Professional Documents
Culture Documents
Câu 2 (Vấn đề 2): Nguyên lý về sự phát triển (đang được ghi bỏ không phải ôn)
Câu 3 (Vấn đề 3): Định nghĩa/ Phạm trù “Vật chất” của Lênin
* Mở bài
Phạm trù vật chất là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của triết học Mác – Lênin.
* Định nghĩa vật chất của Lênin: Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
* Nội dung khoa học
- Nội dung thứ nhất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan”
+ Phạm trù vật chất của triết học là phạm trù có tính khái quát nhất, không giống với khái niệm
vật chất trong một số ngành khoa học cụ thể, hay trong đời sống hàng ngày.
+ Phạm trù “vật chất” biểu hiện trình độ nhận thức khách quan của tư duy con người về cái thực
tại khách quan tồn tại bên ngoài của con người.
+ Vật chất ở đây phải được hiểu là “sự sáng tạo thuần túy của tư duy”, là “cái dùng để chỉ”
thuộc tính cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực.
Như vậy, không được đồng nhất vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các dạng tồn tại cụ
thể của nó mà các khoa học chuyên ngành nghiên cứu.
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì không có một gam vật chất nào cả.
- Nội dung thứ 2: “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Thực tại khách quan (cái bên ngoài con người) là nguồn gốc đưa đến những cảm giác ở con người,
những cảm giác hình thành xuất hiện ở con người là do thực tại khách quan tồn tại bên ngoài con
người đưa lại.
- Nội dung thứ 3: “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”.
Thực tại khách quan là cái được phản ánh, các cảm giác của con người là cái phản ảnh. TTKQ là bản
gốc của các cảm giác của con người, các cảm giác của con người là bản sao của cái TTKQ. TTKQ là
cái quyết định, làm thành nội dung bên trong của các cảm giác; các cảm giác phụ thuộc vào TTKQ.
- Nội dung thứ 4: “Thực tại khách quan … tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
TTKQ là các tồn tại bên ngoài con người, cảm giác của con người; không phụ thuộc vào các cảm giác
của con người. TTKQ tồn tại kể cả khi không có con người, cảm giác của con người.
* Ý nghĩa/ Giá trị khoa học
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết một cách triệt để nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
- Định nghĩa đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của Mác và Ăngghen về vật
chất.
- Định nghĩa còn trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học trong
nghiên cứu thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi
sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất.
* Đánh giá
Luận điểm về phạm trù vật chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn cơ bản và
có tính hệ thống về bản chất của thế giới và con người. Bằng cách nhấn mạnh tính vật chất của mọi
hiện tượng tồn tại, ông Mác – Lênin thúc đẩy sự phát triển của triết học duy vật biện chứng và cung
cấp một cơ sở lý luận vững chắc cho sự nghiên cứu khoa học và phát triển xã hội.
Tuy nhiên, mặc dù phạm trù vật chất đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và giải thích thế
giới, nhưng cũng cần phải nhận thức rằng có những hiện tượng không thể giải thích hoàn toàn bằng
cách tiếp cận vật chất một cách hẹp hòi. Ví dụ, những khía cạnh về tâm linh, cảm xúc và ý thức con
người không thể đơn giản giải thích dưới góc độ vật chất mà cần phải kết hợp với những cách tiếp cận
khác như triết học và tâm lý học.
* Kết bài
Tóm lại, phạm trù vật chất trong triết học Mác – Lênin là một nguyên tắc cơ bản và quan
trọng, cung cấp một cơ sở lý luận cho việc hiểu và giải thích thế giới. Tuy nhiên, cần phải kết hợp với
các phương pháp và quan điểm khác để có một cái nhìn đa chiều và toàn diện về tồn tại.
Câu 4 (Vấn đề 4): Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Theo triết học Mác – Lênin, vật chất không chỉ tồn tại trong một hình thức cố định mà còn tồn tại qua
sự thay đổi và phát triển liên tục. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu về ba khái
niệm quan trọng: Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại.
- Hình thức tồn tại của vật chất là cách mà vật chất tồn tại và hiện diện trong thế giới vật chất.
- Phương thức tồn tại của vật chất là cách mà vật chất tồn tại trong quá trình phát triển và biến đổi.
- Diễn biến tồn tại của vật chất là quá trình phát triển và biến đổi của vật chất qua thời gian, từ một
hình thức và phương thức tồn tại sang hình thức và phương thức khác.
* Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Hình thức tồn tại (hình thái biểu hiện Phương thức tồn tại Diễn biến tồn tại (vận động, biến đổi,
sự tồn tại) của vật chất (Cách thức duy trì sự chuyển hóa) của vật chất
tồn tại) của vật chất
Phương diện cơ học: Biến đổi cơ học:
+ Các vật vĩ mô: Chất rắn, chất lỏng, chất Liên hệ tương tác cơ học + Biến dạng cơ học (hình dáng, kích
khí. giữa các vật vĩ mô, đại vĩ thước, diện tích bề mặt) của các vật thể.
+ Các vật đại vĩ mô: quả đất, địa quyển mô và hệ thống các vật đại + Biến đổi chuyển hóa từ chất rắn sang
các hành tinh, các vệ tinh, các ngôi sao. vĩ mô bằng lực hấp dẫn vũ thể lỏng, từ chất lỏng và chất khí và
+ Hệ thống các vật đại vĩ mô: Ngân hà, trụ và trường hấp dẫn ngược lại.
thiên hà, siêu thiên hà, siêu siêu thiên hà. + Biến đổi vị trí: Sự chuyển động và thay
đổi vị trí trong không gian của các vật
thể, các hành tinh, các ngân hà, thiên hà
* Quan hệ biện chứng giữa chúng (3 mặt: hình thức, phương thức, diễn biến tồn tại)
- Vật chất là một thể thống nhất biện chứng của ba mặt:
+ Về mặt hình thức tồn tại: Vật chất tồn tại khách quan nhưng không tồn tại thần bí mà tồn tại
dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể có các đặc trưng tự nhiên của chúng, được các khoa
học cụ thể khám phá, phát hiện, khái quát.
+ Về phương thức tồn tại: Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp qua môi
trường tương tác của nó.
+ Về diễn biến tồn tại: Vật chất vận động, biến đổi, chuyển hóa, phát triển.
- Mỗi hình thức tồn tại của vật chất có phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại riêng của nó. Chúng luôn
luôn liên hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
- Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ, tương tác, vận động biến đổi và thông qua chúng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Vì vậy, vật chất gắn liền với liên hệ, tương tác, vận động; liên hệ, tương tác, vận
động gắn liền với vật chất.
- Vật chất tồn tại khách quan, không tự sinh ra không tự mất đi. Vật chất chỉ biến đổi, chuyển hóa từ
hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại này sang hình thức tồn tại, phương thức tồn
tại, diễn biến tồn tại khác. Vật chất được bảo toàn, các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn
biến tồn tại được bảo toàn. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, vận động tồn tại vĩnh viễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất là thể thống nhất biện chứng, không tách rời nhau của ba mặt: Hình thức tồn tại,
phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại. Muốn nhận thức khách quan, khoa học, đúng đắn về vật chất,
chúng ta phải nhận thức đầy đủ cả ba mặt đó của vật chất. Tách rời và tuyệt đối hóa một mặt nào là
sai lầm về mặt phương pháp nhận thức và là con đường dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình hoặc chủ
nghĩa duy tâm thần bí.
- Vật chất tồn tại dưới các hình thức cụ thể. Mỗi hình thức tồn tại có phương thức và diễn
biến tồn tại riêng và chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy:
+ Cần nhận thức sự khác nhau giữa các hình thức tồn tại của vật chất, phân biệt sự khác nhau
về chất giữa chúng. Không được đồng nhất các hình thức tồn tại, các phương thức tồn tại và các diễn
biến tồn tại với nhau. Không được quy hình thức vận động này vào hình thức vận động kia. Không
được quy mọi hình thức vận động về một hình thức vận động.
+ Cần nắm bắt được sự thống nhất biện chứng, mối liên hệ, sự tác động qua lại, sự biến đổi,
chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất.
* Kết bài
Tóm lại, quan hệ biện chứng giữa hình thức tồn tại, phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại của vật
chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn sâu sắc và đa chiều về thế giới vật chất, và
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình phát triển và biến đổi của nó.
Câu 5 (Vấn đề 5): Bản chất của ý thức (4 bản chất kèm sơ đồ)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin cung cấp một cách tiếp cận sâu sắc và phức tạp đối với bản chất của ý
thức, xem xét nó như một hiện tượng phản ánh và phụ thuộc vào bản chất của thế giới vật chất. Dưới
góc nhìn này, ý thức không được coi là một thực thể độc lập, mà là một phần không thể tách rời của
thế giới vật chất, được hình thành và phản ánh dưới tác động của điều kiện vật chất và quá trình xã
hội.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, hình ảnh chủ quan của cái thực tại khách
quan bên ngoài bộ óc con người, là hình ảnh biểu đạt cái thực tại khách quan (các vật chất tồn tại
bên ngoài bộ óc con người). Theo Lênin: “Các cảm giác của chúng ta đều là những hình ảnh của TG
bên ngoài”. Ý thức là “cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi ở trong
đó”, là các vật chất bên ngoài được kiến tạo lại trong bộ óc con người dưới dạng các hình ảnh tinh
thần.
- Ý thức là thực tại vô chất, phi vật chất; là thực tại không có cấu tạo vật chất, không có tính vật
chất; là cái tinh thần không khối lượng, không trọng lượng, không màu sắc, không mùi vị. Theo
Lênin cho rằng “Tư tưởng và vật chất đều là hiện thực nghĩa là đều tồn tại thì điều đó là đúng nhưng
gọi tư tưởng là tính vật chất thì tức là đi một bước sai lầm => chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm”. Ý thức không phải là tồn tại tinh thần thuần nhất, đơn nhất; không phải là thực tại bất biến,
vĩnh cửu mà là thực tại đa dạng, sống động, biến đổi liên tục,
- Ý thức là hệ thống thông tin biểu đạt những thuộc tính, đặc điểm, MLH, quan hệ hiện thực của
các vật chất hay các thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài con người; là sự phản ánh tích cực, tự
giác, năng động, sáng tạo của bộ óc người đối với cái vật chất hay cái thực tại khách quan bên
ngoài con người ở chỗ:
+ Thứ nhất: Ý thức là hệ thống thông tin biểu đạt những thuộc tính, đặc điểm, MLH của SVHT bên
ngoài, những tri thức con người thu lượm được, có nguồn gốc từ vật chất, từ thực tại khách quan bên
ngoài. Ý thức chính là sự sao chép, ghi lại những thuộc tính, đặc điểm, MLH, quan hệ của vật chất
bên ngoài đó
+ Thứ hai: Trong quá trình tương tác giữa bộ óc người với TG vật chất bên ngoài, bộ óc người tiếp
nhận mọi tác động nào có ảnh hưởng trực tiếp, rõ ràng và thiết thực đến đời sống của con người.
+ Thứ ba: Khi xử lý các tác động của các VC bên ngoài vào nó, bộ óc người ghi nhận những thuộc
tính, đặc điểm, MLH, quan hệ của cái vật chất thành hình ảnh tinh thần, thành mô hình hoá tinh thần
hay mô hình hoá các đối tượng vật chất bên ngoài thành các hình ảnh tinh thần hay mã hoá chúng.
Đây là một quá trình sáng tạo của bộ óc con người. Từ các hình ảnh tinh thần, mô hình tinh thần, con
người hiện thực hóa, chuyển mô hình tinh thần tư duy ra hiện thực khách quan biến các ý tưởng phi
vật chất trong bộ óc người thành vật chất ngoài hiện thực hay vật chất hoá các ý tưởng tinh thần tư
duy qua hoạt động thực tiễn.
- Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý cũng không phải là hiện tượng siêu
nhiên thần bí. Ý thức là một hiện tượng xã hội được hình thành, phát triển trong môi trường xã
hội, trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo TG của con người. Theo C.Mác: “Ý thức ngay từ
đầu là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
* Đánh giá
Luận điểm về bản chất của ý thức trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn đa chiều
và phức tạp về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai
trò của vật chất trong việc hình thành và phát triển của ý thức, và làm nổi bật tính đối lập và tương tác
giữa hai yếu tố này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng luận điểm này có thể gặp phải một số hạn chế trong việc giải
thích một số hiện tượng ý thức phức tạp và đa dạng. Đặc biệt là trong các trường hợp của ý thức có
tính chất tương đối độc lập và không dễ dàng giải thích bằng cách giải thích đơn giản dựa trên quá
trình phản ánh của vật chất.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về bản chất của ý thức trong triết học Mác – Lênin cung cấp một cách nhìn tổng
thể về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, đồng thời cũng đặt ra những thách thức trong việc hiểu và
giải thích ý thức trong các trường hợp phức tạp và đa dạng.
Câu 6: Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu
quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức (không thấy trong 12 vấn đề của thầy Thành)
- Quan hệ nhân quả là quan hệ biến thiên, liên lập (xác lập mối liên hệ), miên viễn (liên tục không
ngừng nghỉ).
+ Cái nguyên nhân và cái kết quả không cố định, bất biến và luôn luôn thay đổi, chuyển hóa và
tương đương với nhau.
+ Nhân quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Vị trí là nguyên nhân hay kết quả được xác định
theo tiến trình tác động cụ thể và xét trong các quan hệ cụ thể của sự tác động.
+ Nhân quả tạo thành chuỗi tác động không đầu, không cuối. Không có nguyên nhân đầu tiên
cũng không có kết quả cuối cùng.
- Quan hệ nhân quả là quan hệ phi tuyến (không phải tuyến tính), phi đối (không phải đối xứng) giữa
nhân - quả
+ Cấu trúc “nguyên nhân” và cấu trúc “kết quả” không đồng bộ trong mọi trường hợp.
+ Các nguyên nhân có vị trí, vai trò, ảnh hưởng khác nhau trong tiến trình hình thành kết quả.
+ Không phải ứng với một NN là một KQ, ứng với một KQ là một NN. Một NN có thể tạo tác
nhiều KQ, một KQ có thể được gây bởi nhiều NN.
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các phạm trù này
- Mọi sự vật hiện tượng đều có nguyên nhân hình thành, xuất hiện, tồn tại và tiêu vong nên không có
vấn đề tồn tại hay không, có nguyên nhân hay không mà chỉ có vấn đề những nguyên nhân của chúng
đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
- Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan, tồn tại gắn liền với thế giới, với các sự vật hiện
tượng. Vì vậy muốn tìm kiếm nguyên nhân thì phải tìm ngay trong thế giới, ngay trong sự vật hiện
tượng.
- Mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu vì vậy phải dựa vào tính tất yếu của nó để hành động. Muốn
loại bỏ một hiện tượng nào đó phải loại bỏ nguyên nhân đã sinh ra nó, muốn làm cho một hiện tượng
xuất hiện cần tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân phát huy tác dụng.
* Đánh giá
Luận điểm về phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái
nhìn tổng thể và đa chiều về mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự tồn tại của chúng trong thế giới
vật chất. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển và biến đổi của thế giới xã hội và
tự nhiên, và làm nổi bật tính đa dạng và phức tạp của quá trình này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng phạm trù nguyên nhân - kết quả vào thực tiễn có
thể gặp phải một số hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các nguyên nhân và kết quả
trong các tình huống phức tạp và đa dạng. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này
vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh
vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái
nhìn toàn diện và đa chiều về mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự tồn tại của chúng, và làm nổi bật
tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển trong thế giới vật chất.
Câu 9 (Vấn đề 8): Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn)
* Mở bài
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là
một khái niệm quan trọng trong triết học Mác – Lênin.
* Vị trí, vai trò của quy luật
- Đây là quy luật cơ bản thứ nhất & là hạt nhân lý luận của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, biến đổi, phát triển của mọi sự
vật hiện tượng.
* Các khái niệm
- “Mặt đối lập” là khái niệm triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố bộ
phận, những giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau tồn tại trong một thể
thống nhất bên trong sự vật hiện tượng
(- “Mặt mâu thuẫn” là khái niệm triết học dùng để chỉ những mặt đối lập cùng tồn tại nhưng chế
ước, chế định lẫn nhau, ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau tồn tại trong một thể thống nhất bên
trong sự vật hiện tượng làm thành mâu thuẫn biện chứng của sự vật hiện tượng)
- “Sự thống nhất của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau, sự gắn kết với nhau, không tách rời nhau, sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt,
các thuộc tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau
- “Sự đấu tranh của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau,
sự xâm nhập vào nhau, chống lại chống; sự loại trừ, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt, các thuộc
tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau
(- “Sự chuyển hóa của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự biến đổi, sự thay thế
hình thái tồn tại của các mặt, các thuộc tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh
hướng vận động trái ngược nhau)
* Nội dung của quy luật
- Sự thống nhất của các mặt đối lập
+ Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng của các mặt đối lập, của các thuộc tính, các
yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau. Trong thể thống
nhất biện chứng đó, các mặt đối lập ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; làm tiền để điều kiện
cho nhau, tác dụng ngang nhau, phù hợp với nhau và cân bằng tương đối với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện quyết định sự tồn tại của sự vật hiện tượng. Nếu
không có sự thống nhất của các mặt đối lập, sự phù hợp tác dụng ngang nhau và sự cân bằng tương
đối với nhau của các mặt đối lập thì không có sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Mỗi sự vật
hiện tượng chỉ tồn tại với tư cách là nó, phân biệt với các sự vật hiện tượng khác khi có sự thống nhất,
sự phù hợp tác dụng ngang nhau, sự cân bằng tương đối với nhau của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập, sự phù hợp tác dụng ngang nhau và sự cân bằng tương đối với
nhau của các mặt đối lập tạo nên sự ổn định tương đối, sự đứng im tương đối là trạng thái sự vật hiện
tượng vẫn còn là nó, khẳng định nó chưa biến đổi, chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập
+ Các mặt đối lập do khuynh hướng vận động trái ngược nhau của mình tác động qua lại với nhau,
xâm nhập vào nhau, loại trừ, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
+ Các giai đoạn cơ bản của sự đấu tranh của các mặt đối lập
● Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: các mặt ĐL khác nhau hành động theo bản tính
của chúng làm tăng dần & dẫn đến sự khác nhau cơ bản
● Giai đoạn 2: Giai đoạn phát triển mâu thuẫn: các mặt ĐL vận động dẫn đến sự xung đột với
nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau => sự đối lập tuyệt đối giữa chúng
● Giai đoạn 3: Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn: các mặt ĐL tiếp tục tương tác nhau làm sâu sắc
hơn sự ĐL. Sự ĐL đạt tới đỉnh cao buộc các mặt ĐL phải biến đổi, chuyển hoá để giải quyết
sự đối lập tuyệt đối của chúng
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
+ Cách thức chuyển hóa của các mặt đối lập
● Các mặt đối lập thay đổi vị trí, địa vị của mình; mặt đối lập này biến hóa thành mặt đối lập
kia, mặt đối lập kia biến thành mặt đối lập này.
● Tất cả các mặt đối lập cùng biến đổi và chuyển hóa thành cấu trúc, một dạng tồn tại khác ở
một trình độ tổ chức khác so với dạng thức, hình thức tồn tại trước đó
+ Sự thay của sự vật hiện tượng
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập dẫn đến thay đổi hình thức, dạng thức tồn tại của sự vật
hiện tượng. Hình thức, dạng thức tồn tại này bị thay thế bởi hình thức, dạng thức tồn tại khác.
Sự vật hoàn toàn thay đổi
- Mối liên hệ giữa sự thống nhất, sự đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất là tiền đề, điều kiện của sự đấu tranh. Đấu tranh không tách rời thống nhất
+ Sự đấu tranh của các mặt ĐL => sự chuyển hóa của các mặt đối lập, sự chuyển hóa của các mặt ĐL
là kết quả của sự đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt ĐL dẫn đến thay đổi hình thức, dạng thức tồn
tại của sự vật hiện tượng.
+ Sự thống nhất chỉ là tạm thời, thoáng qua, tương đối; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Thế giới tồn tại xung quanh con người là một khối thống nhất của các sự vật hiện tượng, các quá
trình. Bên trong thế giới, trong sự vật hiện tượng, các quá trình luôn luôn tồn tại các mặt đối lập. Vì
vậy, trong mọi nhận thức khoa học phải luôn nhớ: không cần phải đặt vấn đề có hay không có, tồn tại
hay không tồn tại các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn của sự vật hiện tượng mà chỉ có vấn đề các mặt
ĐL, các mặt mâu thuẫn đã được nhận thực hay chưa mà thôi
- Mỗi sự vật hiện tượng không chỉ tồn tại một mặt đối lập, mâu thuẫn mà có nhiều mặt đối lập, mâu
thuẫn cùng tồn tại. Vì vậy, phải nắm bắt được các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn khác nhau và đánh
giá được vị trí, vai trò của chúng đối với sự tồn tại, vận động của sự vật hiện tượng, từ đó đi đến
những biện pháp hành động thích hợp để giải quyết mâu thuẫn theo yêu cầu hoạt động của con người.
* Đánh giá
Luận điểm về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học Mác –
Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về quá trình phát triển của thế giới. Quan điểm này
giúp chúng ta nhận biết và hiểu rõ hơn về sự phức tạp và đa dạng của mối quan hệ giữa các yếu tố đối
lập trong tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn có thể gặp phải một số
hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các mặt đối lập trong các tình huống phức tạp và
đa dạng. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc xây
dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học
Mác – Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ giữa các yếu tố đối lập trong
tự nhiên và xã hội, và làm nổi bật tính quan trọng và phức tạp của việc hiểu và phân tích về quá trình
phát triển của thế giới.
Câu 9 (Vấn đề 9): Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
& ngược lại (Quy luật lượng - chất)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng quy luật lượng - chất là một trong những quy luật cơ
bản của tự nhiên và xã hội. Đây là một khái niệm quan trọng giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cách mà
thế giới vật chất và xã hội phát triển theo thời gian.
* Vị trí, vai trò
- Quy luật này chỉ ra cách thức của sự vận động, biến đối chuyển hóa của mọi sự vật hiện tượng
* Các khái niệm cơ bản
- Chất: là khái niệm triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố bộ phận, giai đoạn quá trình cấu thành làm cho mỗi
sự vật hiện tượng là chính nó, phân biệt với các sự vật hiện tượng khác.
- Lượng: Là khái niệm triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng,
biểu thị số lượng hay tổng số các thuộc tính, yếu tố bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng …
- Độ: Là khái niệm triết học dùng để chỉ giới hạn trong đó hai mặt chất và lượng thống nhất biện
chứng với nhau quy định sự tồn tại của sự vật hiện tượng, giới hạn trong đó sự vật hiện tượng vẫn còn
là nó, chưa biến đổi, chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác.
- Điểm nút: Là khái niệm triết học dùng để chỉ điểm tại đó giới hạn quy định sự tồn tại của sự vật
hiện tượng bắt đầu bị phá vỡ, bắt đầu sự biến chuyển hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng, giới hạn
tại đó sự vật hiện tượng bắt đầu chuyển dần từ hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác.
- Bước nhảy: Là khái niệm triết học dùng để chỉ sự biến đổi nhảy vọt làm thay đổi hoàn toàn hình
thức, dạng thức của sự vật hiện tượng, chất của sự vật hiện tượng.
* Nội dung của quy luật này
- Sự thống nhất của 2 mặt chất & lượng
Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng của hai mặt chất và lượng, hai mặt chất lượng
không tách rời nhau mà tác động với nhau một cách biện chứng.
- Sự đấu tranh giữa 2 mặt chất & lượng
Trong giới hạn Độ, hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau. Khuynh hướng của lượng là
động, dễ thay đổi; khuynh hướng của chất là tĩnh, ổn định. Sự trái ngược nhau và sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa chúng làm cho sự vật hiện tượng tồn tại trong trạng thái không ổn định. [Khi lượng biến
đổi đến điểm nút, phá vỡ giới hạn độ tạo ra bước nhảy và dẫn đến sự thay đổi hình thức tồn tại của sự
vật hiện tượng. Bước nhảy là 1 tất yếu dẫn đến chuyển hóa hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng
trong thế giới, các bước nhảy bao gồm: bước nhảy tốc độ, bước nhảy quy mô, bước nhảy lĩnh vực.]
- Sự thay đổi của sự vật hiện tượng
Việc thực hiện bước nhảy dẫn đến việc xác lập hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng, hình thức tồn
tại này thay thế cho hình thức tồn tại khác; hình thức tồn tại khác tạo lập cấu trúc Chất-Lượng mới. Sự
vật hiện tượng hoàn toàn thay đổi.
- Sự tác động qua lại giữa chất mới và lượng mới
Với cấu trúc tồn tại mới, hai mặt chất-lượng mới lại tác động qua lại với nhau làm cho sự vật hiện
tượng vận động biến đổi. Vì vậy sự vận động biến đổi chuyển hóa của sự vật hiện tượng là 1 quá trình
liên tục tuyệt đối không ngừng nghỉ.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Mỗi sự vật hiện tượng là 1 thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt chất và lượng tồn tại
trong mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Muốn nhận thức đúng sự vật hiện tượng phải nhận
thức cả hai mặt chất và lượng
- Mỗi sự vật hiện tượng đều vận động biến đổi do tt của hai mặt chất và lượng theo tiến trình tích lũy
dần về lượng và đến một mức độ nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất. Vì vậy cần chống cả hai
khuynh hướng: khuynh hướng tả khuynh và khuynh hướng hữu khuynh
- Cần chống lại hai khuynh hướng: khuynh hướng tả khuynh là khuynh hướng chủ quan, nóng vội,
duy ý chí, bất chấp quy luật có tích lũy về lượng đến mức độ nhất định mới có biến đổi về chất, muốn
đốt cháy giai đoạn. Khuynh hướng hữu khuynh: là khuynh hướng bảo thủ, trì trệ thiếu kết quả do
không dám thực hiện bước nhảy khi đã có quá trình tích lũy về lượng.
* Đánh giá
Luận điểm về quy luật lượng - chất trong triết học Mác – Lênin là một phần không thể thiếu
của lý thuyết về sự phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về mối quan hệ phức tạp giữa các biến đổi về lượng và sự chuyển hoá về chất trong quá trình phát
triển của các hệ thống.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng quy luật lượng - chất vào thực tiễn có thể gặp phải
một số hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các yếu tố gây ra các biến đổi về lượng và
cách chúng ảnh hưởng đến sự chuyển hoá về chất. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý
thuyết này vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong
các lĩnh vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, quy luật lượng - chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và đa
chiều về mối quan hệ giữa các biến đổi về lượng và sự chuyển hoá về chất trong quá trình phát triển
của thế giới tự nhiên và xã hội.
Câu 2 (Vấn đề 11): Quy luật về MLH và sự tác động qua lại giữa LLSX & QHSX
* Mở bài
Trong triết học Mác – Lênin, QHBC giữa LLSX & QHSX được coi là yếu tố chủ đạo quyết định sự
phát triển của xã hội.
* Khái niệm, kết cấu
- “Lực lượng sản xuất” là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ các nhân tố vật chất - kỹ thuật và
các sức mạnh hiện thực của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên để sản xuất ra của cải vật
chất.
- Kết cấu của lực lượng sản xuất:
+ Tư liệu SX
● Là toàn bộ các vật thể, vật chất được con người sử dụng trong quá trình tổ chức sản xuất. Tư
liệu sản xuất bao gồm:
○ Tư liệu lao động bao gồm: công cụ lao động & các phương tiện khác.
○ Đối tượng lao động bao gồm: loại sẵn có trong tự nhiên & loại đã qua chế biến
● Vai trò:
○ Là yếu tố cần thiết, không thể thiếu của sản xuất vật chất. Không có TLSX thì con
người không thể tiến hành SX
○ Là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành của LLSX.
+ Con người SX
● Là chủ thể thực hiện, tiến hành quá trình sản xuất bao gồm
○ Khả năng lao động: là khả năng hoạt động của chân tay, cơ bắp, trí óc
○ Nhu cầu lao động: là nhu cầu tham gia vào hoạt động sản xuất với tinh thần trách
nhiệm và lương tâm
○ Tri thức lao động: là sự hiểu biết về chuyên môn và sự hướng dẫn của sự hiểu biết đó
trong quá trình thao tác các hành động
○ Kinh nghiệm lao động: là thói quen, kỹ năng, kỹ xảo thao tác khi tiến hành lao động
● Vai trò:
○ Con người là chủ thể thực hiện, tiến hành QTSX. Con người vừa chế tạo, sử dụng
công cụ lao động vừa quản lý, điều hành QTSX.
○ Sự kết hợp giữa con người SX, TLSX và việc tiến hành SX là nguồn gốc đưa đến của
cải vật chất của XH.
- “Quan hệ sản xuất” là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ quan hệ KT-VC giữa người và
người, được hình thành, xuất hiện, tồn tại trong quá trình SXVC, trong quá trình tác động vào giới TN
& cải tiến nó của con người
- Kết cấu của quan hệ sản xuất: QHSX là sự thống nhất hữu cơ của 3 mặt
+ Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động
* Quan hệ biện chứng giữa LLSX & QHSX
- Sự thống nhất giữa LLSX & QHSX
+ Mỗi XH đều có một PTSX tương ứng với nó
+ Mỗi PTSX là một thể thống nhất biện chứng của 2 bộ phận cấu thành là LLSX & QHSX. Trong đó:
LLSX & QHSX quy định, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau; tính chất & trình độ của LLSX quyết định
các QHSX nhưng các QHSX tác động, ảnh hưởng, chi phối sự vận động, tồn tại của LLSX.
+ Mỗi PTSX là một trạng thái tồn tại trong đó có sự cân bằng tương đối giữa LLSX, trong đó QHSX
được xác lập phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. LLSX tồn tại, vận động trong sự phù hợp
của các QHSX với tính chất và trình độ của nó
- Sự đấu tranh giữa LLSX & QHSX
+ Sự tác động qua lại giữa LLSX & QHSX
Trong thể thống nhất biện chứng, LLSX & QHSX nhằm vào nhau, tác động qua lại với nhau. LLSX
là khuynh hướng động, luôn thay đổi và đòi hỏi QHSX là khuynh hướng tĩnh phải luôn luôn thích ứng
với sự thay đổi của nó để phát triển sản xuất
+ Sự mâu thuẫn giữa LLSX & QHSX
LLSX đòi hỏi phải được phát triển bị các QHSX trói buộc, QHSX đòi hỏi phải được ổn định bị các
LLSX đòi hỏi phải bị phá vỡ, xoá bỏ. Nền SX tồn tại trong trạng thái đối đầu, đối lập giữa khuynh
hướng phải được phát triển của LLSX và khuynh hướng phải được duy trì, ổn định của QHSX
- Quan hệ biện chứng giữa LLSX & QHSX
+ Cách mạng xã hội phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX & QHSX: khi mâu thuẫn
giữa LLSX & QHSX đến đỉnh điểm, khi nền SX XH không thể tiếp tục trong tình trạng mâu
thuẫn đó, cuộc CMXH nổ ra & PTSX trong đó LLSX & QHSX mâu thuẫn bị xóa bỏ, một
phương thức SX khác được thiết lập & thay thế
+ Sự xóa bỏ của một PTSx này & sự xác lập của một PTSX kia hay sự thay thế lẫn nhau của
các PTSX là một quá trình phủ định biện chứng trong đó:
● Mỗi PTSX là một nấc thang tạo lập sự cân bằng, sự phù hợp giữa LLSX & QHSX\để
phát triển SX
● Mỗi PTSX là một trình độ chinh phục, cải tạo TN của con người & PTSX sau thường
cao hơn PTSX trước.
Câu 1:
Triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn sâu sắc và toàn diện về nhận thức cảm tính và
nhận thức lí tính, đồng thời đề xuất một quan hệ biện chứng giữa hai loại nhận thức này. Điều này
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình nhận thức của con người và cách mà ý thức phản ánh thế giới
vật chất.
* Bảng so sánh nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
1. Cơ sở, công cụ Các giác quan của con người (là chủ yếu) Bộ óc người (là chủ yếu)
2. Cơ chế thực hiện Biến đổi năng lượng kích thích thành xung Thực hiện các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp,
lượng thần kinh trừu tượng hóa, khái quát hóa, phán đoán suy luận.
3. Tính chất phản ánh Trực tiếp, cụ thể, sinh động Gián tiếp, trừu tượng, khái quát
4. Nội dung phản ánh Bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên Bên trong, chung, bản chất, quy luật
5. Khái quát phản ánh Tri thức cảm tính, cảm giác, tri giác, biểu Tri thức, lý tính, mối liên hệ, bản chất, quy luật
tượng, kinh nghiệm
6. Đánh giá - Ưu điểm: cung cấp thông tin trực tiếp, - Ưu điểm: Khái quát bản chất, quy luật của sự vật,
cơ sở để hình thành tri thức con người hiện tượng, tạo nên chiều sâu, tinh tế của tri thức.
- Hạn chế: Tri thức, bề ngoài, cảm tính, - Hạn chế: Bỏ qua cái phong phú, sinh động của sự
chưa chỉ ra bên trong sự vật hiện tượng vật, hiện tượng.
* Quan hệ tương hỗ giữa nhận thức cảm tính & nhận thức lý tính
- NTCT là cơ sở, nền tảng của NTLT. Không có NTCT thì không có NTLT. NTLT chỉ diễn ra & triển
khai được trên cơ sở nền tảng của NTCT. Nếu không dựa trên nền tảng của NTCT, NTLT chỉ còn là
tư duy thuần tuý, thiếu sức sống, cằn cỗi, khô héo & không thể vững chắc
- NTLT được hình thành trên mỗi bước đi của NTCT nhưng tham gia vào NTCT. Nó làm cho NTCT
trở nên sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Không có NTLT thì NTCT chỉ còn là những cảm nhận riêng lẻ, rời
rạc, chỉ là những tri thức vụn vặt, lẻ tẻ về TG. Không có NTLT, NTCT chỉ giới hạn trong cái cảm tính
tủn mủn, vụn vặt.
- “NTCT & NTLT không tách rời nhau, độc lập với nhau mà liên hệ, ràng buộc nhau, bao hàm trong
nhau và thẩm thấu vào nhau”. Trên mỗi bước đi của NTCT đã có, đã chứa đựng NTLT và ngược lại
* Đánh giá
Luận điểm về nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và quan hệ biện chứng giữa chúng trong
triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn đa chiều và phong phú về quá trình nhận thức của con
người. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cảm tính và lý tính là hai phần không thể tách rời trong quá
trình nhận thức, và cách mà chúng tương tác và bổ sung lẫn nhau
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính có thể gặp
phải một số mâu thuẫn và hạn chế, đặc biệt là trong việc đánh giá các vấn đề phức tạp và đa chiều.
Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc hiểu và giải
quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, quan điểm về nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và quan hệ biện chứng giữa
chúng trong triết học Mác – Lênin cung cấp một cách nhìn sâu sắc và phong phú về quá trình nhận
thức của con người, đồng thời đề xuất một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích thế
giới xung quanh.
Câu 2: Tổng quan sơ đồ con đường biện chứng của nhận thức (các luận điểm của Lênin, sơ đồ xoáy
ốc, giải thích sơ đồ, ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu con đường biện chứng của nhận
thức)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin cung cấp một cách tiếp cận sâu sắc và toàn diện về con đường biện
chứng của nhận thức, xem xét nó như một quá trình phức tạp và liên tục trong việc hiểu biết thế giới.
Điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách mà nhận thức của con người tiến triển từ mức độ đơn giản
đến mức độ phức tạp hơn thông qua sự tương tác và đấu tranh của các mặt đối lập.
* Theo LeNin:
- “Nhận thức của con người không phải là một đường thẳng mà là một đường cong đi gần vô hạn đến
1 loạt những vòng tròn đến một vòng xoáy ốc.”
- “Những vòng khâu của nhận thức (bằng của ý niệm của con người về thế giới tự nhiên) đó là những
phạm trù logic.”
- “Tất cả những vòng khâu ấy (bước, giai đoạn) của nhận thức đi từ chủ thế khác thể được kiểm tra
bằng thực tiễn và thông qua sự kiểm tra ấy mà đạt đến chân lý.”
* Sơ đồ xoáy ốc
Thực tiễn là cơ sở trực tiếp làm Các vòng khâu nhận thức là Các vòng khâu nhận thức nối
nảy sinh nhu cầu nhận thức thế hiện thực của quá trình nhận tiếp nhau tạo thành đường
giới của con người, là nơi mở thức thế giới của con người. xoắn ốc biểu hiện sự vận động
đầu và cũng là nơi kết thúc của Mỗi vòng khâu hay mỗi chu không ngừng của nhận thức,
quá trình nhận thức. Một vòng trình nhận thức là sự thống thể hiện quá trình đi sâu vô
khâu nhận thức bắt đầu từ thực nhất biện chứng của các mặt tận của con người vào thế
tiễn và kết thúc ở thực tiễn. đối lập, các mặt mâu thuẫn giới, các sự vật hiện tượng.
Thực tiễn quy định các vòng chứa đựng trong nó. Sự tác Mỗi vòng khâu là một bước
khâu nhận thức quy định sự động qua lại của các mặt đối phát triển của nhận thức và
vận động của các vòng khâu lập các mặt mâu thuẫn trong vòng khâu sau cao hơn vòng
nhận thức, xác nhận tính chân khác vòng khâu nhận thức tạo khâu trước về chất lượng,
thực hay không chân thực của thành động lực bên trong thúc trình độ khái quát, phản ánh.
các vòng không nhận thức xác đẩy sự vận động của nhận thức Mỗi vòng khâu nhận thức tạo
nhận hình ảnh chủ quan được và sự tiếp nối nhau của các dựng 1 hình ảnh phản ánh thế
con người tạo ra trong quá trình vòng khâu nhận thức. Theo giới, phản ánh sự vật chân
nắm bắt thế giới các sự vật hiện Lênin:”Nhận thức là quá trình thực, thuyết phục hơn. Sau
tượng. vĩnh viễn của sự vận động, nảy mỗi vòng khâu nhận thức loại
sinh mâu thuẫn và sự giải quyết bỏ được một phần sai lầm vấp
Ph.Ăngghen:" Chính việc mâu thuẫn đó. phải trước đó và đã có nội
người ta biến đổi GTN chứ dung khách quan, bản chất
không phải là một mình GTN, hơn.
với tư cách là GTN, là cơ sở
chủ yếu nhất, trực tiếp nhất của
tư duy con người và trí tuệ con
người đã phát triển song hành
với việc người ta đã học cải
biến GTN.”
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu con đường biện chứng của nhận thức
* Đánh giá
Luận điểm về con đường biện chứng của nhận thức theo quan điểm của triết học Mác – Lênin
mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về quá trình nhận thức của con người. Nó nhấn mạnh vào
sự phát triển liên tục và phức tạp của nhận thức thông qua sự tương tác và đấu tranh của các mặt đối
lập, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách mà kiến thức và hiểu biết của con người được hình thành và
phát triển.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng con đường biện chứng của nhận thức có thể gặp phải một số
hạn chế, đặc biệt là trong việc đối mặt với những mâu thuẫn và sự phản bội giữa các quan điểm và
kiến thức. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc hiểu
và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về con đường biện chứng của nhận thức trong triết học Mác – Lênin cung
cấp một cái nhìn toàn diện và đa chiều về quá trình nhận thức của con người, đồng thời đề xuất một
cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích thế giới xung quanh.
Câu 2 – Chương 2
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin đặt một tầm quan trọng đặc biệt vào việc hiểu và phân tích quá trình
phát triển của xã hội, tự nhiên và ý thức xã hội. Điểm nổi bật trong triết lý của Mác – Lênin là nguyên
lý về sự phát triển, được hiểu là quá trình tiến hóa và biến đổi không ngừng của thế giới, dựa trên mối
tương tác phức tạp giữa các yếu tố.
* Các khái niệm:
- Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn trên các phương diện của mọi sự vật, hiện tượng.
- Vận động là phạm trù triết học dùng để chỉ mọi sự biến đổi, mọi sự thay đổi trên các phương diện: vị
trí, hình thái, cấu trúc, chiều hướng, … của mọi sự vật, hiện tượng.
*Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan: phát triển là thuộc tính khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng; phát triển
tồn tại độc lập với ý thức của con người dù con người nhận thức được hay ko nhận thức được.
- Tính phổ biến: phát triển là khuynh hướng tồn tại, có mặt trong toàn bộ thế giới.
+ Trong tự nhiên, sự phát triển biểu hiện ra ở khuynh hướng phát triển ngày các phức tạp của
vạn vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đơn giản đến những tổ chức sống vô cùng phức tạp,
ngày một thích nghi và hoàn thiện hơn trước sự biến đổi của môi trường.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực của con người chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội đến tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người. Xã hội loài
người đó phát triển từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua các chế độ CHNL, PK, TBCN đến
XHCN.
+ Trong tư duy, phát triển là sự vận động, tiến lên không ngừng của các tri thức, khái niệm,
đưa khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với hiện thực
khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có một quá trình phát triển không giống nhau, tùy
thuộc vào các điều kiện tồn tại và các mối liên hệ của nó.
* Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, chuyển hóa từ hình thức tồn tại này sang hình thức
tồn tại khác. Không có sự vật, hiện tượng nào luôn luôn giữ nguyên bản thân nó, luôn luôn như nó là,
không thay đổi. Không có sự vật, hiện tượng nào vĩnh viễn, bất biến. Tất cả đều chỉ là quá độ, tạm
thời, thoáng qua, tương đối. Tất cả đều không ngừng biến đổi và biến đổi là tuyệt đối, tồn tại là nhất
thời, tương đối.
“Sự tồn tại của giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất cho đến cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến mặt trời, từ
nguyên sinh vật cho đến con người, là một quá trình không ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động
không ngừng, vận động và biến hóa bất tuyệt” (Ph. ĂngGhen, Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật,
Hà Nội 1971, trang 29).
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Phát triển là quá trình biến đổi, mở
rộng mọi mặt, mọi phương diện (thành phần, kết cấu nội dung, hình thức, mối liên hệ) của sự vật, hiện
tượng theo hướng đa dạng hơn, phức tạp hơn, có tổ chức hơn nhưng tiến bộ hơn, tiên tiến hơn và chất
lượng hơn. Đó là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
“Phát triển không phải là một sự lớn lên đơn giản, một sự tăng thêm (hay là một sự giảm bớt) phổ
biến mà phát triển là sự sinh ra và sự hủy diệt của mọi vật, là những sự chuyển hóa lẫn nhau” (V.I.
Lênin, Bút ký triết học, NXB Sự thật Hà Nội, 1963, trang 284 – 285).
- Phát triển là quá trình biện chứng tự thân của sự vật, hiện tượng, là quá trình sự vật, hiện tượng tự
vạch đường đi cho mình, tự diễn biến mình, tự trình hiện mình. Trong đó:
+ Sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu thuẫn của chính nó (mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập, mâu thuẫn giữa cái chất lượng và số lượng, mâu thuẫn giữa các khẳng định và phủ định).
+ Sự vật, hiện tượng tạo lập các “vòng khâu biện chứng” hay các “vòng khâu liên hệ” theo
đường xoáy ốc đi từ cái khẳng định đến cái phủ định, từ cái phủ định đến cái phủ định của
phủ định.
+ Sự vật, hiện tượng tổ chức sắp xếp lại bản thân, đổi mới, nâng cấp nó (vứt bỏ, loại bỏ cái
không còn thích hợp, phù hợp, ko còn tác dụng; tạo lập trật tự mới với những cái còn thích
hợp, còn phù hợp, còn tác dụng)
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguyên tắc vận động, phát triển: mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, đều chuyển hóa từ
hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác, ko có sự vật, hiện tượng nào bất biến, giữ nguyên
hiện trạng như nó là. Trái lại tất cả đều biến đổi, đều quá độ, đều thoáng qua vì vậy trong mọi nhận
thức nghiên cứu khoa học, trong mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau chủ thể nhận thức phải nắm bắt sự
vật, hiện tượng trong quá trình vận động biến đổi chuyển hóa của nó chứ không phải trong trạng thái
bất biến tĩnh tại ngưng trệ.
- Nguyên tắc mâu thuẫn: vận động là tự thân, phát triển là tự thân. Vận động và phát triển là kết quả
của việc sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu thuẫn bên trong nó. Vì vậy trong mọi nhân thức
nghiên cứu khoa học, trong mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên
cứu phải nắm bắt được các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn và sự tác động qua lại của chúng để nắm
bắt sự vận động, biến đổi chuyển hóa của chúng.
Theo Lê nin: “Sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Vì vậy nhận thức sự vật, hiện
tượng là nhận thức các mặt đối lập và sự đấu tranh của chúng.
- Nguyên tắc biện chứng: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng nhưng phát
triển không diễn ra theo con đường thẳng tắp, cũng không theo đường tròn khép kín mà theo đường
xoáy ốc, quanh co, zic zac, phức tạp, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại và điều kiện hoàn cảnh môi
trường tồn tại của sự vật, hiện tượng. Vì vật trong mọi nhận thức nghiên cứu khoa học, trọng mọi
phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên cứu phải nắm bắt được biện chứng
quanh co phức tạp, zic zac của quá trình vận động phát triển của sự vật, hiện tượng để nắm bắt tính tất
yếu của sự phát triển của nó.
Theo Lê nin: “Bản thân sự vật phải được xem xét trong những và trong sự phát triển của nó"
* Đánh giá
Luận điểm về nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin là một phần quan trọng
của hệ thống triết lý của ông và mang lại những hiểu biết sâu sắc về cách mà thế giới phát triển. Quan
điểm này làm nổi bật tính đa chiều và phức tạp của sự phát triển, và giúp chúng ta nhận ra rằng sự
phát triển không phải là một quá trình đơn giản mà là kết quả của sự đấu tranh, đối lập, đồng nhất và
phân biệt giữa các yếu tố.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng nguyên lý về sự phát triển không phải lúc nào cũng dễ dàng để
áp dụng và hiểu, và đôi khi có thể gặp phải sự phức tạp và mâu thuẫn trong việc xác định và phân tích
các yếu tố tác động. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng nguyên lý này vào thực tiễn và
trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của
triết học và khoa học.
* Kết bài
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn phức
tạp và đa chiều về thế giới, và cung cấp một cơ sở lý thuyết quan trọng để hiểu và phân tích sự phát
triển của xã hội, tự nhiên và ý thức xã hội. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi sự cẩn trọng và sự linh hoạt
trong việc áp dụng vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình.
Câu 6 - Chương 2
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin đề xuất một quan điểm đặc biệt về quan hệ giữa vật chất và ý thức, coi
đây là một quan hệ biện chứng phức tạp và tương tác. Luận điểm này không chỉ làm sáng tỏ về mối
quan hệ giữa hai yếu tố này mà còn cung cấp một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều về sự phát triển
của thế giới vật chất và ý thức.
1. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
* Vai trò của vật chất đối với ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành, xuất hiện của ý thức
+ VC là cơ sở, là nền móng của ý thức. Ý thức được hình thành, xuất hiện “trên nền móng của bản
thân lâu đài VC”, gắn với quá trình của bản thân lâu đài VC, quá trình vận động khách quan của VC,
của giới tự nhiên đến một giai đoạn nhất định, làm cho VC biến đổi, chuyển hoá và hình thành nên
dạng VC có năng lực cảm giác. Theo Ăngghen: “VC trong vòng tuần hoàn vĩnh viễn của nó vận động
theo những quy luật … tất nhiên sinh ra tinh thần có tư duy trong các vật hữu cơ”. Theo Lênin: “Trái
Đất từng tồn tại trong trạng thái chưa có và cũng không thể có loài người hay bất cứ sự vật nào nói
chung. VC hữu cơ là một hiện tượng về sau mới có, là kết quả của sự phát triển lâu dài”
+ Tổ chức VC cấp cao trực tiếp làm sản sinh ra cảm giác ý thức là bộ óc người nên ý thức là sản phẩm
của bộ óc người, gắn liền với bộ óc người, phụ thuộc vào bộ óc người. Ý thức không thể tồn tại bên
ngoài bộ óc người như một thực thể độc lập, tách biệt, tách rời bộ óc con người. Bộ óc người còn thì ý
thức còn, bộ óc người không còn thì ý thức không còn. Theo Ăngghen: “Ý thức là sản vật của bộ óc
người và bản thân con người cũng là sản vật của tự nhiên, sản vật này phát triển trong và cùng với
hoàn cảnh tự nhiên. Như thế thì lẽ tự nhiên, những sản phẩm bộ óc người quy cho cùng là những sản
vật của tự nhiên”. Theo Lênin: “Cái tâm lý ý thức … là sản phẩm tối cao của vật chất (nghĩa là của cái
vật lý) là chức năng của cái khối vật chất, đặc biệt phức tạp là bộ óc người”.
- VC quyết định nội dung phản ánh của ý thức
VC là cái được phản ánh hay đặc trưng được phản ánh. Ý thức là cái phản ánh. Cái được phản ánh
quyết định cái phản ánh, cái được phản ánh như thế nào thì cái phản ánh như thế ấy. Theo Ăngghen:
“Ảnh hưởng của TG bên ngoài vào con người, in vào đầu óc con người, phản ánh vào dưới hình thức
cảm giác, tư tưởng, động cơ, biểu hiện của ý chí”. Sự phong phú đa dạng về mặt hình thức tồn tại, về
mặt liên hệ tương tác của VC quyết định sự phong phú đa dạng về mặt nội dung khái quát phản ánh
của ý thức. Sự phong phú đa dạng của ý thức phụ thuộc vào sự phong phú đa dạng của sự tồn tại liên
hệ VC. Theo Ăngghen: “Sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào
sự phong phú của những quan hệ hiện thực của họ”.
- VC quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức
VC tồn tại khách quan nhưng không tồn tại bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá từ
hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác. VC biến đổi thì cảm giác, ý thức biến đỏi. Sự vận
động, biến đổi của VC quyết định sự vận động, biến đổi của cảm giác, ý thức. Quá trình vận động,
biến dổi của VC quyết định quá trình vận động, biến đổi của ý thức. Theo C.Mác: “Sự vận động của
tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực di chuyển và biến hình vào đầu óc con người”. Theo Lênin:
“Cảm giác la một hình ảnh vật chất đang vận động, cảm giác do vật chất đang tác động vào các giác
quan của chúng ta mà sinh ra”.
* Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Sự đối lập tương đối của ý thức đối với VC
+ Quyền lực sáng tạo của ý thức: Ý thức có quyền lực sáng tạo của nó. Đó là quyền kiến tạo,
xây dựng, thiết kế mô hình tinh thần tư duy về VC và các đối tượng của nó dựa trên cơ sở những tri
thức, những hiểu biết đạt được bằng các nguyên tắc, tư tưởng của nó; nó có thể phóng tác tưởng tượng
cái VC bên ngoài dựa trên cơ sở những thông tin mà nó có được về TG bên ngoài, về các SVHT bên
ngoài. Theo Lênin: “Không nghi ngờ gì cả, hình ảnh không bao giờ giống hệt như nguyên hình”;
“Hình ảnh tất nhiên và dĩ nhiên cần phải lấy tính thực tại khách quan của cái mà nó phản ánh”.
+ Quyền lực tồn tại của ý thức: Ý thức có quyền lực tồn tại của nó. Đó là quyền duy trì, gìn
giữ, lưu cữu, củng cố hình ảnh, mô hình tinh thần của nó trong bộ óc người bất kể hình ảnh, mô hình
đó phù hợp hay không phù hợp, tương đồng hay không tương đồng, ăn khớp hay không ăn khớp,
đúng hay không đúng với VC và các đối tượng của nó, với giới tự nhiên bên ngoài của nó.
- Sự tác động trở lại của VC đối với ý thức
+ Quyền lực chỉ huy của ý thức: Ý thức có quyền lực chỉ huy của nó. Đó là quyền chỉ đạo,
điều hướng con người, so sánh, phân tích, lựa chọn mô hình tinh thần của chính nó để xác định môn
hình nào tối ưu nhất và áp dụng vào thực tiễn. Sự chỉ đạo, điều hướng của ý thức có thể đúng, có thể
sai, có thể phù hợp, có thể không phù hợp với sự tồn tại vận động của VC bên ngoài.
+ Quyền lực tác động và làm thay đổi VC của ý thức: Ý thức chỉ đạo con người sử dụng các
phương tiện, lực lượng VC của chính VC, chính giới tự nhiên tác động vào chính VC, chính giới tự
nhiên để hiện thực hoá mô hình tinh thần tư duy, mục tiêu kế hoạch đã định và bằng cách này, ý thức
tác động trở lại VC, làm cho VC, giới tự nhiên thay đổi. Theo C.Mác: “Tư tưởng căn bản không thực
hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn”; “Lực lượng
VC chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng VC”.
+ Chiều hướng tác động của ý thức đối với VC: Ý thức có thể tác động trở lại VC theo hướng
tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc vào nội dung khái quát phản ánh của nó và vào csc công cụ, phương
tiện, lực lượng VC dùng để tác động. Chiều hướng tác động tích cực của ý thức là chiều hướng nội
dung khái quát phản ánh của ý thức phù hợp với VC và các đối tượng của nó và sử dụng các công cụ,
phương tiện, lực lượng VC tác động thích hợp. Chiều hướng tác động tiêu cực của ý thức là chiều
hướng nội dung khái quát phản ánh của ý thức không phù hợp với VC và các đối tượng của nó và sử
dụng các công cụ, phương tiện, lực lượng VC.
2. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức
- Trong đời sống, muốn nhận thức đúng đắn, khách quan, khoa học phải xuất phát từ chính VC, từ
chính đời sống VC để giải quyết những vấn đề do nó đặt ra; phải tìm nguyên nhân của sự vật trong
chính sự vật, từ đó tìm ra các biện pháp để giải quyết vấn đề chứ không phải tìm ra và cắt nghĩa ý thức
bằng ý thức. Đó là nguyên tắc khách quan áp dụng nghiên cứu và xem xét sự vật
- Ý thức có thể tác động trở lại VC hoặc theo hướng tích cực hoặc theo hướng tiêu cực. Vì vậy:
+ Thứ nhất: không được tuyệt đối hoá, cường điệu hoá vai trò, tác dụng của ý thức bất chấp điều kiện
hoàn cảnh của VC
+ Thứ hai: không đánh giá thấp vai trò, tác dụng của ý thức hoặc xem thường tác dụng của nó trong
đời sống con người nếu không sẽ dẫn đến thái độ khuất phục, đầu hàng trước hoàn cảnh, dẫn đến chủ
nghĩa bi quan, định mệnh.
* Đánh giá
Luận điểm về quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của triết học Mác –
Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ phức tạp giữa hai yếu tố này. Nó
không chỉ làm rõ về sự tương tác và tương phản giữa vật chất và ý thức mà còn nhấn mạnh vào vai trò
của hành động con người trong quá trình này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể gặp phải một
số hạn chế và mâu thuẫn, đặc biệt là trong việc giải thích sự phát triển của ý thức và tác động của nó
lên vật chất. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc
hiểu và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin
cung cấp một cái nhìn sâu sắc và phong phú về mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản của thế giới, đồng
thời đề xuất một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích quá trình phát triển của
chúng.