You are on page 1of 22

Hà nộ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 3
I. ---------Quốc (1978-2018):....................................5
Công cuộc cải cách mở cửa của Trung
1. Nguyên nhân Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa năm 1978:............5
II. Các giai đoạn tiến hành cải cách Trung Quốc:.........................................................7
1. Giai đoạn 1978-1991: Giai đoạn mở đầu cải cách:..............................................7
2. Giai đoạn 1992-2000: Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIV xác
định mục tiêu cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa:........................8
3. Giai đoạn 2001-2011: Giai đoạn bước đầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa:..............................................................................................8
4. Giai đoạn 2012-2020: Giai đoạn mới cải cách sâu, rộng, toàn diện:.....................9
III. Thành tựu của cuộc cải cách:.................................................................................10

BÀI TẬP LỚN


IV. Hạn chế của cuộc cải cách:......................................................................................13
V. Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc:..................................................................13
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Về mặt kinh tế...........................................................................................................14
2. Về mặt chính trị........................................................................................................15
3. Về mặt văn hóa.........................................................................................................17
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Trần Ngân Hà
Mã4.sinh
Về mặt xã hội............................................................................................................19
viên: 11211937
Lớp:
VI. Bài Quản trị chất
học kinh lượng và đổi mới E-MQI 63
nghiệm:...............................................................................................20
Đề
CHÚbài:THÍCH..................................................................................................................23
Tìm hiểu về công cuộc cải cách của Trung Quốc và mô hình Chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc
Downloaded by Ha Ngan (nganha05022003@gmail.com)

MỞ ĐẦU

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ để tiến lên chủ nghĩa cộng
sản có rất nhiều con đường khác nhau phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội và
đặc điểm của các dân tộc. Từ đó các ông khẳng định, đi lên chủ nghĩa cộng sản, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là một con đường phát triển tất yếu, khách quan
của nhiều dân tộc có xuất phát điểm tiền tư bản chủ nghĩa với những điều kiện nhất
định. Trong bối cảnh hiện nay, rõ ràng nhiều quan niệm về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội không còn phù hợp; nhiều vấn đề của thời đại cần được
quan tâm; sự thay đổi một cách tổng thể tương quan lực lượng, sức mạnh, vai trò trong
quan hệ quốc tế... đòi hỏi ta cần có sự thay đổi một cách căn bản tư duy lý luận về quá
độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cánh mới.
Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua
hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn,
đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và
thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu.
Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đưa
đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong qúa trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối
thoát cho một quốc gia xã hội chủ nghĩa trì trệ trở thành quốc gia năng động, phát triển.
Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đại.
Năm 2018 kỉ niệm 40 năm Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa (1978-2018).
So sánh nền kinh tế, xã hội, dân sinh của Trung Quốc của thời điểm hiện tại, so sánh vị
thế, tầm ảnh hưởng của Trung Quốc trên trường quốc tế suốt chặng đường cải cách mở
cửa 40 năm qua sẽ cho cái nhìn toàn diện về khó khăn thách thức người dân Trung

2
Quốc đã vượt qua và thành tựu to lớn đã đạt được. Cải cách mở cửa là cuộc cách mạng
lần thứ hai của Trung Quốc, không những đã thay đổi sâu sắc của Trung Quốc, cũng đã
ảnh hưởng sâu sắc. Với những kết quả đã đạt được, Trung Quốc gấp rút phấn đấu hoàn
thành công cuộc xây dựng toàn diện xã hôụ khá giả vào năm 2020, tạo cơ sở để tiến lên
giai đoạn hoàn thành công cuộc hiện đại hóa đất nước, thực hiện “giấc mơ Trung Quốc
phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa” vào khoảng giữa thế kỷ XXI.

3
I. Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc (1978-2018):
1. Nguyên nhân Trung Quốc phải tiến hành cải cách, mở cửa năm 1978:
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ nghiêm trọng chưa từng có bùng nổ vào năm 1973 rồi
nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ...tiếp theo sau đó, mở đầu
cuộc khủng hoảng chung của toàn thế giới, đặt ra cho toàn thể nhân loại những vấn đề
bức thiết phải giải quyết như: sự bùng nổ dân số và hiểm hoạ vơi cạn tài nguyên thiên
nhiên cung cấp cho sự sống của con người; yêu cầu đổi mới, thích nghi về kinh tế,
chính trị, xã hội trước sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học kĩ thuật và sự
giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ theo xu thế quốc tế hoá cao...
Trong hoàn cảnh đó, các nước tư bản phát triển đã kịp thời cải cách nên khắc
phục được khủng hoảng và tiếp tục phát triển, còn các nước xã hội chủ nghĩa chủ quan
cho rằng mô hình chủ nghĩa xã hội không chịu tác động của khủng hoảng nên không có
cải cách kịp thời làm cho đất nước lâm vào tình trạng trì trệ, tiền khủng hoảng. Từ đó
có thể khẳng định, cải cách để thích nghi với hoàn cảnh mới là xu thế phát triển tất yếu
khách quan của thế giới.
Sau 20 năm (1958 - 1978) sai lầm về đường lối và tranh chấp về quyền lực, Trung
Quốc lâm vào khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội rất trầm trọng.
Về kinh tế, do sự lũng đoạn của đường lối cực tả, nhiều thành tựu đạt được trong
thời kì trước đã không được phát huy, việc xây dựng kinh tế không được coi trọng, tình
trạng hỗn loạn trong đời sống xã hội ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, kinh doanh.
Nền kinh tế mất phương hướng ổn định nên giảm sút nghiêm trọng, sản xuất đình đốn,
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng khan hiếm, giá cả đắt đỏ, đời sống nhân dân
khó khăn. Theo thống kê, trong mười năm cách mạng văn hoá (1966 - 1976), tổn thất
về kinh tế của Trung Quốc là khoảng 5000 tỉ nhân dân tệ. Trong mười năm đó, thu nhập
thực tế của người công nhân viên chức giảm 4,9%, thu nhập bình quân của nông dân
“giẫm chân tại chỗ”.Trong mười năm cách mạng văn hoá, nhân dân Trung Quốc không
những phải chịu đựng sự khổ sở về mặt tinh thần, mà còn phải chịu đựng thiếu thốn
trong đời sống vật chất. Thời gian này trên thế giới và trong khu vực, nhiều quốc gia đã
tận dụng thời cơ cho nền kinh tế cất cánh. Trung Quốc đã bỏ lỡ cơ hội đó.

4
Hậu quả tại hại nhất của cách mạng văn hoá là phá hoại hệ thống chính trị
XHCN, gây tác hại xấu đến tình hình tư tưởng văn hoá toàn xã hội. Nguyên tắc dân chủ
tập trung trong sinh hoạt Đảng không còn nữa, tệ sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông
phát triển đến đỉnh điểm. Bọn cực tả, tiêu biểu là “bè lũ bốn tên”, đã lợi dụng uy quyền
của Mao Trạch Đông để bức hại nhiều cán bộ đảng viên. Tổ chức Đảng từ Trung ương
đến địa phương bị phá hoại hoàn toàn hoặc chỉ tồn tại về hình thức. Ở Trung ương,
“Tiểu tổ cách mạng văn hoá” lũng đoạn mọi quyền hành. Tổ chức Đảng và chính quyền
nhân dân các cấp bị Hồng vệ binh lật đổ. Nội bộ Đảng Cộng sản mất đoàn kết, nhiều
cán bộ, đảng viên bị thanh trừng. Nội bộ Nhà nước cũng bất đồng và tranh chấp quyền
lực trong lãnh đạo. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ngày càng xa cách.
Các tổ chức đoàn thể quần chúng bị giải tán. Đất nước Trung Hoa ngột ngạt trong bầu
không khí khủng bố.
“Cách mạng văn hoá” ở Trung Quốc trên thực tế là một cuộc tàn phá văn hoá.
Các nhà văn hoá bị bức hại. Di sản văn hoá dân tộc bị tàn phá. Đội ngũ trí thức bị mai
một. Giới trí thức vừa bị tổn thất trong phong trào “chống phái hữu” những năm 50,
trong “cách mạng văn hoá” những năm 60 lại phải “lên núi, xuống làng” để lao động
cải tạo và được bần nông, trung nông lớp dưới “giáo dục”. Theo thống kê, trong 10 năm
(1968 - 1978) có 16,23 triệu trí thức trẻ phải “lên núi, xuống làng”, được tổ chức thành
những “binh đoàn sản xuất” đi khai hoang những vùng đất xa xôi hẻo lánh nơi biên
cương, hoặc phải an cư lạc nghiệp ở nông thôn, bỏ sự nghiệp học tập, nghiên cứu. Nền
giáo dục bị tổn thất nghiêm trọng. Nhiều năm, các trường đại học bị đóng cửa để sinh
viên đi làm Hồng vệ binh. Hàng chục triệu thanh niên, học sinh, sinh viên bị nhồi nhét
tư tưởng cuồng tín, “tạo phản”.
Về đối ngoại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc gây xung đột biên giới với các nước
láng giềng, phản bội lại đồng minh (nhất là Liên Xô), bắt tay với Mĩ, Nhật Bản...
Trung Quốc cần phải cải cách để ổn định tình hình mọi mặt, đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng toàn diện, xây dựng thành công CNXH.
Từ 18 - 22/12/1978, ĐCS TQ họp hội nghị TW 3 khoá XI, thông qua công cuộc
cải cách mở cửa. Sau đó đường lối cải cách được hoàn thiện dần qua các kì đại hội: Đại

5
hội Đảng lần thứ XII (1982), XIII (1987), XIV (1992), XV (1997), XVI (2002). Đường
lối cải cách xác nhận Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu của CNXH, giai đoạn này kéo
dài ít nhất 100 năm (từ 1949 đến 2049) và chia làm 3 bước.

II. Các giai đoạn tiến hành cải cách Trung Quốc:
Trước năm 1978, cải cách mở cửa chưa có tiền lệ ở các nước xã hội chủ nghĩa và
chưa được Mác Lênin đề cập tới. Vì vậy, Trung Quốc vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vì
thế bên cạnh những đường lối đúng đắn, cũng có những chính sách phải đièu chỉnh và
sửa đổi để phù hợp với tình hình cụ thể trong từng giai đoạn. Nhìn lại tiến trình cải cách
mở cửa của Trung Quốc (1978) đến nay có thể chia làm 4 giai đoạn:

1. Giai đoạn 1978-1991: Giai đoạn mở đầu cải cách:


Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu
thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy
xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ
nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng
đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm
quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây
dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế
(SEZs) ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và
“cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã
đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường.

Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá
cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế
(1979 - 1991), Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị
trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.

6
2. Giai đoạn 1992-2000: Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIV xác
định mục tiêu cải cách thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa:
Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi
to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở
các nước Đông u mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến
hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.

Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn.
Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa
(họ Xã) hay tư bản chủ nghĩa (họ Tư) thổi bùng các cuộc tranh luận (đại luận chiến).
Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận,
tiến hành “Ba điều có lợi” (có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi
cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân), mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy
thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1992) nêu
mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây
được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc quan trọng trong tiến trình cải
cách, mở cửa ở Trung Quốc.

Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3
khóa XIV (năm 1993) thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể,
nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập,
lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng,
khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu
có”(1). Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1997) đã xác định mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

3. Giai đoạn 2001-2011: Giai đoạn bước đầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa:
Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Sự kiện
này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI

7
(năm 2002) Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm
Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa,
thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng
Cộng sản Trung Quốc (năm 2007) nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh
tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã
hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa
toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang
với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của
Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4
đặc khu (Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn). Tiếp đó, từ năm 1984, Trung
Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990,
Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các
điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố
Đông (Thượng Hải) đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc.
Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở
cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân
vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng
trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh (Xuyên Du),
Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ (Quảng Tây), Khu kinh tế bờ Tây (Phúc Kiến) cũng phấn đấu
trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung
Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết
tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa
Trung Quốc và ASEAN.

4. Giai đoạn 2012-2020: Giai đoạn mới cải cách sâu, rộng, toàn diện:
Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung
ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện
“giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận

8
Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh,
đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5
trong 1” (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường) và bố cục chiến lược “Bốn toàn
diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China
2025” ... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động
lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến lược,
vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.

Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã
được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với
Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018.
Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở
thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

III. Thành tựu của cuộc cải cách:


Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc (năm 1978) mang ý
nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm, sự nghiệp
cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp tục tiến lên con
đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Sau 10 năm cải cách (từ 1978 - 1988) mức tăng bình quân hàng năm của tổng sản
phẩm quốc dân là 9,6%, xuất nhập khẩu tăng gấp 4 lần, thu nhập bình quân hàng năm
của nông dân tăng 11,8%, của cư dân thành thị tăng 6,5%. Năm 1988, tổng giá trị sản
phẩm quốc dân tăng 1.401,5 tỷ nhân dân tệ, thu nhập quốc dân là 1.177 tỷ nhân dân tệ
(tăng 20 lần so với năm 1949). Sản lượng công nghiệp từ 1978 đến 1990 tăng trung
bình hàng năm là 12,6%.

Từ sau Đại hội lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10 - 1992),
công cuộc cải cách kinh tế càng được đẩy mạnh hơn nữa với những quan niệm mới. Từ

9
trao đổi hàng hoá Trung Quốc đã chuyển sang chứng khoán và trái phiếu. Nhiều đặc
khu kinh tế được mở ra cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán như Thượng
Hải, Thẩm Quyến... theo các khẩu hiệu: “Cải cách hơn nữa, mở cửa hơn nữa”, “Làm
giàu là vinh quang”. Các nhà quan sát nước ngoài cho rằng “Đằng sau tất cả những điều
này là sự thay đổi đáng chú ý về quan niệm, trước hết trong giới lãnh đạo Trung
Quốc”.  Quan điểm của Trung Quốc về “một Nhà nước hai chế độ” trong quá trình tiếp
nhận Hồng Kông (1997) và Makao (1999) đã thể hiện điều này.

Từ năm 1993 đến 1997, tỷ lệ tăng trưởng GDP  của Trung Quốc là 10,9%, riêng
năm 1997 đạt tới 17,8% với giá trị tuyệt đối 7400 tỷ nhân dân tệ (khoảng 900 tỷ USD),
đứng vị trí thứ 7 trên toàn cầu. Tổng ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc năm 1997
là 325 tỷ USD, xếp thứ 10 so với các nước. Hiện nay Trung Quốc là nước có dự trữ
ngoại tệ nhiều thứ hai của thế giới sau Nhật Bản, tính đến cuối năm 1997 là 143 tỷ
USD. Với tiềm năng kinh tế đó, Trung Quốc đã vững vàng vượt qua cơn khủng hoảng
tài chính, tiền tệ châu Á trong năm 1997 - 1998. Năm 1999  kinh tế Trung Quốc vẫn giữ
mức tăng trưởng 7,1%, công nghiệp 9% và 6 tháng đầu năm 2000 tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Trung Quốc là 7,5%.

Với những thành tựu kinh tế đạt được, đời sống nhân dân Trung Quốc đã được
cải thiện rõ rệt. Thu nhập quốc dân bình quân đầu người ở thành phố tăng 12% (đạt
200300 nhân dân tệ/người), ở nông thôn tăng 2% (đạt 860% nhân dân tệ/người) so với
năm 1992.

b, Chính trị - xã hội : đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Thu hồi
được Hồng Kông (7 – 1997) và Ma Cao (12 – 1999).

Về nền khoa học - kỹ thuật, văn hóa, giáo dục :

Sau ngày giải phóng (1949) Trung Quốc chỉ có 30 viện, sở nghiên cứu khoa học
với 50.000 cán bộ, nhân viên, trong đó chỉ có 500 người đang tiến hành công tác nghiên
cứu. Ngày nay, Trung Quốc có 11 triệu cán bộ khoa học - kỹ thuật với 5400 viện, sở 
nghiên cứu khoa học kỹ thuật không ngừng đạt được những thành tựu to lớn.

10
Từ năm 1964, Trung Quốc đã thành công trong cuộc thử nghiệm nổ bom nguyên
tử đầu tiên. Năm 1965 thành công trong  nghiên cứu  bom khinh khí, đưa Trung Quốc
trở thành một cường quốc hạt nhân. Ngày 24-2-1970, Trung Quốc phóng thành công vệ
tinh nhân tạo đầu tiên, đến nay Trung Quốc đã phóng hàng chục vệ tinh các loại. Số
lượng vệ tinh của Trung Quốc đứng hàng thứ 4 thế giới và phục vụ có hiệu qủa cho
công tác nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế cũng như tăng cường sức mạnh quốc
phòng.

c, Về đối ngoại : 

Từ chính sách “đối ngoại theo kiểu Hồng vệ binh” của thời kỳ “Đại cách mạng
văn hoá”, sau 1978 chính sách đối ngoại của Trung Quốc được sửa đổi, chuyển sang
“hoà dịu” và hướng về phương Tây. Thực tế, chính sách đối ngoại hướng về phương
Tây của Trung Quốc đã bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, tuy nhiên chính sách
thời kỳ đó khác hẳn với hiện nay, nó chỉ phục vụ cho ý định tạo lập nên hệ thống “Tam
giác chiến lược” chứ không phải phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước như hiện
nay. Theo xu hướng “hòa dịu” này, từ những năm 80 Trung Quốc bắt đầu khởi động
quá trình bình thường hóa quan hệ với Liên Xô, Mông Cổ,  Lào, Inđônêxia, Việt Nam...
mở rộng quan hệ  hợp tác với các nước trên thế giới, góp sức giải quyết các vụ tranh
chấp quốc tế, trong đó có vấn đề Campuchia và tìm mọi cách nâng cao địa vị của Trung
Quốc trên trường quốc tế.
Nhằm tạo dựng lòng tin ở các nước trên thế giới, Trung Quốc đã nhấn mạnh: Trung
Quốc chống chủ nghĩa bá quyền và bảo vệ hoà bình thế giới; Trung Quốc không gắn
với một nước nào và không khuất phục trước sức ép của bất kỳ nước lớn nào mà quyết
định chính sách của mình theo từng trường hợp. Trung Quốc tuân thủ 5 nguyên tắc
chung sống hoà bình và mong muốn phát triển sự hợp tác hữu nghị với tất cả các nước
theo những nguyên tắc này.        

Từ thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã tích cực tham gia nhiều diễn đàn
quốc tế, hoạt động trong nhiều khu vực, nhiều tổ chức chính trị và kinh tế quốc tế như
APEC, GATT, mở rộng quan hệ các nước như Nam Phi, Vatican, Israel... nhằm vươn

11
lên trưởng thành một “cực” quan trọng trong xu thế đa cực của thế giới. Các mối quan
hệ đối ngoại của Trung Quốc đều tuân theo tư tưởng chỉ đạo: đặt lợi ích dân tộc lên
hàng đầu, “bỏ qua quá khứ, hướng về tương lai”. Hiện nay chính sách đối ngoại  của
Trung Quốc tập trung vào Mĩ, Nhật, Tây Âu và Đông Nam á.

Trong quan hệ với các nước láng giềng xung quanh, Trung Quốc  đặc biệt coi
trọng và thúc đẩy quan hệ mọi mặt với các nước trong tổ chức ASEAN, năm 1993 được
coi là “năm  ASEAN của Trung Quốc”. Hiện nay Trung Quốc là một đối tác quan trọng
của ASEAN.

IV. Hạn chế của cuộc cải cách:


Một là, tụt hậu xa hơn về kinh tế - khoa học kĩ thuật so với thế giới trước sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Vì sự phát triển khoa
học kĩ thuật của thế giới vừa tạo ra thời cơ cho những nước tiếp cận được vừa tạo ra
nguy cơ đối với những nước không tiếp cận được.
Hai là, chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nguy cơ này dẫn tới mất vai trò lãnh đạo
của Đảng, mất định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là tham nhũng, mẫu thuẫn xã hội và các tệ nạn xã hội khi phát triển kinh tế thị
trường phải đối mặt với suy thoái đạo đức, phân cực giàu nghèo quá lớn, mất công bằng
và ổn định xã hội.
Bốn là diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp cách
mạng của Trung Quốc.

V. Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc:


CNXH đặc sắc Trung Quốc là một hệ thống lý luận được nhà lãnh đạo Đặng Tiểu
Bình nêu lên, sau đó tiếp tục bổ sung và hoàn thiện trong quá trình cải cách mở cửa.
Cho đến nay, hệ thống lý luận đó đã bước đầu được định hình với bốn trụ cột chính là
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc đặt vấn đề: Nhằm
thích ứng với những biến đổi mới của tình hình trong nước và quốc tế, đáp ứng kỳ vọng
mới có được cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân các dân tộc, ĐCS Trung Quốc phải

12
nắm vững xu thế và quy luật phát triển kinh tế xã hội, kiên trì mục tiêu cơ bản xây dựng
kinh tế, chính trị, văn hóa XHCN đặc sắc Trung Quốc.

1. Về mặt kinh tế
Có thể nói, cải cách mở cửa ở Trung Quốc từ khi bắt đầu đã đi theo hướng kinh tế
thị trường. Tuy nhiên, mãi đến Đại hội XIV (1992) Đảng Cộng sản Trung Quốc mới
chính thức nêu lên mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường được hoàn thiện qua
các quyết định của Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV (11/1993) và Hội nghị Trung
ương 3 khóa XVI (10/2003) của Đảng Cộng sản Trung Quốc; theo đó, nội dung chủ
yếu bao gồm: Phát huy vai trò mang tính cơ sở của thị trường trong việc sắp xếp các
nguồn lực, tăng cường sức sống và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, kiên trì thể chế
điều tiết vĩ mô, hoàn thiện chức năng quản lý và dịch vụ công của chính phủ, tạo ra sự
bảo đảm về mặt thể chế cho việc xây dựng toàn diện xã hội khá giả v.v…

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (2007) đặt vấn đề: Phải nhận thức sâu sắc hơn
quy luật kinh tế thị trường XHCN, từ mặt chế độ phát huy tốt hơn vai trò mang tính cơ
sở của thị trường trong việc sắp xếp các nguồn lực, từ đó hình thành nên hệ thống điều
tiết vĩ mô có lợi cho phát triển một cách khoa học, nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy
nền kinh tế quốc dân phát triển "vừa tốt, vừa nhanh". Đại hội đã đề ra 8 giải pháp, bao
gồm: Một là, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới. Đây
được xem là hạt nhân của chiến lược phát triển quốc gia, là mấu chốt của việc nâng cao
sức mạnh tổng hợp. Hai là, nhanh chóng chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế,
thúc đẩy ưu hóa và nâng cấp kết cấu ngành nghề. Đây được xem là nhiệm vụ quan
trọng và cấp bách có quan hệ đến toàn cục của nền kinh tế quốc dân. Ba là, quy hoạch
thống nhất phát triển thành thị và nông thôn, thúc đẩy xây dựng nông thôn mới XHCN.
Bốn là, tăng cường tiết kiệm năng lượng và tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái,
tăng cường năng lực phát triển bền vững. Năm là, thúc đẩy phát triển hài hòa các vùng
miền, ưu hóa bố cục khai phát đất đai. Sáu là, hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản, kiện
toàn hệ thống thị trường hiện đại. Bảy là, đi sâu cải cách thể chế tài chính, thuế, tiền tệ,

13
hoàn thiện hệ thống điều tiết vĩ mô. Tám là, mở rộng độ rộng và độ sâu của mở đối
ngoại, nâng cao trình độ kinh tế mở.

Những giải pháp trên sẽ tăng cường thực lực kinh tế, tạo động lực để hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế vừa tốt
vừa nhanh.

Như vậy về mặt kinh tế, đến Đại hội XVII (2007), Trung Quốc đã nhấn mạnh và
coi trọng vai trò của thị trườngtrong việc phân bổ các nguồn lực; chính thức bỏ mệnh đề
"phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước" thay bằng "tăng cường sức sống, sức
khống chế, sức ảnh hưởng của kinh tế nhà nước" (kinh tế quốc hữu); đồng thời tiếp tục
nhấn mạnh "khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế phi công hữu phát triển lành
mạnh", tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần kinh tế thuộc các loại
hình sở hữu khác nhau.

2. Về mặt chính trị


Ngay từ khi bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa, vào năm 1979 Đặng Tiểu Bình đã
nêu lên luận điểm quan trọng: Không có dân chủ thì sẽ không có CNXH, không có hiện
đại hóa XHCN. Đại hội XVIII ĐCS Trung Quốc (1987) chính thức nêu lên phương
hướng cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc là "xây dựng nền chính trị dân chủ
XHCN có đặc sắc Trung Quốc". Sau sự kiện Thiên An Môn mùa hè năm 1989, Đại hội
XIV ĐCS Trung Quốc (1992) nhấn mạnh: "Cải cách thể chế chính trị, mục tiêu là xây
dựng nền dân chủ XHCN có đặc sắc Trung Quốc, quyết không phải là thực hiện chế độ
đa đảng và chế độ nghị viện của phương Tây". Đại hội XV ĐCS Trung Quốc (1997)
nêu lên: "Tiếp tục thúc đẩy cải cách thể chế chính trị, mở rộng hơn nữa dân chủ XHCN,
kiện toàn pháp chế XHCN, dựa vào luật mà trị nước, xây dựng nhà nước pháp trị
XHCN". Đại hội XVI ĐCS Trung Quốc (2002) đã đặt vấn đề tách rời, phân biệt "xây
dựng chính trị" với "cải cách thể chế chính trị", theo đó phạm vi của xây dựng chính trị
rộng hơn, bao quát hơn. Đại hội nhấn mạnh sự thống nhất hữu cơ của mối quan hệ giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân trong xây dựng nền chính trị dân chủ, theo đó: Sự lãnh
đạo của Đảng là bảo đảm căn bản cho việc làm chủ của nhân dân và quản lý đất nước

14
bằng pháp luật; nhân dân làm chủ là yêu cầu cơ bản nhất của nền chính trị dân chủ
XHCN; còn quản lý đất nước bằng pháp luật là "phương lược cơ bản" Đảng lãnh đạo
nhân dân giải quyết các công việc của đất nước.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (2007), trước những biến đổi mới của tình hình
quốc tế, Trung Quốc và bản thân ĐCS Trung Quốc, báo cáo chính trị đại hội khẳng
định sẽ kiên định không thay đổi phát triển nền chính trị dân chủ XHCN, trong đó nhấn
mạnh hai mục tiêu: một là, cải cách thể chế chính trị phải không ngừng nâng cao để
thích ứng với sự phát triển kinh tế xã hội và tích cực tham gia chính trị của nhân dân.
Hai là, kiên trì sự thống nhất hữu cơ giữa sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ và
quản lý đất nước theo pháp luật, kiên trì và hoàn thiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân,
chế độ hiệp thương chính trị và hợp tác nhiều đảng dưới sự lãnh đạo của ĐCS Trung
Quốc, chế độ tự trị ở khu vực dân tộc và chế độ tự quản của quần chúng ở cơ sở, từ đó
không ngừng thúc đẩy việc tự hoàn thiện, tự phát triển của chế độ chính trị XHCN.

Từ hai mục tiêu trên, báo cáo nêu lên 6 giải pháp, bao gồm: Một là, mở rộng dân
chủ nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hai là, phát triển dân chủ ở cơ sở,
bảo đảm cho nhân dân được hưởng quyền dân chủ cao hơn, thiết thực hơn; ba là, thực
hiện toàn diện phương châm chiến lược quản lý đất nước theo pháp luật, nhanh chóng
xây dựng nhà nước pháp trị XHCN; bốn là, làm lớn mạnh mặt trận thống nhất yêu
nước, đoàn kết tất cả mọi lực lượng để có thể đoàn kết; năm là, đẩy nhanh cải cách thể
chế quản lý hành chính, xây dựng chính phủ phục vụ; sáu là, hoàn thiện cơ chế ràng
buộc và giám sát quyền lực, bảo đảm quyền lực mà nhân dân trao cho được sử dụng để
mưu cầu lợi ích của nhân dân.

Cuối cùng, báo cáo chính trị rút ra nhận xét cho rằng: CNXH càng phát triển; dân
chủ cũng sẽ phát triển; ĐCS và nhân dân Trung Quốc nhất định sẽ phát triển nền chính
trị dân chủ XHCN có sức sống mạnh mẽ.

Như vậy, trong lĩnh vực chính trị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ Đặng Tiểu
Bình trước đây đến Hồ Cẩm Đào hiện nay đều thống nhất với nhau về mục tiêu là xây

15
dựng, phát triển nền chính trị dân chủ XHCN. Tuy nhiên, về mặt nội dung và giải pháp,
tùy tình hình cụ thể - mỗi nhà lãnh đạo có những cách đặt vấn đề khác nhau, nhưng xu
hướng chung là mở rộng dân chủ và tăng cường ý thức pháp trị.

3. Về mặt văn hóa


Xây dựng văn hóa là một nội dung của lý luận về xây dựng văn minh tinh thần
XHCN. Lý luận này được Đặng Tiểu Bình nêu lên, sau đó được khẳng định tại Đại hội
XII ĐCS Trung Quốc (1982) và được đánh giá là "một đặc trưng cơ bản của CNXH, là
một đột phá về nhận thức đối với CNXH".

Do tầm quan trọng của nó, nên ĐCS Trung Quốc đã có hai nghị quyết Trung
ương (Hội nghị Trung ương 6 khóa XII và Hội nghị Trung ương 6 khóa XIV) bàn về
vấn đề xây dựng văn minh tinh thần XHCN. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa
XIV (1996) nêu rõ: Tăng cường giáo dục khoa học văn hóa, dùng lý luận khoa học để
vũ trang cho con người, dùng dư luận đúng đắn để hướng dẫn con người, lấy tinh thần
cao thượng để xây dựng con người, dùng những tác phẩm ưu tú để cổ vũ con người, bồi
dưỡng công dân XHCN có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật.

Về mặt văn hóa, vào tháng 7-1991, Giang Trạch Dân trong một bài phát biểu đã
nêu lên phương hướng cho rằng: Phát huy và phát triển văn hóa XHCN, kế thừa phát
huy văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời thể hiện tinh thần thời đại của CNXH,
tiếp thu đầy đủ thành quả ưu tú của văn hóa nhân loại, Đại hội XV ĐCS Trung Quốc
(1997) nhấn mạnh: Coi việc bồi dưỡng công dân có lý tưởng, có văn hóa, có đạo đức,
có kỷ luật là mục tiêu; phát triển nguồn lực văn hóaXHCN dân tộc - khoa học - đại
chúng hướng tới hiện đại hóa, hướng ra thế giới và hướng tới tương lai. Đại hội XVI
ĐCS Trung Quốc (2002) đã nêu lên phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến bao
gồm: Phát huy và bồi dưỡng tinh thần dân tộc, tăng cường xây dựng đạo đức tư tưởng,
phát triển giáo dục và khoa học, phát triển văn hóa và sản phẩm văn hóa, đi sâu cải cách
thể chế văn hóa... Trên cơ sở đó, vừa qua, Chính phủ Trung Quốc đã xây dựng bản Quy
hoạch quốc gia về phát triển văn hóa thời kỳ đến năm 2010, trong đó nhấn mạnh một số
quan điểm cho rằng: văn hóa vừa tạo ra động lực tinh thần to lớncho sự phát triển toàn

16
diện, hài hòa kinh tế xã hội; đồng thời cũng là nội dung quan trọngcủa sự phát triển
kinh tế xã hội.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc (10 - 2007) đã nêu lên một nhận định quan trọng
khi cho rằng; "Trong thời đại này nay, văn hóa ngày càng trở thành nhân tố quan trọng
của cạnh tranh quốc lực tổng hợp". Đặc biệt, lần đầu tiên mệnh đề "nâng cao sức mạnh
mềm văn hóa quốc gia" được đưa vào một văn kiện chính thức của Đảng.

Dưới tiêu đề "Thúc đẩy văn hóa XHCN đại phát triển, đại phồn vinh", báo cáo
chính trị nêu lên 4 giải pháp, cụ thể như sau: Một là, xây dựng hệ thống giá trị hạt nhân
XHCN, tăng cường sức hấp dẫn và sức ngưng tụ của ý thức hệ XHCN. Hai là, xây dựng
văn hóa hài hòa, coi đây là chỗ dựa tinh thần quan trọng của đoàn kết và tiến bộ của
toàn thể nhân dân; bồi dưỡng bầu không khí văn minh. Ba là, đề cao văn hóa Trung
Hoa, xây dựng công viên tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Bốn là, thúc đẩy sáng tạo
văn hóa, tăng cường sức sống cho sự phát triển của văn hóa.

Những giải pháp nêu trên sẽ phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng
văn hóa, phát huy tích cực của những người làm công tác văn hóa, từ đó thúc đẩy một
cách tự giác, chủ động làm cho văn hóa phát triển và phồn vinh, thực hiện sáng tạo văn
hóa trong thực tiễn CNXH đặc sắc Trung Quốc.

Như vậy, về mặt văn hóa - dù đặt trong phạm trù xây dựng văn minh tinh thần
hay tách riêng ra, các nhà lãnh đạo Trung Quốc qua các thời kỳ khác nhau đều nhấn
mạnh vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nó trong phát triển kinh tế xã hội và xây dựng
con người mới. Bản Quy hoạch quốc gia về phát triển văn hóa của Chính phủ Trung
Quốc được nêu lên gần đây còn nhấn mạnh: Trong môi trường quốc tế phức tạp hiện
nay, một quốc gia muốn giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế, không chỉ đòi
hỏi thực lực kinh tế, thực lực KHKT và thực lực quốc phòng hùng mạnh, mà còn đòi
hỏi phải có thực lực văn hóa to lớn.

17
4. Về mặt xã hội
Nhận thức có tính bước ngoặt về mặt xã hội của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là
chuyển từ một xã hội "lấy đấu tranh giai cấp là chính" sang xây dựng "xã hội hài hòa
XHCN". Hội nghị Trung ương 4 khóa XVI ĐCS Trung Quốc (2006) đã ra nghị quyết
chuyên đề về xây dựng xã hội hài hòa XHCN, trong đó nhấn mạnh: "Xã hội hài hòa là
thuộc tính bản chất của CNXH đặc sắc Trung Quốc, là bảo đảm quan trọng của quốc
gia giầu mạnh, dân tộc chấn hưng, nhân dân hạnh phúc". Xã hội hài hòa XHCN mà
Trung Quốc xây dựng bao gồm 4 thuộc tính và 6 đặc trưng; 4 thuộc tính là: Công bằng
trong thu nhập các nguồn lực, hợp lý trong kết cấu xã hội, quy phạm trong hành vi xã
hội, hiệu quả trong hài hòa các lợi ích; còn 6 đặc trưng là: Dân chủ pháp trị, công bằng
chính nghĩa, hữu ái thành tín, tràn đầy sức sống, ổn định có trật tự, hài hòa giữa con
người với tự nhiên.

Đại hội XVII ĐCS Trung Quốc tiếp tục khẳng định và nêu lên mục tiêu: Trên cơ
sở phát triển kinh tế, cần chú trọng hơn xây dựng xã hội, tập trong cho đảm bảo và cải
thiện dân sinh, thúc đẩy cải cách, thể chế xã hội, mở rộng dịch vụ công, hoàn thiện quản
lý xã hội, thúc đẩy xã hội công bằng chính nghĩa; phấn đấu làm cho toàn thể nhân dân
đi học có trường lớp, lao động có nơi làm việc, ốm đau có nơi chữa trị, già có nơi
dưỡng lão, có chỗ ở, thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa.

Nhằm thực hiện mục tiêu nêu trên, đại hội nêu lên 6 giải pháp, bao gồm: Một là,
ưu tiên phát triển giáo dục, xây dựng cường quốc nguồn nhân lực; hai là, thực thi rộng
rãi chiến lược phát triển việc làm, thúc đẩy lấy sản nghiệp lôi kéo làm việc làm; ba là, đi
sâu cải cách thể chế phân phối, tăng thu nhập cho nhân dân thành thị và nông thôn; bốn
là, nhanh chóng xây dựng hệ thống an sinh xã hội phủ khắp cư dân thành thị và nông
thôn; năm là, xây dựng chế độ y tế chữa bệnh một cách cơ bản, nâng cao trình độ sức
khỏe của nhân dân; sáu là, hoàn thiện thể chế quản lý xã hội, duy trì xã hội ổn định
đoàn kết.

Riêng trong lĩnh vực phân phối, Bộ Chính trị ĐCS Trung Quốc đã có phiên họp
chuyên bàn về cải cách chế độ phân phối, theo đó phương châm chính được nêu lên là:

18
Nâng cao mức thu nhập thấp, mở rộng diện thu nhập trung bình, điều tiết thu nhập quá
cao.

Như vậy, với việc nêu lên nội dung xây dựng xã hội hài hòa XHCN, hệ thống lý
luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc đã hoàn thiện hơn, bao gồm 4 bộ phận cấu thành
chủ yếu là kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Theo ông Ngô Bang Quốc, hiện là Chủ
tịch Quốc hội Trung Quốc: việc nêu lên xây dựng xã hội hài hòa XHCN "đánh dấu
nhận thức của ĐCS Trung Quốc về bản chất của CNXH đã sâu sắc hơn".

VI. Bài học kinh nghiệm:


Trung Quốc không phải là nước duy nhất thực hiện cải cách kinh tế, xoá bỏ thể
chế kinh tế kế hoạch tập trung cũ, song nước này đã gặt hái được nhiều thành công
khiến cho các nước khác phải ngưỡng mộ.Viện sỹ Ô.Bôgômôlôp (Nga) đã nhận xét, có
nhiều người cho rằng các nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường "nhất định sẽ kéo
theo các xung đột đổ máu hay ít ra là mất mát và thiếu thốn vật chất. Kinh nghiệm của
các nước Trung và Đông Âu, của Nga và các nước SNG khác dường như khẳng định
điều đó. Thế nhưng cải cách thị trường của Trung Quốc đã chứng minh điều ngược lại.
Ngay từ những ngày đầu, cải cách của Trung Quốc đã cải thiện về kinh tế và cuộc sống
cho nhân dân, và cho đến nay vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao". Những điều đó
chứng tỏ rằng con đường xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà Đảng, Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc lựa chọn là đúng đắn, không những phù hợp với thực tiễn, giúp
cho Trung Quốc phát triển, mà còn đóng góp nhất định cho sự tăng trưởng của kinh tế
thế giới đồng thời cung cấp những bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo rất tốt cho
các nước đang phát triển khác, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi như
Việt Nam. Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo cũng đã giành
được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đổi mới đất
nước, Đảng và Chính phủ Việt Nam rất coi trọng tham khảo kinh nghiệm nước ngoài,
nhất là của Trung Quốc. Từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1991 đến nay, lãnh đạo

19
cấp cao hai nước đã nhiều lần xác định sẽ tăng cường hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trên
các lĩnh vực như xây dựng và phát triển kinh tế, quản lý đất nước, xây dựng Đảng v.v…

Công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đã để lại cho Việt Nam một số kinh
nghiệm sau đây:

1. Cải cách toàn diện, song phải coi cải cách thể chế kinh tế là trọng điểm.

Ngay từ đầu, Trung Quốc đã chủ trương cải cách toàn diện. Lãnh tụ Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình người được coi là kiến trúc sư của công cuộc cải cách của Trung Quốc
nói : " Cải cách là toàn diện, bao gồm cải cách thể chế kinh tế, cải cách thể chế chính trị
và cải cách các lĩnh vực tương ứng khác". Trung Quốc tuy chủ trương cải cách toàn
diện, song khi thực hiện phải có trọng điểm tập trung sức lực. Trọng điểm chính là cải
cách thể chế kinh tế. Sở dĩ Trung Quốc cải cách thành công vì trong khi cải cách tất cả
các lĩnh vực, họ đã kiên trì coi cải cách kinh tế làm trọng điểm. Một số quốc gia khác
cải cách thất bại, bởi vì cải cách kinh tế chưa có kết quả gì rõ rệt, đã vội vã chuyển
trọng điểm sang lĩnh vực khác, làm cho chính trị không ổn định, mà cải cách kinh tế
cũng bị buông lỏng, kết quả là cả kinh tế lẫn chính trị đều bị rối loạn.

2. Kiên trì lựa chọn thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa thay thế cho
thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống.

Thực hiện cải cách - mở cửa, những người lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn thể
chế kinh tế thị trường, nền kinh tế được thúc đẩy và phồn vinh, được nhân dân tiếp
nhận. Quá trình lựa chọn và tiếp nhận thế chế kinh tế thị trường ở Trung Quốc có thể
chia làm 4 giai đoạn :

- Từ năm 1979 đến năm 1984 là thời kỳ thể hiện sự quay lại tôn trọng quy luật giá
trị, mở rộng tác dụng của cơ chế thị trường. Các biện pháp cải cách áp dụng đầu tiên ở
nông thôn đã khiến nông nghiệp nhanh chóng phục hồi và phát triển , tạo ra sức thuyết
phục để đông đảo người dân tiếp nhận cuộc cải cách theo hướng thị trường.

20
- Năm 1984, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII xác nhận kinh tế XHCN là kinh tế
hàng hoá có kế hoạch. Nhận thức của mọi người đã được nâng lên, hiểu rõ hơn về vấn
đề phát triển kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua.

- Năm 1987, Đại hội Đảng CSTQ lần thứ 13 đưa ra mô hình "nhà nước điều tiết
thị trường, thị trường dẫn dắt xí nghiệp" đã làm nổi bật tác dụng của thị trường và có
thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết kinh tế thị
trường XHCN

- Đầu năm 1992, trong bài nói chuyện khi đi thăm các tỉnh phía Nam, Đặng Tiểu
Bình đã nêu ra ý kiến " Kinh tế kế hoạch không phải là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư
bản cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã
hội cũng có thị trường". ý kiến đó một lần nữa giải phóng tư tưởng cho cán bộ và nhân
dân Trung Quốc. Đại hội Đảng CSTQ lần thứ XIV lại đề ra "lấy xây dựng kinh tế thị
trường XHCN làm mục tiêu của cải cách thể chế kinh tế", cuộc cải cách theo hướng thị
trường hoá càng được thúc đẩy nhanh chóng. Thể chế kinh tế mới đã có vai trò ưu thế
trong vận hành kinh tế.

3. Kiên trì sách lược cải cách kiểu tiến dần từng bước.

Ngay từ khi mới bắt đầu cải cách, Trung Quốc đã xác định không dùng phương
án cải cách kiểu "bùng nổ" , mà đã kiên trì phương án "dò đá qua sông", áp dụng
phương châm trước dễ sau khó, tiến dần từng bước , giảm bớt rủi ro.

4. Xử lý đúng đắn quan hệ biện chứng giữa cải cách, phát triển và ổn định.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cải cách của Trung Quốc tương
đối thành công là trong tiến trình cải cách đã coi trọng và xử lý đắn quan hệ giữa cải
cách, phát triển và ổn định. Kinh nghiệm 20 năm phát triển kinh tế của Trung Quốc cho
thấy, muốn xử lý đúng đắn ba mặt trên, người Trung Quốc đã chú trọng mấy điểm sau:

- Trước hết, phải duy trì được tốc độ phát triển kinh tế thích hợp

21
- Thứ hai, phải giữ cho mức độ tăng hàng năm của vật giá bán lẻ ở mức dưới
10%.

- Thứ ba, việc thực hiện các biện pháp cải cách cần tính toán đầy đủ đến sự ổn
định về tiêu dùng của người dân.

- Thứ tư, giữ vững chủ trương cùng giàu có, đề phòng và giảm bớt mức chênh
lệch quá lớn giữa các cá nhân, các đơn vị, các địa phương .

5. Kết hợp chặt chẽ giữa cải cách trong nước với mở cửa ra thế giới.

Trung Quốc coi cải cách và mở cửa là hai mặt của một chỉnh thể. Sự kết hợp giữa
hai mặt này là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công của cải cách.

CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Bảo Ngọc (2018), “Cải cách mở cửa Trung Quốc (1978-2018) và một
số hàm ý cho Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 107.
2. Ngô Hiểu Ba (2018), “Cải cách kinh tế Trung Quốc qua các thời đại”, NXB
Văn Lang
3. “Báo cáo Chính trị tại Đại hội XVIII Đảng cộng sản Trung Quốc”, 2018 truy
cập từ http://www.sinotnet.org/news/china/2012-11-08/235427.html.

22

You might also like