You are on page 1of 11

Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới.


nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng
tạo và để tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng
đồng làm việc chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ
môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương án, các
lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các vấn đề này
không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có
thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật... hoặc trong
các phát minh, sáng chế.

Một danh từ khác được giáo sư Edward De Bono (1933 -) sử dụng để chỉ
ngành nghiên cứu này và được dùng rất phổ biến là Tư duy định hướng.

2. Một số phương pháp tư duy sáng tạo đã và đang được triển khai thành các
lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức xã hội, chính trị, chính
trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cá nhân hay tập thể. Ở các
trường trung học của các nước phát triển, một số phương pháp quan trọng như
não công (…), sơ đồ tư duy (…) cũng đã được học sinh áp dụng dưới dạng
thô sơ; đồng thời cũng đã có nhiều cơ sở giáo dục tư thục giảng dạy các
chuyên đề về phương pháp tư duy sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi.

Đặc điểm

 Các bộ môn được xem là công cụ của ngành này bao gồm: Tâm lý học,
giáo dục học, luận lý học (hay logic học), giải phẫu học, và các tiến bộ
về y học trong lĩnh vực nghiên cứu não.
 Không có khuôn mẫu tuyệt đối: Cho đến nay vẫn không có phương
pháp vạn năng nào để khơi dậy khả năng tư duy và các tiềm năng
khổng lồ ẩn chứa trong mỗi con người. Tùy theo đặc tính của đối tượng
làm việc và môi trường tại chỗ mà mỗi cá nhân hay tập thể có thể tìm
thấy các phương pháp riêng thích hợp.
 Không cần đến các trang bị đắt tiền: Cho đến nay, các phương pháp tư
duy sáng tạo chủ yếu vẫn là các cách thức tổ chức lề lối suy nghĩ có
hướng và các dụng cụ sử dụng rất đơn giản chủ yếu là giấy, bút, phấn,
bảng, lời nói, đôi khi là màu sắc, máy chiếu hình, từ điển... Một số phần
mềm đã xuất hiện trên thị trường để giúp đẩy nhanh hơn quá trình hoạt
động sáng tạo và làm việc tập thể có tổ chức và hiệu quả hơn. Song, tại
một số trường học vẫn có thể tiến hành giảng dạy bộ môn này bằng
những cuộc thảo luận chuyên đề hỗ trợ không tốn kém.
Cuối cùng, khoa này cũng không giới hạn tầm nghiên cứu của nó cho
việc ứng dụng thành tựu mới của y học về não bộ và tin học và điều đó
vẫn còn bỏ ngỏ cho các nhà nghiên cứu.
 Không phức tạp trong thực nghiệm: Thực nghiệm của hầu hết các
phưong pháp tư duy sáng tạo hiện nay rất đơn giản. Nếu cần quá trình
đào tạo cấp tốc có thể từ 1 buổi cho tới dưới 1 tuần cho người học. Đa
số các phương pháp đã đưọc ghi sẵn ra từng bước như là những thuật
toán. Điều kiện cho người thực hiện chỉ là sự hiểu biết và có khả năng
tư duy cũng như đôi khi cần đến sự hỗ trợ của các kho dữ liệu về kiến
thức chuyên môn mà vấn đề đặt ra có liên quan hay đề cập tới.
 Hiệu quả cao: Các phương pháp tư duy sáng tạo, nếu sử dụng đúng chỗ
đúng lúc đều mang lại lợi ích rất cao, nhiều giải pháp được đưa ra chỉ
nhờ vào phương pháp tập kích não. Các phương pháp khác cũng đã hỗ
trợ rất nhiều cho các nhà phát minh, nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật hay
công nghệ.
 Giảm thiểu được áp lực quá tải của lượng thông tin: bằng các phưong
án tư duy có định hướng thì một hệ quả tất yếu là người nghiên cứu sẽ
chọn lựa một cách tối ưu những dữ liệu cần thiết, do đó tránh các cảm
giác lúng túng, mơ hồ, hay lạc lõng trong rừng rậm của thông tin.

 Y học: Thành tựu mới về y học, nhất là dược khoa, đã đem lại nhiều kết
quả cho việc nâng cao khả năng tư duy. Ngày nay, y học đã tìm ra rất
nhiều dược chất có khả năng chống lão hóa não hay chống sự suy giảm
khả năng của trí nhớ trong đó có vai trò quan trọng của các chất chống
ôxi hóa, cũng như vai trò của các muối khoáng và các sinh tố (vitamin)
- đặc biệt là sinh tố A. Không chỉ các tiến bộ trong Tây y mà trong
Đông y người ta cũng đã có nhiều thành công trong việc dùng hỗn hợp
các dược thảo với các dược chất Tây y. Một vị thuốc Đông y nổi tiếng
có khả năng phục hồi trí nhớ và giảm stress là gingko bibola.
 Thiền: Thiền định là một phương pháp khá hữu hiệu để chống stress,
tăng cường khả năng đề kháng của cơ thể và tăng khả năng suy nghĩ tập
trung vào một chủ đề. Đặc biệt các phương pháp thiền Phật giáo còn
giúp tư duy của hành giả trở nên độc lập trước mọi thành kiến, kinh
nghiệm, hay tri thức vốn đã được huấn tập từ trước trong não bộ. Chính
những kiến thức và kinh nghiêm này đôi khi là trở lực che mờ sự sáng
suốt hay ngăn trở sự độc lập của tư duy.
 Dưỡng sinh và rèn luyện sức khỏe: Một cá nhân không thể có những
hoạt động trí não sáng suốt mạnh mẽ nếu người không đủ sức khỏe để
làm việc. Việc ăn uống điều độ, dưỡng sinh đúng mực giúp rất nhiều
cho việc giữ não bộ được linh hoạt và bền bỉ. Vai trò của thực phẩm
đặc biệt là các chất đạm rất cần thiết cho não bộ hoạt động bình thưòng.
 Chế độ làm việc: Để giảm thiểu hậu quả không tốt do việc tập trung
lâu, ngồi lâu và bảo đảm cho sự bền bỉ hoạt động của não bộ nhiều
chuyên gia đã cho lời khuyên là phải có các vận động thể dục ngắn để
giảm stress cũng như để buông xả bớt các căng thẳng thần kinh sau mỗi
45-60 phút làm việc tập trung. Hơn nữa, bắt cơ thể làm việc với số giờ
quá nhiều trong một ngày sẽ làm giảm sức tập trung. Ngoài ra, tổ chức
công việc có thứ tự ngăn nắp cũng ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả
của quá trình tư duy.
 Các kho dữ liệu và vai trò hỗ trợ của tin học: Trong khi nghiên cứu các
giải pháp mới thì việc nắm bắt đầy đủ thông tin, tư liệu về vấn đề cần
giải quyết là một điều cần thiết trước tiên. Ngoài ra, để có được những
ý kiến hay lời giải sáng tạo thì việc vận dụng kiến thức, hiểu biết hay
các công cụ mới là rất quan trọng. Ngày nay tận dụng khả năng của tin
học người ta có thể giảm thiểu nhiều công sức để tìm tòi tra cứu các
kho dữ liệu ở các nơi khác nhau. Đồng thời, có thể truy nhập hay tìm ra
các kiến thức cần thiết cho một vấn đề trong thời gian rất ngắn. Đặc
biệt, với sự trợ giúp của Internet và các máy truy tìm dữ liệu thì các
thông tin rời rạc trưóc đây của nhân loại đã được nối lại thành một kho
dữ liệu quí báu khổng lồ rất tiện lợi cho việc khai thác và tận dụng
chúng.

[sửa] Các phương pháp thông dụng

Các phương pháp sử dụng trong ngành này còn đang được khám phá. Số
lượng phương pháp đã được phát minh có đến hàng trăm. Nội dung các
phương pháp áp dụng có hiệu quả bao gồm:

 Tập kích não: Đây là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải
đáp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách
tập trung sự suy nghĩ vào vấn đề đó; các ý niệm và hình ảnh về vấn đề
trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo
dòng tư tưởng, càng nhiều thì càng đủ và càng tốt, rồi vấn đề được xem
xét từ nhiều khía cạnh và nhiều cách (nhìn) khác nhau. Sau cùng các ý
kiến sẽ được phân nhóm, đánh giá và tổng hợp thành các giải pháp cho
vấn đề đã nêu.
 Thu thập ngẫu nhiên: là kĩ thuật cho phép liên kết một kiểu tư duy mới
với kiểu tư duy đang được sử dụng. Cùng với sự có mặt của kiểu tư duy
mới này thì tất cả các kinh nghiệm sẵn có cũng sẽ được nối vào với
nhau. Phương pháp này rất hữu ích khi cần những ý kiến sáng rõ hay
những tầm nhìn mới trong quá trình giải quyết một vấn đề. Đây là
phương pháp có thể dùng bổ sung thêm cho quá trình tập kích não.
 Nới rộng khái niệm: là một cách để tìm ra các tiếp cận mới về một vấn
đề khi mà tất cả các phương án giải quyết đương thời không còn dùng
được. Phương pháp này triển khai nguyên tắc "lui một bước" để nới
rộng tầm nhìn về vấn đề.
 Kích hoạt: Tác động chính của phương pháp này là để tư tưởng được
thoát ra khỏi các nền nếp kiến thức cũ mà đã từng được dùng để giải
quyết vấn đề. Chúng ta tư duy bằng cách nhận thức và trừu tượng hóa
thành các kiểu rồi tạo phản ứng lại chúng. Các phản ứng đối đáp này
dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ và sự hữu lý của các kinh nghiệm
này. Tư tưởng của chúng ta thường ít vượt qua hoặc đứng bên ngoài
của các kiểu mẫu cũ. Trong khi chúng ta có thể tìm ra câu trả lời như là
một "kiểu khác" của vấn đề, thì cấu trúc não bộ sẽ gây khó khăn cho
chúng ta để liên kết các lời giải này. Phương pháp kích hoạt sẽ làm nảy
sinh các hướng giải quyết mới.
 Sáu chiếc mũ tư duy (six thinking hats): là một kĩ thuật được nhằm giúp
các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối tượng, những cái nhìn này
sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được. Đây là
một khuôn mẫu cho sự tư duy và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ
định hướng. Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có
chỗ đứng riêng của chúng, nhưng các phê phán đó sẽ không được phép
thống trị như là thường thấy trong lối suy nghĩ thông thường. Phương
pháp này được dùng chủ yếu là để kích thích lối suy nghĩ song song,
toàn diện và tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến,...) với
chất lượng.

 DOIT: là phương pháp để gói gọn, hay kết hợp, các phương pháp tư
duy sáng tạo lại với nhau và dẫn ra các phương pháp về sự xác định ý
nghĩa và đánh giá của vấn đề. DOIT giúp tìm ra kỹ thuật sáng tạo nào
là tốt nhất. Chữ DOIT là chữ viết tắt trong tiếng Anh bao gồm

D - Define problem nghĩa là Xác định vấn đề


O - Open mind and Apply creative techniques tức là Cởi mở ý tưởng và
Áp dụng các kỹ thuật sáng tạo
I - Identify the best solution là Xác định lời giải đáp tốt nhất
T- Transform là Chuyển đổi
 Đơn vận: Đây là phương pháp mạnh giải quyết vấn đề bằng cách đem
nó vào sự vận chuyển đơn nhất. Phương pháp này thích hợp để giải
quyết những vấn đề trong môi trường kỹ nghệ sản xuất. Nó đưa phương
pháp DOIT lên một mức độ tinh tế hơn. Thay vì nhìn sự sáng tạo như là
một quá trình tuyến tính thì cái nhìn của đơn vận đưa quá trình này vào
một vòng khép kín không đứt đoạn. Nghĩa là sự hoàn tất cùng với sự
thực hiện tạo thành một chu kì dẫn tới chu kì mới nâng cao hơn của sự
sáng tạo.
 Giản đồ ý: phương pháp này là một phương tiện mạnh để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Nó có thể dùng như một cách để
ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề thành một
dạng của lược đồ phân nhánh. Phương pháp này củng cố thêm khả năng
liên lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau cũng như nâng cao khả năng nhớ
theo chuỗi dữ kiện xảy ra theo thời gian. Bằng cách dùng giản đồ ý,
tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối
tượng được liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các
dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
 Tương tự hoá: xem vấn đề như là một đối tượng. So sánh đối tượng này
với một đối tượng khác, có thể là bất kì, thường là những bộ phận hữu
cơ của tự nhiên. Viết xuống tất cả những sự tương đồng của hai đối
tượng, các tính chất về vật lý, hoá học, hình dạng, màu sắc... cũng như
là chức năng và hoạt động. Sau đó, xem xét sâu hơn sự tương đồng của
cả hai, xem có gì khác nhau và qua đó tìm thấy được những ý mới cho
vấn đề.
 Tương tự hoá cưỡng bức: là một cách mở rộng tầm nhìn hay bóp méo
những kiến thức hiện hữu để tạo ra những sáng kiến mới.
 Tư duy tổng hợp: là một quá trình phát hiện ra các mối liên hệ làm
thống nhất các bộ phận mà tưởng chừng như là tách biệt. Đây là
phương thức ghép đặt các sự kiện lại với nhau để mở ra một tầm nhìn
mới cho tất cả các loại vấn đề. Phương pháp này không chỉ dùng trong
nghiên cứu khoa học mà còn trong nhiều lĩnh vực khác như nghệ thuật,
sáng tác... hay ngay cả trong lĩnh vực sử dụng tài hùng biện như chính
trị, luật...
 Đảo lộn vấn đề (reversal): Đây là một phương pháp cổ điển được áp
dụng triệt để về nhiều mặt trên một vấn đề nhằm tìm ra các thuộc tính
chưa được thấy rõ và khả dĩ biến đổi được đối tượng cho phù hợp hơn.
 Cụ thể hoá và Tổng quát hoá
 TRIZ: (Viết tắt từ Nga ngữ Teoriya Resheniya Izobreatatelskikh
Zadatch (Теория решения изобретательских задач), Anh ngữ:the
Theory of Inventive Problem Solving) tức là Lý thuyết giải quyết sáng
tạo cho vấn đề. Đây là lý thuyết sáng tạo được thống kê và tổng hợp
thành 40 gợi ý khác nhau và được ghi ra cụ thể cho người áp dụng tùy
theo tình huống của vấn đề.

Nhiều phương pháp trình bày trên đây vẫn còn được những người phát minh
ra chúng giữ độc quyền trong việc đào tạo và in ấn các tài liệu giáo khoa.
…Từ xa xưa, các phương pháp tư duy sáng tạo đã bắt nguồn khi loài người
biết suy nghĩ. Một trong các phương pháp đầu tiên được dùng tới có lẽ là
phương pháp tương tự hoá.

Tiếp theo là các phương pháp tổng hợp, phân tích, trừu tượng và cụ thể hoá
chắc chắn đã được các nhà triết học và toán học sử dụng trong thời La Mã cổ
đại và thời Xuân Thu.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu có hệ thống và trình bày lại một cách đầy đủ cho
từng phương pháp thì mãi đến đầu thế kỷ thứ 20 mới xuất hiện. Đặc biệt là
sau việc chính thức phát minh ra phương pháp Tập kích não vào năm 1941
của Alex Osborn thì các phương pháp tư duy sáng tạo mới thực sự được các
nhà nghiên cứu nhất là các nhà tâm lý học chú ý tới. Kể từ đó, rất nhiều
phương pháp tư duy sáng tạo đã ra đời.

Hiện nay, một số khuynh hướng chung là tìm ra các phương pháp để sử dụng
kết hợp khả năng tư duy của các cá nhân vào trong một đề tài lớn cùng với sự
hỗ trợ của ngành tin học.

Trong tương lai, khi mà thành tựu của việc liên lạc trực tiếp các tín hiệu của
các con chip điện tử với não người được hoàn thiện hơn thì chắc chắn nó sẽ
tạo ra một cuộc cách mạng mới về các phương pháp tư duy sáng tạo. Lúc đó,
việc khó khăn là làm sao cho bộ não của từng cá nhân điều khiển và tận dụng
được mọi khả năng của các hệ thống máy tính, cũng như làm sao quản lý việc
nối các hoạt động tư duy cá nhân thành một mạng tư duy khổng lồ với thời
gian truy cập thông tin là thời gian thực.

[sửa] Tham khảo

 Những phương pháp tư duy hiệu quả nhất giúp thay đổi cuộc sống của
bạn
 Scott Thorpe, "How to Think Like Einstein - Simple Way to Break the
Rules and Discover Your Hidden Genius". Barn&Noble. 2002. ISBN
0-7607-3307-4
 Francis D. Reynolds, "Crackpot or Genius - A complet Guide to the
Uncommon Art of Inventing". Barn&Noble 1993. ISBN 0-7607-1596-
3
 Richard Platt, "Eureka! Great Inventions and How They Happened"
Kingfisher Boston. 2003. ISBN 0-7534-5580-3
 (tiếng Anh) Creativity is more than a trait: It's a relation
 Creativity Techniques
 A wiki for Creativity Techniques
 MindTools -- Essential skill for an exellent career
 VirtualSalt Creative Thinking Techniques Robert Harris
 Creative Thinking and Lateral Thinking techniques
 Thinking Ceatively
 EDWARD DE BONO - LATERAL THINKING & PARALLEL
THINKING (TM)
 Các phương pháp suy luận và sáng tạo -- Những bài giảng của Võ
Quang Nhân và Trần Thế Vỹ
 Gạt bỏ những kinh nghiệm trong quá khứ.
Đầu óc của con người vì sao lại bị ràng buộc bởi những ‘hiểu biết về
kiến thức thông thường’ hoặc “kinh nghiệm của qúa khứ” ?. Tôi cho
rằng chẳng qua là bộ não của chúng ta cấu tạo quá hoàn chỉnh mà thôi.
Suy nghĩ cũng làm cho con người mệt mỏi, nên cần có thời gian thích
đáng để nghỉ ngơi. Nhất là gặp những trường hợp nhiều lần được giải
quyết một cách thuận lợi bởi những kinh nghiệm sẵn có, lúc đó đầu óc
của chúng ta sẽ chọn các ‘tiết kiệm tư duy” để ứng phó với những vấn
đề đó.

Điều đó làm cho đầu óc của chúng ta trở nên mất linh hoạt. Đó chính là
nguyên nhân làm hạn chế tính sáng tạo trong tư duy của con người.
Để tránh sự xơ cứng của bộ não, ta nên tập thành thói quen suy xét một
vật hoặc một vấn đề từ nhiều khía cạnh.
Chịu khó tư duy, chịu khó động não, chắc chắn các bạn sữ có những
cách giải quyết vấn đề hoặc những phát hiện bất ngờ.

3. Tạo điều kiện phát triển khả năng sáng tạo


Giữ gìn truyền thống là điều không ai chối cãi. Những trong thời đại
tên lửa hiên nay, bất cứ ai cũng cần có những sáng tạo trong tư duy.
Nhưng thực tế thì hầu hết những người thông thường không có sự cố
gắng trong việc rèn luyện tính sáng tạo tư duy của mình. Bởi lẽ họ cho
rằng khả năng sáng tạo là bẩm sinh. Không thể rèn luyện hoặc nhờ sự
cố gắng mà có.

Thực tế dù ở gia đình, nhà trường hoặc nơi làm việc, đều có rất nhiều
nguyên nhân làm hạn chế tính sáng tạo. Nhất là tại các cơ quan làm
việc. Đối với những suy nghĩ táo bạo của tuổi trẻ thường bị phê bình là:
“Quá non nớt! Quá ấu trĩ!”

Ở một xí nghiệp nào đó khi có mặt giám đốc, các nhân viên vẫn cười
nói bình thường, đấy là bầu không khí làm việc lý tưởng. Nhưng ngược
lại tại một số nơi khi trưởng phòng xuất hiện các tổ trưởng lập tức câm
miệng như hến, nhân viên bỗng nhiên trở nên hiền như con mèo con
mới mang về. Ở những công ty đó, các nhân viên trẻ làm sao có khả
năng phát huy tính sáng tạo trong công tác của họ. Khả năng phát triển
của công ty sẽ bị hàn chế.

Giới hạn con người trong khuôn khổ lấy những hiểu biết về kiến thức
thông thường, những tập tục, những truyền thống, những ký ức để ràng
buộc con người sẽ không thể có sáng tạo trong tư duy và công tác.

    Nâng cao khả năng sáng tạo:


Để nâng cao khả năng sáng tạo, cần có phương pháp rèn luyện. Đó là:

1. Phương pháp đặt vấn đề:


Trước tiên, các bạn liệt kê toàn bộ những chi tiết có vấn đề thành một
bảng kê. Sau đó lần lượt suy nghĩ từng vấn đề. Làm như vậy chúng ta
sẽ tránh được kiểu xem xét sự vật phiến diện hoặc bỏ sót cá chi tiết
quan trọng. Tuy vậy, cũng không nên quá lệ thuộc vào phương pháp
nạy vì quá lệ thuộc vào nó sẽ làm hạn chế tính sáng tạo.

2. Phương pháp liên tưởng đôi


Mục đích rèn luyện của phương pháp này cũng giống như phương pháp
đặt vấn đề, giúp ta vượt qua các liên tưởng thông thường
Ví dụ: Cần sáng chế một sản phẩm mới về âm thanh nổi. Trước tiên,
người ta liên tưởng tới một sản phẩm hoàn toàn không liên quan dến nó
– máy bay. Sau đó ta xem xét đặc tính, công dụng, trang bị của máy
bay.

Căn cứ vào những yếu tố đó ta lại lần lượt xét các yếu tố đó với sản
phẩm về âm thanh nổi.
Phương pháp này không những giúp ta nghiên cứu sáng chế sản phẩm
mới mà còn rèn luyện tính sáng tạo trong cuộc sống hàng ngày của
chúng ta.

3. Phương pháp phân tích hình thái:


Ví dụ: Muón làm một cái ly để đông dung dịch chúng ta cần xem xét
hình dáng, kích thước, nguyên liệu của ly. Người ta lập một biểu đồ
khối lập phương để lựa chọn điều kiện tối ưu. Có 48 trường hợp để lựa
chọn, giúp chúng ta có những dữ liệu để sáng chế một sản phẩm mới
đạt tiêu chuẩn cao.

Ba phương pháp trên nhằm hạn chế sự lão hoá của bộ não nhưng đối
với việc rèn luyện tư duy lại không có hiệu quả bao nhiêu.

Theo kinh nghiệm những người có sức sáng tạo phong phú thường là
những người rất thích thú với các trò chơi về bộ não như: câu đố, tiểu
thuyết suy luận, ảo thuật, truyện vui, tạp kỹ…. Trong đó câu đố là một
hình thức không thể thiếu được để rèn luyện trí óc của chúng ta. Nó bao
gồm những tài liệu rèn luyện khả năng trực giác, khả năng quan sát,
khả năng phân tích, khả năng suy luận, khả năng bền bỉ, khả năng sáng
tạo của con người.

 Não bộ con người có một tiềm năng rất lớn; tuy nhiên, làm cách nào để
khai, mở tận dụng được các chức năng tuyệt vời ẩn kín bên trong mỗi
người lại là một chuyện khác. Trong nữa cuối thế kỉ 20, nhiều nhà khoa
học đặc biệt là trong các ngành y học, giáo dục học và tâm lí học đã tìm
ra nhiều phương cách để kích thích và định hướng hóa các hoạt động
của tư duy nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của bộ óc. Các nghiên cứu
này được tập họp lại và tổng quát hóa thành các phương pháp được tạm
đặt tên là các phương pháp tư duy sáng tạo.

 Hiện nay, trong các xứ tiên tiến thì các phương pháp để giải quyết mau
lẹ và hiệu quả các khó khăn về tư duy này đã được nghiên cứu và giảng
dạy khá kỹ trong nhiều "course" hay "semina" ở các truờng. Tuy vậy,
khi "trở về xứ Việt" thì chúng ta hầu như không thể tìm thấy một hướng
dẫn nào khả dĩ giúp trang bị cho chúng ta một số phương tiện để có thể
"qua cầu" mà không bị gió bay.

 Các bạn không nhất thiết phải "bám chắc" theo một phương cách nào
hết mà chỉ cần rút tỉa ra xem phương pháp nào có hợp với tính cách đặc
điểm công việc cũng như tư duy của bạn để có thể xử dụng thích hợp
nhằm giải quyết vấn đề các bài toán của mình và do đó, cũng không
nhất thiết phải nghiền ngẫm hết tất cả các phương pháp được trình làng
ở đây. Một diểm quan trọng xin nhấn mạnh nữa là các phương pháp tư
duy sáng tạo có thể được sử dụng kết hợp với nhau để giúp ta tìm đến
những lời giải hay và đẹp hơn.

 Rất tiếc ở Việt Nam hiện chưa có trường học hay cơ quan chính thức
nào nghiên cứu hay đưa vào ngành giáo dục các biện pháp "giải phóng
tư duy" này.

 Mô hình 5S, 6d, mô hình tam nguyên, mô hình A.O.D.I

5 cấp độ của tư duy sáng tạo:


1. “Nhận ra nhu cầu cần có cách tiếp cận mới” là cấp độ thấp nhất (cấp độ 5),
tương ứng với khi người nhân viên biết:
- Vui vẻ đón nhận ý tưởng mới.
- Xem xét lại cách tiếp cận truyền thống và tìm các giải pháp có thể có.
- Nhận ra lúc nào cần một cách tiếp cận mới, tham khảo thông tin để hướng
về cách tiếp cận mới.

2. “Thay đổi các cách tiếp cận hiện có” là cấp độ cao hơn (cấp độ 4), xuất
hiện khi các nhân viên biết:

- Phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của các cách tiếp cận hiện có.
- Thay đổi và làm cho các cách tiếp cận hiện có thích hợp hơn với nhu cầu.
- Nhận diện được các giải pháp khác nhau dựa vào những gì đã biết.
- Thấy được một giải pháp tối ưu sau khi cân nhắc những điểm mạnh và điểm
yếu của các cách tiếp cận khác.

3. “Đưa ra cách tiếp cận mới” là cấp độ 3, tương xứng với lúc các nhân viên
biết:

- Tìm kiếm các ý tưởng hoặc giải pháp đã có tác dụng trong các môi trường
khác để áp dụng chúng tại doanh nghiệp của mình.
- Vận dụng các giải pháp đang có theo cách mới lạ hơn nhằm giải quyết vấn
đề với hiệu quả cao hơn.
- Nhìn thấy được các triển vọng tốt khi tiếp tục vận dụng các giải pháp đang
có theo vài cách mới lạ khác.

4. Cao hơn nữa, họ tiến đến cấp độ 2 là “Tạo ra khái niệm mới” khi có được
khả năng:

- Tổng hợp các khái niệm cần thiết để định hình một giải pháp mới.
- Tạo ra các mô hình và phương pháp mới cho doanh nghiệp.
- Nhận diện được các giải pháp linh hoạt và thích hợp cũng như xác định
được các tiêu chuẩn về chuyên môn và về tổ chức tương ứng với giải pháp
mới.

5. Cao hơn cả là cấp độ 1

- “Nuôi dưỡng sự sáng tạo”, nhưng năng lực này chỉ có ở rất ít chuyên gia
quản trị, bao gồm:
- Có khả năng phát triển một môi trường nuôi dưỡng tư duy sáng tạo, luôn
kích thích mọi người thi đua tìm tòi các giải pháp sáng tạo.
- Khuyến khích mọi người thử nghiệm ý tưởng mới khác hẳn cách làm truyền
thống.
- Hỗ trợ cho việc thử nghiệm ý tưởng mới nhằm biến ý tưởng thành hiện thực.
Như vậy, cùng hướng đến tư duy sáng tạo, nhưng mỗi cá nhân trong doanh
nghiệp có thể thuộc về cấp độ này hay cấp độ khác. Việc quan sát để biết cấp
độ tư duy sáng tạo của đội ngũ nhân viên và tạo điều kiện để những người
thuộc cấp độ từ 4 đến 2 phát huy năng lực của họ là nhiệm vụ và cũng là
thách thức không nhỏ đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Khi vượt qua
được thách thức đó, chính nhà quản trị đã tự bồi dưỡng để dần đạt được cấp
độ 1.

You might also like