You are on page 1of 23

1

KN-2022
2

Chương 1
KHÁI NIỆM

1.1. ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA KHÁI NIỆM


1.1.1. Khái niệm là gì?
Trong quá trình sinh tồn, con người luôn có nhu cầu nhận thức thế giới
hiện thực khách quan để nhằm tác động một cách tích cực và hiệu quả đến
giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội. Khi đó, con người thường xuyên gặp
phải mâu thuẫn không tránh khỏi là mâu thuẫn giữa sự đa dạng của các đối
tượng hiện thực với nhu cầu nắm bắt chúng. Các đối tượng hiện thực có thể
là: con người, sự vật, sự việc, hiện tượng, quá trình, tính chất, mối liên hệ và
quan hệ. Do vậy, nhận thức trở thành nhu cầu. Và khâu đầu tiên của nhận
thức chính là khái niệm.
Tất cả các đối tượng đều cấu thành từ những bộ phận, có những thuộc
tính khác nhau. Các thuộc tính lại có nhiều loại, trong đó logic học hình thức
đặc biệt quan tâm đến những thuộc tính bản chất khác biệt. Đó là những thuộc
tính bản chất làm cho đối tượng hay lớp đối tượng này khác với đối tượng hay
lớp đối tượng khác. Nếu không có thuộc tính chung bản chất khác biệt thì đối
tượng không còn là nó. Vì thế, có thể khẳng định rằng, nhờ vào thuộc tính
chung bản chất khác biệt mà ta phân biệt được từng đối tượng.
Ví dụ: “Có tư duy” là thuộc tính bản chất khác biệt của con người, nên
nhờ đó chúng ta phân biệt được con người với những động vật khác.
Những thuộc tính của đối tượng tồn tại khách quan, không phụ thuộc
vào ý thức của con người. Những thuộc tính tồn tại trong đối tượng dù cho
con người biết hay không biết. Những thuộc tính của đối tượng lộ ra trong
quá trình nhận thức và được con người ghi nhận, trở thành các dấu hiệu của
đối tượng. Dấu hiệu của đối tượng chính là những thuộc tính của đối tượng
đã được con người nhận thức.
3

Vậy, khái niệm là một hình thức tư duy phản ánh một cách gián tiếp
và khái quát về đối tượng thông qua những dấu hiệu bản chất khác biệt
của chúng.
Do vậy, khái niệm là những tri thức (hiểu biết) tương đối toàn diện và
có hệ thống về bản chất của đối tượng. Khi tiếp cận đối tượng để nhận thức về
nó thì trong đầu óc con người dần dần hình thành khái niệm về đối tượng ấy.
Hoạt động nhận thức đó không phải có thể hoàn thiện ngay lập tức và không
phải lúc nào cũng hoàn toàn chuẩn xác. Ngoài ra, chủ thể nhận thức cũng
không hoàn toàn giống nhau và thường bị chi phối bởi các điều kiện khách
quan cũng như chủ quan (các yếu tố xã hội, năng lực tư duy, nghề nghiệp, tôn
giáo, …). Do đó, các khái niệm khoa học cùng các dấu hiệu hàm chứa trong
khái niệm về đối tượng cũng được hoàn thiện dần cùng sự phát triển của khoa
học và thực tiễn.
Ví dụ, khái niệm “nguyên tử”: Đầu thế kỷ XIX, nguyên tử mới chỉ
được biết đến là thành phần nhỏ bé nhất không thể phân chia được nữa. Đầu
thế kỷ XX, người ta lại biết thêm rằng nguyên tử bao gồm hạt điện tích dương
- Proton và hạt điện tích âm - Electron. Sau đó, khoa học lại tiếp tục chứng
minh được rằng, trong Proton gồm có các Neutron và các hạt không tích điện
khác.
1.1.2. Hình thức ngôn ngữ biểu thị khái niệm
Tư duy và ngôn ngữ liên hệ mật thiết với nhau. Ngôn ngữ là vỏ vật chất
của tư duy. Hình thức ngôn ngữ biểu thị khái niệm chính là từ. Khái niệm và
từ có mối liên hệ hữu cơ. Không thể có khái niệm ngoài từ. Khái niệm được
hình thành trên cơ sở những từ xác định có nghĩa. Nghĩa của từ thường được
dùng để chuyển tải nội dung của khái niệm. Mọi khái niệm đều được thể hiện
bằng một từ, hay cụm từ.
Nhưng, giữa khái niệm và từ có một số khác biệt, không tuyệt đối đồng
nhất với nhau.
- Khái niệm là một hình thức của tư duy còn từ là một đơn vị của ngôn
4

ngữ. Từ là do con người quy ước có mục đích. Từ là sản phẩm của ý chí chủ
quan của con người; còn khái niệm là những hiểu biết của con người về dấu
hiệu của đối tượng nên khái niệm có tính khách quan và tương đối ổn định ở
mọi người và ở mọi dân tộc. Do vậy, dễ nhận thấy ở các cộng đồng người
(hoặc các dân tộc) có hệ thống ngôn ngữ khác nhau thì các từ khác nhau
nhưng khái niệm về đối tượng khách quan là giống nhau và nhờ điều này mà
loài người hiểu được nhau.
- Khái niệm bao giờ cũng được diễn đạt qua từ, nhưng không phải từ
nào cũng thể hiện khái niệm. Trong ngôn ngữ tiếng Việt, nếu xét ở bình diện
nội dung thì từ được phân chia một cách cơ bản thành: những từ có nghĩa và
những từ không có nghĩa1. Những từ mang ý nghĩa xác định, được quy chiếu
vào một đối tượng như: cây, trời, cỏ, nước, … Những từ không mang nghĩa
xác định, không được quy vào đối tượng nào như: ư, ả, nhách, rả, … Do đó,
chỉ có những từ xác định có nghĩa mới có thể biểu hiện khái niệm. Vậy là,
một từ khi đã được xác định thì nó biểu thị một khái niệm xác định trong tư
duy, và khái niệm này lại là sự phản ánh một đối tượng cụ thể trong hiện thực.
Vì điều này nên chúng ta không thể tùy tiện thay đổi nội dung của một khái
niệm bằng âm và nghĩa của một từ khác.
Ví dụ: Một truyện cười trong văn học dân gian Việt Nam với nhan đề
Đậu phụ cắn nhau:
“Sư cụ ăn vụng thịt chó ở trai phòng. Chú tiểu thấy, liền hỏi: - Bạch cụ,
cụ xơi gì đấy ạ?
Sư cụ đáp: - Chỉ có mấy miếng đậu phụ.
Cùng lúc đó, có tiếng chó sủa ầm ĩ ngoài cổng. Sư cụ hỏi: - Cái gì ngoài
cổng thế?
Chú tiểu đáp: - Bạch cụ. Ðậu phụ chùa cắn đậu phụ làng đấy ạ!”
Ở ví dụ này, chú tiểu đã sử dụng từ đậu phụ để phản ánh một đối tượng

1
Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 2003, tr. 143.
5

khác, chứ không phải là đậu phụ (một món ăn) như chúng ta biết.
- Một từ có thể chuyển tải nội dung của một số khái niệm khác nhau.
Trong ngôn ngữ, hiện tượng này được gọi là đồng âm khác nghĩa.
Ví dụ: Con ngựa đá đá con ngựa đá.
- Nội dung của khái niệm có thể được chuyển tải bằng nhiều từ. Đây
được gọi là hiện tượng đồng nghĩa khác âm.
Ví dụ : Cùng một vật dùng để ăn cơm, miền Bắc gọi là cái bát, còn
miền Trung gọi là cái đọi, miền Nam gọi là cái chén; hoặc cùng một khái
niệm nhưng mỗi nước, mỗi dân tộc sử dụng ngôn ngữ khác nhau như yêu -
Love – любитъ.
1.1.4. Kết cấu logic của khái niệm
Như đã trình bày ở chương mở đầu, logic hình thức về cơ bản không
quan tâm đến nội dung, chỉ quan tâm đến hình thức và kết cấu của đối tượng
được nói đến. Trong khái niệm cũng vậy, dù nói đến khái niệm gì (sinh viên,
giáo viên, trường đại học Ngoại thương, kinh tế, văn hóa, kỹ thuật, pháp luật,
thương mại, ...) thì các khái niệm này tuy có nội dung khác nhau nhưng có kết
cấu như nhau, bao gồm hai phần: nội hàm và ngoại diên. Mỗi khái niệm bao
giờ cũng có nội hàm và ngoại diên.
a. Nội hàm của khái niệm
Định nghĩa: Nội hàm của khái niệm là những dấu hiệu bản chất, khác
biệt của đối tượng mà khái niệm phản ánh. Vì vậy, nội hàm đặc trưng cho
khái niệm về mặt chất. Có thể hiểu, nội hàm của khái niệm cho ta biết đối
tượng mà khái niệm phản ánh là đối tượng gì? hoặc như thế nào?
Ví dụ 1: Khái niệm “pháp luật”: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử
sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước”.
Trong khái niệm “pháp luật” nêu trên, nội hàm của khái niệm là:
- các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
6

- thể hiện ý chí của giai cấp thống trị,


- được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
b. Ngoại diên của khái niệm
Định nghĩa: Ngoại diên của khái niệm là tập hợp những đối tượng hiện
thực mang các dấu hiệu chung bản chất được nêu trong nội hàm. Vì vậy,
ngoại diên đặc trưng cho khái niệm về mặt lượng. Có thể hiểu, ngoại diên của
khái niệm cho ta biết phạm vi đối tượng mà khái niệm phản ánh. Nói cách
khác, ngoại diên của khái niệm trả lời câu hỏi: Có bao nhiêu đối tượng mà
khái niệm phản ánh?
Ví dụ: Khái niệm “sinh viên Việt Nam” có ngoại diên là “toàn bộ
những người đang học các trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam”.
Chúng ta có thể liệt kê chính xác các đối tượng thuộc ngoại diên nếu số
lượng đó là hữu hạn và tương đối ít. Còn nếu số lượng các đối tượng quá lớn
hoặc vô hạn thì phải sử dụng cách mô tả ngoại diên của khái niệm dựa vào nội
hàm của khái niệm đó.
c. Mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm
Thông qua việc phân tích nội hàm và ngoại diên của khái niệm có thể
thấy chúng có mối quan hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ giữa
nội hàm và ngoại diên của khái niệm như mối quan hệ giữa chất và lượng của
cùng một khái niệm. Tương ứng với nội hàm xác định của một khái niệm sẽ là
một ngoại diên xác định của khái niệm đó.
Giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm có mối quan hệ tương quan,
nhưng là mối quan hệ tương quan nghịch biến. Sự biến động của nội hàm khái
niệm sẽ dẫn đến sự biến động về ngoại diên của khái niệm đó:
- Nội hàm càng phong phú thì ngoại diên càng hẹp. Khái niệm có nội
hàm phong phú nhất thường phản ánh một đối tượng cụ thể, xác định (thường
là đối tượng đơn nhất).
- Nội hàm càng nghèo nàn thì ngoại diên càng rộng. Khái niệm có
ngoại diên rộng nhất được gọi là phạm trù.
7

Quan hệ nghịch biến giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm được
hiểu là khi thêm thuộc tính chung bản chất nào đó vào nội hàm của khái niệm
(tăng dấu hiệu trong nội hàm) thì sẽ loại bớt các đối tượng không có thuộc
tính ấy ra khỏi ngoại diên của khái niệm đã có (giảm số đối tượng trong ngoại
diên).
1.1.5. Phân loại khái niệm
Phân loại khái niệm cần phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Có thể
phân loại khái niệm căn cứ vào kết cấu của khái niệm, tức là căn cứ vào nội
hàm và ngoại diên của khái niệm.
a. Phân loại khái niệm theo nội hàm
* Khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng:
Khái niệm cụ thể là khái niệm phản ánh đối tượng hiện thực, tồn tại
một cách độc lập tương đối trong tính chỉnh thể của nó. Ví dụ: ánh trăng, mặt
trời, hoa hồng, cánh buồm, sóng, …
Khái niệm trừu tượng là khái niệm phản ánh tính chất, quan hệ của các
đối tượng, mà không tồn tại độc lập nếu thiếu các đối tượng ấy. Ví dụ: dịu
dàng, lịch thiệp, chung thủy, gián đoạn, liên tục, công bằng, …
* Khái niệm khẳng định và khái niệm phủ định:
Khái niệm khẳng định là khái niệm phản ánh sự hiện diện của các đối
tượng, các thuộc tính hay các quan hệ của chúng. Ví dụ: tốt, văn minh, văn
hóa, lịch thiệp, …
Khái niệm phủ định là khái niệm phản ánh sự không tồn tại của đối
tượng, sự không tồn tại thuộc tính hay quan hệ của chúng ở phẩm chất đang
xét. Ví dụ: vô văn hóa, bất lịch sự, vô dân chủ, …
* Khái niệm tương quan và không tương quan:
Khái niệm tương quan là khái niệm chỉ mang đầy đủ nội dung khi đứng
trong quan hệ với các khái niệm cùng cặp. Ví dụ: cha - con, ông - cháu, cô
giáo - học sinh, vợ - chồng, … (Trong tục ngữ, ca dao Việt Nam có câu:
8

“Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”).
Khái niệm không tương quan là khái niệm có thể tồn tại độc lập tương
đối, không phụ thuộc vào sự tồn tại của khái niệm khác. Do vậy, khái niệm
không tương quan có đầy đủ nội dung khi đứng độc lập. Ví dụ: con người,
trường học, kinh tế, văn hóa, khủng hoảng kinh tế, …
b. Phân loại khái niệm theo ngoại diên
* Khái niệm tập hợp và khái niệm không tập hợp:
Khái niệm tập hợp là khái niệm phản ánh về một lớp đối tượng được
coi như một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: rừng, đội bóng đá, đoàn quân, …
Khái niệm không tập hợp phản ánh đối tượng tồn tại riêng rẽ và tương
đối độc lập. Ví dụ: cây, cầu thủ, quân lính, …
Lưu ý: Sự phân loại khái niệm tập hợp và khái niệm không tập hợp
hoàn toàn mang tính tương đối. Khái niệm không tập hợp, trong nhiều trường
hợp, lại trở thành khái niệm tập hợp, và ngược lại.
* Khái niệm ảo (rỗng) và khái niệm thực:
Khái niệm ảo là khái niệm có ngoại diên bằng không, tức là không xác
định được ngoại diên của khái niệm. Ví dụ: thiên đường, địa ngục, nàng tiên
cá, thiên thần, …
Khái niệm thực là khái niệm mà ngoại diên của nó có ít nhất một đối
tượng. Trong khái niệm thực được phân chia thành khái niệm chung và khái
niệm đơn nhất.
+ Khái niệm chung là những khái niệm có ngoại diên từ hai đối tượng
trở lên. Vậy nên, sẽ có những khái niệm chung hữu hạn, tức là có thể xác đinh
được số lượng đối tượng trong ngoại diên khái niệm. Ví dụ: giảng viên trường
đại học Ngoại thương, sinh viên Việt Nam, người Việt Nam, châu lục, nguyên
tố hóa học cơ bản, … Và cũng sẽ có những khái niệm chung vô hạn, tức là
khó hoặc không xác định được số lượng đối tượng trong ngoại diên của khái
niệm. Ví dụ: số lẻ, số chẵn, ngôi sao, vật chất, tế bào, …
+ Khái niệm đơn nhất là khái niệm mà ngoại diên của nó chỉ có một đối
9

tượng duy nhất. Ví dụ: mặt trời, nước Mỹ, nước Việt Nam, lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh, …
Tóm lại: Phân loại khái niệm
- Căn cứ vào nội hàm: chia 3 nhóm
+kn cụ thể/kn trừu tượng
+kn khẳng định/kn phủ định
+kn tương quan/kn không tương quan
- Căn cứ vào ngoại diên: chia 2 nhóm
+kn tập hợp/kn ko tập hợp
+kn ảo/kn thực (kn chung và kn đơn nhất)
1.1.6. Quan hệ giữa các khái niệm
Nếu xét quan hệ giữa các khái niệm căn cứ vào nội hàm của chúng thì
sẽ có quan hệ so sánh được và quan hệ ko so sánh được. Những khái niệm
trong quan hệ so sánh được là những khái niệm mà trong nội hàm của chúng
có các dấu hiệu bản chất chung. Ví dụ: “người” và “động vật” là những khái
niệm có quan hệ so sánh được; “thực vật” và “cây”; “trái đất” và “hành tinh”
và “mặt trời”, …
Những khái niệm trong quan hệ không so sánh được là những khái
niệm mà trong nội hàm của chúng không có dấu hiệu bản chất chung nào cả.
Ví dụ, “kinh tế” và “động vật” là những khái niệm nằm trong quan hệ không
so sánh được.
Logic học hình thức chủ yếu nghiên cứu quan hệ giữa các khái niệm so
sánh được, và xét ở góc độ ngoại diên. Nếu xét quan hệ giữa các khái niệm
căn cứ vào ngoại diên của chúng thì sẽ có các trường hợp cụ thể như sau:
a. Quan hệ điều hòa
Quan hệ điều hòa là quan hệ giữa những khái niệm mà ngoại diên của
chúng có ít nhất một đối tượng chung nhau. Do đó, quan hệ điều hòa giữa
những khái niệm gồm có những quan hệ sau:
*Quan hệ đồng nhất (trùng nhau): là quan hệ giữa những khái niệm mà
10

ngoại diên của chúng hoàn toàn trùng khít nhau, còn nội hàm của chúng vẫn
phân biệt.
Minh họa quan hệ đồng nhất bằng sơ đồ Venn (hình 1.1):
Khái niệm A và khái niệm B có ngoại diên hoàn toàn trùng nhau:

A,B

Hình 1.1

Ví dụ: Khái niệm “Hồ Xuân Hương” và khái niệm “bà chúa thơ Nôm”,
*Quan hệ bao hàm (lệ thuộc): là quan hệ giữa những khái niệm mà
ngoại diên của khái niệm này nằm gọn trong ngoại diên của khái niệm kia,
nhưng không ngược lại. Trong hai khái niệm, khái niệm có ngoại diên rộng
hơn được gọi là khái niệm bao hàm, còn khái niệm có ngoại diên hẹp hơn
được gọi là khái niệm lệ thuộc (bị bao hàm).
Minh họa quan hệ bao hàm bằng sơ đồ Venn (hình 1.2):
Khái niệm A có ngoại diên rộng hơn nên A là khái niệm bao hàm. Khái
niệm B có ngoại diên hẹp hơn nên B là khái niệm lệ thuộc.

A
B

Hình 1.2
Ví dụ: Khái niệm “số tự nhiên” (khái niệm bao hàm) và khái niệm “số
chẵn” (khái niệm lệ thuộc).
11

*Quan hệ giao nhau: là quan hệ giữa những khái niệm mà ngoại diên
của chúng có một phần trùng nhau.
Minh họa quan hệ giao nhau bằng sơ đồ Venn (hình 1.3):

B
A

Hình 1.3
b. Quan hệ không điều hòa
Quan hệ không điều hòa là quan hệ giữa những khái niệm mà ngoại
diên của chúng không có phần nào chung nhau. Do đó, quan hệ không điều
hòa giữa những khái niệm gồm có những quan hệ sau:
* Quan hệ ngang hàng (quan hệ cùng bị bao hàm): là quan hệ giữa
những khái niệm chủng mà ngoại diên của chúng tách rời nhau và cùng lệ
thuộc ngoại diên của khái niệm loại.
Minh họa quan hệ ngang hàng bằng sơ đồ Venn (hình 1.4):

B C

Hình 1.4
Ví dụ: Khái niệm “nông dân” và khái niệm “công nhân” là hai khái
niệm có quan hệ ngang hàng, vì chúng là hai khái niệm chủng có ngoại diên
khác nhau và cùng lệ thuộc ngoại diên của khái niệm loại “người lao động”.
* Quan hệ đối lập: là quan hệ giữa những khái niệm mà nội hàm của
chúng có những dấu hiệu trái ngược nhau, nhưng tổng ngoại diên của chúng
bao giờ cũng nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm loại chung của chúng.
12

Minh họa quan hệ đối lập bằng sơ đồ Venn (hình 1.5):

A B

Hình 1.5
Ví dụ 1: khái niệm “yêu” (A) và khái niệm “ghét” (B) có quan hệ đối
lập trong khái niệm “tình cảm” (C).
* Quan hệ mâu thuẫn: là quan hệ giữa những khái niệm mà nội hàm của
chúng không chỉ trái ngược nhau mà còn loại trừ nhau và tổng ngoại diên của
chúng luôn bằng ngoại diên của một khái niệm loại chung.
Minh họa quan hệ mâu thuẫn bằng sơ đồ Venn (hình 1.6)

A B

Hình 1.6

Ví dụ: khái niệm “yêu” và khái niệm “không yêu” có quan hệ mâu
thuẫn nhau.
Tóm lại: Quan hệ giữa các khái niệm căn cứ vào ngoại diên của chúng
a. Quan hệ điều hòa:
+quan hệ đồng nhất *
+quan hệ bao hàm (lệ thuộc)
+quan hệ giao nhau
13

b. Quan hệ không điều hòa:


+quan hệ ngang hàng (tách rời) *
+quan hệ đối lập
+quan hệ mâu thuẫn
1.1.7. Mở rộng và thu hẹp khái niệm
Cơ sở của thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm là quan hệ bao hàm
(quan hệ loại – chủng) của các khái niệm (xem 1.1.6 – phần a của chương 1).
Cũng ở thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm, mối tương quan nghịch biến
giữa nội hàm và ngoại diên của cùng một khái niệm (xem 1.1.4 – phần c của
chương 1) sẽ được thể hiện rõ ràng và trực tiếp.
a. Mở rộng khái niệm
* Định nghĩa: Mở rộng khái niệm là thao tác logic chuyển dịch từ khái
niệm có ngoại diên hẹp (chủng) đến khái niệm có ngoại diên rộng hơn (loại).
* Cách thức thực hiện: Mở rộng khái niệm được thực hiện bằng cách bỏ
dần những thuộc tính trong nội hàm khái niệm ban đầu.
Có thể trình bày giản lược thao tác mở rộng khái niệm như sau:

ND hẹp, NH phong phú ND rộng, NH nghèo nàn


mở
A (b,c,d,e) A (b,c,d)
rộng

* Ví dụ: múa -> nghệ thuật hình thể -> văn hóa phi vật thể -> văn hóa
b. Thu hẹp khái niệm
* Định nghĩa: Thu hẹp khái niệm là thao tác logic chuyển dịch từ khái
niệm có ngoại diên rộng (loại) đến khái niệm có ngoại diên hẹp hơn (chủng).
* Cách thức thực hiện: Thu hẹp khái niệm được thực hiện bằng cách
thêm dần những thuộc tính vào trong nội hàm khái niệm ban đầu.
Có thể trình bày giản lược thao tác thu hẹp khái niệm như sau

ND rộng, NH nghèo nàn ND hẹp, NH phong phú


thu hẹp
A (b,c,d) A (b,c,d,e)
14

* Ví dụ: số thực -> số hữu tỷ -> số nguyên -> số tự nhiên -> số chẵn
Tóm lại: Có thể minh họa hai thao tác mở rộng và thu hẹp khái niệm
bằng sơ đồ dưới đây (hình 1.7). Trong sơ đồ này, thao tác mở rộng khái niệm
là thao tác đi từ khái niệm C đến khái niệm B rồi đến khái niệm A. Còn thao
tác thu hẹp khái niệm là thao tác đi từ khái niệm A đến khái niệm B rồi đến
khái niệm C.

A
B

Thu hẹp C Mở rộng

Hình 1.7

1.2. ĐỊNH NGHĨA KHÁI NIỆM


1.2.1. Bản chất và kết cấu của định nghĩa khái niệm
Trong quá trình nhận thức các đối tượng trong hiện thực khách quan,
con người luôn phải trả lời câu hỏi mang tính bản thể luận: đối tượng này là
gì? Khi trả lời được câu hỏi “đối tượng này là gì?” chính là khi con người
thực hiện được thao tác định nghĩa khái niệm. Ví dụ, để tìm hiểu vấn đề tham
nhũng hiện nay, câu hỏi đầu tiên con người đặt ra là: tham nhũng là gì? Khi
trả lời: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”2 tức là con người đã thực hiện thao tác định
nghĩa khái niệm.
a. Bản chất của định nghĩa khái niệm
Định nghĩa khái niệm là thao tác logic nhằm xác định nội hàm của khái

2
Xem Luật phòng, chống tham nhũng tại Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document
_id=29335
15

niệm. Như vậy, có thể hiểu định nghĩa khái niệm là thao tác xác định về chất
của các đối tượng hiện thực, là thao tác chỉ ra được dấu hiệu bản chất của đối
tượng. Vì vậy, định nghĩa khái niệm chính là thao tác phân biệt đối tượng cần
định nghĩa với những đối tượng khác.
Ví dụ: Có định nghĩa: “Người là một loài động vật có khả năng chế tạo
công cụ lao động”. Trong định nghĩa này, ta đã dựa vào dấu hiệu bản chất
nhất của con người với tư cách là một thực thể xã hội để phân biệt với các đối
tượng khác cùng lớp động vật. Đó chính là thuộc tính “có khả năng chế tạo
công cụ lao động”. Chính lao động và khả năng chế tạo công cụ lao động giữ
vai trò quyết định làm cho con người thoát khỏi thế giới động vật, làm cho
con người có những phẩm chất riêng có.
b. Kết cấu của định nghĩa khái niệm
Trong mỗi định nghĩa có 2 thành phần:
+ Khái niệm cần phát hiện nội hàm gọi là khái niệm được định nghĩa
(viết tắt: Dfd - definiendum) – trả lời câu hỏi “Định nghĩa cái gì?”.
+ Khái niệm nhờ đó phát hiện nội hàm của khái niệm được định nghĩa
gọi là khái niệm để định nghĩa (viết tắt: Dfn - definiens) – trả lời câu hỏi “Lấy
cái gì để định nghĩa?”.
Ví dụ: Có định nghĩa “Số chẵn là số chia hết cho 2”. Trong đó, “số
chẵn” là khái niệm được định nghĩa, “số chia hết cho 2” là khái niệm để định
nghĩa.
Mối liên kết logic giữa khái niệm được định nghĩa Dfd và khái niệm để
định nghĩa Dfn thể hiện nhờ từ “là”. Công thức: Dfd = Dfn
1.2.2. Các kiểu định nghĩa khái niệm
a. Căn cứ vào đối tượng được định nghĩa
* Định nghĩa thực: là định nghĩa về đối tượng bằng cách chỉ ra những
dấu hiệu cơ bản nhất của đối tượng mà khái niệm phản ánh.
Ví dụ: Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn những nhu cầu
nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
16

* Định nghĩa duy danh: là định nghĩa vạch ra nghĩa của từ biểu thị khái
niệm. Có thể hiểu, định nghĩa duy danh là thao tác đặt tên cho đối tượng.
Ví dụ: Nhập siêu là tình trạng khối lượng hàng hóa nhập khẩu vào trong
nước nhiều hơn khối lượng hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài.
b. Căn cứ vào tính chất của khái niệm dùng để định nghĩa
* Định nghĩa qua loại và chủng: là kiểu định nghĩa chỉ ra khái niệm loại
gần nhất chứa khái niệm chủng cần định nghĩa, rồi sau đó vạch ra những dấu
hiệu khác biệt của khái niệm chủng cần định nghĩa.
Công thức:
KN chủng cần định nghĩa = KN loại gần nhất + dấu hiệu khác biệt
a = A + a1

Trong đó:
- a: khái niệm chủng cần định nghĩa
- A: khái niệm loại gần nhất của (a)
- a1: dấu hiệu khác biệt của (a)

Ví dụ 1: Nước là chất lỏng không màu, không mùi, không vị.


Lưu ý: Định nghĩa qua loại và chủng là kiểu định nghĩa ngắn gọn nên
nó được dùng khá phổ biến trong khoa học (như luật học, toán học, hóa học,
sinh học, vật lý học, triết học, chính trị học, ...). Tuy nhiên, định nghĩa qua
loại và chủng sẽ không thể hữu dụng trong những trường hợp khái niệm cần
định nghĩa có ngoại diên rộng nhất (phạm trù) nên chúng ta không thể tìm
được khái niệm loại của nó; hoặc trong những trường hợp chúng ta không
tìm được thuộc tính bản chất khác biệt của đối tượng mà khái niệm cần định
nghĩa phản ánh. Khi đó, chúng ta nên lựa chọn những kiểu định nghĩa khác
phù hợp hơn.
* Định nghĩa theo quan hệ: là kiểu định nghĩa chỉ ra một khái niệm đối
lập với khái niệm cần định nghĩa và nêu rõ mối quan hệ giữa các đối tượng
mà hai khái niệm đó phản ánh. Nếu như định nghĩa qua loại và chủng không
17

phù hợp cho phạm trù thì kiểu định nghĩa theo quan hệ thường được dùng để
định nghĩa những khái niệm có ngoại diên rộng nhất, tức là các phạm trù.
Công thức của định nghĩa theo quan hệ:
Khái niệm A là khái niệm có quan hệ R với khái niệm B.
Ví dụ: Bản chất là cơ sở bên trong của hiện tượng, còn hiện tượng là
hình thức biểu thị của bản chất.
* Định nghĩa theo nguồn gốc: là kiểu định nghĩa vạch ra nguồn gốc
hoặc phương thức tạo ra đối tượng mà khái niệm cần định nghĩa phản ánh.
Đây là kiểu định nghĩa chủ yếu gặp trong các ngành khoa học tự nhiên. Ưu
điểm của kiểu định nghĩa này là làm rõ được nguồn gốc phát sinh của đối
tượng.
Ví dụ 1: Nhật thực là hiện tượng xảy ra khi mặt trăng đi qua giữa trái
đất và mặt trời và che khuất hoàn toàn hay một phần mặt trời khi quan sát từ
trái đất.
1.2.3. Các quy tắc định nghĩa khái niệm
a. Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối
Quy tắc 1 yêu cầu ngoại diên của khái niệm được định nghĩa và ngoại
diên của khái niệm để định nghĩa phải bằng nhau.
Công thức: ngoại diên Dfd = ngoại diên Dfn
Ví dụ: Có định nghĩa: “Số nguyên tố là số chia hết cho 1 và chính nó”.
Việc vi phạm quy tắc 1 sẽ dẫn đến những lỗi sau:
- Lỗi thứ nhất, định nghĩa quá rộng: Ngoại diên của khái niệm để định
nghĩa rộng hơn ngoại diên của khái niệm được định nghĩa.
(ngoại diên Dfd < ngoại diên Dfn)
- Lỗi thứ hai, định nghĩa quá hẹp: Ngoại diên của khái niệm để định
nghĩa hẹp hơn ngoại diên của khái niệm được định nghĩa.
(ngoại diên Dfd > ngoại diên Dfn)
- Lỗi thứ 3, định nghĩa vừa quá rộng, vừa quá hẹp. Kết quả của kiểu
định nghĩa mắc lỗi này là một khái niệm vừa thiếu những đối tượng thỏa mãn
18

nội hàm, vừa thừa những đối tượng không thỏa mãn nội hàm.
b. Quy tắc 2: Không được định nghĩa vòng quanh
Định nghĩa vòng quanh là kiểu định nghĩa mà khái niệm dùng để định
nghĩa lại được xác định nội hàm thông qua khái niệm cần định nghĩa, hoặc
nội hàm của khái niệm cần định nghĩa lại được giải thích thông qua những
khái niệm khác mà nội hàm còn chưa rõ ràng.
c. Quy tắc 3: Không dùng mệnh đề phủ định trong định nghĩa
Việc sử dụng mệnh đề phủ định trong định nghĩa sẽ dẫn đến hệ quả
không làm rõ được nội hàm của khái niệm cần được định nghĩa.
Ví dụ: Kinh tế không phải là văn hóa.
Chính trị gia không phải là nhà khoa học.
d. Quy tắc 4: Định nghĩa phải tường minh
Quy tắc này đòi hỏi định nghĩa phải rõ ràng, chính xác, ngắn gọn. Cụ
thể, những thuật ngữ được sử dụng trong định nghĩa phải ngắn gọn, rõ ràng và
đơn nghĩa. Nói đến sự ngắn gọn trong định nghĩa khái niệm không có nghĩa là
nói đến số lượng từ ngữ mà nói đến hình thức diễn đạt. Đặc biệt, khi định
nghĩa khái niệm phải tránh sử dụng lối viết có tính chất ngoa dụ, ẩn dụ, so
sánh, hoa mỹ, hình tượng, bóng bẩy, bởi lẽ những lối viết như thế dễ tạo ra
hiểu lầm về đối tượng trong khái niệm được định nghĩa.
Ví dụ: Vợ là một ngân hàng dễ gửi khó rút.
1.3. PHÂN CHIA KHÁI NIỆM
1.3.1. Bản chất và kết cấu của phân chia khái niệm
a. Bản chất của phân chia khái niệm
Để hiểu rõ một khái niệm, chúng ta không chỉ sử dụng thao tác định
nghĩa khái niệm nhằm chỉ rõ nội hàm của khái niệm ấy (như vừa trình bày ở
trên) mà còn sử dụng thao tác phân chia khái niệm để chĩ rõ ngoại diên của
khái niệm đó.
Như vậy, phân chia khái niệm là thao tác vạch ra ngoại diên khái niệm,
tức là vạch ra các khái niệm chủng bị bao chứa trong khái niệm loại theo một
19

căn cứ xác định.


Ví dụ 1: Khái niệm “nguyên tố hóa học” được phân chia thành các khái
niệm là “nguyên tố kim loại” và “nguyên tố phi kim”.
Lưu ý: Cần phân biệt phân chia khái niệm (vạch ra khái niệm chủng bị
bao chứa trong khái niệm loại) khác với việc chỉ ra các bộ phận trong một
chỉnh thể (chia một chỉnh thể thành các bộ phận).
b. Kết cấu của phân chia khái niệm
Thao tác phân chia khái niệm gồm có 3 bộ phận cơ bản:
- Khái niệm bị phân chia: là khái niệm loại mà từ đó ta vạch ra các khái
niệm chủng bị bao chứa trong nó. Kí hiệu: A
- Khái niệm thu được sau phân chia: là các khái niệm chủng thành
phần. Kí hiệu: A1, A2, …, An
- Cơ sở phân chia: là dấu hiệu mà căn cứ vào đó chúng ta chia khái
niệm loại ra thành các khái niệm chủng.
Lưu ý: Khi thực hiện thao tác phân chia khái niệm, việc lựa chọn cơ sở
phân chia sẽ quyết định giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của phép phân
chia. Tất nhiên, việc lựa chọn cơ sở phân chia cũng phụ thuộc vào mục đích
cụ thể của mỗi ngành khoa học nhất định và trong mỗi trường hợp nhất định.
1.3.2. Các kiểu phân chia khái niệm
a. Phân chia theo dấu hiệu biến đổi
Phân chia khái niệm theo dấu hiệu biến đổi là phân chia các khái niệm
loại thành các khái niệm chủng sao cho mỗi chủng vẫn giữ được dấu hiệu nào
đó của loại, đồng thời lại có những dấu hiệu bản chất của chủng.
Ví dụ: Khái niệm “luật” được phân chia thành các khái niệm thành
phần như: luật giáo dục, luật kinh tế, luật hôn nhân và gia đình, luật lao động.
b. Phân đôi khái niệm
Phân đôi khái niệm là chia ngoại diên của khái niệm thành hai phần
mâu thuẫn, loại trừ nhau: một nhóm có dấu hiệu “a”, một nhóm có dấu hiệu
“~a” Như thế, trong các khái niệm sau phân chia thì mỗi dấu hiệu của khái
20

niệm này sẽ không có trong khái niệm kia.


Ví dụ 1: Phân chia khái niệm “động vật” thành các khái niệm “động vật
có xương sống” và “động vật không có xương sống”.
c. Phân nhóm khái niệm
Phân nhóm khái niệm là sắp xếp các đối tượng thành các nhóm theo sự
giống nhau giữa chúng. Như vậy, phân nhóm khái niệm là một kiểu phân chia
đặc biệt vì nó dựa vào dấu hiện bản chất để phân chia liên tiếp từ khái niệm
loại đến khái niệm chủng theo quy tắc nhất định.
Phân nhóm khái niệm có hai kiểu:
- Phân nhóm tự nhiên: là sắp xếp các đối tượng theo nhóm xác định dựa
vào dấu hiệu bản chất của chúng.
Kiểu phân nhóm tự nhiên được áp dụng khá phổ biến trong khoa học
(như sinh học, hóa học, ngôn ngữ, ...) và được coi là cách thức phân nhóm tốt
nhất. Bằng cách phân chia này, khi biết một sự vật nào đó đã được phân
nhóm thuộc vào nhóm nào, ta sẽ rút ra được một loạt các dấu hiệu của nó.
Ví dụ 1: Nếu biết nhôm thuộc nhóm kim loại thì ta có thể khẳng định
nhôm có các thuộc tính: dẫn điện, dẫn nhiệt, dễ dát mỏng, ánh kim, ...
- Phân nhóm bổ trợ: là sắp xếp các đối tượng theo nhóm xác định dựa
vào các dấu hiệu bên ngoài không bản chất của chúng.
Việc phân nhóm bổ trợ không giúp chúng ta rút ra được các thuộc tính
của sự vật. Tuy nhiên, kiểu phân nhóm bổ trợ được áp dụng chủ yếu với mục
đích tìm kiếm một cách dễ dàng, nhanh nhất một đối tượng nào đó trong số
những đối tượng khác thu được sau phân chia.
Ví dụ 1: Lập thư mục sách trong thự viên theo tên tác giả, tên sách, tên
chủ đề, ...
1.3.3. Các quy tắc phân chia khái niệm
a. Quy tắc 1: Phân chia phải cân đối
Nội dung quy tắc 1: Trong phân chia khái niệm, ngoại diên của khái
niệm bị phân chia phải bằng tổng ngoại diên của các khái niệm sau phân chia.
21

Công thức: A = A1+A2+ … + An


Ví dụ: phân chia khái niệm “con người” theo tiêu chí khu vực địa lý thì
sẽ thu được những khái niệm thành phần: “người châu Á”, “người châu Âu”,
“người châu Mỹ”, “người châu Phi”, “người châu Úc”.
Nếu vi phạm quy tắc 1, sẽ dẫn đến những lỗi sau:
- Phân chia thiếu thành phần: không chỉ ra đủ các khái niệm thành phần
trong khái niệm bị phân chia (không chỉ ra đủ các khái niệm chủng trong khái
niệm loại). Phân chia thiếu là tổng ngoại diên của các khái niệm thành phần
thu được sau phân chia nhỏ hơn ngoại diên của khái niệm bị phân chia.
A1+A2+ … + An < A
Ví dụ: Phân chia khái niệm “sinh viên” theo tiêu chí học lực thì thu
được các khái niệm là “sinh viên giỏi” và “sinh viên khá”. Phân chia như vậy
là phân chia thiếu.
- Phân chia thừa thành phần: các khái niệm thành phần thu được bị thừa
ra so với khái niệm bị phân chia. Phân chia thừa là tổng ngoại diên của các
khái niệm thành phần thu được sau phân chia lớn hơn ngoại diên của khái
niệm bị phân chia.
A1+A2+ … + An > A
Ví dụ: Phân chia khái niệm “phương pháp sản xuất giá trị thặng dư”
thành các khái niệm thành phần: “sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối”, “sản
xuất giá trị thặng dư tương đối”, “sản xuất tư liệu lao động”. Phân chia như
vậy là phân chia thừa khái niệm “sản xuất tư liệu lao động”.
- Phân chia vừa thiếu, vừa thừa: khi tổng ngoại diên của các khái niệm
thành phần thu được sau phân chia không đúng bằng ngoại diên của khái
niệm bị phân chia.
A1+A2+ … + An ≠ A
Ví dụ: Phân chia khái niệm “suy luận” thành các khái niệm: “suy luận
diễn dịch”, “suy luận quy nạp”, “cảm giác”. Phân chia như vậy là phân chia
vừa thiếu vừa thừa.
22

b. Quy tắc 2: Phân chia phải cùng một cơ sở


Nội dung quy tắc 2: Trong phân chia khái niệm, phải giữ nguyên cơ sở
phân chia trong suốt quá trình phân chia.
Yêu cầu của quy tắc 2 không có nghĩa là chỉ có một cơ sở phân chia
duy nhất cho một khái niệm. Trên thực tế, tùy thuộc vào đối tượng và mục
đích của phép phân chia thì chúng ta có thể lựa chọn các cơ sở phân chia khác
nhau. Song, khi đã bắt đầu thực hiện thao tác phân chia, tức là khi đã bắt đầu
lựa chọn cơ sở để phân chia khái niệm, thì không được phép thay đổi cơ sở
phân chia giữa chừng. Quy tắc 2 đòi hỏi phải phân chia khái niệm xong ở cơ
sở nhất định, rồi mới được chuyển sang cơ sở khác.
Ví dụ: Phân chia khái niệm “chiến tranh” thu được các khái niệm thành
phần sau: chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh phi nghĩa, chiến tranh kinh tế,
chiến tranh chính trị.
Phân chia như trên đã vi phạm quy tắc 2 vì: hai khái niệm “chiến tranh
chính nghĩa” và “chiến tranh phi nghĩa” được phân chia trên cơ sở tính chất
chiến tranh, còn hai khái niệm “chiến tranh kinh tế” và “chiến tranh chính trị”
được phân chia trên cơ sở lĩnh vực tác động của chiến tranh.
c. Quy tắc 3: Các khái niệm thu được sau phân chia phải ngang hàng
Nội dung của quy tắc 3: Khi tiến hành thao tác phân chia khái niệm,
các khái niệm thành phần sau phân chia phải ngang hàng. Cụ thể, các khái
niệm thành phần phải có ngoại diên tách rời nhau. Chúng không thể là những
khái niệm giao nhau hoặc có quan hệ với nhau như chủng - loại.
Ví dụ: Phân chia khái niệm “Lao động” thành các khái niệm “lao động
trí óc”, “lao động chân tay” và “lao động nghiên cứu khoa học”. Sự phân chia
như vậy đã vi phạm quy tắc 3, vì khái niệm “lao động nghiên cứu khoa học”
nằm trong khái niệm “lao động trí óc”.
d. Quy tắc 4: Phân chia phải liên tục, cùng cấp độ
Nội dung của quy tắc 4: Thao tác phân chia khái niệm phải từ khái
niệm loại vạch ra khái niệm chủng gần nhất. Quy tắc này yêu cầu tuyệt đối
23

không được phép nhảy vọt trong phân chia.


Ví dụ: Phân chia học lực: từ 8,0 đến 9,0 là giỏi, 6,5 đến 7,5 là khá, từ
5,0 đến 6,5 là trung bình, từ 4,0 trở xuống là kém.
Trong ví dụ trên, chuẩn phân chia không chính xác vì có sinh viên có
điểm từ 4,0 đến 5,0 hoặc từ 7,5 đến 8,0 không được xếp vào loại nào, do đó bị
gạt ra khỏi phép phân chia.
CÂU HỎI THẢO LUẬN CHƯƠNG 1
1. Trình bày về nguồn gốc và bản chất của khái niệm?
2. Trình bày mối quan hệ giữa khái niệm và từ?
3. Nội hàm của khái niệm là gì?
4. Ngoại diên của khái niệm là gì?
5. Trình bày mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm?
6. Trình bày sự phân loại khái niệm theo nội hàm và sự phân loại khái niệm
theo ngoại diên? Cho ví dụ minh họa.
7. Trình bày quan hệ giữa các khái niệm về mặt ngoại diên. Cho ví dụ?
8. Trình bày mở rộng và thu hẹp khái niệm?
9. Hãy chứng minh: Thao tác thu hẹp và mở rộng khái niệm có mối liên hệ
mật thiết với quy luật nội hàm - ngoại diên của khái niệm.
10. Thế nào là thao tác định nghĩa khái niệm? Trình bày các kiểu định nghĩa
khái niệm thường dùng? Cho ví dụ minh họa.
11. Nêu các quy tắc định nghĩa khái niệm và chỉ ra những lỗi logic khi tư duy
vi phạm các quy tắc đó? Cho ví dụ minh họa.
12. Thế nào là thao tác phân chia khái niệm? Trình bày các kiểu phân chia
khái niệm thường dùng? Cho ví dụ minh họa.
13. Nêu các quy tắc phân chia khái niệm và chỉ ra những lỗi logic khi tư duy
vi phạm các quy tắc đó? Cho ví dụ minh họa.
14. Hãy phân biệt phân chia khái niệm và phân loại khái niệm?
15. Trình bày mối quan hệ giữa thao tác định nghĩa khái niệm và thao tác
phân chia khái niệm?

You might also like