You are on page 1of 13

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

---------------  ---------------

BÀI TẬP LỚN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Họ, tên SV: Trần Thị Thu Thủy Mã SV: 11226241

Lớp: Kinh tế quốc tế CLC 64D Khoá: 64 GĐ: A2-807

Hà Nội – 09/2023
0|Page
MỤC LỤC
 LỜI MỞ ĐẦU…..…………………………………………………………2

 PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………..3

A. Cơ sở lý luận và nội dung quan điểm toàn diện của phép duy vật
biện chứng…………………………………………………………3

I. Phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật……………………..3

1. Khái niệm phép biện chứng……………………………..3

2. Khái niệm chủ nghĩa duy vật……………………………3

3. Phép biện chứng duy vật………………………………...3

II. Nội dung quan điểm của phép duy vật biện chứng…………5

1. Cơ sở lý luận…………………………………………….5

2. Ý nghĩa của quan điểm toàn diện………………………..5

3. Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật

(Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến)………….…………….6

a) Định nghĩa mối liên hệ………………………… 6

b) Tính chất của mối liên hệ phổ biến………………...7

B. Liên hệ trong thực tiễn…………………………………………….8

 PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………11

 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………...…..12

1|Page
LỜI MỞ ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG


A. Cơ sở lý luận và nội dung quan điểm toàn diện của phép duy vật biện
chứng:
I. Phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật:

2|Page
1. Khái niệm phép biện chứng:
- Phép biện chứng ( hay biện chứng) là một phương pháp xuất hiện trong
nền triết học phương Đông và phương Tây ở thời kì cổ đại. Với nguồn gốc
xuất phát từ Hy Lạp cổ, nền tảng của phép biện chứng là các cuộc đối
thoại giữa hai hay nhiều người với những quan điểm, ý kiến khác nhau
nhưng với một mục đích chung là muốn thuyết phục mọi người đồng tình
với ý kiến, quan điểm của mình.
- Bao gồm 3 hình thức cơ bản: Phép biện chứng chất phác cổ đại; Phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức; Phép biện chứng duy vật do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập.
2. Khái niệm chủ nghĩa duy vật:
- Chủ nghĩa duy vật là một bộ phận của triết học, một thế giới quan, với
quan điểm vật chất là nguyên tố cơ bản cấu thành sự vật bao gồm cả tinh
thần và ý thức và là kết quả của sự tương tác vật chất.
3. Phép biện chứng duy vật:
- Phép biện chứng duy vật. phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa
duy vật biện chứng là một bộ phận của triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen
đề xướng, với cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng.
- Phép biện chứng duy vật là “linh hồn sống”, là “cái quyết định” của chủ
nghĩa Mác, bởi khi nghiên cứu các quy luật phát triển phổ biến của hiện
thực khách quan và của nhận thức khoa học, phép biện chứng duy vật
thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận
thức và thực tiễn. Chức năng này thể hiện ở chỗ, con người dựa vào các
nguyên lý, được cụ thể hóa bằng các cặp phạm trù và quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật, để đề ra các nguyên tắc tương ứng, định hướng
hoạt động lý luận và thực tiễn của mình.
- Khi chỉ ra nội dung chủ yếu của phép biện chúng, Ph.Ăngghen định nghĩa
“Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” có “Những quy luật
chủ yếu: sự chuyển hóa lượng thành chất, - sự xâm nhập lẫn nhau của các
3|Page
mâu thuẫn đối cực và sự chuyển hóa từ mâu thuẫn này sang mâu thuẫn
khác khi mâu thuẫn đó lên tới cực độ, - sự phát triển bằng mâu thuẫn hoặc
phủ định của phủ định, - phát triển theo hình xoáy trôn ốc”.
- V.I. Lênin định nghĩa “Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học
thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản
ánh vật chất luôn phát triển không ngừng”.
- Về vai trò, phép biện chứng duy vật đã kế thừa và phát triển phép biện
chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung
nhất, giúp định hướng việc đề ra các nguyên tắc tương ứng trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn và là một hình thức tư duy hiệu quả quan
trọng nhất đối với khoa học, bởi chỉ có nó mới có thể đem lại phương
pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới, giải thích
những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên cứu này
sang lĩnh vực khác.
- Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và
đóng vai trò cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác -
Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật
được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù
cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan, với hai
nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển, đồng thời cũng là hai nguyên lý khái quát nhất. Trong đó, quan
điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật được thể hiện rõ ở nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến.
- Phép biện chứng duy vật gồm 3 nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc toàn diện;
Nguyên tắc lịch sử cụ thể; Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực
tiễn.

4|Page
II. Nội dung quan điểm toàn diện của phép duy vật biện chứng:
1. Cơ sở lý luận:
- Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là nội dung nguyên lý về các mối
liên hệ phổ biến.
- Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện
tượng và các lĩnh vực trong thực tế. Mối liên hệ mang tính chất khách
quan, phổ quát. Nó chi phối tổng quan sự vận động, phát triển của mọi sự
vật, hiện tượng và các quá trình diễn ra trong thế giới. Do vậy, các mối
liên hệ đó là đối tượng xem xét, tìm hiểu của phép biện chứng. Mối liên
hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng chẳng hạn như
mối liên hệ giữa các mặt đối lập: chất – lượng, cá nhân – cộng đồng,
nguyên do – kết quả,…
2. Ý nghĩa của quan điểm toàn diện:
- Quan điểm toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật
ngụy biện, nêu ra các mối liên hệ chính, qua đó tìm ra được các mặt, mối
liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng; nhận thức chúng trong sự hợp nhất
hữu cơ nội tại bởi chỉ như thế nhận thức mới có khả năng chỉ ra được đầy
đủ nhất sự tồn tại khách quan với nhiều tính chất, nhiều mối liên hệ, quan
hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức.
- Quan điểm toàn diện quan sát mối quan hệ gắn với hiện thực, không suy
viễn, mộng tưởng bởi mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng bởi nhu cầu
của con người rất phong phú và trong từng trường hợp, chỉ nêu lên được
một vài mối quan hệ thích hợp đối với nhu cầu của con người, nên nhận
thức về sự vật, hiện tượng cũng chỉ mang tính chất tương đối, không tuyệt
đối. Khi nhận thấy được sự việc đó, ta sẽ có thể tránh được những sai sót
khi tuyệt đối hóa những tri thức có sẵn, coi đó là những chân lý đúng đắn
nhất mà không cần bổ sung hay phát triển.
- Quan điểm toàn diện quan sát những mối liên hệ đồng bộ, toàn diện,
không cục bộ, không phiến diện; nghĩa là trong thực tế, phải dùng đồng bộ
một hệ thống các phương pháp, phương tiện khác nhau để tác động làm
5|Page
thay đổi các mặt, mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song ở
từng bước, từng thời điểm phải nắm bắt được những điểm cốt lõi, từ đó ta
có thể tập kết lực lượng để xử lí, tránh trì trệ.
3. Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật ( Nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến):
a) Định nghĩa mối liên hệ:
- Trong khi cùng tồn tại, các đối tượng luôn luôn tương tác với nhau, qua
đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định mình
là những đối tượng thực tôn. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối
tượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và trong điều kiện có thể còn làm
nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng,
sự hiện hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với
các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối tượng có liên hệ với các đối tượng
khác.
- “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối ràng buộc
tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong
một hoặc nhiều đối tượng với nhau. Liên hệ là quan hệ giữa hai sự vật, sự
việc mà khi đó đối tượng này thay đổi nhất định dẫn đến sự đổi thay của
đối tượng kia. Ngược lại, cô lập ( tách rời) là trạng thái của các đối tượng,
khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối tượng
khác.
- Liên hệ và cô lập hoàn toàn không có nghĩa là một số đối tượng luôn luôn
liên hệ hay chỉ mãi cô lập. Trong thế giới mọi đối tượng đều trong có thể
liên quan hoặc cô lập nhau ở những khía cạnh khác nhau, trong chúng có
cả những biến đổi khiến đối tượng khác thay đổi hay giữ nguyên. Như
vậy, liên hệ và cô lập thống nhất với nhau mà ví dụ điển hình là quan hệ
giữa cơ thể sống và môi trường. Cơ thể sống gắn bó với môi trường nhưng
đồng thời cũng tách biệt với nó, có tính độc lập tương đối.
- Trước đây, các nhà duy tâm rút các mối liên hệ giữa các sự vật ra từ ý
thức, tinh thần: Hê-ghen cho rằng ý niệm tuyệt đối là nền tảng của các
6|Page
mối liên hệ, Béc-cơ-ly trên lập trường duy tâm chủ quan lại cho tằng cảm
giác là nền tảng. Nhưng khi đã nói đến mối liên hệ phổ biến, chúng ta chủ
yếu chỉ để ý đến sự ràng buộc, tác động lẫn nhau giữa các đối tượng vật
chất hữu hình, trong khi còn thế giới tinh thần, các hình thức tư duy ( khái
niệm, phán đoán, suy lý) hay các phạm trù khoa học – hình thức của nhận
thức cũng liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi quan niệm về sự liên hệ được mở
rộng sang cho cả giữa các đối tượng tinh thần thì sẽ có mối liên hệ phổ
biến. Có rất nhiều loại liên hệ, trong đó có loại liên hệ chung, là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng, loại liên hệ này được gọi là liên hệ phổ
biến. Thế giới không phải là thể hỗn loạn, mà là hệ thông các liên hệ đối
tượng. Như vậy, tính thống nhất vật chất của thế giới chính là cơ sở cho
mọi liên hệ. Nhờ sự thống nhất đó các đối tượng không thể tồn tại trong
trạng thái cô lập hay bị cô lập mà luôn tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau.
- Bên cạnh đó ta có quan điểm siêu hình về sự tồn tại của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới thường phủ định mối liên hệ tất yếu giữa các đối
tượng, được phổ biến rộng tãi trong khoa học tự nhiên rồi lan truyền sang
triết học. Ở Tây Âu vào thời kì thế kỉ XVII – XVIII, trình độ của khoa học
tự nhiên còn nhiều hạn chế, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm tài
liệu đơn sơ, dẫn đến việc nghiên cứu thế giới trong sự tách rời của từng bộ
phận riêng lẻ. Hậu quả là thế giới quan triết học gặp sai lầm như dựng lên
ranh giới giả tạo giữa các sự vật, hiện tượng. Vì vậy, quan điểm siêu hình
không có khả năng phát hiện ra những quy luật, bản chất và tính phổ biến
của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới; Trái
lại, chủ nghĩa biện chứng duy vật cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế
giới tồn tại trong mối liên hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau, thâm
nhập, chuyển hóa lẫn nhau chứ không hề tách biệt nhau. Đó là nội dung
của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Cơ sở của sự tồn tại đa dạng các
mối liên hệ đó là tính thống nhất các vật chất của thế giới; theo đó, các sự

7|Page
vật, hiện tượng phong phú trong thế giới chỉ là những dạng tồn tại khác
nhau của mội thế giới vật chất duy nhất.
b) Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
- Phép biện chứng duy vật khẳng định tính khách quan của các mối liên hệ, tác
động trong thế giới: giữa sự vật với sự vật hữu hình, giữa sự vật và hiện tượng
tinh thần, giữa những hiện tượng tinh thần với nhau… Suy cho cùng thì những
mối liên hệ đó đều là sự quy định, tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa các
sự vật và hiện tượng:
 Tính phổ biến: tính này thể hiện ở chỗ bất kì nơi đâu, trong tự nhiên, xã hội
hay kể cả trong tư duy đều có vô càn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ
những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển hóa của các sự
vật, hiện tượng. Mối liên hệ này không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện
tượng tự nhiên, xã hội, tư duy mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các
quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
 Tính đa dạng: có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về
mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng. Có mối liên hệ chung tác động
lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ
riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể. Có
mối liên hệ trực tiếp nhưng cũng có mối liên hệ gián tiếp. Có mối liên hệ tất
nhiên, cũng có mối liên hệ ngẫu nhiên… Chúng giữ những vai trò khác
nhau, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Để phân loại
các mối liên hệ như trên, phải phụ thuộc vào tính chất và vai trò của từng
mối liên hệ. Tuy vậy, việc phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối, bởi
vì các mối liên hệ của các đối tượng là rất phức tạp, không thể tách chúng
khỏi tất cả các mối liên hệ khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ
thể trong sự biến đổi và phát triển cụ thể của chúng.
Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh thế giới trong
những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn
của thế giới, cũng như tính vô lượng các sự vật, hiện tượng đó chỉ có thể giải

8|Page
thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng các mối liên hệ có
hình thức, vai trò khác nhau.
B.LIÊN HỆ TRONG THỰC TIỄN:
Quan điểm toàn diện là quan điểm đánh giá, xem xét sự vật với tất cả các mối
liên hệ mà sự vật có nhưng phải tìm ra được mối liên hệ nào là cơ bản, quy định
sự tồn tại, vận động của sự vật. Từ đó có cách nhìn nhận đánh giá đúng bản chất,
đúng trọng tâm của sự vật mà không dàn trải. Quan điểm này là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học Mác – Lênin giúp con người
khắc phục được bệnh phiến diện, chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện trong
nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là kết quả của quá
trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận qua 35 năm Đảng lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới đất nước. Văn kiện Đại hội XIII đã thể hiện rất sâu sắc thế giới qan,
phương pháp luận biện chứng duy vật, đặc biệt có quan điểm toàn diện trong xây
dựng các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030.
- Công cuộc đổi mới của đất nước ta từ năm 1986 đến nay đã đạt được nhiều
thành tựu :
 Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Trình độ dân
trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp
giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, và nhiều hoạt động xã hội khác
có những mặt phát triển và tiến bộ.
 Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
 Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận,
tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.
 Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính
trị…
- Tuy nhiên thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình lâu dài đấu tranh
gian khổ, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiêu cực và tích cực và chúng ta
phải thừa nhận bên cạnh những thành tựu, còn tồn tại những khuyết điểm và
yếu kém:
9|Page
 Nước ta còn nghèo và kém phát triển.
 Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực: nạn tham nhũng, buôn lậu, tiêu
cực trong bộ máy nhà nước, sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội…
 Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu.
 Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
Như vậy, khi đánh giá công cuộc đổi mới chúng ta phải đứng trên quan điểm
toàn diện, phải nhìn nhận được điểm tích cực và hạn chế. Đánh giá một cách
khách quan, bên cạnh những hạn chế thì kết quả tích cực mà công cuộc đổi
mới mà nhà nước ta khởi xướng mang lại là cái cơ bản, chủ yếu.
Quan điểm toàn diện trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục thể hiện ở việc nhận
thức, đề ra yêu cầu nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đây là sự phản ánh các quy luật
mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của
Đảng. Các mối quan hệ lớn trong văn kiện Đại hội XIII tiếp tục có sự bổ sung,
phát triển toàn diện hơn so với các kỳ Đại hội trước, gồm 10 mối quan hệ: quan
hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ
sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân
chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Thực tiễn lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã chứng minh tính cách mạng,
khoa học, sức sống mãnh liệt, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Chúng ta rất tự hào rằng trong thời điểm hiện tại, đất nước ta đã có
những thành tựu nhất định, gây dựng được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế mà từ trước tới chưa từng có. Tiếp tục trên con đường đổi mới đất nước, mỗi
cán bộ, giảng viên cần ra sức học tập, vận dụng, phát triển và bảo vệ những giá
trị cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin
10 | P a g e
tưởng vào đường lối lãnh đạo đúng đắn, toàn diện của Đảng, từng bước hiện
thực hóa khát vọng phồn vinh, hạnh phúc.

PHẦN KẾT LUẬN


Áp dụng quan điểm toàn diện về công tác xây dựng, chỉnh đốn và phát
triển của Đảng ta trong công cuộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa đã
cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về vấn đề này. Mặc dù còn bộc lộ rất
nhiều hạn chế nhưng ta không thể phủ nhận vai trò và ưu điểm của cơ chế
này. Khi nhìn nhận nó cần xem xét trên mọi mặt, mọi mối quan hệ thì mới
xác định được đâu là những mặt nổi bật, những mối quan hệ quan trọng nhất.
Từ đó ta sẽ thấy được bản chất cơ chế kế hoạch hóa tập trung không phải là
tiêu cực mà chỉ là không được vận dụng sáng tạo, đúng đắn vào tình hình đất
nước cũng như bối cảnh lịch sử nước ta bấy giờ ,chính vì vậy mới dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng. Nhận thức được điều đó Đảng ta đã đề ra
đường lối phát triển kinh tế mới và khắc phục những hạn chế mà vẫn đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa:
– Quan điểm này đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn đúng đắn, khách quan về sự
vật, hiện tượng để rút ra bản chất. Phải đặt nó giữa các yếu tố bộ phận, các thuộc
tính khác nhau của chính sự vật đó và mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật
khác ,đồng thời luôn đặt trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
– Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải
có các biện pháp, phương tiện khác nhau để hiểu cho rộng nhưng cũng cần xác
định đâu là cái cơ bản, cái quan trọng để hiểu sâu sắc vấn đề . Mà theo như Lê –
nin là kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dân chủ” và chính sách “có trọng
điểm”.

11 | P a g e
Tóm lại, quan điểm toàn diện đòi hỏi người học phải tiếp cận tìm hiểu vấn
đề từ nhiều mặt tránh cách nhìn phiến diện, một chiều. Ngoài ra quan điểm toàn
diện không đồng nhất với cách xem dàn trải, liệt kê những tính quy định khác
nhau của sự vật, hiện tượng mà phải làm nổi bật cái quan trọng nhất, trọng tâm
của vấn đề từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp để giải quyết dứt điểm vấn đề
đó tránh vấn đề bê trễ, bảo thủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


 GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN (SỬ DỤNG TRONG
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC- HỆ KHÔNG CHUYÊN LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ), (Tài liệu dùng tập huấn giảng dạy năm 2019), Bộ
Giáo dục và Đào tạo, tr.60-63.
 WIKIPEDIA

 https://luatduonggia.vn/quan-diem-toan-dien-cua-chu-nghia-mac-le-nin-
va-van-dung-quan-diem-toan-dien-de-danh-gia-co-che-kinh-te-ke-hoach-
hoa-tap-trung/

 http://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/Nghien-cuu-
trao-doi/quan-diem-toan-dien-voi-dinh-huong-phat-trien-dat-nuoc-giai-
doan-2021-2030

 V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1977.

 https://1library.org/document/y83jk22q-phan-tich-nguyen-tac-phuong-
luan-bien-chung.html

12 | P a g e

You might also like