You are on page 1of 22

CHƯƠNG 2: TRIẾT HỌC VỀ TỰ NHIÊN

Câu 1 (Vấn đề 1): Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến


* Mở bài
Triết học Mác – Lênin nhấn mạnh một nguyên lý cơ bản về mối liên hệ phổ biến, đó là
nguyên lý về sự tương quan và tương tác phức tạp giữa các yếu tố trong một hệ thống.
* Các khái niệm:
- Mối liên hệ là khái niệm triết học dùng để chỉ ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; sự làm tiền
đề, điều kiện cho nhau; sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng.
- Mối liên hệ phổ biến là khái niệm triết học dùng để chỉ sự tồn tại phổ quát, bao trùm và rộng khắp
của sự ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; của sự làm tiền đề, điều kiện cho nhau; của sự tác
động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau trong mọi phạm vi, lĩnh vực khác nhau của thế giới.
* Các tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan: Mối liên hệ là thuộc tính khách quan vốn có của thế giới, của các sự vật hiện
tượng; tồn tại gắn liền với thế giới, các sự vật hiện tượng; tồn tại độc lập với hiểu biết của con người.
- Tính phổ biến: Mối liên hệ tồn tại phổ biến (phổ quát) trong mọi phạm vi, lĩnh vực khác nhau của
thế giới.
- Tính tác dụng: Mối liên hệ quy định sự tồn tại, vận động và biến đổi của các sự vật, hiện tượng.
- Tính phong phú, đa dạng: Mối liên hệ là muôn màu, muôn vẻ về dạng thức, phương thức; có vị trí,
vai trò và tác dụng khác nhau.
* Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật hiện tượng, mọi mặt của các sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ với nhau; đều ràng
buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; đều làm tiền đề, điều kiện cho nhau; đều tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào; không có mặt nào tồn tại tự mình, độc lập, tách biệt
mà không liên hệ với các sự vật, hiện tượng, các mặt khác.
- Mối liên hệ là phương thức, điều kiện quyết định sự tồn tại hay không tồn tại của SVHT. Thông qua
MLH, bằng MLH, do MLH, sự tồn tại hay không tồn tại của SVHT được bộc lộ ra và mới biểu hiện
ra nó là cái gì, như thế nào và phân biệt nó với các SVHT khác.
- Tổng thể của các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, giữa các mặt của sự vật, hiện tượng đan
xen, chằng chịt, quy định và tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Nó tạo nên một bức tranh đa dạng,
nhiều màu sắc, nhiều hình, nhiều vẻ của mối liên hệ trong thế giới.
Kết cấu cơ bản của bức tranh tổng quát về mối liên hệ phổ biến bao gồm:
+ Về các hình thức liên hệ: giữa vật chất – ý thức, giữa chất – lượng, giữa các mặt đối lập, giữa
cái chung – cái riêng, nguyên nhân – kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức,
bản chất – hiện tượng, khả năng – hiện thực.
+ Về phương thức liên hệ: trực tiếp – gián tiếp, trên – dưới, trong – ngoài, chiều dọc – chiều
ngang
+ Về vị trí, vai trò của liên hệ: khách quan – chủ quan, chủ yếu – thứ yếu, quan trọng – không
quan trọng, cơ bản – không cơ bản, ...
* Ý nghĩa phương pháp luận
+ Nguyên tắc liên hệ: Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng
khác vì vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải đặt sự vật, hiện tượng trong
mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
+ Nguyên tắc toàn diện: Phải nghiên cứu xem xét đầy đủ tất cả các mối liên hệ của sự vật,
hiện tượng. Phải nắm bắt tính hệ thống, tính tổng hòa, tính bao quát của các mối liên hệ muôn hình
muôn vẻ của sự vật, hiện tượng.
+ Nguyên tắc lịch sử - cụ thể: Phải đặt sự vật, hiện tượng vào trong thời gian, không gian cụ
thể. Phải chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát
triển, cả về không gian, thời gian và các mối liên hệ.
* Đánh giá
Luận điểm về nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong triết học Mác – Lênin là một phần
quan trọng của hệ thống triết lý của ông và mang lại những hiểu biết sâu sắc về cách mà các yếu tố
trong thế giới tương tác và phản ứng với nhau. Nguyên lý này làm nổi bật sự phức tạp và đa chiều của
thế giới tồn tại, và làm cho chúng ta nhận ra rằng không thể hiểu một sự vật hoặc hiện tượng mà
không xem xét đến mối liên hệ của nó với các yếu tố khác trong môi trường xã hội và tự nhiên.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến không phải lúc nào cũng đơn
giản để áp dụng và hiểu, và đôi khi có thể gặp phải sự phức tạp và mâu thuẫn trong việc xác định và
phân tích các mối quan hệ này. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng nguyên lý này vào thực
tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển và biến đổi trong các lĩnh
vực khác nhau của triết học và khoa học.
* Kết bài
Tóm lại, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách
nhìn phức tạp và đa chiều về thế giới, và cung cấp một cơ sở lý thuyết quan trọng để hiểu và phân tích
sự phát triển của xã hội và tự nhiên. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi sự cẩn trọng và sự linh hoạt trong việc
áp dụng vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình.

Câu 2 (Vấn đề 2): Nguyên lý về sự phát triển (đang được ghi bỏ không phải ôn)
Câu 3 (Vấn đề 3): Định nghĩa/ Phạm trù “Vật chất” của Lênin
* Mở bài
Phạm trù vật chất là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của triết học Mác – Lênin.
* Định nghĩa vật chất của Lênin: Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực
tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
* Nội dung khoa học
- Nội dung thứ nhất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan”
+ Phạm trù vật chất của triết học là phạm trù có tính khái quát nhất, không giống với khái niệm
vật chất trong một số ngành khoa học cụ thể, hay trong đời sống hàng ngày.
+ Phạm trù “vật chất” biểu hiện trình độ nhận thức khách quan của tư duy con người về cái thực
tại khách quan tồn tại bên ngoài của con người.
+ Vật chất ở đây phải được hiểu là “sự sáng tạo thuần túy của tư duy”, là “cái dùng để chỉ”
thuộc tính cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng trong hiện thực.
Như vậy, không được đồng nhất vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với các dạng tồn tại cụ
thể của nó mà các khoa học chuyên ngành nghiên cứu.
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì không có một gam vật chất nào cả.
- Nội dung thứ 2: “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”
Thực tại khách quan (cái bên ngoài con người) là nguồn gốc đưa đến những cảm giác ở con người,
những cảm giác hình thành xuất hiện ở con người là do thực tại khách quan tồn tại bên ngoài con
người đưa lại.
- Nội dung thứ 3: “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”.
Thực tại khách quan là cái được phản ánh, các cảm giác của con người là cái phản ảnh. TTKQ là bản
gốc của các cảm giác của con người, các cảm giác của con người là bản sao của cái TTKQ. TTKQ là
cái quyết định, làm thành nội dung bên trong của các cảm giác; các cảm giác phụ thuộc vào TTKQ.
- Nội dung thứ 4: “Thực tại khách quan … tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
TTKQ là các tồn tại bên ngoài con người, cảm giác của con người; không phụ thuộc vào các cảm giác
của con người. TTKQ tồn tại kể cả khi không có con người, cảm giác của con người.
* Ý nghĩa/ Giá trị khoa học
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết một cách triệt để nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
- Định nghĩa đã khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật cũ, đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của Mác và Ăngghen về vật
chất.
- Định nghĩa còn trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học trong
nghiên cứu thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi
sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất.
* Đánh giá
Luận điểm về phạm trù vật chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn cơ bản và
có tính hệ thống về bản chất của thế giới và con người. Bằng cách nhấn mạnh tính vật chất của mọi
hiện tượng tồn tại, ông Mác – Lênin thúc đẩy sự phát triển của triết học duy vật biện chứng và cung
cấp một cơ sở lý luận vững chắc cho sự nghiên cứu khoa học và phát triển xã hội.
Tuy nhiên, mặc dù phạm trù vật chất đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và giải thích thế
giới, nhưng cũng cần phải nhận thức rằng có những hiện tượng không thể giải thích hoàn toàn bằng
cách tiếp cận vật chất một cách hẹp hòi. Ví dụ, những khía cạnh về tâm linh, cảm xúc và ý thức con
người không thể đơn giản giải thích dưới góc độ vật chất mà cần phải kết hợp với những cách tiếp cận
khác như triết học và tâm lý học.
* Kết bài
Tóm lại, phạm trù vật chất trong triết học Mác – Lênin là một nguyên tắc cơ bản và quan
trọng, cung cấp một cơ sở lý luận cho việc hiểu và giải thích thế giới. Tuy nhiên, cần phải kết hợp với
các phương pháp và quan điểm khác để có một cái nhìn đa chiều và toàn diện về tồn tại.

Câu 4 (Vấn đề 4): Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Theo triết học Mác – Lênin, vật chất không chỉ tồn tại trong một hình thức cố định mà còn tồn tại qua
sự thay đổi và phát triển liên tục. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu về ba khái
niệm quan trọng: Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại.
- Hình thức tồn tại của vật chất là cách mà vật chất tồn tại và hiện diện trong thế giới vật chất.
- Phương thức tồn tại của vật chất là cách mà vật chất tồn tại trong quá trình phát triển và biến đổi.
- Diễn biến tồn tại của vật chất là quá trình phát triển và biến đổi của vật chất qua thời gian, từ một
hình thức và phương thức tồn tại sang hình thức và phương thức khác.
* Hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất
Hình thức tồn tại (hình thái biểu hiện Phương thức tồn tại Diễn biến tồn tại (vận động, biến đổi,
sự tồn tại) của vật chất (Cách thức duy trì sự chuyển hóa) của vật chất
tồn tại) của vật chất
Phương diện cơ học: Biến đổi cơ học:
+ Các vật vĩ mô: Chất rắn, chất lỏng, chất Liên hệ tương tác cơ học + Biến dạng cơ học (hình dáng, kích
khí. giữa các vật vĩ mô, đại vĩ thước, diện tích bề mặt) của các vật thể.
+ Các vật đại vĩ mô: quả đất, địa quyển mô và hệ thống các vật đại + Biến đổi chuyển hóa từ chất rắn sang
các hành tinh, các vệ tinh, các ngôi sao. vĩ mô bằng lực hấp dẫn vũ thể lỏng, từ chất lỏng và chất khí và
+ Hệ thống các vật đại vĩ mô: Ngân hà, trụ và trường hấp dẫn ngược lại.
thiên hà, siêu thiên hà, siêu siêu thiên hà. + Biến đổi vị trí: Sự chuyển động và thay
đổi vị trí trong không gian của các vật
thể, các hành tinh, các ngân hà, thiên hà

Phương diện vật lý Biến đổi vật lý


+ Nhiệt (sự nóng lạnh của vật thể) Liên hệ, tương tác vật lý Biến đổi cơ năng thành nhiệt năng, điện
+ Điện (electron) bằng các lực vật lý giữa năng, hóa năng, bức xạ năng.
+ Từ (vật liệu có khả năng hút sắt & làm nhiệt, điện từ, ánh sáng,
quay kim đồng hồ: FeO, Fe2O3) … qua các trường vật lý
+ Ánh sáng, các tia sáng: hồng ngoại, tử của chúng,
ngoại.
+ Trường (thực thể truyền tương tác):
trường điện từ, trường sóng, trường giao
thoa, trường hạt nhân, …
+ Plasma (trạng thái ion hóa cao độ của
các vật thể có mật độ điện tích âm và
điện tích dương bằng nhau).
Phương diện hoá học Biến đổi hoá học
+ Các hạt vi mô hay các hạt nhân và các Liên hệ, tương tác hóa + Biến đổi thành phần cấu tạo của các
phản hạt: Proton, Notron, Nơtrino, học giữa các hạt vi mô, chất, biến đổi phân tử, nguyên tử.
Muyon. các phân tử, nguyên tử, + Biến đổi hóa năng, bức xạ năng thành
+ Spin (đặc trưng lượng từ của các hạt các đơn chất, hợp chất, … các dạng năng lượng khác
cơ bản và hạt nhân) qua MT hoá học bằng các + Biến đổi, chuyển hoá giữa đơn chất và
+ Phân tử (hạt bền vững và bé nhỏ của lực hoá học: lực hợp chất
một chất) Vanderwalls, lực liên kết
+ Nguyên tử (hạt nhỏ nhất của một hoá học, lực tương tác
nguyên tố hóa học) (hạt nhân và điện tử) giữa các phân tử
+ Các đơn chất, hợp chất
Phương diện sinh học Biến đổi sinh học
+ Các thể protid: protid đơn giản, protid + Liên hệ tương tác giữa + Biến đổi tế bào, biến đổi kiểu gen, biến
phức tạp, các acid nucleic, các vi sinh các protid, các tổ chức đổi kiểu hình
vật, vi khuẩn, vi trùng, siêu vi trùng sinh vật với môi trường + Biến đổi các giống loài thực vật để
+ Các thể đơn bào, đa bào, thực vật, bên ngoài (đất, nước, ánh thích nghi với sự biến đổi của môi
động vật. sáng, nhiệt độ, không khí, trường, hoàn cảnh.
+ Các loài hữu cơ, quần xã SV, hệ sinh độ ẩm) + Sự phát triển, tiến hóa của các loài
thái, sinh quyển. + Liên hệ tương tác giữa thực vật, động vật (từ thấp đến cao, từ
các yếu tố bộ phận bên đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
trong cơ thể sinh vật, thực thiện đến hoàn thiện hơn).
vật động, quần xã sinh
học.
Phương diện xã hội Biến đổi xã hội
+ Các hệ thống xã hội và các thành phần + Liên hệ tương tác giữa + Biến đổi thành phần cấu tạo của xã
tạo nên chúng: con người, nhóm người, cá nhân, nhóm người, hội: cá nhân, nhóm người, cộng đồng
cộng đồng người, xã hội loài người, xã cộng đồng người qua các người.
quyển. hoạt động trên mọi lĩnh + Biến đổi, thay thế lẫn nhau của các
+ Các phương tiện sinh hoạt, vật vực. hình thái kinh tế - xã hội.

* Quan hệ biện chứng giữa chúng (3 mặt: hình thức, phương thức, diễn biến tồn tại)
- Vật chất là một thể thống nhất biện chứng của ba mặt:
+ Về mặt hình thức tồn tại: Vật chất tồn tại khách quan nhưng không tồn tại thần bí mà tồn tại
dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể có các đặc trưng tự nhiên của chúng, được các khoa
học cụ thể khám phá, phát hiện, khái quát.
+ Về phương thức tồn tại: Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp qua môi
trường tương tác của nó.
+ Về diễn biến tồn tại: Vật chất vận động, biến đổi, chuyển hóa, phát triển.
- Mỗi hình thức tồn tại của vật chất có phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại riêng của nó. Chúng luôn
luôn liên hệ, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
- Vật chất tồn tại bằng cách liên hệ, tương tác, vận động biến đổi và thông qua chúng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Vì vậy, vật chất gắn liền với liên hệ, tương tác, vận động; liên hệ, tương tác, vận
động gắn liền với vật chất.
- Vật chất tồn tại khách quan, không tự sinh ra không tự mất đi. Vật chất chỉ biến đổi, chuyển hóa từ
hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại này sang hình thức tồn tại, phương thức tồn
tại, diễn biến tồn tại khác. Vật chất được bảo toàn, các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn
biến tồn tại được bảo toàn. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, vận động tồn tại vĩnh viễn.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vật chất là thể thống nhất biện chứng, không tách rời nhau của ba mặt: Hình thức tồn tại,
phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại. Muốn nhận thức khách quan, khoa học, đúng đắn về vật chất,
chúng ta phải nhận thức đầy đủ cả ba mặt đó của vật chất. Tách rời và tuyệt đối hóa một mặt nào là
sai lầm về mặt phương pháp nhận thức và là con đường dẫn đến chủ nghĩa duy vật siêu hình hoặc chủ
nghĩa duy tâm thần bí.
- Vật chất tồn tại dưới các hình thức cụ thể. Mỗi hình thức tồn tại có phương thức và diễn
biến tồn tại riêng và chúng có quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy:
+ Cần nhận thức sự khác nhau giữa các hình thức tồn tại của vật chất, phân biệt sự khác nhau
về chất giữa chúng. Không được đồng nhất các hình thức tồn tại, các phương thức tồn tại và các diễn
biến tồn tại với nhau. Không được quy hình thức vận động này vào hình thức vận động kia. Không
được quy mọi hình thức vận động về một hình thức vận động.
+ Cần nắm bắt được sự thống nhất biện chứng, mối liên hệ, sự tác động qua lại, sự biến đổi,
chuyển hóa lẫn nhau của các hình thức tồn tại, phương thức tồn tại, diễn biến tồn tại của vật chất.
* Kết bài
Tóm lại, quan hệ biện chứng giữa hình thức tồn tại, phương thức tồn tại và diễn biến tồn tại của vật
chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn sâu sắc và đa chiều về thế giới vật chất, và
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình phát triển và biến đổi của nó.
Câu 5 (Vấn đề 5): Bản chất của ý thức (4 bản chất kèm sơ đồ)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin cung cấp một cách tiếp cận sâu sắc và phức tạp đối với bản chất của ý
thức, xem xét nó như một hiện tượng phản ánh và phụ thuộc vào bản chất của thế giới vật chất. Dưới
góc nhìn này, ý thức không được coi là một thực thể độc lập, mà là một phần không thể tách rời của
thế giới vật chất, được hình thành và phản ánh dưới tác động của điều kiện vật chất và quá trình xã
hội.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của TG khách quan, hình ảnh chủ quan của cái thực tại khách
quan bên ngoài bộ óc con người, là hình ảnh biểu đạt cái thực tại khách quan (các vật chất tồn tại
bên ngoài bộ óc con người). Theo Lênin: “Các cảm giác của chúng ta đều là những hình ảnh của TG
bên ngoài”. Ý thức là “cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con người và được cải biến đi ở trong
đó”, là các vật chất bên ngoài được kiến tạo lại trong bộ óc con người dưới dạng các hình ảnh tinh
thần.
- Ý thức là thực tại vô chất, phi vật chất; là thực tại không có cấu tạo vật chất, không có tính vật
chất; là cái tinh thần không khối lượng, không trọng lượng, không màu sắc, không mùi vị. Theo
Lênin cho rằng “Tư tưởng và vật chất đều là hiện thực nghĩa là đều tồn tại thì điều đó là đúng nhưng
gọi tư tưởng là tính vật chất thì tức là đi một bước sai lầm => chỗ lẫn lộn chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm”. Ý thức không phải là tồn tại tinh thần thuần nhất, đơn nhất; không phải là thực tại bất biến,
vĩnh cửu mà là thực tại đa dạng, sống động, biến đổi liên tục,
- Ý thức là hệ thống thông tin biểu đạt những thuộc tính, đặc điểm, MLH, quan hệ hiện thực của
các vật chất hay các thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài con người; là sự phản ánh tích cực, tự
giác, năng động, sáng tạo của bộ óc người đối với cái vật chất hay cái thực tại khách quan bên
ngoài con người ở chỗ:
+ Thứ nhất: Ý thức là hệ thống thông tin biểu đạt những thuộc tính, đặc điểm, MLH của SVHT bên
ngoài, những tri thức con người thu lượm được, có nguồn gốc từ vật chất, từ thực tại khách quan bên
ngoài. Ý thức chính là sự sao chép, ghi lại những thuộc tính, đặc điểm, MLH, quan hệ của vật chất
bên ngoài đó
+ Thứ hai: Trong quá trình tương tác giữa bộ óc người với TG vật chất bên ngoài, bộ óc người tiếp
nhận mọi tác động nào có ảnh hưởng trực tiếp, rõ ràng và thiết thực đến đời sống của con người.
+ Thứ ba: Khi xử lý các tác động của các VC bên ngoài vào nó, bộ óc người ghi nhận những thuộc
tính, đặc điểm, MLH, quan hệ của cái vật chất thành hình ảnh tinh thần, thành mô hình hoá tinh thần
hay mô hình hoá các đối tượng vật chất bên ngoài thành các hình ảnh tinh thần hay mã hoá chúng.
Đây là một quá trình sáng tạo của bộ óc con người. Từ các hình ảnh tinh thần, mô hình tinh thần, con
người hiện thực hóa, chuyển mô hình tinh thần tư duy ra hiện thực khách quan biến các ý tưởng phi
vật chất trong bộ óc người thành vật chất ngoài hiện thực hay vật chất hoá các ý tưởng tinh thần tư
duy qua hoạt động thực tiễn.
- Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý cũng không phải là hiện tượng siêu
nhiên thần bí. Ý thức là một hiện tượng xã hội được hình thành, phát triển trong môi trường xã
hội, trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo TG của con người. Theo C.Mác: “Ý thức ngay từ
đầu là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại”.
* Đánh giá
Luận điểm về bản chất của ý thức trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn đa chiều
và phức tạp về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai
trò của vật chất trong việc hình thành và phát triển của ý thức, và làm nổi bật tính đối lập và tương tác
giữa hai yếu tố này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng luận điểm này có thể gặp phải một số hạn chế trong việc giải
thích một số hiện tượng ý thức phức tạp và đa dạng. Đặc biệt là trong các trường hợp của ý thức có
tính chất tương đối độc lập và không dễ dàng giải thích bằng cách giải thích đơn giản dựa trên quá
trình phản ánh của vật chất.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về bản chất của ý thức trong triết học Mác – Lênin cung cấp một cách nhìn tổng
thể về mối quan hệ giữa ý thức và vật chất, đồng thời cũng đặt ra những thách thức trong việc hiểu và
giải thích ý thức trong các trường hợp phức tạp và đa dạng.

Câu 6: Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu
quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức (không thấy trong 12 vấn đề của thầy Thành)

Câu 7 (Vấn đề 6): Phạm trù “Nguyên nhân - Kết quả”


* Mở bài
Phạm trù nguyên nhân - kết quả là một khái niệm quan trọng trong triết học Mác – Lênin, đó
là quan điểm về mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự tồn tại của chúng trong thế giới vật chất.
* Khái niệm:
- “Nguyên nhân” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượ1ng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, gây ra những biến đổi nhất định.
- “Kết quả” là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động qua lại giữa các
mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra.
*Các tính chất của MLH nhân quả
- Tính khách quan: Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan vốn có của bản thân thế giới,
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
(Con người chỉ phản ánh vào trong đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối
liên hệ nhân quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong đầu
óc mình.)
- Tính phổ biến: Mối liên hệ nhân quả có tính phổ biến. Tính phổ biến của mối liên hệ nhân quả là
tính tồn tại bao trùm, rộng khắp của nó trong mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới. Tất cả đều
có mối liên hệ nhân quả. Thế giới xét đến cùng là quan hệ nhân quả.
- Tính tất yếu: Mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu ở chỗ:
+ Có nguyên nhân thì có kết quả, có kết quả thì có nguyên nhân; không thể có nguyên nhân mà
không có kết quả hoặc ngược lại (có kết quả mà không có nguyên nhân).
+ Nguyên nhân và kết quả chỉ xảy ra khi có, khi gắn với điều kiện nhất định. Tập hợp của các
điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến sự hình thành, xuất hiện của nhân quả.
+ Tập hợp các điều kiện hoàn cảnh tác động càng giống nhau bao nhiêu, càng ít khác nhau bao
nhiêu thì các kết quả do chúng gây nên càng ít khác nhau bấy nhiêu.
* Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Quan hệ nhân quả là quan hệ chế ước, chế định lẫn nhau giữa hai mặt nhân - quả, trong đó:
+ Cái nguyên nhân và cái kết quả gắn liền với nhau, ràng buộc nhau, quyết định và phụ thuộc
lẫn nhau.
+ Cái nguyên nhân là cái tạo tác, sinh thành, quyết định. Cái kết quả là cái được tạo tác, được
sinh thành, quyết định.
+ Cái nguyên nhân tạo tác, sinh thành, quyết định cái kết quả nhưng cái kết quả tác động trở lại,
ảnh hưởng, chi phối trở lại cái nguyên nhân.

- Quan hệ nhân quả là quan hệ biến thiên, liên lập (xác lập mối liên hệ), miên viễn (liên tục không
ngừng nghỉ).

+ Cái nguyên nhân và cái kết quả không cố định, bất biến và luôn luôn thay đổi, chuyển hóa và
tương đương với nhau.
+ Nhân quả có thể thay đổi vị trí cho nhau. Vị trí là nguyên nhân hay kết quả được xác định
theo tiến trình tác động cụ thể và xét trong các quan hệ cụ thể của sự tác động.
+ Nhân quả tạo thành chuỗi tác động không đầu, không cuối. Không có nguyên nhân đầu tiên
cũng không có kết quả cuối cùng.

- Quan hệ nhân quả là quan hệ phi tuyến (không phải tuyến tính), phi đối (không phải đối xứng) giữa
nhân - quả

+ Cấu trúc “nguyên nhân” và cấu trúc “kết quả” không đồng bộ trong mọi trường hợp.
+ Các nguyên nhân có vị trí, vai trò, ảnh hưởng khác nhau trong tiến trình hình thành kết quả.
+ Không phải ứng với một NN là một KQ, ứng với một KQ là một NN. Một NN có thể tạo tác
nhiều KQ, một KQ có thể được gây bởi nhiều NN.
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các phạm trù này
- Mọi sự vật hiện tượng đều có nguyên nhân hình thành, xuất hiện, tồn tại và tiêu vong nên không có
vấn đề tồn tại hay không, có nguyên nhân hay không mà chỉ có vấn đề những nguyên nhân của chúng
đã được nhận thức hay chưa mà thôi.
- Mối liên hệ nhân quả là mối liên hệ khách quan, tồn tại gắn liền với thế giới, với các sự vật hiện
tượng. Vì vậy muốn tìm kiếm nguyên nhân thì phải tìm ngay trong thế giới, ngay trong sự vật hiện
tượng.
- Mối liên hệ nhân quả có tính tất yếu vì vậy phải dựa vào tính tất yếu của nó để hành động. Muốn
loại bỏ một hiện tượng nào đó phải loại bỏ nguyên nhân đã sinh ra nó, muốn làm cho một hiện tượng
xuất hiện cần tạo điều kiện thuận lợi cho nguyên nhân phát huy tác dụng.
* Đánh giá
Luận điểm về phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái
nhìn tổng thể và đa chiều về mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự tồn tại của chúng trong thế giới
vật chất. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự phát triển và biến đổi của thế giới xã hội và
tự nhiên, và làm nổi bật tính đa dạng và phức tạp của quá trình này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng phạm trù nguyên nhân - kết quả vào thực tiễn có
thể gặp phải một số hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các nguyên nhân và kết quả
trong các tình huống phức tạp và đa dạng. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này
vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh
vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về phạm trù nguyên nhân - kết quả trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái
nhìn toàn diện và đa chiều về mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự tồn tại của chúng, và làm nổi bật
tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát triển trong thế giới vật chất.

Câu 8 (Vấn đề 7): Phạm trù “Bản chất - Hiện tượng”


* Mở bài
Triết học Mác – Lênin với quan điểm về phạm trù bản chất - hiện tượng cung cấp một cách
tiếp cận độc đáo và sâu sắc về mối quan hệ giữa bản chất của một hiện tượng và sự hiện hữu của nó
trong thế giới vật chất.
* Khái niệm
- “Bản chất” là phạm trù triết học dùng để chỉ các đặc tính cơ bản, chủ yếu làm thành phẩm tính,
phẩm chất bên trong sâu xa, làm thành bản tính, bản sắc của sự vật.
- “Hiện tượng” là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện của các đặc tính cơ bản, chủ yếu phẩm
tính, phẩm chất bên trong sâu xa của sự vật ra bên ngoài của sự vật
* Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, độc lập với nhận thức, hiểu biết của con người.
- Sự thống nhất biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
+ Mỗi sự vật là một thể thống nhất biện chứng của hai mặt bản chất và hiện tượng. Hai mặt
bản chất và hiện tượng tồn tại gắn liền, không tách rời nhau. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện
tượng, hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại
thuần túy đồng thời không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất
+ Bản chất và HT về cơ bản là phù hợp với nhau. BC nào cũng được bộc lộ ra qua những HT
tương ứng. Bản chất nào thì hiện tượng ấy. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi.
- Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng
+ BC phản ánh cái chung, tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. HT phản ánh cái cá
biệt, cái cụ thể của sự vật. HT phong phú hơn bản chất, còn BC sâu sắc hơn hiện tượng.
+ BC là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa hiện thực khách quan. HT là mặt bên ngoài, mặt biểu hiện của
hiện thực khách quan ấy. BC được bộc lộ ra qua hiện tượng và HT là sự biểu hiện của bản chất nhưng
HT có thể phản ánh sai lệch hoặc xuyên tạc bản chất.
+ BC tương đối ổn định, biến đổi chậm còn HT không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh
hơn so với bản chất.
* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu gặp phạm trù này
- BC và HT đều tồn tại khách quan nên con người chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật ở chính sự vật,
không thể tìm bản chất sự vật ở ngoài sự vật đó. Khi kết luận về bản chất của sự vật cần tránh những
nhận định chủ quan, tuỳ tiện.
- BC được bộc lộ ra qua HT, HT cũng là sự biểu hiện của BC nhưng HT có thể phản ánh sai lệch,
xuyên tạc BC. Vì vậy trong mọi nghiên cứu khoa học, trong bất kỳ phạm vi, lĩnh vực nào cần chú ý:
+ Thứ nhất: Muốn nghiên cứu BC phải bắt đầu bằng nghiên cứu các hiện tượng, phải nắm bắt được
nhiều hiện tượng khác nhau vì BC được bộc lộ ra qua nhiều hiện tượng khác nhau
+ Thứ hai: Khi kết luận về BC của sự vật phải khách quan, thận trọng bởi vì BC bộc lộ ra qua hiện
tượng nhưng hiện tượng có thể phản ánh sai lệch bản chất
* Đánh giá
Luận điểm về phạm trù bản chất - hiện tượng trong triết học Mác – Lênin là một phần quan
trọng của lý thuyết về thế giới vật chất và quá trình phát triển của nó. Quan điểm này giúp chúng ta
nhận biết và phân tích sâu sắc hơn về bản chất thực sự của một hiện tượng, từ đó đưa ra những giải
pháp và biện pháp thích hợp để ứng phó
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc hiểu và áp dụng phạm trù bản chất - hiện tượng không
phải lúc nào cũng dễ dàng, và đôi khi có thể gặp phải sự phức tạp và mâu thuẫn trong việc xác định và
phân tích. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc xây
dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về phạm trù bản chất - hiện tượng trong triết học Mác – Lênin mang lại
một cái nhìn sâu sắc và đa chiều về mối quan hệ giữa bản chất của một hiện tượng và cách nó hiện
hữu, và làm nổi bật tính quan trọng và phức tạp của việc hiểu và phân tích về thế giới vật chất.

Câu 9 (Vấn đề 8): Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (Quy luật mâu thuẫn)
* Mở bài
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn, là
một khái niệm quan trọng trong triết học Mác – Lênin.
* Vị trí, vai trò của quy luật
- Đây là quy luật cơ bản thứ nhất & là hạt nhân lý luận của phép biện chứng duy vật.
- Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, biến đổi, phát triển của mọi sự
vật hiện tượng.
* Các khái niệm
- “Mặt đối lập” là khái niệm triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố bộ
phận, những giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau tồn tại trong một thể
thống nhất bên trong sự vật hiện tượng
(- “Mặt mâu thuẫn” là khái niệm triết học dùng để chỉ những mặt đối lập cùng tồn tại nhưng chế
ước, chế định lẫn nhau, ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau tồn tại trong một thể thống nhất bên
trong sự vật hiện tượng làm thành mâu thuẫn biện chứng của sự vật hiện tượng)
- “Sự thống nhất của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc lẫn
nhau, sự gắn kết với nhau, không tách rời nhau, sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt,
các thuộc tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau
- “Sự đấu tranh của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại lẫn nhau,
sự xâm nhập vào nhau, chống lại chống; sự loại trừ, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt, các thuộc
tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau
(- “Sự chuyển hóa của các mặt đối lập” là khái niệm Triết học dùng để chỉ sự biến đổi, sự thay thế
hình thái tồn tại của các mặt, các thuộc tính, các yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh
hướng vận động trái ngược nhau)
* Nội dung của quy luật
- Sự thống nhất của các mặt đối lập
+ Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng của các mặt đối lập, của các thuộc tính, các
yếu tố bộ phận, các giai đoạn quá trình có khuynh hướng vận động trái ngược nhau. Trong thể thống
nhất biện chứng đó, các mặt đối lập ràng buộc, quy định, phụ thuộc lẫn nhau; làm tiền để điều kiện
cho nhau, tác dụng ngang nhau, phù hợp với nhau và cân bằng tương đối với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện quyết định sự tồn tại của sự vật hiện tượng. Nếu
không có sự thống nhất của các mặt đối lập, sự phù hợp tác dụng ngang nhau và sự cân bằng tương
đối với nhau của các mặt đối lập thì không có sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Mỗi sự vật
hiện tượng chỉ tồn tại với tư cách là nó, phân biệt với các sự vật hiện tượng khác khi có sự thống nhất,
sự phù hợp tác dụng ngang nhau, sự cân bằng tương đối với nhau của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập, sự phù hợp tác dụng ngang nhau và sự cân bằng tương đối với
nhau của các mặt đối lập tạo nên sự ổn định tương đối, sự đứng im tương đối là trạng thái sự vật hiện
tượng vẫn còn là nó, khẳng định nó chưa biến đổi, chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập
+ Các mặt đối lập do khuynh hướng vận động trái ngược nhau của mình tác động qua lại với nhau,
xâm nhập vào nhau, loại trừ, bài trừ, phủ định lẫn nhau.
+ Các giai đoạn cơ bản của sự đấu tranh của các mặt đối lập
● Giai đoạn 1: Giai đoạn hình thành mâu thuẫn: các mặt ĐL khác nhau hành động theo bản tính
của chúng làm tăng dần & dẫn đến sự khác nhau cơ bản
● Giai đoạn 2: Giai đoạn phát triển mâu thuẫn: các mặt ĐL vận động dẫn đến sự xung đột với
nhau, bài trừ và phủ định lẫn nhau => sự đối lập tuyệt đối giữa chúng
● Giai đoạn 3: Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn: các mặt ĐL tiếp tục tương tác nhau làm sâu sắc
hơn sự ĐL. Sự ĐL đạt tới đỉnh cao buộc các mặt ĐL phải biến đổi, chuyển hoá để giải quyết
sự đối lập tuyệt đối của chúng
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
+ Cách thức chuyển hóa của các mặt đối lập
● Các mặt đối lập thay đổi vị trí, địa vị của mình; mặt đối lập này biến hóa thành mặt đối lập
kia, mặt đối lập kia biến thành mặt đối lập này.
● Tất cả các mặt đối lập cùng biến đổi và chuyển hóa thành cấu trúc, một dạng tồn tại khác ở
một trình độ tổ chức khác so với dạng thức, hình thức tồn tại trước đó
+ Sự thay của sự vật hiện tượng
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập dẫn đến thay đổi hình thức, dạng thức tồn tại của sự vật
hiện tượng. Hình thức, dạng thức tồn tại này bị thay thế bởi hình thức, dạng thức tồn tại khác.
Sự vật hoàn toàn thay đổi
- Mối liên hệ giữa sự thống nhất, sự đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất là tiền đề, điều kiện của sự đấu tranh. Đấu tranh không tách rời thống nhất
+ Sự đấu tranh của các mặt ĐL => sự chuyển hóa của các mặt đối lập, sự chuyển hóa của các mặt ĐL
là kết quả của sự đấu tranh, sự chuyển hóa của các mặt ĐL dẫn đến thay đổi hình thức, dạng thức tồn
tại của sự vật hiện tượng.
+ Sự thống nhất chỉ là tạm thời, thoáng qua, tương đối; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Thế giới tồn tại xung quanh con người là một khối thống nhất của các sự vật hiện tượng, các quá
trình. Bên trong thế giới, trong sự vật hiện tượng, các quá trình luôn luôn tồn tại các mặt đối lập. Vì
vậy, trong mọi nhận thức khoa học phải luôn nhớ: không cần phải đặt vấn đề có hay không có, tồn tại
hay không tồn tại các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn của sự vật hiện tượng mà chỉ có vấn đề các mặt
ĐL, các mặt mâu thuẫn đã được nhận thực hay chưa mà thôi
- Mỗi sự vật hiện tượng không chỉ tồn tại một mặt đối lập, mâu thuẫn mà có nhiều mặt đối lập, mâu
thuẫn cùng tồn tại. Vì vậy, phải nắm bắt được các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn khác nhau và đánh
giá được vị trí, vai trò của chúng đối với sự tồn tại, vận động của sự vật hiện tượng, từ đó đi đến
những biện pháp hành động thích hợp để giải quyết mâu thuẫn theo yêu cầu hoạt động của con người.
* Đánh giá
Luận điểm về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học Mác –
Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về quá trình phát triển của thế giới. Quan điểm này
giúp chúng ta nhận biết và hiểu rõ hơn về sự phức tạp và đa dạng của mối quan hệ giữa các yếu tố đối
lập trong tự nhiên và xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn có thể gặp phải một số
hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các mặt đối lập trong các tình huống phức tạp và
đa dạng. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc xây
dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học
Mác – Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ giữa các yếu tố đối lập trong
tự nhiên và xã hội, và làm nổi bật tính quan trọng và phức tạp của việc hiểu và phân tích về quá trình
phát triển của thế giới.

Câu 9 (Vấn đề 9): Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
& ngược lại (Quy luật lượng - chất)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng quy luật lượng - chất là một trong những quy luật cơ
bản của tự nhiên và xã hội. Đây là một khái niệm quan trọng giúp chúng ta hiểu sâu hơn về cách mà
thế giới vật chất và xã hội phát triển theo thời gian.
* Vị trí, vai trò
- Quy luật này chỉ ra cách thức của sự vận động, biến đối chuyển hóa của mọi sự vật hiện tượng
* Các khái niệm cơ bản
- Chất: là khái niệm triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, là
sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố bộ phận, giai đoạn quá trình cấu thành làm cho mỗi
sự vật hiện tượng là chính nó, phân biệt với các sự vật hiện tượng khác.
- Lượng: Là khái niệm triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng,
biểu thị số lượng hay tổng số các thuộc tính, yếu tố bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng …
- Độ: Là khái niệm triết học dùng để chỉ giới hạn trong đó hai mặt chất và lượng thống nhất biện
chứng với nhau quy định sự tồn tại của sự vật hiện tượng, giới hạn trong đó sự vật hiện tượng vẫn còn
là nó, chưa biến đổi, chưa chuyển hóa thành sự vật hiện tượng khác.
- Điểm nút: Là khái niệm triết học dùng để chỉ điểm tại đó giới hạn quy định sự tồn tại của sự vật
hiện tượng bắt đầu bị phá vỡ, bắt đầu sự biến chuyển hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng, giới hạn
tại đó sự vật hiện tượng bắt đầu chuyển dần từ hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác.
- Bước nhảy: Là khái niệm triết học dùng để chỉ sự biến đổi nhảy vọt làm thay đổi hoàn toàn hình
thức, dạng thức của sự vật hiện tượng, chất của sự vật hiện tượng.
* Nội dung của quy luật này
- Sự thống nhất của 2 mặt chất & lượng
Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng của hai mặt chất và lượng, hai mặt chất lượng
không tách rời nhau mà tác động với nhau một cách biện chứng.
- Sự đấu tranh giữa 2 mặt chất & lượng
Trong giới hạn Độ, hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau. Khuynh hướng của lượng là
động, dễ thay đổi; khuynh hướng của chất là tĩnh, ổn định. Sự trái ngược nhau và sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa chúng làm cho sự vật hiện tượng tồn tại trong trạng thái không ổn định. [Khi lượng biến
đổi đến điểm nút, phá vỡ giới hạn độ tạo ra bước nhảy và dẫn đến sự thay đổi hình thức tồn tại của sự
vật hiện tượng. Bước nhảy là 1 tất yếu dẫn đến chuyển hóa hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng
trong thế giới, các bước nhảy bao gồm: bước nhảy tốc độ, bước nhảy quy mô, bước nhảy lĩnh vực.]
- Sự thay đổi của sự vật hiện tượng
Việc thực hiện bước nhảy dẫn đến việc xác lập hình thức tồn tại của sự vật hiện tượng, hình thức tồn
tại này thay thế cho hình thức tồn tại khác; hình thức tồn tại khác tạo lập cấu trúc Chất-Lượng mới. Sự
vật hiện tượng hoàn toàn thay đổi.
- Sự tác động qua lại giữa chất mới và lượng mới
Với cấu trúc tồn tại mới, hai mặt chất-lượng mới lại tác động qua lại với nhau làm cho sự vật hiện
tượng vận động biến đổi. Vì vậy sự vận động biến đổi chuyển hóa của sự vật hiện tượng là 1 quá trình
liên tục tuyệt đối không ngừng nghỉ.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Mỗi sự vật hiện tượng là 1 thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt chất và lượng tồn tại
trong mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Muốn nhận thức đúng sự vật hiện tượng phải nhận
thức cả hai mặt chất và lượng
- Mỗi sự vật hiện tượng đều vận động biến đổi do tt của hai mặt chất và lượng theo tiến trình tích lũy
dần về lượng và đến một mức độ nhất định dẫn đến sự thay đổi về chất. Vì vậy cần chống cả hai
khuynh hướng: khuynh hướng tả khuynh và khuynh hướng hữu khuynh
- Cần chống lại hai khuynh hướng: khuynh hướng tả khuynh là khuynh hướng chủ quan, nóng vội,
duy ý chí, bất chấp quy luật có tích lũy về lượng đến mức độ nhất định mới có biến đổi về chất, muốn
đốt cháy giai đoạn. Khuynh hướng hữu khuynh: là khuynh hướng bảo thủ, trì trệ thiếu kết quả do
không dám thực hiện bước nhảy khi đã có quá trình tích lũy về lượng.
* Đánh giá
Luận điểm về quy luật lượng - chất trong triết học Mác – Lênin là một phần không thể thiếu
của lý thuyết về sự phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội. Quan điểm này giúp chúng ta hiểu rõ
hơn về mối quan hệ phức tạp giữa các biến đổi về lượng và sự chuyển hoá về chất trong quá trình phát
triển của các hệ thống.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng việc áp dụng quy luật lượng - chất vào thực tiễn có thể gặp phải
một số hạn chế, đặc biệt là trong việc xác định và đánh giá các yếu tố gây ra các biến đổi về lượng và
cách chúng ảnh hưởng đến sự chuyển hoá về chất. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý
thuyết này vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong
các lĩnh vực khác nhau.
* Kết bài
Tóm lại, quy luật lượng - chất trong triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và đa
chiều về mối quan hệ giữa các biến đổi về lượng và sự chuyển hoá về chất trong quá trình phát triển
của thế giới tự nhiên và xã hội.

CHƯƠNG 3. TRIẾT HỌC VỀ XÃ HỘI


Câu 1 (Vấn đề 10): Quy luật về mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa tồn tại xã hội & ý thức xã hội
* Mở bài
Theo triết học Mác – Lênin, quan hệ biện chứng giữa "Tồn tại xã hội" và "Ý thức xã hội"
phản ánh một quá trình tương tác phức tạp giữa cơ sở vật chất (tồn tại xã hội) và tầng ý thức (ý thức
xã hội).

* Khái niệm, kết cấu (Câu Khái niệm 1đ)


- “Tồn tại xã hội” là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống vật chất, toàn bộ các điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội, là tổng thể của các quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và các quan
hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất vật chất.
- Kết cấu của “tồn tại xã hội”
+ Hoàn cảnh địa lý: Là các điều kiện tự nhiên và môi trường thiên nhiên bao quanh con người như
điều kiện thổ nhưỡng cà điều kiện khí hậu; điều kiện thổ nhưỡng bao gồm: đất, kênh rạch , sông ngòi,
ao hồ. thảm động vật, các loại khoáng sản trong lòng đất,… Điều kiện khí hậu bao gồm khí quyển,
không khí, độ ẩm, thời tiết, gió, mưa, ánh sáng, bóng tối.
+ Dải dân số: Là số lượng dân cư, mật độ dân cư, sự phân bố dân cư, cơ cấu dải, sức khỏe, trình độ
dân trí và văn hóa.
+ Phương thức sản xuất: Là cách thức con người dùng để tiến hành sản xuất, cách thức dùng để phát
huy tính năng của các phương tiện lao động khi con người sử dụng chúng vào quá trình tác động vào
giới tự nhiên.
- “Ý thức xã hội” là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần, toàn bộ quá trình sinh
hoạt tinh thần của xã hội, là tổng thể của các giá trị chuẩn mực tinh thần được hình thành, nảy sinh
trong quá trình sinh hoạt vật chất và được duy trì trong đời sống của con người.
- Kết cấu của “ý thức xã hội”
+ Ý thức thông thường là ý thức của con người về môi trường, điều kiện hoàn cảnh sinh hoạt vật chất
trong đó con người là mối liên hệ trực tiếp. Trong đó quá trình sinh sống của con người xảy ra thường
nhật và luôn luôn chịu sự tác động của chúng, đó là sự hiểu biết thông thường về những mối liên hệ
trực tiếp cụ thể, có tính cách cá nhân riêng lẻ dựa trên những nhận xét đánh giá của những cá nhân
hay cộng đồng có giới hạn chưa được hệ thống hóa thành hệ thống lý luận.
+ Ý thức khoa học là ý thức của con người về mối liên hệ của các sự vật hiện tượng, các quá trình và
bản chất của chúng, mang tính khách quan lí luận trừu tượng cao, đó là những tư tưởng quan điểm của
thế giới được hệ thống hóa và khái quát hóa thành các học thuyết khoa học và được trình bày dưới
dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật.
+ Tâm lý xã hội là toàn bộ những tình cảm ước muốn, tâm trạng thói quen tập quán truyền thống của
một bộ phận xã hội hay của toàn bộ xã hội được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống
hằng ngày con người.
+ Hệ tư tưởng xã hội là hệ thống những quan điểm tư tưởng được hệ thống, khái quats hóa thành lý
luận, thành các học thuyết thành văn được hình thành thông qua ý thức tự giác của cá nhân, cộng
đồng người và được phổ biến thành những nguyên lý chung của xã hội.
* Quan hệ biện chứng giữa tồn tại XH và ý thức XH
- Vai trò của TTXH đối với YTXH
+ TTXH quyết định sự hình thành, xuất hiện của YTXH (Về nguồn gốc hình thành của YTXH: TTXH
quyết định YTXH. TTXH là cơ sở làm khởi phát sự hình thành, xuất hiện và tồn tại của YTXH.
YTXH được hình thành xuất hiện từ TTXH và phụ thuộc vào nó. Theo C. Mác: “Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, chính tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của
họ”)
+ TTXH quyết định nội dung phản ánh của YTXH (Về nội dung phản ánh của YTXH: TTXH như thế
nào, điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội ra sao, quá trình sinh hoạt vật chất của xã hội như thế nào
thì YTXH, toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội như tình cảm, tâm trạng, tập quán, thói quen, truyền
thống và những quan điểm tư tưởng lý luận của xã hội cũng như thế ấy. YTXH chỉ là cái khái quát
phản ánh của những điều kiện sinh hoạt, vật chất, quá trình sinh hoạt quan hệ biện chứng giữa TTXH
và YTXH)
+ TTXH quyết định sự biến đổi của YTXH (Về khuynh hướng vận động của YTXH: TTXH thay đổi
thì YTXH thay đổi, các điều kiện sinh hoạt vật chất, quá trình sinh hoạt vật chất thay đổi thì YTXH
cũng thay đổi, toàn bộ đời sống tinh thần, toàn bộ quá trình sinh hoạt tinh thần cũng thay đổi. Những
biến đổi của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội là gốc rễ của những biến đổi của đời sống
tinh thần của xã hội)
- Vai trò của YTXH đối với TTXH
+ Tính độc lập tương đối của YTXH với TTXH
● Tính lạc hậu, bảo thủ: Về mặt nhận thức, ý thức xã hội là cái có sau, cải xuất hiện sau, là cái
khái quát, cải phản ánh nên ý thức xã hội thường phát triển chậm hơn, thường không phản
ánh đầy đủ kịp thời trọn vẹn tồn tại xã hội ngay khi đang tiến hành nhận thức, khái quát phản
ảnh. Về mặt tồn tại, sau khi hình thành xuất hiện, ý thức xã hội tồn tại lâu dài, dai dẳng, tạo
thành tức thì, quản tỉnh, củng cố chỉnh sự tồn tại của nó và được con người duy trì trong đời
sống của mình.
● Tính tiên phong, vượt trước: Ý thức xã hội có thể dự kiến, dự báo, dự phóng tiến trình tồn tại,
vận động của xã hội; có thể vạch ra bức tranh tương lai của tồn tại xã hội. Tuy nhiên, tinh tiên
phong vượt trước của ý thức xã hội có thể đúng sai, phù hợp hay không, có thể khách quan
hay chủ quan.
● Tính kế thừa, phát huy: Những quan điểm, học thuyết lý luận được hình thành từ trước luôn
luôn được kế thừa, phát huy, kế tục. Chúng luôn luôn là cơ sở lý luận cho các quan điểm cho
các học thuyết lý luận về sau. Sự kế thừa, phát huy, kế tục những giá trị tư tưởng lý luận trước
đó làm cho ý thức xã hội biểu hiện ra như 1 quá trình nối tiếp, liên tục giữa những tư tưởng tư
duy của các thế hệ, các giai đoạn lịch sử.
● Tính logic nội tại của YTXH: Ý thức xã hội là 1 kết cấu gồm nhiều bộ phận cấu thành của nó.
Các yếu tố bộ phận cấu thành ý thức xã hội có mối liên hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau. Mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các yếu tố bộ phận cấu thành của ý thức xã hội
làm thành động lực bên trong, làm thành logie bên trong làm cho ý thức xã hội vận động, biến
đổi, phát triển và biểu hiện ra như quá trình tự thân vận động, tự phát triển, tự chuyển hóa.
+ Sự tác động trở lại của YTXH đối với TTXH
● YTXH có thể tác động trở lại tồn tại xã hội
● Chiều hướng tác động của YTXH đối với TTXH có thể tích cực hoặc tiêu cực. Sự tác động
trở lại của ý thức xã hội với tồn tại xã hội hoặc tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc vào :
○ Mức độ phù hợp, mức độ khái quát phản ánh phù hợp hay không phù hợp của bản
thân nó đối với tồn tại xã hội.
○ Mức độ phổ biến truyền bá của bản thân nó trong khối đông quần chúng
○ Vai trò lịch sử (tiến bộ hay phản tiến bộ) của các lực lượng xã hội giương cao ngọn
cờ lý luận
○ Các công cụ, phương tiện lực lượng vật chất và cách thức tác động của các công cụ
phương tiện lực lượng vật chất đó.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, quyết định phương thức phản ánh và nội dung phản ánh của
ý thức xã hội. Ý thức xã hội là cái phản ánh của tồn tại xã hội. Vì vậy muốn tìm hiểu ý thức xã hội
phải tìm hiểu điều kiện sinh hoạt vật chất, quá trình sinh hoạt vật chất của xã hội.
- Tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội thay đổi. Muốn nhận thức sự thay đổi thì ý thức xã hội phải
nhận thức sự thay đổi của tồn tại xã hội, phải nhận thức sự thay đổi của đời sống vật chất, điều kiện
sinh hoạt vật chất của xã hội.
- Ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội hoặc theo hướng tích cực hoặc theo hướng tiêu
cực. Vì vậy muốn ý thức tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội thì :
+ Thứ nhất, phải tìm kiếm các phương thức để phản ánh, khái quát tồn tại xã hội một cách
thích hợp, khoa học.
+ Thứ hai, phải phổ biến, truyền bả sâu rộng những tư tưởng tiến bộ, đúng đắn, khoa học
* Đánh giá
Luận điểm của Mác – Lênin về quan hệ biện chứng giữa "Tồn tại xã hội" và "Ý thức xã hội"
phản ánh một góc nhìn đa chiều và phức tạp về quá trình phát triển xã hội. Quan điểm này nhấn mạnh
sự tương tác không ngừng giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần, và làm nổi bật vai trò quyết định
của cơ sở vật chất trong việc hình thành và phản ánh ý thức xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội không phải lúc nào
cũng là một quá trình tuyến tính và một chiều như Mác – Lênin mô tả. Trong một số trường hợp, ý
thức xã hội có thể đặt ra giới hạn hoặc điều chỉnh quá trình phát triển của tồn tại xã hội, và ngược lại.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm của Mác – Lênin về quan hệ biện chứng giữa "Tồn tại xã hội" và "Ý thức
xã hội" là một phần quan trọng của triết học xã hội và vẫn cung cấp các cơ sở lý thuyết quan trọng để
hiểu và phân tích sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nó cũng cần được áp dụng một cách linh hoạt và
cân nhắc để phản ánh chính xác hơn các tình huống cụ thể trong thực tiễn xã hội.

Câu 2 (Vấn đề 11): Quy luật về MLH và sự tác động qua lại giữa LLSX & QHSX
* Mở bài
Trong triết học Mác – Lênin, QHBC giữa LLSX & QHSX được coi là yếu tố chủ đạo quyết định sự
phát triển của xã hội.
* Khái niệm, kết cấu
- “Lực lượng sản xuất” là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ các nhân tố vật chất - kỹ thuật và
các sức mạnh hiện thực của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên để sản xuất ra của cải vật
chất.
- Kết cấu của lực lượng sản xuất:
+ Tư liệu SX
● Là toàn bộ các vật thể, vật chất được con người sử dụng trong quá trình tổ chức sản xuất. Tư
liệu sản xuất bao gồm:
○ Tư liệu lao động bao gồm: công cụ lao động & các phương tiện khác.
○ Đối tượng lao động bao gồm: loại sẵn có trong tự nhiên & loại đã qua chế biến
● Vai trò:
○ Là yếu tố cần thiết, không thể thiếu của sản xuất vật chất. Không có TLSX thì con
người không thể tiến hành SX
○ Là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành của LLSX.
+ Con người SX
● Là chủ thể thực hiện, tiến hành quá trình sản xuất bao gồm
○ Khả năng lao động: là khả năng hoạt động của chân tay, cơ bắp, trí óc
○ Nhu cầu lao động: là nhu cầu tham gia vào hoạt động sản xuất với tinh thần trách
nhiệm và lương tâm
○ Tri thức lao động: là sự hiểu biết về chuyên môn và sự hướng dẫn của sự hiểu biết đó
trong quá trình thao tác các hành động
○ Kinh nghiệm lao động: là thói quen, kỹ năng, kỹ xảo thao tác khi tiến hành lao động
● Vai trò:
○ Con người là chủ thể thực hiện, tiến hành QTSX. Con người vừa chế tạo, sử dụng
công cụ lao động vừa quản lý, điều hành QTSX.
○ Sự kết hợp giữa con người SX, TLSX và việc tiến hành SX là nguồn gốc đưa đến của
cải vật chất của XH.
- “Quan hệ sản xuất” là khái niệm triết học dùng để chỉ toàn bộ quan hệ KT-VC giữa người và
người, được hình thành, xuất hiện, tồn tại trong quá trình SXVC, trong quá trình tác động vào giới TN
& cải tiến nó của con người
- Kết cấu của quan hệ sản xuất: QHSX là sự thống nhất hữu cơ của 3 mặt
+ Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất
+ Quan hệ về tổ chức, quản lý sản xuất
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm lao động
* Quan hệ biện chứng giữa LLSX & QHSX
- Sự thống nhất giữa LLSX & QHSX
+ Mỗi XH đều có một PTSX tương ứng với nó
+ Mỗi PTSX là một thể thống nhất biện chứng của 2 bộ phận cấu thành là LLSX & QHSX. Trong đó:
LLSX & QHSX quy định, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau; tính chất & trình độ của LLSX quyết định
các QHSX nhưng các QHSX tác động, ảnh hưởng, chi phối sự vận động, tồn tại của LLSX.
+ Mỗi PTSX là một trạng thái tồn tại trong đó có sự cân bằng tương đối giữa LLSX, trong đó QHSX
được xác lập phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. LLSX tồn tại, vận động trong sự phù hợp
của các QHSX với tính chất và trình độ của nó
- Sự đấu tranh giữa LLSX & QHSX
+ Sự tác động qua lại giữa LLSX & QHSX
Trong thể thống nhất biện chứng, LLSX & QHSX nhằm vào nhau, tác động qua lại với nhau. LLSX
là khuynh hướng động, luôn thay đổi và đòi hỏi QHSX là khuynh hướng tĩnh phải luôn luôn thích ứng
với sự thay đổi của nó để phát triển sản xuất
+ Sự mâu thuẫn giữa LLSX & QHSX
LLSX đòi hỏi phải được phát triển bị các QHSX trói buộc, QHSX đòi hỏi phải được ổn định bị các
LLSX đòi hỏi phải bị phá vỡ, xoá bỏ. Nền SX tồn tại trong trạng thái đối đầu, đối lập giữa khuynh
hướng phải được phát triển của LLSX và khuynh hướng phải được duy trì, ổn định của QHSX
- Quan hệ biện chứng giữa LLSX & QHSX
+ Cách mạng xã hội phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX & QHSX: khi mâu thuẫn
giữa LLSX & QHSX đến đỉnh điểm, khi nền SX XH không thể tiếp tục trong tình trạng mâu
thuẫn đó, cuộc CMXH nổ ra & PTSX trong đó LLSX & QHSX mâu thuẫn bị xóa bỏ, một
phương thức SX khác được thiết lập & thay thế
+ Sự xóa bỏ của một PTSx này & sự xác lập của một PTSX kia hay sự thay thế lẫn nhau của
các PTSX là một quá trình phủ định biện chứng trong đó:
● Mỗi PTSX là một nấc thang tạo lập sự cân bằng, sự phù hợp giữa LLSX & QHSX\để
phát triển SX
● Mỗi PTSX là một trình độ chinh phục, cải tạo TN của con người & PTSX sau thường
cao hơn PTSX trước.

* Ý nghĩa phương pháp luận


- Mỗi XH có một PTSX và mỗi PTSX có sự thống nhất giữa LLSX & QHSX. PTSX quyết định sự
tồn tại & phát triển của XH. Muốn nhận thức đúng PT tồn tại của một XH, phải nhận thức đúng PTSX
của XH đó. Muốn nhận thức đúng PTTT của một XH, phải nhận thức đầy đủ các bộ phận cấu thành
đó là LLSX & QHSX, không được nhận thức mặt này, bỏ qua mặt kia và ngược lại.
- Mâu thuẫn giữa LLSX, QHSX & đấu tranh giữa chúng là nguồn gốc, động lực phát triển của SX &
đến lượt nó sự phát triển của SX dẫn đến sự phát triển của XH. Vì vậy, muốn phát triển SX, một mặt
phải phát triển LLSX, mặt khác phải tạo ra sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của
LLSX.
* Đánh giá
Luận điểm của Mác – Lênin về quan hệ biện chứng giữa "Lực lượng sản xuất" và "Quan hệ
sản xuất" có ý nghĩa sâu sắc và phản ánh chính xác quá trình phát triển của xã hội. Việc nhìn nhận
quan hệ này như một quá trình tương tác hai chiều giữa yếu tố vật chất và yếu tố xã hội, chứ không
chỉ là một chiều từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất hoặc ngược lại, là một góc nhìn đáng quý.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, trong thực tế, quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất không phải lúc nào cũng là một quá trình tuyến tính và mạnh mẽ như Mác – Lênin mô tả.
Đôi khi, yếu tố xã hội có thể đặt ra giới hạn hoặc điều chỉnh quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất, và ngược lại.
* Kết bài
Tóm lại, quan điểm của Mác – Lênin về QHBC giữa "Lực lượng sản xuất" và "Quan hệ sản xuất" là
một phần quan trọng của triết học xã hội, và vẫn cung cấp các cơ sở lý thuyết quan trọng để hiểu và
phân tích sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nó cũng cần được áp dụng một cách linh hoạt và cân
nhắc để phản ánh chính xác hơn các tình huống cụ thể trong thực tiễn xã hội.

CHƯƠNG 4. TRIẾT HỌC VỀ NHẬN THỨC

Câu 1:
Triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn sâu sắc và toàn diện về nhận thức cảm tính và
nhận thức lí tính, đồng thời đề xuất một quan hệ biện chứng giữa hai loại nhận thức này. Điều này
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quá trình nhận thức của con người và cách mà ý thức phản ánh thế giới
vật chất.
* Bảng so sánh nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính

Thứ tự Nhận thức cảm tính Nhận thức lý tính

1. Cơ sở, công cụ Các giác quan của con người (là chủ yếu) Bộ óc người (là chủ yếu)

2. Cơ chế thực hiện Biến đổi năng lượng kích thích thành xung Thực hiện các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp,
lượng thần kinh trừu tượng hóa, khái quát hóa, phán đoán suy luận.

3. Tính chất phản ánh Trực tiếp, cụ thể, sinh động Gián tiếp, trừu tượng, khái quát

4. Nội dung phản ánh Bề ngoài, riêng lẻ, ngẫu nhiên Bên trong, chung, bản chất, quy luật

5. Khái quát phản ánh Tri thức cảm tính, cảm giác, tri giác, biểu Tri thức, lý tính, mối liên hệ, bản chất, quy luật
tượng, kinh nghiệm

6. Đánh giá - Ưu điểm: cung cấp thông tin trực tiếp, - Ưu điểm: Khái quát bản chất, quy luật của sự vật,
cơ sở để hình thành tri thức con người hiện tượng, tạo nên chiều sâu, tinh tế của tri thức.
- Hạn chế: Tri thức, bề ngoài, cảm tính, - Hạn chế: Bỏ qua cái phong phú, sinh động của sự
chưa chỉ ra bên trong sự vật hiện tượng vật, hiện tượng.

* Quan hệ tương hỗ giữa nhận thức cảm tính & nhận thức lý tính
- NTCT là cơ sở, nền tảng của NTLT. Không có NTCT thì không có NTLT. NTLT chỉ diễn ra & triển
khai được trên cơ sở nền tảng của NTCT. Nếu không dựa trên nền tảng của NTCT, NTLT chỉ còn là
tư duy thuần tuý, thiếu sức sống, cằn cỗi, khô héo & không thể vững chắc
- NTLT được hình thành trên mỗi bước đi của NTCT nhưng tham gia vào NTCT. Nó làm cho NTCT
trở nên sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Không có NTLT thì NTCT chỉ còn là những cảm nhận riêng lẻ, rời
rạc, chỉ là những tri thức vụn vặt, lẻ tẻ về TG. Không có NTLT, NTCT chỉ giới hạn trong cái cảm tính
tủn mủn, vụn vặt.
- “NTCT & NTLT không tách rời nhau, độc lập với nhau mà liên hệ, ràng buộc nhau, bao hàm trong
nhau và thẩm thấu vào nhau”. Trên mỗi bước đi của NTCT đã có, đã chứa đựng NTLT và ngược lại
* Đánh giá
Luận điểm về nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và quan hệ biện chứng giữa chúng trong
triết học Mác – Lênin mang lại một cái nhìn đa chiều và phong phú về quá trình nhận thức của con
người. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cảm tính và lý tính là hai phần không thể tách rời trong quá
trình nhận thức, và cách mà chúng tương tác và bổ sung lẫn nhau
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính có thể gặp
phải một số mâu thuẫn và hạn chế, đặc biệt là trong việc đánh giá các vấn đề phức tạp và đa chiều.
Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc hiểu và giải
quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, quan điểm về nhận thức cảm tính, nhận thức lí tính và quan hệ biện chứng giữa
chúng trong triết học Mác – Lênin cung cấp một cách nhìn sâu sắc và phong phú về quá trình nhận
thức của con người, đồng thời đề xuất một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích thế
giới xung quanh.
Câu 2: Tổng quan sơ đồ con đường biện chứng của nhận thức (các luận điểm của Lênin, sơ đồ xoáy
ốc, giải thích sơ đồ, ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu con đường biện chứng của nhận
thức)
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin cung cấp một cách tiếp cận sâu sắc và toàn diện về con đường biện
chứng của nhận thức, xem xét nó như một quá trình phức tạp và liên tục trong việc hiểu biết thế giới.
Điều này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách mà nhận thức của con người tiến triển từ mức độ đơn giản
đến mức độ phức tạp hơn thông qua sự tương tác và đấu tranh của các mặt đối lập.
* Theo LeNin:
- “Nhận thức của con người không phải là một đường thẳng mà là một đường cong đi gần vô hạn đến
1 loạt những vòng tròn đến một vòng xoáy ốc.”
- “Những vòng khâu của nhận thức (bằng của ý niệm của con người về thế giới tự nhiên) đó là những
phạm trù logic.”
- “Tất cả những vòng khâu ấy (bước, giai đoạn) của nhận thức đi từ chủ thế khác thể được kiểm tra
bằng thực tiễn và thông qua sự kiểm tra ấy mà đạt đến chân lý.”
* Sơ đồ xoáy ốc

* Giải thích sơ đồ:

Thực tiễn là cơ sở trực tiếp làm Các vòng khâu nhận thức là Các vòng khâu nhận thức nối
nảy sinh nhu cầu nhận thức thế hiện thực của quá trình nhận tiếp nhau tạo thành đường
giới của con người, là nơi mở thức thế giới của con người. xoắn ốc biểu hiện sự vận động
đầu và cũng là nơi kết thúc của Mỗi vòng khâu hay mỗi chu không ngừng của nhận thức,
quá trình nhận thức. Một vòng trình nhận thức là sự thống thể hiện quá trình đi sâu vô
khâu nhận thức bắt đầu từ thực nhất biện chứng của các mặt tận của con người vào thế
tiễn và kết thúc ở thực tiễn. đối lập, các mặt mâu thuẫn giới, các sự vật hiện tượng.
Thực tiễn quy định các vòng chứa đựng trong nó. Sự tác Mỗi vòng khâu là một bước
khâu nhận thức quy định sự động qua lại của các mặt đối phát triển của nhận thức và
vận động của các vòng khâu lập các mặt mâu thuẫn trong vòng khâu sau cao hơn vòng
nhận thức, xác nhận tính chân khác vòng khâu nhận thức tạo khâu trước về chất lượng,
thực hay không chân thực của thành động lực bên trong thúc trình độ khái quát, phản ánh.
các vòng không nhận thức xác đẩy sự vận động của nhận thức Mỗi vòng khâu nhận thức tạo
nhận hình ảnh chủ quan được và sự tiếp nối nhau của các dựng 1 hình ảnh phản ánh thế
con người tạo ra trong quá trình vòng khâu nhận thức. Theo giới, phản ánh sự vật chân
nắm bắt thế giới các sự vật hiện Lênin:”Nhận thức là quá trình thực, thuyết phục hơn. Sau
tượng. vĩnh viễn của sự vận động, nảy mỗi vòng khâu nhận thức loại
sinh mâu thuẫn và sự giải quyết bỏ được một phần sai lầm vấp
Ph.Ăngghen:" Chính việc mâu thuẫn đó. phải trước đó và đã có nội
người ta biến đổi GTN chứ dung khách quan, bản chất
không phải là một mình GTN, hơn.
với tư cách là GTN, là cơ sở
chủ yếu nhất, trực tiếp nhất của
tư duy con người và trí tuệ con
người đã phát triển song hành
với việc người ta đã học cải
biến GTN.”

* Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu con đường biện chứng của nhận thức

Thực tiễn là cơ sở, là nền tảng của nhận thức, là mục


Nhận thức là một quá trình. Quá trình nhận thức đích của nhận thức, là nơi bắt đầu và cũng là nới kết
gồm 2 giai đoạn (giai đoạn từ trực quan sinh động thúc của nhận thức. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận
đến tư duy trừu tượng và giai đoạn từ tư duy trừu thức. Vì vậy trong mọi nhận thức nghiên cứu khoa học
tượng đến thực tiễn). Vì vậy, trong mọi nhận thức cần chú ý:
nghiên cứu khoa học cần phải nắm bắt đầy đủ cả 2 - Phải căn cứ vào thực tiễn để xác định đúng vấn đề
giai đoạn của quá trình nhận thức. Không được cần nhận thức, cần nghiên cứu. Thoát lý thực tiễn,
nắm bắt giai đoạn này bỏ qua giai đoạn kia và không dựa vào thực tiễn sẽ không có nhận thức khoa
ngược lại. Không được đề cao tuyệt đối hóa quá học đúng đắn. (Theo Lenin: “Quan điểm vể đời sống
trình nhận thức này, hạ thấp quá trình nhận thức về thực tiễn phải là quan điểm cơ bản của lý luận về
kia và ngược lại. Nếu đề cao, tuyệt đối hóa quá nhận thức”
trình nhận thức cảm tính sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy - Phải coi trọng công tác tổng kết khái quát thực tiễn,
giáp, chủ nghĩa duy cảm. Nếu đề cao và tuyệt đối phải xuất phát từ thực tiễn để tổng kết khái quát thành
hóa quá trình nhận thức lý tính sẽ dẫn đến chủ học thuyết, lý luận. Mọi học thuyết, mọi lý luận phải
nghĩa duy lý. Cá hai khuynh hướng đều có thể dẫn được xác minh, kiểm nghiệm qua thực tiễn, bằng thực
đến sai lầm. tiễn, trong thực tiễn.

* Đánh giá
Luận điểm về con đường biện chứng của nhận thức theo quan điểm của triết học Mác – Lênin
mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về quá trình nhận thức của con người. Nó nhấn mạnh vào
sự phát triển liên tục và phức tạp của nhận thức thông qua sự tương tác và đấu tranh của các mặt đối
lập, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cách mà kiến thức và hiểu biết của con người được hình thành và
phát triển.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng con đường biện chứng của nhận thức có thể gặp phải một số
hạn chế, đặc biệt là trong việc đối mặt với những mâu thuẫn và sự phản bội giữa các quan điểm và
kiến thức. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc hiểu
và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về con đường biện chứng của nhận thức trong triết học Mác – Lênin cung
cấp một cái nhìn toàn diện và đa chiều về quá trình nhận thức của con người, đồng thời đề xuất một
cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích thế giới xung quanh.

Câu 2 – Chương 2
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin đặt một tầm quan trọng đặc biệt vào việc hiểu và phân tích quá trình
phát triển của xã hội, tự nhiên và ý thức xã hội. Điểm nổi bật trong triết lý của Mác – Lênin là nguyên
lý về sự phát triển, được hiểu là quá trình tiến hóa và biến đổi không ngừng của thế giới, dựa trên mối
tương tác phức tạp giữa các yếu tố.
* Các khái niệm:
- Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn trên các phương diện của mọi sự vật, hiện tượng.
- Vận động là phạm trù triết học dùng để chỉ mọi sự biến đổi, mọi sự thay đổi trên các phương diện: vị
trí, hình thái, cấu trúc, chiều hướng, … của mọi sự vật, hiện tượng.
*Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan: phát triển là thuộc tính khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng; phát triển
tồn tại độc lập với ý thức của con người dù con người nhận thức được hay ko nhận thức được.
- Tính phổ biến: phát triển là khuynh hướng tồn tại, có mặt trong toàn bộ thế giới.
+ Trong tự nhiên, sự phát triển biểu hiện ra ở khuynh hướng phát triển ngày các phức tạp của
vạn vật, từ vô cơ đến hữu cơ, từ hữu cơ đơn giản đến những tổ chức sống vô cùng phức tạp,
ngày một thích nghi và hoàn thiện hơn trước sự biến đổi của môi trường.
+ Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực của con người chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội đến tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người. Xã hội loài
người đó phát triển từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua các chế độ CHNL, PK, TBCN đến
XHCN.
+ Trong tư duy, phát triển là sự vận động, tiến lên không ngừng của các tri thức, khái niệm,
đưa khả năng nhận thức của con người ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với hiện thực
khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có một quá trình phát triển không giống nhau, tùy
thuộc vào các điều kiện tồn tại và các mối liên hệ của nó.
* Nội dung nguyên lý:
- Mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, chuyển hóa từ hình thức tồn tại này sang hình thức
tồn tại khác. Không có sự vật, hiện tượng nào luôn luôn giữ nguyên bản thân nó, luôn luôn như nó là,
không thay đổi. Không có sự vật, hiện tượng nào vĩnh viễn, bất biến. Tất cả đều chỉ là quá độ, tạm
thời, thoáng qua, tương đối. Tất cả đều không ngừng biến đổi và biến đổi là tuyệt đối, tồn tại là nhất
thời, tương đối.
“Sự tồn tại của giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất cho đến cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến mặt trời, từ
nguyên sinh vật cho đến con người, là một quá trình không ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động
không ngừng, vận động và biến hóa bất tuyệt” (Ph. ĂngGhen, Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật,
Hà Nội 1971, trang 29).
- Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Phát triển là quá trình biến đổi, mở
rộng mọi mặt, mọi phương diện (thành phần, kết cấu nội dung, hình thức, mối liên hệ) của sự vật, hiện
tượng theo hướng đa dạng hơn, phức tạp hơn, có tổ chức hơn nhưng tiến bộ hơn, tiên tiến hơn và chất
lượng hơn. Đó là quá trình tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.
“Phát triển không phải là một sự lớn lên đơn giản, một sự tăng thêm (hay là một sự giảm bớt) phổ
biến mà phát triển là sự sinh ra và sự hủy diệt của mọi vật, là những sự chuyển hóa lẫn nhau” (V.I.
Lênin, Bút ký triết học, NXB Sự thật Hà Nội, 1963, trang 284 – 285).
- Phát triển là quá trình biện chứng tự thân của sự vật, hiện tượng, là quá trình sự vật, hiện tượng tự
vạch đường đi cho mình, tự diễn biến mình, tự trình hiện mình. Trong đó:
+ Sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu thuẫn của chính nó (mâu thuẫn giữa các mặt đối
lập, mâu thuẫn giữa cái chất lượng và số lượng, mâu thuẫn giữa các khẳng định và phủ định).
+ Sự vật, hiện tượng tạo lập các “vòng khâu biện chứng” hay các “vòng khâu liên hệ” theo
đường xoáy ốc đi từ cái khẳng định đến cái phủ định, từ cái phủ định đến cái phủ định của
phủ định.
+ Sự vật, hiện tượng tổ chức sắp xếp lại bản thân, đổi mới, nâng cấp nó (vứt bỏ, loại bỏ cái
không còn thích hợp, phù hợp, ko còn tác dụng; tạo lập trật tự mới với những cái còn thích
hợp, còn phù hợp, còn tác dụng)
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nguyên tắc vận động, phát triển: mọi sự vật, hiện tượng đều vận động, biến đổi, đều chuyển hóa từ
hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác, ko có sự vật, hiện tượng nào bất biến, giữ nguyên
hiện trạng như nó là. Trái lại tất cả đều biến đổi, đều quá độ, đều thoáng qua vì vậy trong mọi nhận
thức nghiên cứu khoa học, trong mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau chủ thể nhận thức phải nắm bắt sự
vật, hiện tượng trong quá trình vận động biến đổi chuyển hóa của nó chứ không phải trong trạng thái
bất biến tĩnh tại ngưng trệ.
- Nguyên tắc mâu thuẫn: vận động là tự thân, phát triển là tự thân. Vận động và phát triển là kết quả
của việc sự vật, hiện tượng giải quyết những mâu thuẫn bên trong nó. Vì vậy trong mọi nhân thức
nghiên cứu khoa học, trong mọi phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên
cứu phải nắm bắt được các mặt đối lập, các mặt mâu thuẫn và sự tác động qua lại của chúng để nắm
bắt sự vận động, biến đổi chuyển hóa của chúng.
Theo Lê nin: “Sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Vì vậy nhận thức sự vật, hiện
tượng là nhận thức các mặt đối lập và sự đấu tranh của chúng.
- Nguyên tắc biện chứng: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng nhưng phát
triển không diễn ra theo con đường thẳng tắp, cũng không theo đường tròn khép kín mà theo đường
xoáy ốc, quanh co, zic zac, phức tạp, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại và điều kiện hoàn cảnh môi
trường tồn tại của sự vật, hiện tượng. Vì vật trong mọi nhận thức nghiên cứu khoa học, trọng mọi
phạm vi lĩnh vực khác nhau của thế giới, chủ thể nhận thức nghiên cứu phải nắm bắt được biện chứng
quanh co phức tạp, zic zac của quá trình vận động phát triển của sự vật, hiện tượng để nắm bắt tính tất
yếu của sự phát triển của nó.
Theo Lê nin: “Bản thân sự vật phải được xem xét trong những và trong sự phát triển của nó"
* Đánh giá
Luận điểm về nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin là một phần quan trọng
của hệ thống triết lý của ông và mang lại những hiểu biết sâu sắc về cách mà thế giới phát triển. Quan
điểm này làm nổi bật tính đa chiều và phức tạp của sự phát triển, và giúp chúng ta nhận ra rằng sự
phát triển không phải là một quá trình đơn giản mà là kết quả của sự đấu tranh, đối lập, đồng nhất và
phân biệt giữa các yếu tố.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng nguyên lý về sự phát triển không phải lúc nào cũng dễ dàng để
áp dụng và hiểu, và đôi khi có thể gặp phải sự phức tạp và mâu thuẫn trong việc xác định và phân tích
các yếu tố tác động. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng nguyên lý này vào thực tiễn và
trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình giải thích sự phát triển trong các lĩnh vực khác nhau của
triết học và khoa học.
* Kết bài
Tóm lại, nguyên lý về sự phát triển trong triết học Mác – Lênin mang lại một cách nhìn phức
tạp và đa chiều về thế giới, và cung cấp một cơ sở lý thuyết quan trọng để hiểu và phân tích sự phát
triển của xã hội, tự nhiên và ý thức xã hội. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi sự cẩn trọng và sự linh hoạt
trong việc áp dụng vào thực tiễn và trong việc xây dựng các lý thuyết và mô hình.

Câu 6 - Chương 2
* Mở bài
Triết học Mác – Lênin đề xuất một quan điểm đặc biệt về quan hệ giữa vật chất và ý thức, coi
đây là một quan hệ biện chứng phức tạp và tương tác. Luận điểm này không chỉ làm sáng tỏ về mối
quan hệ giữa hai yếu tố này mà còn cung cấp một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều về sự phát triển
của thế giới vật chất và ý thức.
1. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
* Vai trò của vật chất đối với ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành, xuất hiện của ý thức
+ VC là cơ sở, là nền móng của ý thức. Ý thức được hình thành, xuất hiện “trên nền móng của bản
thân lâu đài VC”, gắn với quá trình của bản thân lâu đài VC, quá trình vận động khách quan của VC,
của giới tự nhiên đến một giai đoạn nhất định, làm cho VC biến đổi, chuyển hoá và hình thành nên
dạng VC có năng lực cảm giác. Theo Ăngghen: “VC trong vòng tuần hoàn vĩnh viễn của nó vận động
theo những quy luật … tất nhiên sinh ra tinh thần có tư duy trong các vật hữu cơ”. Theo Lênin: “Trái
Đất từng tồn tại trong trạng thái chưa có và cũng không thể có loài người hay bất cứ sự vật nào nói
chung. VC hữu cơ là một hiện tượng về sau mới có, là kết quả của sự phát triển lâu dài”
+ Tổ chức VC cấp cao trực tiếp làm sản sinh ra cảm giác ý thức là bộ óc người nên ý thức là sản phẩm
của bộ óc người, gắn liền với bộ óc người, phụ thuộc vào bộ óc người. Ý thức không thể tồn tại bên
ngoài bộ óc người như một thực thể độc lập, tách biệt, tách rời bộ óc con người. Bộ óc người còn thì ý
thức còn, bộ óc người không còn thì ý thức không còn. Theo Ăngghen: “Ý thức là sản vật của bộ óc
người và bản thân con người cũng là sản vật của tự nhiên, sản vật này phát triển trong và cùng với
hoàn cảnh tự nhiên. Như thế thì lẽ tự nhiên, những sản phẩm bộ óc người quy cho cùng là những sản
vật của tự nhiên”. Theo Lênin: “Cái tâm lý ý thức … là sản phẩm tối cao của vật chất (nghĩa là của cái
vật lý) là chức năng của cái khối vật chất, đặc biệt phức tạp là bộ óc người”.
- VC quyết định nội dung phản ánh của ý thức
VC là cái được phản ánh hay đặc trưng được phản ánh. Ý thức là cái phản ánh. Cái được phản ánh
quyết định cái phản ánh, cái được phản ánh như thế nào thì cái phản ánh như thế ấy. Theo Ăngghen:
“Ảnh hưởng của TG bên ngoài vào con người, in vào đầu óc con người, phản ánh vào dưới hình thức
cảm giác, tư tưởng, động cơ, biểu hiện của ý chí”. Sự phong phú đa dạng về mặt hình thức tồn tại, về
mặt liên hệ tương tác của VC quyết định sự phong phú đa dạng về mặt nội dung khái quát phản ánh
của ý thức. Sự phong phú đa dạng của ý thức phụ thuộc vào sự phong phú đa dạng của sự tồn tại liên
hệ VC. Theo Ăngghen: “Sự phong phú thực sự về mặt tinh thần của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào
sự phong phú của những quan hệ hiện thực của họ”.
- VC quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức
VC tồn tại khách quan nhưng không tồn tại bất biến mà luôn luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá từ
hình thức tồn tại này sang hình thức tồn tại khác. VC biến đổi thì cảm giác, ý thức biến đỏi. Sự vận
động, biến đổi của VC quyết định sự vận động, biến đổi của cảm giác, ý thức. Quá trình vận động,
biến dổi của VC quyết định quá trình vận động, biến đổi của ý thức. Theo C.Mác: “Sự vận động của
tư duy chỉ là sự vận động của hiện thực di chuyển và biến hình vào đầu óc con người”. Theo Lênin:
“Cảm giác la một hình ảnh vật chất đang vận động, cảm giác do vật chất đang tác động vào các giác
quan của chúng ta mà sinh ra”.
* Vai trò của ý thức đối với vật chất
- Sự đối lập tương đối của ý thức đối với VC
+ Quyền lực sáng tạo của ý thức: Ý thức có quyền lực sáng tạo của nó. Đó là quyền kiến tạo,
xây dựng, thiết kế mô hình tinh thần tư duy về VC và các đối tượng của nó dựa trên cơ sở những tri
thức, những hiểu biết đạt được bằng các nguyên tắc, tư tưởng của nó; nó có thể phóng tác tưởng tượng
cái VC bên ngoài dựa trên cơ sở những thông tin mà nó có được về TG bên ngoài, về các SVHT bên
ngoài. Theo Lênin: “Không nghi ngờ gì cả, hình ảnh không bao giờ giống hệt như nguyên hình”;
“Hình ảnh tất nhiên và dĩ nhiên cần phải lấy tính thực tại khách quan của cái mà nó phản ánh”.
+ Quyền lực tồn tại của ý thức: Ý thức có quyền lực tồn tại của nó. Đó là quyền duy trì, gìn
giữ, lưu cữu, củng cố hình ảnh, mô hình tinh thần của nó trong bộ óc người bất kể hình ảnh, mô hình
đó phù hợp hay không phù hợp, tương đồng hay không tương đồng, ăn khớp hay không ăn khớp,
đúng hay không đúng với VC và các đối tượng của nó, với giới tự nhiên bên ngoài của nó.
- Sự tác động trở lại của VC đối với ý thức
+ Quyền lực chỉ huy của ý thức: Ý thức có quyền lực chỉ huy của nó. Đó là quyền chỉ đạo,
điều hướng con người, so sánh, phân tích, lựa chọn mô hình tinh thần của chính nó để xác định môn
hình nào tối ưu nhất và áp dụng vào thực tiễn. Sự chỉ đạo, điều hướng của ý thức có thể đúng, có thể
sai, có thể phù hợp, có thể không phù hợp với sự tồn tại vận động của VC bên ngoài.
+ Quyền lực tác động và làm thay đổi VC của ý thức: Ý thức chỉ đạo con người sử dụng các
phương tiện, lực lượng VC của chính VC, chính giới tự nhiên tác động vào chính VC, chính giới tự
nhiên để hiện thực hoá mô hình tinh thần tư duy, mục tiêu kế hoạch đã định và bằng cách này, ý thức
tác động trở lại VC, làm cho VC, giới tự nhiên thay đổi. Theo C.Mác: “Tư tưởng căn bản không thực
hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng thực tiễn”; “Lực lượng
VC chỉ có thể đánh bại bằng lực lượng VC”.
+ Chiều hướng tác động của ý thức đối với VC: Ý thức có thể tác động trở lại VC theo hướng
tích cực hoặc tiêu cực phụ thuộc vào nội dung khái quát phản ánh của nó và vào csc công cụ, phương
tiện, lực lượng VC dùng để tác động. Chiều hướng tác động tích cực của ý thức là chiều hướng nội
dung khái quát phản ánh của ý thức phù hợp với VC và các đối tượng của nó và sử dụng các công cụ,
phương tiện, lực lượng VC tác động thích hợp. Chiều hướng tác động tiêu cực của ý thức là chiều
hướng nội dung khái quát phản ánh của ý thức không phù hợp với VC và các đối tượng của nó và sử
dụng các công cụ, phương tiện, lực lượng VC.
2. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa VC và ý thức
- Trong đời sống, muốn nhận thức đúng đắn, khách quan, khoa học phải xuất phát từ chính VC, từ
chính đời sống VC để giải quyết những vấn đề do nó đặt ra; phải tìm nguyên nhân của sự vật trong
chính sự vật, từ đó tìm ra các biện pháp để giải quyết vấn đề chứ không phải tìm ra và cắt nghĩa ý thức
bằng ý thức. Đó là nguyên tắc khách quan áp dụng nghiên cứu và xem xét sự vật
- Ý thức có thể tác động trở lại VC hoặc theo hướng tích cực hoặc theo hướng tiêu cực. Vì vậy:
+ Thứ nhất: không được tuyệt đối hoá, cường điệu hoá vai trò, tác dụng của ý thức bất chấp điều kiện
hoàn cảnh của VC
+ Thứ hai: không đánh giá thấp vai trò, tác dụng của ý thức hoặc xem thường tác dụng của nó trong
đời sống con người nếu không sẽ dẫn đến thái độ khuất phục, đầu hàng trước hoàn cảnh, dẫn đến chủ
nghĩa bi quan, định mệnh.
* Đánh giá
Luận điểm về quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan điểm của triết học Mác –
Lênin mang lại một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về mối quan hệ phức tạp giữa hai yếu tố này. Nó
không chỉ làm rõ về sự tương tác và tương phản giữa vật chất và ý thức mà còn nhấn mạnh vào vai trò
của hành động con người trong quá trình này.
Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức có thể gặp phải một
số hạn chế và mâu thuẫn, đặc biệt là trong việc giải thích sự phát triển của ý thức và tác động của nó
lên vật chất. Điều này đặt ra thách thức trong việc áp dụng lý thuyết này vào thực tiễn và trong việc
hiểu và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.
* Kết bài
Tóm lại, luận điểm về quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin
cung cấp một cái nhìn sâu sắc và phong phú về mối quan hệ giữa hai yếu tố cơ bản của thế giới, đồng
thời đề xuất một cách tiếp cận toàn diện và đa chiều để hiểu và phân tích quá trình phát triển của
chúng.

You might also like