự vận động theo xu hướng tự nhiên được,
bởi nó rất dễ, gần như ai cũng có thể hiểu và áp dụng
nếu có điều kiện.

Nếu chỉ được đấu tranh bất bạo động thì chúng ta có
những lợi thế gì?

- Đó là chúng ta có internet trong đó hai trang


web lớn Google, Facebook mà Đảng Cộng sản chỉ kiểm
soát được một phần. Vậy nên chúng ta có thể ẩn danh
trên không gian mạng để truyền đạt thông tin. Đây là
một lợi thế cực kì lớn, chúng ta có thể dùng nó để khai
dân trí, thực hiện quyền tự do ngôn luận, báo chí trên
không gian ảo, giao lưu, trao đổi với những người cùng
chí hướng, thực hiện quyền tự do lập hội, nhóm, tổ
chức…. tất cả những thứ đó rất khó nếu muốn làm
ngoài đời thực, thì đều có thể thực hiện trên không gian
ảo. Chỉ với điều này chúng ta đã lợi thế hơn rất nhiều
Trung Quốc và Triều Tiên rồi. Vậy nên tất cả hành
động sau này đều phải thực hiện trên không gian ảo

232
Phản đề | Trần Văn Đức

trước khi tiến hành thực tế ngoài đời thực, kể cả là thực


hiện các quyền tự do.
- Đó là khi chúng ta có đông người, khi tập trung
tấn công vào độc tài Cộng sản thì mỗi người chỉ cần
ném một viên sỏi nhỏ cũng đủ để chế độ độc tài thảm
hại, ngược lại chế độ độc tài tấn công chúng ta mỗi
người san sẻ một chút thì mức độ tổn thất mà chế độ
độc tài gây ra cho chúng ta là không đáng kể. Đây chính
là sức mạnh của sự đoàn kết.
- Đó là mỗi cá nhân có thể lựa chọn nhiều hình
thức đấu tranh với độc tài, sao cho phù hợp với năng
lực, điều kiện của mình. Có thể người này ẩn danh,
người kia công khai, người viết bài, người chia sẻ,
người đi vận động… Những người sợ bị chế độ độc tài
trả thù có thể dùng tên ẩn danh, và chỉ chia sẻ thôi, như
vậy chế độ độc tài sẽ khó biết bạn là ai, và có biết thì
chỉ chia sẻ thôi cũng không đủ sức để cấu thành tội, bạn
cũng không bị ảnh hưởng gì nhiều. Miễn là mỗi người
góp một ít công vào trong quá trình làm sụp đổ chế độ
độc tài.

Những giai đoạn của tiến hành kế hoạch.

233
Phản đề | Trần Văn Đức

Như tôi đã viết ở phần trên, thời gian đầu chúng ta chủ
yếu chỉ nên hoạt động trên không gian mạng, khi số
người đủ lớn chúng ta mới từ từ chuyển sang hoạt động
ngoài đời thực, như biểu tình vì một lí do nào đó, chủ
quyền biển đảo, ô nhiễm môi trường, hay một vụ án
oan… Đây cũng là cách để thử nghiệm khả năng tổ
chức và một vài thành tố khác, dần dần mới đi đến biểu
tình đòi các quyền tự do. Đây là phương pháp nhích
dần từng bước nhỏ, kiểu tằm ăn dâu, vừa đủ tạo áp lực
để đối phương biết khó mà lui dần, không nên tạo áp
lực lớn quá để đối phương phản công lại bằng bạo lực.
Rồi khi dưới sức ép của đấu tranh bất bạo động, chính
quyền độc tài đã lung lay, chúng ta phải chuẩn bị kế
hoạch cho hành động tiếp theo. Lưu ý: Trong quá trình
chuyển đổi không được có khoảng trống để một chính
quyền độc tài khác lợi dụng thay thế, phải chuẩn bị
trước tình huống tránh việc chế độ Cộng sản sụp đổ đột
ngột, mà không có phương án hành động.

Để quá trình đấu tranh diễn ra nhanh hơn, chúng ta vừa


đấu tranh vừa kêu gọi người bên phe độc tài về với
chúng ta. Bày tỏ thái độ thiện chí với hành động phản

234
Phản đề | Trần Văn Đức

tỉnh của họ. Tuy việc này trong giai đoạn đầu sẽ không
hiệu quả nhiều bởi lợi ích vẫn gắn chặt họ với chế độ
độc tài, nhưng theo thời gian lực lượng dân chủ mạnh
lên do dân trí tăng, lợi ích mà những người theo độc tài
dần giảm xuống, kết hợp với lời kêu gọi, họ sẽ nhanh
chóng rời bỏ chế độ độc tài, điều này sẽ tạo thành hệ lụy
kép khiến chế độ độc tài suy giảm nhanh hơn nữa. Một
ưu điểm nữa, đó là tránh “chó cùng dứt dậu” sẽ không
tốt cho chúng ta.

Biểu đồ trên cho chúng ta thấy tương quan sức mạnh


giữa độc tài và dân chủ phụ thuộc vào dân trí. Tại điểm
A là lúc chế độ độc tài phân rã một cách nhanh chóng,

235
Phản đề | Trần Văn Đức

đây là thời điểm kêu gọi người của chế độ độc quay lại
về phe chúng ta (dân chủ) hữu hiệu nhất.

Cuối cùng để chống độc tài quay lại một lần nữa, ngoài
việc cần có một thể chế và hệ thống bầu cử tốt ra, chúng
ta cần chú trọng về việc khai dân trí cho người dân. Đặc
biệt là phải từ bỏ hoàn toàn thói quen hời hợt, chỉ biết
có trước mắt mà không chịu tìm hiểu sâu xa bản chất
vấn đề.

236
Phản đề | Trần Văn Đức

BỔ SUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH

Khi đọc đến đây chắc người đọc đã hiểu lập trường của
tôi. Chúng ta phải bắt đúng bệnh thì mới có thể kê đơn
chuẩn từ đó mới chữa được. Chính trị cũng vậy, phải
phân tích đúng thực trạng thì mới có thể đề ra phương
pháp xử lý phù hợp. Do phần phương pháp đấu tranh đã
nêu tổng quát, phần này tôi chỉ bổ sung thêm một số
yếu tố rời rạc.

- Tăng lương cho cán bộ Cộng sản để họ có thể yên


tâm làm tốt nhiệm vụ của mình.

Với mức lương hiện nay lương thủ tướng và chủ


tịch nước là khoảng 18 triệu/tháng. Điều này là phi lí
với trọng trách họ đang mang. Mỗi quyết định của họ có
thể tác động rất lớn đến đất nước, hơn bất cứ tập đoàn
kinh tế nào trong quốc gia. Với mức lương không tương
xứng như vậy, không khác nào bắt họ phải nhận hối lộ,
mặc dù có khi lương tâm họ không muốn, nhưng để có
tiền lo cho gia đình, họ không còn cách nào khác. Và
một khi tay đã nhúng chàm thì không có cách nào thoát
ra được. Bởi sự hối lộ đó sẽ là bằng chứng để tố cáo nếu
họ không tiếp tục bao che cho các nhóm lợi ích. Bởi vậy

237
Phản đề | Trần Văn Đức

rất nhiều tài phiệt dù không chính thức làm chính trị
nhưng lại có quyền lực rất lớn, do họ dùng tiền để
khống chế các quan chức. Theo tháp nhu cầu Maslow,
nhu cầu đầu tiên của con người là nhu cầu tồn tại cơ bản
như: ăn uống, đi lại, ăn mặc, chỗ ở, chăm sóc gia
đình… Khi nhu cầu cơ bản đã được đáp ứng thì con
người mới chuyển sang nhu cầu cao hơn, như muốn
được người khác công nhận, tôn trọng và muốn đóng
góp cho xã hội mà họ đang ở. Như vậy tiền lương của
các quan chức, nhất là thủ tướng hay bộ trưởng, ít nhất
phải đủ chu cấp cho gia đình họ. Không còn vướng bận
chuyện chăm sóc gia đình thì họ mới có thể yên tâm
làm việc. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, chúng
ta phải hiểu rằng “năng lực đến đâu thì tiền lương đến
đấy”, hay anh/chị giúp ích cho xã hội thì xã hội phải trả
lại anh/chị một khoản xứng đáng với giá trị mà anh/chị
cống hiến. Và khi mà họ đã làm việc công tâm rồi thì sự
thừa nhận các giá trị dân chủ đã tiến thêm một bước rất
dài.

Như vậy, chúng ta phải công nhận rằng, việc tăng


lương cho cán bộ viên chức, đặc biệt là các viên chức

238
Phản đề | Trần Văn Đức

cấp cao là việc làm khẩn cấp hiện nay. Kể cả sau này có
dân chủ thì việc trả lương tương xứng với năng lực của
viên chức là việc phải làm. Tôi đề xuất mức lương thủ
tướng và ngang cấp thủ tướng, tối thiểu là 700 triệu
VNĐ/tháng. Còn các bộ trưởng là khoảng 500 triệu
VNĐ/tháng theo mức giá năm 2022. Mức lương nhìn có
vẻ cao nhưng vẫn chưa tương xứng với những gì họ nên
nhận, và chỉ là con số nhỏ so với mức lương quan chức
Singapore. Một điều nữa, phải tăng tiền lương thì mới
có cơ sở chính đáng để ra các quyết định kiểm soát
nghiêm khắc và phạt quan chức khi vi phạm.

Đồng thời cũng đề xuất lập đại lộ danh vọng hoặc


quảng trường (công viên) danh vọng để tôn vinh những
người có công với đất nước trong thời hiện đại. Giúp họ
thõa mãn nhu cầu về danh vọng, từ đó thôi thúc họ làm
việc tốt hơn. Đi kèm với việc tăng lương cho quan chức,
chúng ta cũng kêu gọi các vị ấy lập tài khoản mạng xã
hội để tăng tương tác với người dân.

Đương nhiên việc tăng lương cho cán bộ nhà nước


cũng có nhược điểm như nó làm tăng ngân sách, làm
phình thêm bộ máy (khi thấy lương cao của cán bộ

239
Phản đề | Trần Văn Đức

nhiều người sẽ xin vào), cũng như hợp lý hóa số tài sản
của cán bộ… Nhưng dù sao thì tôi vẫn tin vào tháp nhu
cầu Maslow. Cũng có thể hạn chế những điều này bằng
những chính sách khác như: Không thật sự cần thì
không tuyển, thường xuyên kiểm tra năng lực của cán
bộ, ai không đủ năng lực sẽ bị cho thôi việc để người có
năng lực có cơ hội được phát huy, cuối cùng là phạt thật
nặng, thật nghiêm khắc những người bị phát hiện là
tham nhũng. Để răn đe những người khác.

- Lập hội nhóm trên mạng, áp dụng mô hình phễu


trong kinh doanh.

Đấu tranh chính trị có thể là đấu tranh cá nhân,


nhưng để đi được xa hơn thì nên đấu tranh có tổ chức.
Ban đầu có thể chỉ đơn giản là những người có cùng
đồng thuận về mục đích đạt được, cũng như phương
thức đấu tranh hội nhóm lại giao lưu, trao đổi với nhau.
Sau đó có một vài dự án nhỏ chung, rồi các dự án lớn và
chuyên nghiệp, có quy trình hơn theo thời gian, cuối
cùng hình thành một chính đảng thật sự. Mỗi một đảng
đều có hạt nhân là một nhóm người đoàn kết và thấu
hiểu nhau. Sức mạnh của đảng phụ thuộc nhóm nhỏ

240
Phản đề | Trần Văn Đức

này. Nếu nhóm này chất lượng, am hiểu về chính trị,


kinh tế, tổ chức, có một chiến lược đấu tranh tốt thì
nhóm phát triển và ngược lại. Nhưng đây không phải
vấn đề tôi muốn viết, tôi muốn viết về một cách thức
nhỏ thu hút sự chú ý của người dân và tìm kiếm thành
viên cho tổ chức. Đầu tiên thành viên cốt lõi của tổ
chức phải nắm chắc về kiến thức chính trị, kinh tế (đây
là điều kiện bắt buộc). Sau đó lập một số trang thông tin
mang tính chất là cơ quan ngôn luận, truyền thông đại
diện của nhóm (website chẳng hạn, và lập thêm page
Facebook để tăng tương tác) viết những bài thời sự trên
những trang này. Tích cực đăng trên những trang mạng
có nhiều người quan tâm đến chính trị như: quora.com,
spiderum.com… Mục đích là thu hút sự quan tâm của
người dân, biết về sự hiện diện của tổ chức mình. Bởi
những bài viết có tính thời sự nên sẽ nhận được sự quan
tâm bàn luận của cộng đồng mạng, và họ sẽ chia sẻ bài
viết giúp chúng ta. Lưu ý, để đạt được mục đích thu hút
được nhiều người đọc, việc chia sẻ bài viết phải công
tâm và khách quan, có thể chiều lòng số đông một chút,
không tuyên truyền hay định hướng trên những bài viết
này (tâm lý con người rất ghét bị tuyên truyền và định

241
Phản đề | Trần Văn Đức

hướng). Trên các bài viết này có để link dẫn đến nhóm
công khai. Đây là một nhóm mở cho phép tất cả mọi
người đăng bài, bình luận, trao đổi một cách cởi mở.
Nhóm này có hai tác dụng chính, đó là thu hút thêm
người quan tâm, và có một chút tuyên truyền nhẹ dưới
dạng các bài viết, và trả lời, tranh luận… (theo kiểu
khai trí) của các thành viên trong tổ chức. Và những bài
viết của những thành viên trong nhóm viết hay sẽ được
xin phép tác giả đăng lên website, page Facebook của tổ
chức. Như vậy khi nhóm này đã phát triển số lượng lớn
thì nó cũng là một nguồn cung các bài viết chất lượng
cho tổ chức. Song song với công việc chăm sóc, bồi
dưỡng nhóm thì các thành viên trong tổ chức cũng quan
sát nếu thấy cá nhân nào đó nổi trội có tư duy, định
hướng phù hợp, thì mời làm thành viên tổ chức và cho
vào một nhóm kín khác. Nhóm kín này chính là nơi
hoạt động, trao đổi bí mật của tổ chức. Bằng cách chủ
động thu hút và chủ động đào tạo này tổ chức có thể gia
tăng thành viên nhanh chóng. Ngoài ra tổ chức cũng
phải chủ động đi tìm kiếm sự ủng hộ của những người
giỏi, có chuyên môn, nổi tiếng, nếu được họ cố vấn thì
càng tốt. Và cả những người quan tâm tới chính trị mà

242
Phản đề | Trần Văn Đức

chưa biết đến chúng ta. Những người này cũng có đặc
điểm là hay chủ động nghe ngóng, bình luận ở những
trang cá nhân nổi tiếng, hay trang báo lớn như: RFA,
VOA, BBC…. Vậy nên các thành viên tổ chức cũng
phải quan sát cả những trang như vậy. Nếu thấy ai có
quan điểm phù hợp thì có thể mời về nhóm công khai
để tiếp tục theo dõi.

- Phương pháp đấu tranh thì như tôi đã trình bày ở


trên, tức là chúng ta phải sử dụng chiến thuật “nhích
dần từng bước nhỏ, kiểu tằm ăn dâu”, chậm nhưng
chắc.

Từ gián tiếp chỉ trích một hành động sai trái nào đó,
đến trực tiếp đòi các quyền dân chủ, từ không gian
mạng đến ngoài đời thật. Với không gian mạng, chúng
ta có thể kêu gọi thay ảnh đại diện giống nhau trên trang
cá nhân Facebook, đây là một cách thức hữu hiệu để
bày tỏ thái độ của chúng ta. Nếu hành động này tạo
được một phong trào trên mạng, nó có thể gửi tới nhà
cầm quyền một thông điệp mạnh mẽ. Đặc biệt việc thay
ảnh đại diện rất dễ dàng và không mất thời gian cá
nhân, cũng không mất khoản chi phí nào cả. Mỗi tài

243
Phản đề | Trần Văn Đức

khoản cá nhân trên mạng có một lượng tương tác rất lớn
với những cá nhân khác, đặc biệt là những người nổi
tiếng, có nhiều người theo dõi. Vậy nên sức lan tỏa và
tạo thành một phong trào là dễ dàng hơn rất nhiều so
với ngoài đời thực. Với trường hợp ngoài đời thật do
chúng ta chưa có luật biểu tình, trong lúc đi biểu tình, di
chuyển lộn xộn rất dễ bị nhà cầm quyền giả làm dân
thường trà trộn vào, nhằm cản trở biểu tình biến cuộc
biểu tình thành ẩu đả và gây rối trật tự công cộng, từ đó
công an có lý do để can thiệp và đàn áp phá hỏng cuộc
biểu tình. Để đối phó trường hợp này, tốt nhất những
người đi biểu tình hẹn nhau trước tại một địa điểm nào
đó, và chỉ tập trung ở địa điểm đó biểu tình chứ không
di chuyển, bởi kẻ xấu rất dễ trà trộn vào đoàn người
đang di chuyển. Khi đến điểm hẹn mỗi người phải giữ
trật tự, không tự ý di chuyển lộn xộn, nghiêm túc cách
nhau một khoảng cố định, tốt nhất là nên ngồi xuống.
Với tư thế ngồi, những thành phần được cài cắm gây rối
rất khó để hành động, và nếu có hành động cũng dễ bị
phát hiện và loại bỏ khỏi nhóm biểu tình. Chỉ có như
vậy cuộc biểu tình ngoài đời thật mới tăng thêm xác
xuất thành công.

244
Phản đề | Trần Văn Đức

- Trong việc khai dân trí việc tối quan trọng, cần phải
đơn giản hóa các vấn đề khó hiểu và ngắn gọn mới
mong phổ biến rộng rãi trong người dân.

Phải cho người dân hiểu được hai điều tối quan
trọng là quyền lợi tự nhiên của mình (nhân quyền), và
ích lợi của đa đảng. Với nhân quyền thì cũng phải làm
cho người dân hiểu rằng: “Chính trị cũng là một nghề
bình thường như bao nghề khác, chúng ta không cần
phải sợ”. Về phần lợi ích của đa đảng thì chia sẻ cho
người dân câu chuyện: “Phải sống cùng sói hoặc sư tử,
cuối cùng bầy cừu đã lựa chọn ra sao?” ở phần trên
quyển sách. Toàn bộ hai điều này chỉ nên gói gọn trong
7 - 8 trang giấy, càng ngắn, dễ hiểu càng có sức lan
truyền. Sự kiên nhẫn để đọc bài của một người dân
thường chắc cũng chỉ đến vậy.

245
Phản đề | Trần Văn Đức

Trích lại lời nói, dẫn chứng của đối phương làm bằng chứng để chống lại
đối phương là phương pháp khá hiệu quả.

246
Phản đề | Trần Văn Đức

DỰ ĐOÁN QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI DÂN CHỦ Ở


NƯỚC TA

Cho đến khi tôi viết quyển sách này thì gần như chúng
ta có thể chắc chắn rằng, quá trình chuyển đổi về dân
chủ của nước ta sẽ là quá trình chuyển đổi từ từ. Nó
tương đồng với việc nhận thức của người dân dần tăng
lên và biết đòi quyền lợi cho mình, và cũng tương ứng
với sự nhượng bộ một cách từ từ của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tức là sẽ không có một sự sụp đổ đột ngột,
được gây ra bởi ngoại lực hay do nội bộ Đảng Cộng sản
Việt Nam chia rẽ. Đương nhiên hai sức ép ngoại lực và
nội lực là luôn có.

Sức ép ngoại lực đến từ:

1. Việt Nam hiện nay đang hội nhập sâu rộng với thế
giới. Vậy nên Việt Nam sẽ phải chịu sức ép từ các tổ
chức và các công ty nước ngoài.

Để đổi lấy những hợp đồng xuất nhập khẩu, các hiệp
định thương mại hay những khoản đầu tư nước ngoài,
thì đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải đồng ý với
những điều kiện mà các tổ chức, công ty đó nêu ra.

247
Phản đề | Trần Văn Đức

Trong đó có các vấn đề về nhân quyền, như quyền


thành lập các công đoàn độc lập để bảo về quyền lợi
cho công nhân, sự thuận tiện trong việc làm thủ tục hay
minh bạch pháp lí, …

Với sự tham gia của Google, Youtube, Facebook, …


khiến cho việc kiểm soát thông tin trở nên khó khăn
hơn, góp phần thúc đẩy dân trí trong nước.

2. Sự co cụm của các nước độc tài còn sót lại, trong đó
có Trung Cộng khiến cho Việt Cộng không còn nơi để
dựa dẫm.

Hơn nữa, với việc bộc lộ rõ dã tâm thôn tính Biển Đông
của Trung Cộng càng làm cho Việt Cộng khó có thể
xích lại gần Trung Cộng hơn, bởi sẽ vấp phải sự phản
đối mạnh mẽ của người dân.

Việc Việt Cộng phải đứng một mình trước sức ép của
các nước dân chủ, quá trình chuyển đổi về dân chủ là
không thể tránh khỏi. Việc bế quan tỏa cảng giống như
Triều Tiên để bảo vệ chế độ độc tài là không thể xảy ra,
bởi mức độ nhận thức của người dân về vấn đề này đã

248
Phản đề | Trần Văn Đức

khá cao, đã có ý thức rất rõ ràng về hậu quả đối với


những việc như thế.

3. Đó là sự trừng phạt của nước ngoài đối với các quan


chức Việt Nam tham nhũng, không cho xuất ngoại và
đóng băng tài khoản ở nước ngoài...

Việc này đưa các quan chức tham nhũng vào thế tiến
thoái lưỡng nan, kiếm được tiền cũng không tiêu được,
cũng không thể chạy trốn ra nước ngoài sinh sống (hạ
cánh an toàn). Như vậy sẽ tạo ra sức ép khiến họ bớt
tham nhũng, giảm đi động lực trung thành với Đảng
Cộng sản.

Còn sức ép từ bên trong:

1. Trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự rạn


vỡ lớn. Phần đa không còn tin vào lý tưởng của triết học
Marx - Lenin. Thứ duy nhất khiến cho họ vẫn trung
thành với Đảng Cộng sản là vì lợi ích (tiền, quyền lực)
mà Đảng Cộng sản đem lại cho họ. Nội bộ Đảng Cộng
sản không có sự thống nhất, thay vào đó là kết bè kéo
cánh, thanh trừng lẫn nhau, dưới cái vỏ diệt tham
nhũng. Chưa kể xuất hiện những đảng viên trí thức, am

249
Phản đề | Trần Văn Đức

hiểu xã hội (những người này ngày một nhiều) đang đấu
tranh để chỉnh đốn và cải cách Đảng Cộng sản theo
hướng tốt đẹp hơn.

2. Người dân ngày càng nhận ra bộ mặt thật của Đảng


Cộng sản, khi tham nhũng của các quan chức bị bóc
trần nhan nhản trên mặt báo. Việc thua lỗ hàng nghìn tỷ
của các công ty nhà nước, hay việc đội vốn của các
công trình công cộng lên hàng chục, hàng trăm lần là
thứ mà người dân đã quá quen thuộc.

Tầng lớp dân oan, mất đất ngày một nhiều. Nhất là khi
tài nguyên thiên nhiên đã bị Đảng Cộng sản khai thác
đến cạn kiệt, và để nuôi bộ máy nhân sự khổng lồ
nhưng vô tích sự, Đảng Cộng sản không còn cách nào
khác hơn ngoài việc đánh vào thuế người dân.

Tức là Đảng Cộng sản hoặc phải cắt giảm, và chỉnh đốn
bộ máy nhân sự, trong đó có cả lực lượng dư luận viên,
gây nên sự suy yếu trong đảng; hoặc phải hút thêm máu
nhân dân, và điều này sẽ gây thêm sự bất mãn trong
quần chúng. Còn một trường hợp khác nữa, đó là giao
dịch với các nước độc tài khác, đánh đổi lợi ích lâu dài
của dân tộc (đất đai, biển đảo, tài nguyên thiên nhiên)

250
Phản đề | Trần Văn Đức

để lấy những lợi ích trước mắt (tiền), nhằm giải quyết
những vấn đề mà Đảng Cộng sản đang vướng mắc.

Nhược điểm của những phương pháp này là các vấn đề


sẽ ngày một tích tụ lớn dần và đến một ngày Đảng Cộng
sản không thể kiểm soát được những vấn đề đó nữa, thì
Đảng Cộng sản sẽ tự sụp đổ.

3. Đó là những người đã nhìn ra sự thật, thông qua


nhiều cách khác nhau, như đọc sách báo nhiều, con
cháu Việt Nam Cộng hòa, hay được đi nước ngoài,
được nhìn thấy thế giới văn minh, … cuối cùng hiểu ra
bản chất thật của Đảng Cộng sản.

Những người này sẽ quay lại tuyên truyền cho những


người khác hiểu và đứng lên đòi quyền lợi cho mình.
Lực lượng này trong tương lai cũng sẽ ngày một đông
đảo, nhất là tầng lớp giới trẻ.

Vậy tại sao với nhiều sức ép như vậy nhưng đảng Cộng
sản lại chỉ nhượng bộ một cách từ từ?

Đó là vì đấu tranh được chia thành hai loại: Đấu tranh


mềm (phi bạo lực; ví dụ như biểu tình, tham gia các
phong trào như không bán đồ ăn cho các đảng viên

251
Phản đề | Trần Văn Đức

đảng Cộng sản,…) và đấu tranh trực diện (sử dụng bạo
lực như chiến tranh, cướp đoạt, …).

Với việc Đảng Cộng sản nắm trọn quân đội ở Việt
Nam, việc đấu tranh khuyến khích bạo lực không khác
nào tự sát. Bởi Đảng Cộng sản sẽ tiêu diệt ngay khi phe
đối lập mới manh nha hình thành. Hơn nữa nó còn tạo
cớ để Đảng Cộng sản tiêu diệt luôn phong trào dân chủ.

Còn nếu như có cơ hội nhỏ nhoi chiến thắng, thì cũng
dẫn đến đất nước kiệt quệ, và trở thành miếng mồi ngon
cho các nước khác. Điều này còn đáng lo ngại hơn so
với việc Đảng Cộng sản đang cai trị hiện nay.

Vậy nên, đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam và thế giới
chỉ có thể là đấu tranh mềm. Tuy nhiên đấu tranh mềm
thì sẽ là cuộc đấu tranh lâu dài. Ưu điểm của nó là
không gây ra sự xáo trộn lớn trong đất nước.

Đảng Cộng Sản chỉ sụp đổ khi các thành viên trong
đảng có nhận thức cao, khi họ thấy rằng những lợi ích
về vật chất, quyền lực mà đảng mang lại không đủ để
bù đắp cho sự thiệt thòi của đất nước và không đáng để
họ bán rẻ nhân cách của mình. Hoặc lợi ích mà họ nhận

252
Phản đề | Trần Văn Đức

được từ đảng nhỏ hơn những thứ mà họ phải chịu đựng,


ví dụ như sự sỉ nhục, khinh thường đến từ nhân dân và
người thân trong gia đình.

Khi những điều này xảy ra, Đảng Cộng sản sẽ tự tan rã.

Ở một khía cạnh khác, những chóp bu của Đảng Cộng


sản cũng thừa hiểu rằng, không thể kéo dài sự độc tài
của đảng được lâu. Sớm muộn gì nó cũng sụp đổ. Vả lại
cũng không nên kéo dài khi mà nó gây ra sự tụt hậu cho
chính đồng bào, trong đó có anh em ruột thịt của họ.

Ý thức về sự tự tôn dân tộc chắc chắn là vẫn tồn tại


trong tâm thức mỗi người. Vậy nên cá nhân họ cũng
không muốn kéo dài sự độc tôn của Đảng Cộng sản,
ngoài những tay mơ vẫn nghĩ rằng Chủ nghĩa Cộng sản
là con đường tốt nhất cho dân tộc và vẫn kiên định theo
đuổi, thành phần này chủ yếu toàn người già sắp chết.

Đa số có nhận thức sẽ vẫn muốn từ bỏ sự độc tài của


Đảng Cộng sản, nhưng một bộ phận lại không nỡ từ bỏ
lợi ích của mình. Quan trọng hơn là họ sợ Đảng Cộng
sản sụp đổ nhanh chóng, người dân bị sốc trước sự thật
được phơi bày và sẽ không tha cho họ. Vậy nên họ chọn

253
Phản đề | Trần Văn Đức

cách lèo lái làm sao để Đảng Cộng sản từ bỏ quyền lực
từ từ để người dân đỡ bị sốc, và họ cũng sẽ hạ cánh an
toàn. Với cá nhân tác giả thì đây cũng là cách khôn
ngoan nhất.

Vậy thì quá trình nhượng bộ từ từ sẽ như thế nào.

Nó có thể đi theo trình tự sau: Nới lỏng quyền tự do


ngôn luận, người dân có thể nói được nhiều vấn đề mà
trước đây không dám nói => cho phép các công đoàn
hoạt động độc lập => mở rộng cho những người không
phải đảng cũng được tham gia Quốc hội. Hiện giờ số
người không phải đảng được tham gia Quốc hội là quá
ít => thông qua luật biểu tình => cuối cùng là cho phép
các đảng hoạt động và tham gia tranh cử.

Tuy nhiên có một vài lưu ý là, Đảng Cộng sản sẽ tìm
mọi cách để bắt chẹt các đảng đối lập, làm cho họ
không đủ sức tranh cử, thông qua đó Đảng Cộng sản
vẫn giữ quyền lãnh đạo đất nước lâu dài. Điều này dẫn
đến một kết luận khác là, nước Việt Nam trong tương
lai sẽ chuyển đổi sang chế độ đại nghị và Đảng Cộng
sản có thể đổi tên quay lại thành Đảng Lao Động. Chứ
không thể chuyển đổi sang chế độ tổng thống, bởi quá

254
Phản đề | Trần Văn Đức

trình chuyển đổi là xảy ra từ từ theo xu hướng tự nhiên,


người dân hoàn toàn không có cơ hội chọn ra một thể
chế khác (thể chế tổng thống, hoặc bán tổng thống),
xem ra đây lại là một điều may mắn. Bởi thể chế tổng
thống không hề có lợi cho cuộc chuyển đổi về dân chủ
ở nước ta như tôi đã từng phân tích ở phần trên.

255
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐƯỜNG LỐI CỦA VIỆT NAM TRONG MỐI


TƯƠNG QUAN ĐỊA CHÍNH TRỊ

1. Địa chính trị là gì

Địa chính trị chính là từ viết tắt của địa lý - chính trị.
Đọc thì là vậy nhưng hiểu thì khác. Thực ra hai môn địa
lý chính trị và địa chính trị là khác nhau.

Môn địa lý chính trị chính thức là một phương thức mô


tả những thực thể địa lý (thiên nhiên, nhân văn, kinh
tế) còn môn địa chính trị phân tích những dữ kiện trên
để đưa ra chính sách làm sao tối đa hóa được lợi ích cho
quốc gia.

Để đưa ra được một chính sách phù hợp cho quốc gia
chúng ta cần phân tích: Vị trí địa lý, dân số và thành
phần dân số, văn hóa, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên,
tiềm lực quân sự… và nhiều yếu tố khác nữa.

Ví dụ:

Vị trí địa lý: Việt Nam giáp phía nam Trung Quốc, có
đường biên giới đất liền cũng như trên biển là rất dài.

Văn hóa: Văn hóa của Trung Quốc là bá quyền, xem


mình là trung tâm của thế giới và các nước xung quanh

256
Phản đề | Trần Văn Đức

phải thần phục họ. Tức là luôn muốn bành trướng mở


rộng ảnh hưởng. Văn hóa ở Việt Nam thì lại khá cởi
mở, tuy nhiên tâm lý thù ghét và muốn chống Trung
Quốc rất nặng.

Dân số: Dân số Trung Quốc là 1,4 tỷ người, 90% tự


nhận mình là người Hoa. Dân số Việt Nam là 98 triệu
người. Vậy nên Trung Quốc có số dân đông gấp 14 lần
VN.

Kinh tế: GDP 2021 của Trung Quốc là 16.900 tỷ USD,


theo Ngân hàng Thế giới thì tốc độ tăng trưởng GDP là
6%. Còn GDP của Việt Nam năm 2021 là 352 tỷ USD,
tốc độ tăng trưởng là 2,58%. Như vậy xét về tiềm lực
kinh tế Trung Quốc gấp 48 lần Việt Nam.

Tiềm lực quân sự: Trung Quốc thông báo sẽ tăng ngân
sách quốc phòng 7,1% trong năm nay (2022), tương
đương 230 tỷ USD, cao thứ hai trên thế giới, chỉ sau
Mỹ. Trong khi đó ước tính chi tiêu quốc phòng của Việt
Nam là 7 - 8 tỷ USD. Như vậy chi tiêu quốc phòng
Trung Quốc cũng gấp 30 lần Việt Nam.

257
Phản đề | Trần Văn Đức

Đây chỉ là thống kê rất sơ bộ về mối tương quan giữa


Việt Nam và Trung Quốc.

2. Tiếp đến chúng ta xem xét các trường phái chính


trị trong quan hệ quốc tế.

Có hai trường phái chính đó là:

2.1 Chủ nghĩa Hiện thực:

Các lý thuyết gia Chủ nghĩa Hiện thực cho rằng, con
người có bản tính không nhân từ, cho mình là trung tâm
vũ trụ và có khuynh hướng cạnh tranh với nhau, nên dễ
gây xung đột, ngoại trừ có những điều kiện mà buộc họ
phải làm việc chung với nhau. Con người cũng được
cho là có khuynh hướng vô tổ chức, chỉ nghĩ tới lợi ích
riêng, tự lực và thường bị thúc đẩy giành thêm quyền
lực.

Các quốc gia cũng giống như con người, luôn tìm
cách nâng cao quyền lực nhằm tự đảm bảo an ninh và
sự tồn tại của mình trong hệ thống vô chính phủ, thông
qua việc cố gắng giành được càng nhiều nguồn lực càng
tốt. Điều này dẫn tới việc các quốc gia luôn ở trong thế
cạnh tranh và đối đầu lẫn nhau. Cho nên, một nước luôn

258
Phản đề | Trần Văn Đức

phải để ý tới hành động của các nước khác chung


quanh, và phải sử dụng những biện pháp thực dụng để
giải quyết vấn đề khi nó hiện ra.

2.2 Chủ nghĩa Tự do:

Chủ nghĩa Tự do có phần đối đầu với chủ nghĩa hiện


thực. Chủ nghĩa Tự do cho rằng sự hợp tác kinh tế giữa
các nước sẽ làm nản lòng các nhà nước trong việc sử
dụng vũ lực chống lại nhau bởi vì chiến tranh sẽ đe dọa
sự thịnh vượng của cả hai bên.

Mặt khác Chủ nghĩa Tự do cũng cho rằng các quốc gia
dân chủ cũng có xu hướng hòa bình hơn các quốc gia
độc tài.

- Dung hòa giữa hai chủ nghĩa:

Việc kết hợp giữa hai chủ nghĩa trên cho ra một giả
định rằng: Nếu một quốc gia giành được nhiều lợi ích
hơn các đối tác khác, nó sẽ dần dần trở nên mạnh hơn
và các đối tác của nó sẽ ngày càng trở nên dễ bị tổn
thương hơn. Điều này ám chỉ cả về chính trị nói chung
và kinh tế nói riêng.

259
Phản đề | Trần Văn Đức

3. Mối tương quan giữa Việt Nam - Trung Quốc - Mỹ

Mỹ là siêu cường kinh tế, quân sự số một thế giới với


GDP lên tới 23.000 tỷ USD năm 2021, trong đó ngân
sách quốc phòng là 700 tỷ USD, dự kiến năm 2022 sẽ là
770 - 800 tỷ USD. Ngân sách gấp 3 lần Trung Quốc, và
100 lần Việt Nam.

Tuy nhiên trong mối tương quan với Việt Nam và Đông
Á nói chung thì tuy Mỹ là siêu cường nhưng Mỹ lại ở
xa. Trung Quốc là đại cường nhưng Trung Quốc lại ở
gần. Quan trọng hơn, Trung Quốc là đại cường đang
lên. Đang muốn khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng
của mình. Và là quốc gia láng giềng với Việt Nam. Như
vậy xét về địa chính trị thì Việt Nam thuộc vùng ảnh
hưởng của Trung Quốc.

Sự chung đụng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Á chủ


yếu ở trên biển. Trung Quốc muốn độc chiếm Biển
Đông làm của riêng, qua yêu sách đường lưỡi bò chín
đoạn, trong khi Mỹ muốn bảo vệ quyền tự do hàng hải
ở đây. Với việc độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc có
thể khống chế giao thương đường biển ở khu vực này.
Qua đó có thể tạo ảnh hưởng lên các nước trong khu

260
Phản đề | Trần Văn Đức

vực, đặc biệt là Đông Á: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn


Quốc. Khiến cho các nước này ngày càng phụ thuộc
Trung Quốc hơn. Hay nói đơn giản, chiếm Biển Đông
là chiến lược để Trung Quốc tạo ra vùng ảnh hưởng của
mình với tư cách là một đại cường.

Trong đó, Việt Nam với vị trí địa lý của mình, là yếu tố
then chốt để tham vọng chiếm Biển Đông trở thành hiện
thực. Chính vì vậy cả Mỹ và Trung Quốc đều muốn lôi
kéo Việt Nam về phía mình. Mối liên kết Mỹ - Việt chủ
yếu là biển, nhưng mối liên kết Trung – Việt còn là đất
liền (mặc dù ưu tư hiện nay vẫn là biển). Với vị trí án
ngữ con đường nam tiến cả trên bộ lẫn trên biển của
Trung Quốc, chúng ta là mối quan tâm hàng đầu của
Trung Quốc nếu muốn mở rộng ảnh hưởng xuống phía
nam.

Chiến lược hiện tại của Trung Quốc là từ từ xâm lấn, xây
dựng căn cứ trên các vùng chiếm được, tức là chậm mà
chắc. Liên tục đưa máy bay, tàu thuyền đến lãnh hải các
nước trong khu vực tập trận, khiêu khích, nhằm thử phản
ứng của đối phương, và chủ quyền hóa phần tranh chấp,
và dần biến lãnh hải của đối phương thành vùng tranh

261
Phản đề | Trần Văn Đức

chấp. Đồng thời với tư cách là công xưởng của thế giới,
Trung Quốc khiến các nước xung quanh phụ thuộc kinh tế
vào Trung Quốc. Thu hút vốn đầu tư ở các nước này, và
khiến cho kinh tế của họ phụ thuộc vào nguồn cung của
Trung Quốc. Về mặt ngoại giao Trung Quốc luôn luôn
khẳng định đây là công việc nội bộ giữa các nước trong
khu vực, và không muốn các nước khác xen vào.

Với chiến lược như vậy, Trung Quốc khiến các nước
trong vùng lên tiếng khá dè dặt, bởi không có bằng
chứng để lên án một cách thái quá, đồng thời lại còn bị
phụ thuộc kinh tế. Nước nào cũng sợ, nếu lên tiếng đầu
sẽ bị Trung Quốc trả đũa nặng nề. Ví dụ: Trung Quốc
giống như một tên cướp trong tay có súng, nhưng chỉ có
hai viên đạn, đang đe dọa 10 người. Ai cũng biết là
Trung Quốc chỉ bắn được hai người, nhưng ai sẽ là
người lên trước? Và như vậy Trung Quốc đã khống chế
được 10 người kia. Cũng như chú chuột lĩnh nhiệm vụ
đi đeo chuông vào cổ mèo, bàn thì hay nhưng chú chuột
nào sẽ đi?

(Ta giả sử rằng Trung Quốc đánh Đài Loan, khi đó sức
mạnh quân sự của Trung Quốc sẽ bị hao tổn. Nhất là

262
Phản đề | Trần Văn Đức

khi Đài Loan tử thủ và được quân đồng minh (Nhật


Bản, Mỹ, Hàn Quốc) hỗ trợ. Khi đó Trung Quốc sẽ bị
hao tổn rất nhiều, không còn sức để khống chế các
nước lận cận nữa. Đó là lúc Việt Nam có thể thoát
Trung và ngả về phương Tây. Nếu như sau khi Trung
Quốc và Đài Loan chiến tranh kết thúc. Trung Quốc có
muốn quay lại kìm kẹp các nước lân cận thì đã quá
muộn, bởi các hiệp ước đã ký kết xong. Tức đưa Trung
Quốc vào tình trạng sự đã rồi.

Điều này có nghĩa: Khi một nước trong các nước lân
cận Trung Quốc bị đánh các nước khác có thể được
hưởng lợi. Vậy nên Việt Nam cần khôn khéo đẩy quả
bóng chiến tranh qua các nước khác. Đây cũng là cách
thức các nước khác đang thi hành.)

Tuy nhiên ý đồ của Trung Quốc thế nào các nước trong
khu vực cứ làm ngược lại, tức là họ xây chúng ta phá,
họ phá chúng ta xây. Trung Quốc không muốn các nước
trong khu vực hợp tác với nhau, thì chúng ta lại càng
hợp tác để tạo liên đới giữa các nước, để đảm bảo khi
một nước bị tổn hại, các nước kia không thể đứng nhìn.
Trung Quốc muốn các nước phải phụ thuộc kinh tế vào

263
Phản đề | Trần Văn Đức

họ, chúng ta đa phương hóa kinh tế, tăng cường hợp tác
giữa các nước trong và ngoài khu vực. Trung Quốc
muốn giải quyết nội bộ thì chúng ta càng tuyên bố để
các nước khác chú ý đến vấn đề Biển Đông.

Chiến lược hiện nay của Mỹ trong vấn đề Biển Đông


cũng chỉ làm được như các nước trong khu vực mà thôi.
Ví dụ: Tăng cường hợp tác kinh tế với các nước trong
khu vực để các nước đó không bị lệ thuộc kinh tế vào
Trung Quốc. Tăng cường sự hiện diện quân sự, và đưa
vấn đề Biển Đông ra công luận quốc tế. Cũng có thể đe
dọa trừng phạt kinh tế nếu Trung Quốc có hành động
thái quá, bởi Trung Quốc có thặng dư thương mại rất
lớn với Mỹ. Theo Global Times, thặng dư thương mại
của Trung Quốc với Mỹ là 396,5 tỷ USD cho năm
2021.

4. Còn đối với Việt Nam khi đứng giữa hai ông anh
Chúng ta cần phải thống nhất rằng: Mặc dù Việt Nam
thuộc vùng ảnh hưởng của Trung Quốc giống như các
nước khác trong khu vực, chịu chung một ảnh hưởng.
Nhưng Việt Nam là một nước độc lập giống các nước
khác, vậy nên Việt Nam cũng có lợi ích của riêng mình

264
Phản đề | Trần Văn Đức

cần phải ưu tiên. Và cũng không thể áp dụng máy móc


sách lược của các nước khác vào Việt Nam được, bởi
mỗi nước một khác. Chúng ta khác Thái Lan hay Hàn
Quốc vì chúng ta gần Trung Quốc hơn. Vì vậy nếu hình
thành liên minh, Việt Nam sẽ là mắt xích yếu nhất. Và
sẽ bị Trung Quốc trả thù đầu tiên, vô tình sẽ là làm lợi
cho các nước khác, mà nhận phần thiệt về mình. Như tôi
viết bên trên, Trung Quốc chỉ có hai viên đạn thôi nhưng
cẩn thận một viên có thể bắn vào đầu Việt Nam đấy.

Cũng cần phải hiểu rõ rằng: Việt Nam đối với Trung
Quốc là lợi ích sát sườn, bởi Việt Nam sát vách Trung
Quốc. Nếu như Việt Nam ngả về nước khác, không phải
chỉ là mối nguy an ninh mà còn là vấn đề danh dự đối
với Trung Quốc. Ngược lại phía Việt Nam với Mỹ
không phải là lợi ích sát sườn, bởi Mỹ ở tận bên kia trái
đất. Trung Quốc có bố trí thiết bị quân sự trên đất Việt
Nam thì cũng ảnh hưởng đến cục diện Biển Đông thôi,
chứ để bắn đến đất Mỹ và đe dọa an ninh Mỹ là giấc mơ
hão huyền. Điều này có nghĩa là, nếu có tranh chấp giữa
hai quốc gia trên đất Việt Nam thì Trung Quốc sẽ quyết

265
Phản đề | Trần Văn Đức

liệt hơn Mỹ. Vì vậy chiến lược của Việt Nam là cũng
phải tôn trọng lợi ích của Trung Quốc.

- Trong một trận chiến giữa Việt Nam – Trung Quốc


chắc chắn chiến trường sẽ xảy ra tại Việt Nam. Như vậy
tổn thất không chỉ khí tài quân sự, nhân mạng trong đó
có cả dân thường, phụ nữ, trẻ em. Mà còn cả cơ sở hạ
tầng, có thể bị lấn chiếm biên giới. Tóm lại là thiệt hại
rất nghiêm trọng. Với Trung Quốc thì ngoài thiệt hại về
quân sự ra thì còn phải hứng các đòn trừng phạt kinh tế
từ thế giới, nhưng với tiềm lực của Trung Quốc, họ vẫn
sẽ chịu đựng được. Như vậy Việt Nam vẫn sẽ là thiệt
hại nhất.
- Đối với phương Tây và các nước trong khu vực,
chắc chắn họ sẽ viện trợ cho Việt Nam nếu Việt Nam
kêu gọi, với mong muốn mượn tay Việt Nam để tiêu
hao Trung Quốc càng nhiều càng tốt. Bởi nếu Trung
Quốc yếu sẽ không kìm chế được họ nữa. Vì vậy họ sẽ
mong muốn xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc trở
nên sa lầy, và chiến tranh dai dẳng. Điều này khiến kinh
tế Việt Nam ngày càng kiệt quệ, nhưng vì độc lập lại
vẫn phải đánh, như vậy là rơi vào hệ lụy kép của

266
Phản đề | Trần Văn Đức

phương Tây và các nước trong khu vực. Có thể nói là


đưa cả Việt Nam và Trung Quốc vào tình trạng không
lối thoát, tức là khó có thể tìm được phương án ổn thỏa
cho cả hai bên được nữa.
- Phải hiểu rằng phương Tây và các nước trong khu
vực gần như không mất gì. Họ mất vũ khí viện trợ cho
Việt Nam nhưng vũ khí sinh ra để làm gì? Chẳng phải
là để bảo vệ đất nước và tấn công đối thủ sao? Và trong
trường hợp chiến tranh Việt – Trung thì Việt Nam đang
làm điều đó giúp họ. Và họ còn không mất một người,
bởi đã có người Việt chiến đấu và chết thay, với họ đây
là thượng sách. Ban đầu họ không có ý xấu nhưng chiến
tranh Việt – Trung có thể thôi thúc ý định này. Người
Việt ta có câu “phòng người ngay chứ không ai phòng
người gian” là vì vậy.
- Ý đồ của Trung Quốc sẽ là chiến tranh chớp nhoáng,
bất ngờ, đổ bộ một lực lượng quân lớn để đè bẹp Việt
Nam. Nhanh chóng biến thành sự đã rồi, khiến các
nước khác không kịp phản ứng và cuối cùng phải chấp
nhận tình trạng do Trung Quốc áp đặt.
Như vậy trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam phải tìm
mọi cách để tránh chiến tranh xảy ra đối với mình.

267
Phản đề | Trần Văn Đức

Đương nhiên là phải đặt lợi ích tối đa nhất mà Việt


Nam có thể làm được, trong đó có quyền tự chủ.

Tức là Việt Nam phải làm rõ cho Trung Quốc thấy, Việt
Nam hoàn toàn trung lập. Việt Nam sẽ không khiêu
khích Trung Quốc nếu Trung Quốc không làm tổn hại
Việt Nam. Trong trường hợp Trung Quốc vi phạm trắng
trợn chủ quyền của Việt Nam thì tức là đã ép Việt Nam
phải chọn phe. Và cũng phải làm rõ với các nước trong
khu vực là Trung Quốc chắc chắn sẽ không dừng lại ở
Việt Nam hay bất kì nước nào khác trong khu vực. Phải
rõ ràng ý đồ của Trung Quốc là như vậy. Còn nếu
không mà tự dưng hình thành liên minh với nước khác
(Mỹ chẳng hạn), đương nhiên Trung Quốc không thể
trơ mắt đứng nhìn liên minh phát triển, mà phải tìm
cách đối phó (chiến lược ngăn đê). Và đối tượng để trả
đũa dễ nhất là ai? Đương nhiên là Việt Nam, bởi Việt
Nam dễ tổn thương nhất, cũng là mắt xích yếu nhất
trong liên minh. Lợi ích chưa thấy đâu, thiệt hại đã ở
ngay trước mắt.

- Chính sách quốc phòng ‘ba không’ của Việt Nam,


đó là: không liên minh quân sự, không cho nước ngoài

268
Phản đề | Trần Văn Đức

đặt căn cứ quân sự, không cho nước ngoài sử dụng lãnh
thổ nước mình để chống lại nước thứ ba.
Việt Nam cũng cần phải chủ động hội nhập sâu với thế
giới, tham gia vào nhiều tổ chức thương mại. Mở cửa
kinh tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, biến mình
thành một mắt xích quan trọng của hệ thống kinh tế thế
giới. Như vậy khi Việt Nam tổn thương cũng chính là
thế giới tổn thương. Chính sự liên đới giữa các nước sẽ
bảo vệ Việt Nam.

Đương nhiên để kinh tế phát triển mạnh Việt Nam cần


đổi mới thể chế, diệt trừ tham nhũng và mở rộng quyền
tự do ngôn luận. Cơ chế hanh thông thì doanh nghiệp
mới có không gian để phát triển.

Việt nam cũng không cần phải khước từ kinh tế với


Trung Quốc hãy cứ bình thường như với tất cả các nước
khác. Việc Việt Nam có phụ thuộc vào kinh tế Trung
Quốc một phần cũng là tiền đề để Trung Quốc yên tâm
hơn với Việt Nam. Rằng Việt Nam sẽ không vì lợi ích
của riêng mình mà làm tổn hại đến Trung Quốc.

269
Phản đề | Trần Văn Đức

Tiếp theo là nâng cấp quân đội, tránh phụ thuộc một
nguồn cung, đề cao khả năng tự túc về vũ khí. Tập
trung đầu tư vào vũ khí có tính chất phòng thủ cao.

CUỐI CÙNG

Chỉ có cường thịnh và văn minh mới có thể giúp Việt


Nam có được độc lập và tự chủ thực sự trong dài hạn.
Lịch sử cho thấy, những quốc gia nào sớm mở cửa,
chấp nhận cạnh tranh sẽ phát triển một cách vượt bậc về
cả kinh tế và văn hóa. Nhật Bản năm xưa đã là một
minh chứng rõ ràng. Cũng chỉ có cường thịnh mới giúp
Việt Nam ngẩng mặt và dám nói lời ngay thẳng được.

Vậy hãy mang Việt Nam ra với thế giới và mang thế
giới lại gần Việt Nam.

Cuộc sống đôi khi khó phân định giữa đạo đức và lợi
ích. Về mặt đạo đức đương nhiên chúng ta ủng hộ Mỹ
vì Mỹ là đất nước tự do, dân chủ là thứ mà chúng ta
đang theo đuổi. Nhưng về lợi ích Việt Nam chúng ta
cũng không nên phản ứng một cách thái quá với Trung
Quốc bởi chúng ta yếu hơn mà lại ngay bên cạnh họ.

270
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐỌC THÊM

1. Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé rất nghịch ngợm.


Một hôm cậu nghĩ ra trò chơi hay, cậu trèo lên cây đa
đầu làng ngồi đợi. Một lúc sau có một ông quan đội mũ
cánh chuồn cưỡi ngựa đi qua, cậu vạch quần tè xuống
trúng đầu ông ta. Đó là một ông quan văn. Ông quan
văn nhẹ nhàng gọi “này cháu bé xuống đây ta bảo”. Khi
cậu bé xuống, ông quan xoa đầu cậu bé và nói “cháu
ngoan lắm, nghĩ ra trò chơi hay ghê, ta cho cháu tiền ăn
quà”. Nói rồi lấy tiền đưa cậu bé và lên ngựa đi tiếp.

Ngon ăn, hôm sau cậu bé lại trèo lên cây đa ngồi đợi.
Hôm đó có một ông quan võ đi qua dính phải bãi tè của
cậu, ông quan võ tức giận gọi “thằng bé kia, xuống đây
ta bảo”. Cậu bé hí hửng trèo xuống, không ngờ quan võ
rút gươm chém phăng đầu cậu bé….

Theo bạn đọc thì ông quan văn ác hay quan võ ác?

271
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐỌC THÊM

2. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, ngày 19/12/1946

Hỡi đồng bào toàn quốc!

Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.


Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định


không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Tại sao lời kêu gọi này lại gây được tiếng vang lớn
trong lòng người dân nước ta khi đó như vậy?

272
Phản đề | Trần Văn Đức

CHIẾN TRANH GIỮA UKRAINE VÀ NGA NỔ RA


AI ĐÚNG AI SAI?

Vào ngày 24/2/2022 Liên bang Nga tiến hành một chiến
dịch tấn công quân sự quy mô lớn (hay theo Nga gọi là
"chiến dịch quân sự đặc biệt") nhằm vào Ukraina. Còn
bên Ukraine thì tố cáo Nga xâm lược nước mình.

Nhiều người cho rằng Nga đánh Ukraine là sai. Vì dù


sao Ukraine có làm gì thì cũng trên đất của họ và cũng
không (đúng ra là chưa) làm gì ảnh hưởng đến Nga.
Tức là họ lấy thời điểm một nước đánh một nước khác
để đánh giá (là sai, là không có đạo đức) còn trước đó
đã xảy ra những sự kiện gì họ không quan tâm (tức là
không được liệt vào để đánh giá chung). Điều này hiển
nhiên là không đúng.

Thường thì các hoạt động xảy ra thường có liên đới lẫn
nhau, tức là hành động này là kết quả của một loạt các
sự kiện xảy ra trước đó. Thậm chí nhiều sự kiện, mỗi sự
kiện tác động một ít dẫn đến kết quả xảy ra như một
điều không thể thay đổi, tức là không thể có kết quả
khác và người ta có thể dự đoán được kết quả này.

273
Phản đề | Trần Văn Đức

Như vậy nếu như chiến tranh xảy ra là hệ quả của một
loạt các sự kiện trước đó, mỗi sự kiện đưa đẩy một ít,
thì việc lấy mốc là chiến tranh để đánh giá một nước là
có đạo đức hay không có còn đúng?

Tôi lấy ví dụ giữa hai người, một người thể trạng yếu
(A) và thể trạng khỏe (B). Và pháp luật tại đó quy định
rằng đánh nhau là một chuyện trái pháp luật và phải bị
trừng phạt. Lợi dụng điều luật này (A) không ngừng
khiêu khích (B), và (B) chính vì bị vướng điều luật này
mà không thể làm gì được (A). Như vậy là bất công với
(B). Nhưng nếu (B) phớt lờ điều luật để trừng phạt (A)
thì ngay lập tức bị cộng đồng lên án và phải chịu trừng
phạt của pháp luật. Như vậy để đánh giá (A) và (B) rõ
ràng là câu chuyện phức tạp.

Để đánh giá đúng bản chất sự việc chúng ta không nên


xem thời điểm một nước gây chiến với một nước khác
là điểm mốc để nhận xét. Như vậy là phiến diện. Chỉ
nên xem nó như một sự kiện tiếp nối những sự kiện
phía trước đó. Và đánh giá dựa trên sự tổn hại mà hai
bên gây ra cho nhau trên thực tế đã xảy ra hoặc sắp xảy
ra. (A) không đánh (B) nhưng lại không ngừng khiêu

274
Phản đề | Trần Văn Đức

khích (B), rõ ràng (A) đang làm tổn hại tinh thần của
(B). Và để đòi lại công bằng cho mình (B) gây tổn hại
cho (A) bằng cách đánh (A). Ở đây ta phải hiểu rằng cả
hai đều sai, thậm chí (A) có thể sai nhiều hơn (B) do
hành động của (A) là nguyên nhân mà (B) gây tổn hại
lên (A), chứ (B) không vô cớ. Ngặt nghèo ở chỗ gây
thương tích cho người khác thì rất dễ để quy định trong
pháp luật, còn dùng lời nói để đả kích người khác thì rất
khó để quy định, và hoàn toàn có thể bị che dấu.

Ở một ví dụ khác: (A) vì một lý do nào đó mà có ý đồ


sát hại (B), và ai cũng biết điều đó. Nhưng vì chưa ra
tay nên pháp luật không thể can thiệp, trừng phạt (A) và
lấy lại công bằng cho (B). Vậy phải làm sao đây? Giải
pháp tốt nhất là (B) phải lên kế hoạch phòng bị cho
mình, biến cuộc sát hại của (A) trở nên bất thành. Từ đó
mới có chứng cứ để pháp luật can thiệp và lấy lại công
bằng cho (B). Còn nếu (B) bị sát hại thật thì công cuộc
lấy lại công bằng cho (B) là vô nghĩa, lúc đó sự trừng
phạt dành cho (A) chỉ có ý nghĩa dăn đe những người
khác, nên (B) phải tự chủ động bảo vệ bản thân mình là
chủ yếu.

275
Phản đề | Trần Văn Đức

Trong tình hình Ukraine và Nga

Việc Ukraine có ý định gia nhập NATO (một liên minh


quân sự ở Châu Âu) vô tình là một mối đe dọa thường
trực với Nga, dễ hiểu thì Ukraine có thể gây tổn hại cho
Nga nếu Ukraine gia nhập NATO. Và để chủ động bảo
vệ mình thì Nga đã tấn công Ukraine. Ít nhất Nga phải
bảo vệ con đường ra biển duy nhất của đất nước mình.

Cần phải nói thêm rằng, luật pháp quốc tế ít có khả


năng răn đe giống như luật pháp quốc gia lên cá nhân ở
trong quốc gia đó, đặc biệt là các quốc gia lớn. Bởi số
lượng các quốc gia là ít, và năng lực mỗi quốc gia khác
nhau rất lớn. Nếu coi thế giới là một quốc gia thì quốc
gia đó có chưa đến 200 thành viên, khác với một quốc
gia thông thường có dân số khoảng chục triệu người. Vì
ít được luật pháp quốc tế bảo vệ nên các quốc gia phải
tự chủ động bảo vệ mình cũng là điều dễ hiểu.

Điều này có nghĩa Nga đánh Ukraine là sai trên luật


pháp quốc tế, nhưng không phải là không có nguyên
nhân.

276
Phản đề | Trần Văn Đức

Quan điểm của tôi là giữa Nga và Ukraine nên tìm cách
để tránh chiến tranh, chứ không phải tạo thêm cớ để
chiến tranh nổ ra. Đặc biệt là Ukraine.

Nhưng nếu chiến tranh nổ ra rồi thì tôi sẽ ủng hộ


Ukraine, không những nó đúng về mặt đạo đức. Mà trên
thực tế việc Ukraine thắng Nga còn có lợi cho Việt
Nam ta. Nó phát đi một tín hiệu rằng: Thời thế đã thay
đổi rồi, đây là thời kỳ các quốc gia phải tuân thủ luật
pháp quốc tế, chứ không phải cậy mình mạnh rồi muốn
làm gì thì làm. Và làm cho Trung Quốc phải cân nhắc
kỹ lưỡng hơn khi có ý đồ muốn xâm lược nước khác
như Đài Loan hay Việt Nam. Cả việc gây hấn ở Biển
Đông cũng vậy. Như vậy là Việt Nam chúng ta được lợi
rất nhiều nếu Ukraine thắng Nga.

277
Phản đề | Trần Văn Đức

MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN – TỔ CHỨC


(ĐẢNG) – ĐẤT NƯỚC

Như tôi đã phân tích từ những phần trước, vị lợi là bản


chất của con người. Mà các tổ chức (đảng) đều là những
hệ thống được tạo nên bởi con người, và lấy con người
làm bộ phận. Nên tổ chức cũng mang bản chất giống
con người. Tức là bản chất của tổ chức cũng là vị lợi,
tìm mọi cách trong khả năng cho phép để tồn tại và lớn
mạnh, bởi chỉ có tổ chức lớn mạnh thì các cá nhân trong
tổ chức đó mới được nhiều lợi ích, cũng như gia tăng
khả năng thực thi hóa mục đích của mình khi vào tổ
chức. Rất nhiều thành viên trong tổ chức bị gắn chặt lợi
ích của mình với tổ chức, bởi họ đầu tư cho tổ chức rất
nhiều và không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích mà tổ
chức mang lại. Điều này về mặt lý trí họ sẽ phải tìm
mọi cách để tổ chức phát triển. Tổ chức chỉ nhượng bộ
khi nó gặp áp lực đến từ bên ngoài. Áp lực này có thể
đến từ tổ chức khác hoặc các cá nhân.

Có thể ban đầu tổ chức sinh ra với một ý định tốt đẹp,
người lãnh đạo tuyển chọn thành viên kỹ càng để đảm
bảo những người tham gia đều là người có phẩm hạnh

278
Phản đề | Trần Văn Đức

tốt. Và như vậy tổ chức đi đúng với ý định của người


lãnh đạo. Thế nhưng tổ chức càng lớn thì công tác kiểm
soát càng khó khăn, từ đó bỏ lọt những người có phẩm
hạnh kém. Các thành viên chủ chốt có quyền lực càng
lớn khi tổ chức phát triển, thế nhưng quyền lực không
được kiểm soát lâu ngày sẽ trở thành quan liêu. Trong
nội bộ tổ chức bắt đầu có những thành phần tha hóa.
Trước sự cám dỗ của lợi ích và bản chất vị lợi có sẵn
trong con người thì sự tha hóa trong nội bộ tổ chức lây
lan rất nhanh. Và khi tay đã nhúng chàm (tức việc đã
rồi) thì họ phải bảo vệ tổ chức đồng thời loại bỏ những
người trong sạch ra khỏi tổ chức, vì những người trong
sạch đối nghịch lợi ích với họ. Như vậy tổ chức đã đi
lệch với mục đích ban đầu thành lập. Thế nên dễ hiểu vì
sao các đất nước đơn đảng 100% đều tiến đến độc tài
toàn trị. Các thành viên trong đảng suy thoái đạo đức,
và tham nhũng trầm trọng.

Đối với đảng thì còn một nguyên nhân nữa dẫn đến độc
tài. Do việc thành lập đảng dựa trên những người cùng
đồng ý trên một lý tưởng và phương pháp chính trị
chung. Ví dụ: Dựa trên một đồng thuận tư tưởng chính

279
Phản đề | Trần Văn Đức

trị, như Chủ nghĩa Xã hội chẳng hạn. Và họ cho rằng, lý


tưởng đó là đúng đắn. Còn những tổ chức đảng khác
dựa trên những tư tưởng khác, đường lối khác là sai
lầm, không những không hiệu quả mà có khi còn làm
hại cho đất nước nếu áp dụng nó. Như vậy họ cho rằng
các tổ chức khác thực tế là đang ngáng đường phát triển
của đất nước, và cũng là ngáng đường họ. Vậy nên, việc
loại bỏ những tổ chức cản đường mình là một việc làm
đúng đắn. Không những thế họ còn cảm thấy họ có
nghĩa vụ loại bỏ (hoặc đánh bại) các tổ chức khác nữa.
Tức là sự xung đột tư tưởng giữa các đảng cũng dẫn đến
các đảng tìm mọi cách loại trừ nhau. Cuối cùng dẫn đến
tình trạng độc tài.

Và khi một đảng đã đi đến độc tài thì nó hành xử một


cách độc tài, như: quan liêu, tham nhũng, vi phạm nhân
quyền, đàn áp những người bất đồng chính kiến… là
điều hiển nhiên.

Đảng độc tài dưới tư cách đại diện cho quốc gia thì họ
vì lợi ích của đảng mình mà bênh vực những quốc gia
độc tài khác, để tạo liên đới lẫn nhau. Đến khi mình bị

280
Phản đề | Trần Văn Đức

chỉ trích, những nước kia sẽ lên tiếng giúp đỡ mình.


Đây cũng là điều bình thường, về logic phải như vậy.

Tuy nhiên chúng ta phải đánh giá đúng công và tội của
họ.

Có thể ví đảng độc tài (ĐĐT) như vật kí sinh hút máu
trên vật chủ, ĐĐT hút máu thì đương nhiên vật chủ phải
bị suy yếu. Nhưng ĐĐT cũng muốn vật chủ khỏe mạnh
để hút được nhiều máu hơn. Nếu vật chủ chết thì ĐĐT
cũng chết theo. Vậy nên bản chất độc tài làm hại đất
nước do cơ chế nó như thế, nhưng nó cũng tương thông
vận mệnh của nó với đất nước. Tức là ĐĐT cũng mong
đất nước được tốt đẹp lên để nó được hưởng lợi trong
khả năng của nó. Tức là ĐĐT công tội đan xen chứ
không hẳn là chỉ có tội không. Chúng ta phải đánh giá
đúng thực trạng, khéo léo nhận diện và loại bỏ những
điểm xấu, để hạn chế phải xung đột với ĐĐT gây hậu
quả lớn mà vẫn đạt được mục đích. Giống như chúng ta
mua phải những củ khoai tây hỏng dở vậy, nếu khéo léo
loại đi những chỗ hỏng thì phần còn lại đều có thể sử
dụng được.

281
Phản đề | Trần Văn Đức

Đa số những người đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam
lại đi kèm cảm xúc tiêu cực (mang tính chất thù hằn
Cộng sản), việc đấu tranh chỉ giống như công cuộc giải
phóng cảm xúc đó, chứ mục đích đấu tranh thực sự lại
là thứ yếu và vô tình lại tạo thành thế đối địch không
cần thiết. Họ ghét Cộng Sản đến mức họ phủ định tất cả
các giá trị của Cộng sản đã và đang gây dựng. Việc thù
hằn một cách thái quá này có thể làm cho ĐCS trở nên
cực đoan. Và quá trình hòa giải và đưa đất nước phát
triển trở nên rất khó khăn. Họ kêu gọi hòa giải nhưng
cũng tự tay ném chiếc chìa khóa mở ra một trong những
cánh cửa để hòa giải.

Về mặt logic, tất nhiên ĐCS cũng có nhiều điều tốt như
tôi đã viết bên trên. Tôi ví dụ, trong cơn hứng phủ quyết
các giá trị của Cộng sản, như chính sách 3 không trong
quốc phòng. Nghe theo ý nguyện người dân để kiếm
phiếu bầu (một trường hợp điển hình của dân túy, ai
cũng biết dân Việt Nam ghét Trung Quốc) chống đối ra
mặt với Trung Quốc. Nhiều khả năng trong mối tương
quan địa chính trị, chúng ta sẽ bị Trung Quốc đánh
(kiểu như dạy cho Việt Nam một bài học). Nếu vậy thì

282
Phản đề | Trần Văn Đức

kinh tế sẽ sụp đổ cũng như nhân mạng tổn thất. Có dân


chủ giúp loại trừ tham nhũng và lạm quyền trong đất
nước là thấy rõ. Nhưng công tác đối ngoại lại bị đặt một
mối nghi ngờ lớn. Không như những nước khác, công
tác đối ngoại của Việt Nam hết sức nhạy cảm, không
cho phép có một sai lầm nào, nhất là về mặt cảm xúc.
Và như vậy khi Việt Nam có dân chủ, trên thực tế
chúng ta lại cần nhiều hơn những nhà tư tưởng, chiến
lược, để lèo lái con thuyền ngoại giao của Việt Nam đến
được cái đích mong muốn, tức là tránh được cái họa
không cần thiết cho Việt Nam để có thể yên bình phát
triển.

Và những người đấu tranh cho dân chủ nhiều khi những
nỗ lực khai trí không được đền đáp, hay cách người dân
phản ứng với một vấn đề không được như kỳ vọng, họ
bất mãn và trở nên trách móc người dân. Tôi nhiều khi
cũng vậy. Nhưng chúng ta cũng nên suy nghĩ một cách
khách quan. Dân chúng phản ứng như hiện nay là bình
thường, bởi họ là số đông, mà số đông tức là trung bình,
mà trung bình tức là bình thường. Điều này có nghĩa là
những người đấu tranh cho dân chủ là dũng cảm. Chứ

283
Phản đề | Trần Văn Đức

không phải những người đấu tranh cho dân chủ là bình
thường, để rồi nhìn những người xung quanh với ánh
mắt không thể hiểu tại sao họ không làm giống mình, và
cho rằng họ xấu tính, ích kỷ, chỉ nghĩ tới bản thân…
Với cách nhìn này chỉ càng tách bản thân ra khỏi quần
chúng, trong khi việc chúng ta nên làm là đồng hóa bản
thân vào quần chúng.

Tóm lại, ở đây tôi muốn nói rằng, mọi thứ hãy nhìn
nhận một cách khách quan. Mọi thứ diễn ra đều có lý do
của nó. Và đôi khi sự việc diễn ra giống như một chuỗi
tác động liên hoàn đan xen chồng chéo vào nhau, ta biết
rõ hậu quả nhưng chưa chắc đã thay đổi được.

Bản chất của độc tài phải là đàn áp dân chủ (tiếng nói
đối lập), quan liêu, tham nhũng. Đã gọi là bản chất thì
chế độ độc tài nào cũng như vậy không riêng gì Việt
Nam. Và khi có dân chủ, tức tiếng nói đối lập được
chấp nhận, thì những cái này tự nhiên biến mất. Bản
chất của độc tài cũng giống bản năng của con bọ cạp
vậy. Bản năng của bọ cạp là “chích”, kể cả khi nó bị
đuối nước, tính mạng nguy kịch, thì khi người ta thò tay
vào cứu nó, bọ cạp vẫn chích vào tay họ. Và nếu người

284
Phản đề | Trần Văn Đức

ta cho rằng con bọ cạp này là ác độc, không biết ơn, đã


được cứu mà lại còn chích ân nhân. Sau đó đi tìm
những con bọ cạp khác để giúp, thì e rằng người này sẽ
phải thất vọng. Bọ cạp cũng thế mà độc tài cũng vậy.
Chê trách độc tài độc ác thì là việc thừa thải, mong
muốn chế độ độc tài tự sửa đổi cũng là việc vô lý. Chế
độ độc tài chỉ chuyển hóa về dân chủ khi và chỉ khi có
áp lực bên ngoài khiến họ phải làm vậy.

285
Phản đề | Trần Văn Đức

Câu chuyện: Ông lão và con bọ cạp

Một ông lão nhìn thấy một con bọ cạp sắp chết đuối và
quyết định kéo nó ra khỏi nước. Ông bình tĩnh mở rộng
bàn tay để kéo bọ cạp lên. Nhưng khi ông vừa đụng vào
thì con bọ cạp cắn ông. Vì đau nên ông phải buông tay
ra và con bọ cạp rơi xuống nước. Biết bọ cạp sắp chết
đuối lần nữa, ông lại một lần nữa cố gắng cứu nó,
nhưng nó lại tiếp tục cắn ông. Và ông lại phải buông nó
ra một lần nữa.

Một cậu bé đứng gần bên nói với ông, “ông đang làm
tổn thương chính mình khi cố gắng cứu con bọ cạp
hung dữ này, tại sao ông vẫn cứ tiếp tục vậy? Ông có
nhận thấy rằng, mỗi khi ông cố gắng giúp đỡ con bọ
cạp, nó lại chích vào tay ông không?”

Ông bình thản trả lời: “Bản chất của con bọ cạp là cắn
chích và bản chất của tôi là giúp đỡ. Bản chất của tôi sẽ
không thay đổi, tôi vẫn sẽ giúp bọ cạp.” Ông suy nghĩ
một lúc rồi sử dụng một chiếc lá từ một cái cây gần đó,
kéo con bọ cạp ra khỏi nước và cứu sống nó.

286
Phản đề | Trần Văn Đức

PHẦN 8

TỔNG KẾT

Thẳng thắn mà nói, dân chủ ngoài những ưu điểm mà


chúng ta đã bàn luận ở trên ra, thì không phải là không
có nhược điểm.

Nhược điểm thứ nhất của dân chủ là: Dân túy và bó
buộc các chính sách phải phụ thuộc các ý nguyện của
người dân. Để có được phiếu bầu cho mình, các chính
trị gia nhiều khi phải chiều theo nguyện vọng của người
dân, mà họ biết rằng nguyện vọng đó là không đúng
đắn. Lý do là sự hiểu biết của các chính trị gia thường
cao hơn mặt bằng chung về lĩnh vực liên quan đến
chính trị. Và nguyện vọng của người dân thường thực
dụng hơn, gắn chặt với lợi ích của họ do không có tầm

287
Phản đề | Trần Văn Đức

nhìn dài hạn. Điều này nhiều khi trói buộc các chính
sách của chính trị gia, ngược lại với chế độ độc tài. Vậy
nên, nếu có một nhà độc tài sáng suốt và có tâm dẫn dắt
đất nước trong thời kì hỗn loạn, đất nước đó sẽ phát
triển nhanh hơn các nước dân chủ cùng mức dân trí.
Nhưng tôi không khuyến khích điều này. Bởi như
những phần trên đã viết, xác xuất những người như vậy
xuất hiện rất thấp.

Nhược điểm thứ hai là: Một dân tộc nào đó trong chế độ
dân chủ vì bất đồng mà li khai thành lập quốc gia riêng
trở nên dễ hơn nhiều trong chế độ dân chủ.

Nhược điểm thứ ba: Ưu điểm của chế độ độc tài là sự


ổn định các chính sách. Do một cá nhân hay một nhóm
người cầm quyền nhiều năm, không phải quan tâm vấn
đề bầu cử. Từ đó có thể hoạch định chính sách một cách
dài hạn hơn so với dân chủ (vốn bị giới hạn bởi nhiệm
kì, người mới lên thay có thể thay đổi chính sách của
lãnh đạo trước đó). Tập trung được nguồn lực quốc gia
vào một mục tiêu cụ thể, với dân chủ là dễ bị phân tán
nguồn lực quốc gia.

288
Phản đề | Trần Văn Đức

Nhược điểm chí mạng của chế độ độc tài khiến nó thua
hẳn với chế độ dân chủ cũng không phải do chính sách
đối ngoại mà chủ yếu là đối nội. Đó chính là không bị
kiểm soát quyền lực dẫn đến quan liêu, tham nhũng. Chế
độ độc tài không thể trị được tham nhũng, nếu có thì
cũng chỉ trị được trong thời gian nhất thời. Mà quan liêu,
tham nhũng mới là những con sâu tàn phá nặng nề đất
nước. Chế độ dân chủ mặc dù chính sách không ổn định
bằng độc tài, nhưng chính sách không ổn định thì cũng
phục vụ mục tiêu tối hậu là phát triển đất nước. Còn
quan liêu, tham nhũng thì đi ngược lại mục tiêu đó. Chỉ
có phương thức kiểm soát quyền lực trong chế độ dân
chủ mới là phương thức hiệu quả nhất. Từ đây cũng dễ
hiểu rằng, có kiểm soát quyền lực mới hình thành nên
chế độ dân chủ, chứ không phải có dân chủ mới có kiểm
soát quyền lực. Hay nói cách khác chế độ dân chủ là chế
độ mà quyền lực được kiểm soát một cách hữu hiệu.

Nhiều người cho rằng có dân chủ sẽ có dân trí và có dân


trí sẽ có dân chủ. Câu này về thực tế là không sai nhưng
cần phải nhìn nhận rằng. Có dân chủ mà chưa có dân trí
thì nền dân chủ đó không vững bền. Vì người dân

289
Phản đề | Trần Văn Đức

không biết bảo vệ nền dân chủ đó. Thường thì nền dân
trí chưa kịp tăng đất nước đã suy thoái thành chế độ độc
tài, còn nếu may mắn mà giữ được thể chế dân chủ thì
khả năng cao cũng sẽ bầu lên những lãnh đạo dân túy.
Vậy nên con đường có dân trí dẫn đến có dân chủ vẫn là
con đường chậm mà chắc nhất.

Từ đây lời nhắn nhủ của tôi đối với bạn đọc là: Dù suy
nghĩ cách kiểm soát quyền lực như thế nào chăng nữa
thì thể chế vẫn đóng một vai trò rất nhỏ trong việc bảo
vệ nền dân chủ. Phần lớn vẫn phải phụ thuộc vào ý thức
của người dân. Độc tài tồn tại được chỉ có với lí do duy
nhất: Người dân nước đó cho phép thể chế độc tài tồn
tại.

290
Phản đề | Trần Văn Đức

DỰ ĐOÁN VỀ SỰ CHUYỂN BIẾN VỀ DÂN CHỦ


Ở VIỆT NAM

Tôi tin vào tuổi 2k trở đi (2k là chỉ những người sinh
năm 2000, tức khoảng 22 tuổi hiện giờ) các em được
học hành tiếng Anh bài bản. Vậy nên cánh cửa tri thức
mở toang ra với các em. Thứ duy nhất các em 2k cần có
đó là thói quen tra cứu các tài liệu bằng tiếng Anh, và
hiểu được tầm quan trọng của việc này. Khi thế hệ này
trở đi lên làm chủ (nắm giữ các vị trí quan trọng) đất
nước tức khoảng 20-30 năm nữa. Đồng thời trong
khoảng thời gian đó thế hệ thủ cựu vẫn trung thành với
chủ nghĩa xã hội đã không còn sống nữa. Như vậy có
thể tạo nên một sự thay đổi lớn trong xã hội. Thậm chí
chúng ta hoàn toàn lạc quan về cuộc chuyển đổi về dân
chủ một cách êm đềm, không xáo trộn xã hội, đổ máu.

Hiện nay thế hệ thứ 3 của ĐCS cũng ở tuổi ngoài đôi
mươi cũng đã về nước làm việc sau quá trình học tập ở
phương tây, đương nhiên một cách tự nhiên cũng mang
theo cái tinh thần tự do của người phương tây vào trong
hàng ngũ lãnh đạo của đảng. Và cũng cần 20-30 năm
nữa họ mới nắm giữ vị trí trọng yếu trong đảng.
291
Phản đề | Trần Văn Đức

(Thế hệ thứ 1 là những người có công với ĐCS trực tiếp


tham gia chiến đấu, những người này gần như không
còn ai nữa.

Thế hệ thứ 2 chính là con của họ, tuy không được tây
học (chủ yếu du học Liên Xô) nhưng nói chung là cũng
được học hành bài bản, thế hệ này không tham gia chiến
đấu nên bớt cực đoan hơn thế hệ 1. Độ tuổi của thế hệ 2
này giờ cũng đã ngoài 50.

Thế hệ 3 chính là con của thế hệ 2, bắt đầu tây học về


nhưng cũng cần thời gian mới có thể đứng trong hàng
ngũ cấp cao của đảng.)

Ở thế hệ của chúng tôi mặc dù đã có internet, thế nhưng


do vốn tiếng Anh hạn chế nên vẫn khó có thể tiếp cận
các tài liệu nước ngoài. Bởi vì các công trình có tính
học thuật cao thì thường được trình bày ở dạng video,
file PDF, sách… không có vốn tiếng Anh tốt thì khó có
thể đọc được. Nhưng theo tôi quan sát thì bắt đầu từ 2k
trở đi kỹ năng tiếng Anh đã cải thiện rõ rệt, vậy nên rào
cản tri thức cuối cùng đã được rỡ bỏ.

292
Phản đề | Trần Văn Đức

Để có dân chủ một cách cơ bản thì phải cần hội tụ đủ


hai yếu tố.

1. Phần đa người dân trong đất nước hiểu về dân chủ và


đồng thuận là đất nước cần phải có dân chủ. Chỉ có dân
chủ mới đảm bảo các quyền tự do vốn có của con
người, và chỉ có dân chủ mới đưa đất nước phát triển
đúng với tiềm năng của nó. Có nhiều tổ chức chính trị
hoạt động ẩn danh. Và chính phủ khó kiểm soát được
các tổ chức chính trị này vì sự che chở của người dân.
20-30 năm nữa thế hệ 2k hiện giờ cũng đã 40-50 tuổi,
như vậy độ tuổi từ 0 - 40, 50 sẽ chiếm số đông trong
dân số. Chúng ta có thể dự đoán rằng những người hiểu
về dân chủ chiếm số đông trong xã hội.

2. Đó là về phía chính phủ các vị cấp cao trong hàng


ngũ đảng Công Sản chấp nhận rằng: “đến lúc phải thay
đổi rồi”. Cần hiểu rằng việc ĐCS chấp nhận để cho các
đảng đối lập hoạt động không phải là họ không đàn áp
và tiêu diệt được thành phần đối lập mà là vì tư tưởng
dân chủ và tự do đã len lỏi vào hàng ngũ cấp cao của
đảng. Và phe tự do này chiến thắng được phe thủ cựu
trong đảng. Nếu không có điều kiện này việc đất nước

293
Phản đề | Trần Văn Đức

tiến đến dân chủ là rất khó khăn. Bởi ĐCS là một tổ
chức chặt chẽ, đông đảo, có chiến lược và quân đội với
vũ khí hiện đại, gần như không một tổ chức đối lập nào
có thể đánh bại được nó.

Một trong những bước ngoặt lớn trong phong trào dân
chủ ở Việt Nam là chính quyền CS không chặn được
facebook và google. Ý đồ của chính quyền là không
cho người dân có cơ hội tiếp xúc với các luồng thông
tin ngoài lề mà chính quyền không thể kiểm soát được.
Tôi vẫn nhớ những năm 2010-2011 chính quyền Việt
Nam đã tiến hành chặn facebook, đồng thời khuyến
khích các công ty trong nước thành lập các mạng xã hội
khác thay thế. Rất nhiều những mạng xã hội trong nước
được thành lập như: zing, trường xưa… nhưng do mọi
người đã quen dùng facebook nên đã vượt tường lửa để
vào, các mạng xã hội của Việt Nam thành lập thì chết
yểu do không ai dùng. Sau đó chính quyền CS biết
không thể nào ngăn được người dân đã phải dỡ bỏ việc
ngăn chặn facebook. Nếu để chính quyền cấm được
facebook, google thì người dân nước ta hiện nay vẫn bị
bưng bít thông tin y như tình trạng của người Trung

294
Phản đề | Trần Văn Đức

Quốc hiện giờ. Và mơ ước một ngày đất nước có dân


chủ là rất xa vời.

Với việc biết tiếng Anh thì chính quyền về cơ bản là


không thể nào ngăn cản việc tiếp cận thông tin ngoài lề
được nữa. Tức khi đó có thể xem Việt Nam đã được tự
do thông tin. Bởi chính quyền có thể ngăn chặn các
trang web viết sự thật về Việt Nam. Nhưng không thể
ngăn chặn các trang web bằng tiếng Anh bởi chúng có
quá nhiều. Nếu gõ từ khóa tìm kiếm bằng tiếng Việt
trên google dẫn ra các link web bị chặn thì đơn giản là
cũng gõ từ khóa đấy nhưng bằng tiếng Anh là có thể
truy cập bình thường. Nếu sợ những quyển sách xuất
bản trong nước đã bị chỉnh sửa không còn trung thực
nữa, thì đơn giản là mua quyển sách đó bằng tiếng Anh
từ nước ngoài. Như vậy việc phổ cập tiếng Anh có thể
xem như bước ngoặt lớn thứ 2 trong phong trào dân chủ
ở Việt Nam.

Như vậy với việc internet đã trở nên rất tiện lợi hiện
nay, chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh có nối
mạng là có thể đọc được mọi thứ, mà điện thoại thông
minh thì giờ ai cũng có, nó đã rất phổ biến. Cộng với

295
Phản đề | Trần Văn Đức

việc phần đa dân số nước ta biết tiếng Anh thì có thể


xem như Việt Nam được tự do tìm hiểu thông tin.

Nói như vậy, nhưng chúng ta vẫn phải làm công việc
tuyên truyền, đưa tin đúng sự thật, tạo ra không gian
tranh luận mở. Đây vẫn là hạt nhân để gia tăng lượng
người hiểu về chính trị ở Việt Nam. Bởi người dân có
nghe nói đến thì mới nghi ngờ, rồi đặt câu hỏi và tìm
kiếm thêm thông tin. Như vậy tiếng Anh giúp người dân
tự do tìm hiểu thông tin nhưng vẫn chỉ đóng vai trò chất
xúc tác để thúc đẩy lượng người hiểu về chính trị ở Việt
Nam tăng lên nhanh hơn mà thôi.

Nhưng tôi không cho rằng việc đấu tranh dân chủ một
cách cực đoan như chửi bới ĐCS một cách thậm tệ, vô
lý là tốt. Nó không thể hiện tinh thần khách quan, quan
trọng hơn nếu những người đó bị bắt thì là thiệt thân
trước tiên. Lúc đó những người đồng cảm thì cũng chỉ
bày tỏ thái độ yêu quý, tiếc thương về cơ bản là cũng
chả giúp được gì. Nó không đáng.

Tóm lại nếu không có những chuyển biến lớn về ngoài


cảnh tác động lên, thì tôi tin rằng phải 20-30 năm nữa
Việt Nam mới có những bước ngoặt lớn về dân chủ. Và

296
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐCS cũng không sụp đổ như những gì người ta thường


nghĩ, đơn giản là nó đổi tên thành một đảng khác (đảng
lao động, hoặc đảng dân chủ chẳng hạn) và vẫn mạnh,
cũng như tranh cử bình thường như những đảng khác.

297
Phản đề | Trần Văn Đức

ĐÔI LỜI TÂM SỰ

Như phần mở đầu có viết, mục đích của quyển sách này
chính là cung cấp một góc nhìn trung dung, khách quan,
hợp lý và không chứa đựng cảm xúc về nguyên nhân
hình thành nên tình trạng của đất nước ta hiện tại. Cũng
như đề xuất những phương án đấu tranh, và bảo vệ nền
dân chủ của đất nước khi có được.

Bản thân tôi trong quá trình tìm hiểu về chính trị cũng
đã trải qua nhiều cung bậc cảm xúc, cũng như nhiều góc
nhìn khác nhau.

Là một người sinh ra và lớn lên trong nước, tiếp nhận


môi trường giáo dục tuyên truyền một chiều của Cộng
sản. Tôi cũng như bao người khác đánh giá vấn đề một
cách phiến diện, trong con mắt tôi lúc đó, ông Hồ Chí
Minh là anh hùng, là kết tinh của dân tộc, những lời dạy
của ông là chân lý. Nói ngắn gọn thì ông Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản như một loại tín ngưỡng, còn chúng
tôi là các tín đồ. Đương nhiên tôi sẽ rất phản cảm với
những ai nói xấu ông Hồ Chí Minh và đảng của ông ta.

298
Phản đề | Trần Văn Đức

Sau này trở thành sinh viên học triết học Marx, có tiếp
xúc với những quyển sách ngoài luồng, cộng với mạng
xã hội tiếp xúc được nhiều thành phần với các luồng tư
tưởng khác nhau, tôi mới dần có góc nhìn đa chiều.
Nhưng chủ yếu đây là góc nhìn của những người khác
áp đặt lên tôi, hay nói đúng hơn, tôi bị ảnh hưởng tư
tưởng của người khác.

Ở giai đoạn này, hình tượng về Hồ Chí Minh và Đảng


Cộng sản trong tôi hoàn toàn sụp đổ, thậm trí là cực
đoan. Sở dĩ có cảm giác tiêu cực như vậy là vì tôi có
cảm xúc mình bị lừa dối, mà sự thật là như vậy. Toàn
bộ hệ thống giáo dục và cơ quan tuyên truyền đã cố tình
bóp méo lịch sử, và hiện trạng lúc bấy giờ, chỉ đưa toàn
thông tin có ích cho sự cai trị của ĐCS. Có lúc tôi cực
đoan đến mức những gì mà ông Hồ Chí Minh và ĐCS
làm, tôi hoàn không tin và cho đó là bịa đặt, mị dân,
không có thực.

Một điều nữa khiến tôi có cảm giác tiêu cực, đó là ĐCS
đã làm mất nhiều thời gian của tôi để tìm kiếm sự thật.
Sau khi biết được đất nước đang bị cai trị bởi đảng độc
tài Cộng sản, đương nhiên tôi không đồng ý thể chế

299
Phản đề | Trần Văn Đức

này. Và phải đi tìm phương án khác, lúc đó, trong vốn


hiểu biết của tôi chỉ còn có mỗi thể chế tổng thống, do
nhiều người đấu tranh nhắc đến. Nhưng may lúc đó
trong tôi có đặt sự nghi vấn: “Dựa vào cái gì để tôi chắc
rằng thể chế tổng thống là tốt? Và nếu thể chế tổng
thống không như người ta nói thì chẳng phải tôi cũng
đang tiếp tay tuyên truyền cho cái sai khác hay sao?”

Từ đó tôi đi tìm các tài liệu để bảo vệ thể chế tổng


thống. Từ khóa tìm kiếm của tôi trên Google lúc đó về
chính trị chỉ xoay quanh thể chế “tổng thống” và “tam
quyền phân lập”. Nhưng có đọc bao nhiêu tài liệu thì tôi
cũng không thể hiểu tam quyền phân lập tương tác như
thế nào để có thể kiềm chế được lẫn nhau một cách thật
sự hiệu quả. Lúc đó đầu óc tôi bị bó hẹp bởi không hề
biết còn có những thể chế khác nữa. Cho rằng tam
quyền phân lập khá phức tạp nên mình chưa hiểu, cứ
tìm kiếm tài liệu quanh quẩn như vậy trong một thời
gian dài. Mất nhiều thời gian và công sức cho đến khi
vô tình đọc được quyển sách “Khai sáng kỷ nguyên thứ
2” của bác Nguyễn Gia Kiểng. Tôi mới vỡ lẽ ra là có rất
nhiều thể chế khác nhau, và tam quyền phân lập cũng

300
Phản đề | Trần Văn Đức

không hoàn hảo như tôi đã kỳ vọng. Chính vì sự lãng


phí thời gian và công sức này mà khi đó tôi rất hận
Đảng Cộng sản. Đáng ra trong một thể chế dân chủ thì
những thứ này tôi đã được học từ trước khi tốt nghiệp
cấp 3. Chứ bản thân tôi và gia đình không thù oán gì với
ĐCS giống như những gia đình bị xử oan, hay bị cướp
đất, con cháu VNCH…

Ở giai đoạn 3, nhờ kiến thức tiếp tục phát triển, vậy nên
tôi có thêm nhiều góc nhìn mới, cách đánh giá vấn đề
tôi cho là khách quan hơn, chứ không cực đoan với
ĐCS như trước nữa. Trong quan điểm của tôi, mọi thứ
xảy ra phải có trình tự, hợp lý, từ thấp đến cao, từ ít
hiểu biết đến hiểu biết hơn,… Không thể đòi hỏi có
bước nhảy vọt được, càng không thể lấy kiến thức hiện
tại để phê phán sự nhận thức của những người thời
trước. Muốn đánh giá đúng con người phải chọn đúng
bối cảnh và tính chất của sự việc. Muốn nhận xét đạo
đức của một người phải đánh giá động cơ hành động
của họ, muốn nhận xét tài năng của một người phải
đánh giá kết quả mà họ tạo ra. Nhìn vào kết quả để đánh

301
Phản đề | Trần Văn Đức

giá phẩm chất đạo đức của một người là cảm tính và hồ
đồ.

Viết ra đôi dòng tâm sự để bạn đọc hiểu những gì tôi


viết trong quyển sách này không tự dưng mà có. Bản
thân tôi cũng giống như mọi người, cũng lúc thì ngã về
bên này, lúc thì ngã về bên kia, do kiến thức chưa đủ.

Như vậy thông qua quyển sách này, tôi đã đưa ra một
quan điểm khách quan về bối cảnh lịch sử, cũng như
nhận xét về các nhân vật trong thời kì trước. Đưa ra một
mô hình thể chế và cách thức bầu cử tôi cho rằng phù
hợp với Việt Nam trong tương lai và đề xuất một vài
góp ý để tiến đến nền dân chủ.

Tuy nhiên với dung lượng quyển sách mỏng lại giải
quyết những câu hỏi lớn như thế. Chắc chắn là còn
nhiều thiếu sót. Mong bạn đọc thông cảm.

Trần Văn Đức

302
Phản đề | Trần Văn Đức

303

You might also like