You are on page 1of 50

1

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP

NỘI DUNG 1. Các bộ phận cấu thành nên chủ nghĩa Mác- Leenin

1. Triết học Mác - Lênin Triết học Mác – Lênin


là khoa học khái quát những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy; đem lại cho con người thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn,
khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin với ba nội
dung cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật biện chứng; phép biện chứng duy vật và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Với trọng tâm là mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, qua đó xác định chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và
vấn đề khả năng nhận thức của con người. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
xác định vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý
thức và ý thức tác động trở lại vật chất, con người nhận thức 2 được thế giới
và khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng giúp chúng ta xác định được trong xã hội đâu là vật chất, đâu là đời
sống tinh thần, đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, nên muốn
cải tạo xã hội, phát triển đất nước ta đi từ cái gốc của nó tức là đời sống vật
chất. Trong giai đoạn hiện nay, kẻ thù của chủ nghĩa Mác thường xuyên tạc
là chủ nghĩa Mác chỉ biết đến vật chất, kinh tế mà coi nhẹ vai trò của ý thức,
tư tưởng. Thật ra hoàn toàn không phải như vậy, chỉ có chủ nghĩa duy vật
tầm thường không biện chứng mới phủ nhận hoặc xem nhẹ vai trò của các
yếu tố tinh thần, ý thức mà thôi. Khi khẳng định vai trò của vật chất đối với
ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở
lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Quan hệ giữa vật chất và
ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua lại.
Không thấy điều đó sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường và bệnh bảo
thủ trì trệ trong nhận thức và hành động. Nói tới vai trò của ý thức là nói tới
vai trò của con người, bản thân của ý thức nó không trực tiếp thay đổi được
gì trong hiện thực cả. Theo Mác thì lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ
bằng lực lượng vật chất, cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực
lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện được
các quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy
luật đó, phải có ý chí và có phương pháp để tổ chức hành động. Tư tưởng, ý
thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành
2

công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Thế giới
vật chất với những quy luật khách quan của nó- không phụ thuộc vào ý thức
của con người, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động
của mình. Chính vì vậy Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không được lấy
ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ
ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực thì sẽ mắc bệnh chủ quan duy ý chí.
1.2. Phép biện chứng duy vật Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một
nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác- Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin; đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận
chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Với những nội dung cơ bản là: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; Nguyên
lý về sự phát triển; các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, bản chất và
hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả, nội dung và
hình thức, khả năng và hiện thực. 3 Ba quy luật gồm Quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại;
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; Quy luật phủ định
của phủ định. Và lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Hai nguyên lý, ba
quy luật, sáu cặp phạm trù và lý luận nhận thức giúp chúng ta hình thành
quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm về sự phát triển,
giúp chúng ta thấy được con đường, cách thức và khuynh hướng của sự phát
triển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, giúp chúng ta nhận ra được
những mặt quyết định trong các mối quan hệ, giúp chúng ta hiệu quả nhất.
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: Một là, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến, dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật,
hiện tượng, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là
những mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng... Hai là, nguyên lý về sự phát triển, là dùng để
chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp
lên trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Đồng thời, phát triển
cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của
3

sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa,
nâng cao những nhân tố tích cực từ sự vật cũ, hình thành sự vật mới. Hai
nguyên lý trên giúp chúng ta hình thành quan điểm toàn diện, quan điểm lịch
sử cụ thể và quan điểm phát triển. Vận dụng quan điểm toàn diện vào trong
hoạt động thực tiễn giúp chúng ta kết hợp chặt chẽ giữa chính sách dàn đều
và chính sách có trọng điểm. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi
bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đảng ta cũng
đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là
khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới toàn diện thì
đổi mới kinh tế là trọng tâm. Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào việc
xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới
sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực cả khách quan lẫn chủ
quan. Chân lý sẽ biến thành sai lầm nếu chúng ta đẩy nó ra khỏi giới hạn tồn
tại của nó. Quan điểm phát triển giúp ta hiểu được sự phát triển của các sự
vật hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Vận
dụng quan điểm này vào quá trình nhận thức đòi hỏi chúng ta phải thấy rõ
tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ
biến. Nếu thiếu quan điểm khoa học như vậy thì rất dễ bi quan, dao động khi
mà tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội
cũng như của cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở. Như vậy, 3
quan điểm trên là những nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nắm vững những nguyên tắc
phương pháp luận này không những là nhân tố cơ bản 4 để hình thành thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, mà còn là điều kiện tiên
quyết cho mọi hoạt động tự do sáng tạo và phát triển toàn diện con người.
Sáu cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật: Phạm trù là những khái
niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ
chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất
định. Một là, cái riêng, cái chung và cái đơn nhất: Phép duy vật biện chứng
cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa
chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng,
thông quan cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái
chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong mối
liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc
4

lập, không có liên hệ với cái chung. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn
cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng
phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có
cái đơn nhất. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hoá lẫn nhau trong
quá trình phát triển của sự vật. Hai là, nguyên nhân và kết quả: Nguyên nhân
là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật
hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Kết quả
là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên: Tất
nhiên (tất yếu) là cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong của kết cấu vật
chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra như thế
chứ không thể khác được. Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất,
bên trong kết cấu vật chất, bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố
bên ngoài, do sự ngẫu hợp nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó
có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc
xuất hiện như thế khác. Bốn là, nội dung và hình thức: Nội dung là tổng hợp
tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là
phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó. Năm là, bản chất và hiện
tượng: Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên,
tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của
sự vật, hiện tượng là biểu hiện ra ngoài của bản chất trong những điều kiện
xác định. Sáu là, khả năng và hiện thực: Khả năng là cái hiện chưa có, cái
còn là tiền đề, là mầm móng khi có điều kiện thích hợp thì nó sẽ xuất hiện
trên thực tế. Hiện thực là những gì đã tồn tại trên thực tế. Khả năng và hiện
thực là hai mặt thống nhất của mọi quá trình vận động. Các phạm trù trên
phản ánh những thuộc tính bản chất nhất, những mối liên hệ chung tất yếu
và phổ biến nhất của toàn bộ thế giới từ tự nhiên đến xã hội và tư duy con
người. Các phạm trù không phải là cái có sẵn ở bên ngoài hay bên trong ý
thức 5 của con người, mà nó được hình thành trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Mỗi phạm trù là kết quả của quá trình nhận thức trước đó và là
mắc xích trung gian của quá trình nhận thức tiếp theo của con người để ngày
càng tiến gần đến chân lý. Phạm trù được hình thành bằng phương pháp trừu
tượng hóa và khái quát hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của
sự vật. Các phạm trù của phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, nó
5

thường xuyên được bổ sung và làm phong phú thêm bằng những tri thức
khoa học và những phạm trù mới. Với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, các phạm trù luôn vận động và phát triển tương ứng với sự
vận động, phát triển của thế giới khách quan. Chỉ có như vậy chúng mới
phản ánh đúng đắn thế giới khách quan và trở thành công cụ của nhận thức
và thực tiễn. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng- chất): Đây là quy
luật cơ bản và phổ biến về phương thức chung của quá trình vận động, phát
triển trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người. Chất và lượng là
hai mặt thống nhất của mọi sự vật và hiện tượng hay một quá trình nào đó
trong tự nhiên, xã hội và trong cả tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại
khách quan, trong đó chất tồn tại thông qua lượng và lượng là biểu hiện của
chất ra bên ngoài. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình
nhận thức chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này lại là chất
nhưng trong mối quan hệ khác lại đóng vai trò là lượng. Quy luật này chỉ ra
rằng bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi
dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản về
chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới
sự thay đổi của lượng. Việc nắm vững nội dung quy luật này có vai trò to
lớn trong việc xem xét giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta đặt ra. Việc thực hiện thành
công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước
nhảy về chất ở đó, và tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi
mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về
chất của toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kì một sự thay đổi về chất nào
khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay cũng chỉ có thể là
kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Bất kì một sự nôn nóng,
chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể dẫn tới sai lầm, tổn thất, cản trở sự nghiệp
đổi mới và phát triển đất nước. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập (quy luật mâu thuẫn): Quy luật này là “hạt nhân” của phép biện
chứng. Là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá
trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ
bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn
khách quan vốn có của sự vật. Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ
thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật
6

hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nhân tố tạo thành
mâu thuẫn là mặt đối lập. 6 Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng
đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Quy luật này giúp chúng
ta hiểu rằng mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại
ở tất cả các sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự
vật, hiện tượng, nhưng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát triển
khác nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật
sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Giải quyết mâu thuẫn là để phát triển,
nhưng phải giải quyết mâu thuẫn khi có đủ điều kiện chín muồi, không nên
giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có điều kiện, cũng không
thể cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo
điều kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết. Phải
có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Quy luật phủ định của
phủ định: Đây là quy luật về khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi vận
động, phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và ngay cả trong
tư duy của con người. Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất
chung, phổ biến của sự phát triển: đó không phải là sự phát triển theo hình
thức một con đường thẳng, mà là phát triển theo hình “xoáy ốc”. Quy luật
phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ
biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong quá trình phát triển
của các sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra
đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ,
phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kỳ của sự phát triển.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô
cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng và có tác dụng vô
cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, lịch sử và của tư duy”. Phủ định
biện chứng là cái mới ra đời thay thế cái cũ, là quá trình tự thân phủ định, tự
thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới,
tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. Phủ định biện chứng yêu cầu phải kế thừa
có chọn lọc và cải biến những yếu tố tích cực của cái cũ để phục vụ cho sự
phát triển của cái mới. Đồng thời phải chống lại chủ trương kế thừa máy
móc và phủ định sạch trơn. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn chúng ta phải coi trọng giá trị truyền thống, vì nó là những giá trị vật
chất và tinh thần được con người làm ra và bảo tồn từ đời này sang đời khác,
7

nó là nền tảng mà trên đó các thế hệ nối tiếp nhau ra đời, kế thừa và phát
triển. Sự ra đời và phát triển của cái mới không theo con đường thẳng tắp,
mà theo đường xoắn ốc. Vì vậy trong công việc chúng ta phải biết phát hiện
cái mới và tạo điều kiện để cái mới phát triển; thông thường cái mới ra đời
gặp rất nhiều khó khăn, luôn phải đấu tranh với cái cũ, nhưng theo quy luật
phát triển nhất định cái mới chân chính sẽ chiến thắng. Lý luận nhận thức
duy vật biện chứng: Phép biện chứng duy vật cho rằng nhận thức không phải
là hành động giản đơn, nhất thời, được thực hiện một lần là 7 xong mà nó là
quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể
và khách thể để nhận thức chân lý khách quan. Lý luận nhận thức biện
chứng duy vật tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất như: Thực tiễn và
vai trò của nó đối với nhận thức: Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực,
mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý kiểm tra tính chân lý
của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là điểm xuất phát trực
tiếp của nhận thức; nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức, khuynh hướng
vận động và phát triển của nhận thức. Con đường biện chứng của nhận thức:
Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở
về thực tiễn, hay còn gọi là đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính tuy là 2 giai đoạn của quá trình
nhận thức, nhưng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn, đều lấy sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan làm đối tượng, nội dung phản ánh.
Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhận thức cảm tính là tiền đề,
điều kiện của nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính không thể thực hiện được
nếu thiếu những tri thức và tài liệu cần thiết do nhận thức cảm tính đưa lại.
Như vậy, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng trở về thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý khách
quan. Trong đó, thực tiễn vừa là tiền đề xuất phát, vừa là điểm kết thúc của
một vòng khâu, một quá trình nhận thức. Nhưng kết thúc vòng khâu này thì
lại là điểm bắt đầu của một vòng khâu khác cao hơn. Đó là quá trình liên tục,
vô tận của sự nhận thức chân lý khách quan. Nhận thức khoa học và các
trình độ nhận thức khoa học; vấn đề chân lý; sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Nghiên cứu quá trình nhận thức của con người qua quan điểm của
phép biện chứng duy vật giúp ta có những bước làm cụ thể để cải tạo hiện
thực theo hướng tiến bộ, phát triển, các bước đó cụ thể là: Tổ chức hoạt
8

động thực tiễn là khâu quyết định biến lý luận thành hiện thực, việc này yêu
cầu phải tập hợp lực lượng thành khối thống nhất về tư tưởng, tổ chức và
hành động; có tri thức khoa học về đối tượng cải tạo; có kế hoạch thực hiện
đồng bộ và chi tiết; phương án điều chỉnh hoạt động; lựa chọn phương tiện
và phương pháp tác động thực tiễn; triển khai thực hiện kế hoạch; nắm bắt
thông tin, phát hiện và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn nảy sinh trong
thực tiễn; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, khái quát lý luận đưa ra chương
trình hoạt động mới. Như vậy việc tổ chức thực tiễn yêu cầu không chỉ tính
đến hiệu quả kinh tế mà còn phải đảm bảo hiệu quả của những mặt khác
như: Chính trị, an ninh quốc phòng, luật pháp, bảo vệ môi trường, sức khỏe,
đạo đức, văn hóa... 8
1.3. Chủ nghĩa duy vật lịch sử Với những nội dung cơ bản là: Vai trò của
sản xuất vật chất và phương thức sản xuất; Quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội và ý thức xã hội; Học thuyết về hình
thái kinh tế xã hội; vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội; quan
niệm về con người và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Vai
trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất: Sản xuất vật chất là quá
trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người. Phương thức sản xuất dùng để chỉ
những cách thức mà con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của
xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh
tồn, phát triển của con người và xã hội. Là hoạt động nền tảng làm phát sinh,
phát triển những mối quan hệ xã hội của con người; nó chính là cơ sở của sự
hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất là
tổng thể các nhân tố được sử dụng trong quá trình sản xuất tạo thành năng
lực thực tiễn cải biến các đối tượng tự nhiên theo nhu cầu của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Quan hệ về
sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất, quan
hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là hai yếu tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng
9

sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
“hình thức xã hội” của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất
yếu và phổ biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên
tắc khách quan là lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc
vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử
xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất chỉ là hình thái kinh tếxã hội, còn lực
lượng sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Biện chứng
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn
bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội. Kiến trúc
thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội
cùng với các thiết chế chính trị- xã hội tương ứng, được hình thành trên một
cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng, còn kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng và tác động trở lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể 9 thông qua nhiều phương
thức. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi nhân tố trong kiến trúc thượng
tầng, phụ thuộc vào vị trí, vai trò của nó và những điều kiện cụ thể. Trong đó
nhà nước là nhân tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ
tầng kinh tế. Tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Tồn tại xã hội dùng để chỉ
phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện vật chất của xã hội. Tồn tại
xã hội bao gồm các yếu tố chính là: Phương thức sản xuất vật chất, điều kiện
tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số... trong đó phương thức
sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Ý thức xã hội dùng để chỉ phương
diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ
thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội biến đổi (nhất là phương thức
sản xuất) thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính
trị, pháp quyền, triết học... tất yếu cũng sẽ biến đổi theo. Song, ý thức xã hội
cũng có tính độc lập tương đối của nó vì: Ý thức xã hội thường lạc hậu so
với tồn tại xã hội; ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội; ý thức xã
hội có tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội; sự tác động qua lại
10

giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng; ý thức xã hội
có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội. Qua việc thấy được vai trò quyết
định của sản xuất vật chất, của lực lượng sản xuất, của cơ sở hạ tầng, của tồn
tại xã hội... giúp Đảng ta vận dụng để hoạch định đường lối, chủ trương một
cách khách quan, khoa học, phù hợp với mọi sự vận động và phát triển trong
xã hội... để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như hiện nay. Hạt
nhân của chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận về hình thái kinh tế- xã hội, chủ
nghĩa duy vật lịch sử đã không dừng lại ở việc lý giải nguyên lý chung về
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, mà còn đi sâu phân tích kết
cấu của xã hội, xác định vị trí, vai trò của từng yếu tố cấu thành xã hội, đồng
thời xem xét mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố đó hình thành học
thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Có thể khẳng định rằng, trong chủ nghĩa
duy vật lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội là một trong những nền
tảng lý luận quan trọng của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Hình thái kinh tế- xã hội là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử "dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan
hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy"1 .Học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội
của C.Mác ra đời là một cuộc cách mạng của khoa học xã hội nói chung và
Triết học nói riêng. Khác với tất cả các lý luận duy tâm, thần bí hay siêu
hình 1 Một số vấn đề về Chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb.
Chính trị quốc gia, 1996, tr.18. 10 trước đó, học thuyết đó đã chỉ ra rằng,
động lực của lịch sử không phải là một thứ tinh thần thần bí nào, mà chính là
hoạt động thực tiễn của con người, mà hoạt động đó lại xuất phát từ cái sự
thật hiển nhiên là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là
phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi
có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học,... C.Mác đã làm nổi bật những
quan hệ xã hội vật chất, tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ cơ
bản, ban đầu và quyết định đối với tất cả mọi quan hệ khác, đã cung cấp cho
khoa học xã hội một tiêu chuẩn hoàn toàn khách quan để thấy được các quy
luật xã hội. C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-
xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên”. V.I.Lênin giải thích thêm: “Chỉ có
đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy
những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người
11

ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên. Và dĩ nhiên là không có
một quan điểm như thế thì không thể có một khoa học xã hội được” 2 . Sự ra
đời của triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển triết học của nhân loại, vấn đề không chỉ nhận thức thế giới mà
còn cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”3 .
2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin Kinh tế chính trị Mác-Lênin là khoa học
nghiên cứu quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất
của cải vật chất của xã hội. Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; những
quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới
chỗ diệt vong. Nghiên cứu những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội không có áp bức, bất công, vì tự do, ấm
no, hạnh phúc cho mọi người. Kinh tế chính trị học Mác- Lênin gồm 2 nội
dung chủ yếu: (1)Lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; (2)Dự
báo về một số đặc điểm của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa.
2.1. Lý luận về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Nghiên cứu quá
trình sản xuất của tư bản, C.Mác đã xây dựng lý luận giá trị lao động thật sự
khoa học. Đặc biệt, với phát hiện mới về tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa, C.Mác đã luận giải một cách khoa học về nguồn gốc của giá
trị sử dụng và giá trị hàng hóa. C.Mác phân tích nguồn gốc, bản chất của tiền
tệ, luận giải quy luật lưu thông tiền tệ, xác định các nhân tố ảnh hưởng đến
khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Nghiên cứu về kinh tế hàng hóa,
C.Mác chỉ ra bản chất sản xuất tư bản chủ nghĩa là tạo ra giá trị thặng dư.
Trên cơ sở xây dựng lý luận hàng hóa sức lao động, C.Mác chỉ ra nguồn
gốc, bản chất của giá trị thặng dư là do sức lao động của người công nhân
làm thuê sáng tạo ra; luận giải khoa học bản chất bóc lột của quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Để làm rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, C.Mác còn phân tích trình độ và quy mô bóc lột của tư bản; chỉ ra các
phương pháp làm tăng giá trị thặng dư và quá trình tích lũy tư bản làm cho
tư bản không ngừng lớn lên. Cùng với quan niệm duy vật về lịch sử,
Ph.Ăngghen coi học thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại thứ hai của
C.Mác: “Không phải chỉ có tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người,
Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản
12

chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Với việc
phát hiện ra giá trị thặng dư trong lĩnh vực này thì lập tức một ánh sáng đã
hiện ra trong khi tất cả các công trình nghiên cứu trước đây của các nhà kinh
12 tế học tư sản cũng như của các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò
mẫm trong bóng tối” 4 . Cho đến nay, các học giả tư sản vẫn không thể bác
bỏ được mà còn phải thừa nhận học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Học
thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn là học thuyết kinh tế quan trọng khi
nguyên cứu về chủ nghĩa tư bản. Nó có một ý nghĩa thời đại sâu sắc mà
chúng ta cần biết khai thác, vận dụng để xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu quá trình lưu thông của tư bản,
C.Mác phân tích về quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản; làm rõ tư
bản cố định, tư bản lưu động và chỉ ra phương thức chu chuyển giá trị của
chúng; phân tích sự hao mòn của tư bản cố định. Ngoài ra, C.Mác còn
nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội; sự trao đổi giữa hai khu vực của nền
sản xuất xã hội và các điều kiện thực hiện sản phẩm trong tái sản xuất giản
đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội. Đây là cơ sở khoa học cho nhận
thức về tính cân đối trong phát triển kinh tế và các quy luật của tái sản xuất
mở rộng trên phạm vi toàn xã hội trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu
toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ ra các hình thái cụ
thể trong quá trình vận động của tư bản. Đó là sự chuyển hóa của giá trị
thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư thành lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận; sự
vận động chuyển hóa của quy luật giá trị thành giá cả sản xuất và quy luật
giá trị thặng dư thành quy luật lợi nhuận bình quân. Phân tích khoa học sự
phân phối giá trị thặng dư cho các nhà tư bản kinh doanh trong các lĩnh vực
khác nhau dưới hình thức lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp,
lợi tức cho vay và địa tô tư bản chủ nghĩa. Như vậy, lý luận kinh tế chính trị
Mác- Lênin đã vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, đó là quan hệ bóc lột
của tư bản đối với lao động làm thuê bằng hình thức bóc lột giá trị thặng dư.
Đồng thời, C.Mác đã vạch rõ quá trình vận động của tư bản chủ nghĩa, đó là
quá trình phát sinh, phát triển và tất yếu diệt vong của nó. C.Mác khẳng
định: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là phương thức tồn
tại vĩnh viễn, mà nó chỉ là một giai đoạn lịch sử đặc biệt và tất yếu được
thay thế bằng một xã hội mới cao hơn, tốt đẹp hơn, đó là chủ nghĩa cộng
sản.
13

2.2. Dự báo về một số đặc điểm của nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa
C.Mác đã chỉ ra nguyên lý về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội; đồng thời, C.Mác dự báo về sự phân kỳ trong sự phát triển của
hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa và đặc điểm của các giai đoạn phát triển
đó. C.Mác dự báo về vấn đề phân phối trong giai đoạn đầu của xã hội cộng
sản chủ nghĩa, đó là “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Khi chuyển
sang giai đoạn cao của xã hội cộng sản, Mác chỉ rõ: cùng với sự phát triển
của xã hội xã hội chủ nghĩa, sức sản xuất xã hội được phát triển, trình độ văn
hóa được nâng cao… thì tất yếu phải chuyển sang 4 Các Mác và
Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500 13
nguyên tắc phân phối mới là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Đó là
lúc xã hội có thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần
dùng phân phối lợi ích vật chất để kích thích lao động.
2.3. V.I.Lênin đã có những cống hiến vô cùng to lớn trong việc bảo vệ và
phát triển kinh tế chính trị học mác-xít Trên cơ sở thực tiễn phát triển của
chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã bổ sung và phát triển về chủ nghĩa tư bản tự
do cạnh tranh, lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội. Đặc biệt, trong lý luận
tái sản xuất tư bản xã hội, khi tính tới ảnh hưởng của tiến bộ khoa học- kỹ
thuật làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản không ngừng tăng lên trong quá
trình tái sản xuất mở rộng, V.I.Lênin đã phát hiện ra quy luật ưu tiên phát
triển sản xuất tư liệu sản xuất- quy luật kinh tế quan trọng của nền kinh tế
hiện đại. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản phát triển
sang giai đoạn mới, V.I.Lênin đã sáng tạo ra lý luận khoa học về chủ nghĩa
tư bản độc quyền. V.I.Lênin cho rằng, chủ nghĩa tư bản độc quyền là sự
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, là nấc thang phát triển cao
của chủ nghĩa tư bản và chỉ rõ 5 đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, đó là: (1)Sự tích tụ sản xuất và các tổ chức độc quyền; (2)Tư bản tài
chính và bọn đầu sỏ tư bản tài chính; (3)Xuất khẩu tư bản; (4)Sự phân chia
thế giới về kinh tế giữa các liên minh tư bản độc quyền; (5)Sự phân chia thế
giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Những đặc điểm này vạch rõ
bản chất của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới. Đồng thời, V.I.Lênin chỉ
ra bản chất, nguyên nhân hình thành và hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước, cùng với xu hướng vận động của nó. Chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước, là sự kết hợp hay dung hợp sức mạnh của các tổ
chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ chế
14

thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền
và can thiệp vào quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc
quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản. Một trong những hình thức biểu
hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của
nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà
nước tư sản là tổng thể những thể chế và thiết chế kinh tế của nhà nước tư
sản. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có
khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ
quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tư sản độc quyền. Các
công cụ chủ yếu nhà nước tư sản dùng để điều tiết nền kinh tế và thực hiện
các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ tín dụng, các
doanh nghiệp nhà nước... Những biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản độc
quyền và độc quyền nhà nước: Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng
sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính 14 trên phạm vi toàn thế
giới. Chủ thể phân chia thị trường thế giới không chỉ có các tổ chức độc
quyền quốc gia mà bên cạnh đó còn có các nhà nước tư sản phát triển và
đang phát triển. Kết quả của việc phân chia kinh tế thế giới hình thành các
liên minh và các khối liên kết khu vực. Học thuyết đã chỉ ra sự chuyển biến
từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc
quyền nhà nước; vai trò và giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Từ sự phân
tích những đặc trưng kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền,
V.I.Lênin đã rút ra những kết luận về vị trí lịch sử của chủ nghĩa tư bản
trong giai đoạn phát triển mới của nó: giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đó là
giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, đêm trước cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Điều đó có nghĩa là, chủ nghĩa đế quốc nhất định sẽ bị thay thế bởi
chủ nghĩa xã hội, nhưng quá trình thay thế đó là một quá trình đấu tranh
quyết liệt, quanh co khúc khuỷu, có cao trào và có thoái trào chứ không phải
là một quá trình trơn tru, thẳng tắp. Tóm lại, Kinh tế chính trị Mác- Lênin là
khoa học rất quan trọng trong đời sống xã hội, ngoài việc chỉ ra bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản, nó giúp chúng ta thấy được bản chất của các hiện
tượng và quá trình kinh tế, nắm được các quy luật kinh tế chi phối sự vận
động và phát triển kinh tế; phát triển lý luận kinh tế và vận dụng lý luận đó
vào thực tế, hành động theo quy luật, tránh bệnh chủ quan, giáo điều, duy ý
chí. Kinh tế chính trị cung cấp các luận cứ khoa học làm cơ sở cho sự hình
15

thành đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội và các chính sách, biện
pháp kinh tế cụ thể phù hợp với các yêu cầu của các quy luật khách quan và
điều kiện cụ thể của đất nước ở từng thời kì nhất định. Là công cụ cần thiết
không chỉ cho các nhà quản lý vĩ mô mà còn rất cần cho quản lý sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp của mọi tầng lớp dân cư, ở tất cả các thành phần
kinh tế. Kinh tế chính trị là phương tiện giúp ta hiểu rõ tính đúng đắn, khoa
học, sáng tạo về chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế cụ thể của Đảng
và Nhà nước ta qua các thời kì phát triển đất nước.
3. Chủ nghĩa xã hội khoa học Nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa
học là nghiên cứu: Sứ mệnh lịch sử của giai nhân cấp công nhân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa; Những vấn đề chính trịxã hội có tính quy luật trong
tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển
vọng.
3.1. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ
nghĩa xã hội là một xã hội có cơ sở vật chấtkỹ thuật là nền đại công nghiệp;
xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất; tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc căn bản nhất;
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, có
tính dân tộc 15 sâu sắc; thực hiện sự giải phóng con người khỏi ách áp bức,
bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện. Trên cơ sở quy luật sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã
hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên, tính tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và sự diệt vong của
chủ nghĩa tư bản là tất yếu như nhau. Những dự báo về đặc trưng cơ bản, về
cách thức, khả năng thực hiện chủ nghĩa xã hội là quá trình của kết quả phát
triển tích hợp những điều kiện cụ thể và cần thiết về kinh tế, chính trị và văn
hoá- xã hội khác nhau chín muồi khách quan, chứ không phải theo ý muốn
chủ quan ở các quốc gia, dân tộc.
3.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Từ cơ sở của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, cho thấy, nguồn gốc sâu xa của sự phát triển xã hội là sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập nằm ngay trong lòng của xã hội, trước hết là sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời,
đang kìm hãm sự phát triển của nó. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì sự
đấu tranh giữa lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ được thể hiện
16

thành cuộc đấu tranh giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và
giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất cũ. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp
đối kháng sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, tức là dẫn đến bước nhảy vọt về
chất trong sự phát triển của xã hội. Trong xã hội tư bản, C.Mác đã tìm thấy
một lực lượng xã hội đảm nhận vai trò và sứ mệnh của mình, đi tiên phong
trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội loài người và
giải phóng từng con người khỏi áp bức, bóc lột và sự nô dịch của chủ nghĩa
tư bản, tiến tới xã hội cộng sản văn minh. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
đã đem lại cho giai cấp đó ý thức về địa vị bản thân mình và yêu cầu mình, ý
thức về điều kiện để giải phóng mình. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, đã làm rõ tiêu chí xác định thế nào là giai cấp vô sản: đó là những người
lao động trực tiếp hay gián tiếp và vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp. Mác và Ăngghen cho rằng: “Tất cả các giai cấp hiện đang
đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách
mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát
triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của bản thân nền
đại công nghiệp”5 . Sở dĩ giai cấp công nhân có vai trò, sứ mệnh lịch sử ấy
là vì nó là con đẻ của nền sản xuất hiện đại- đại diện cho tính xã hội hóa của
lực lượng sản xuất và cũng đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
lực lượng sản xuất, tức là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, phù
hợp trào lưu tiến hoá của lịch sử. Chỉ có giai cấp công nhân mới có tính cách
mạng triệt để vì nó không có lợi ích riêng với chế độ tư hữu, nó tìm thấy lợi
ích chân chính của mình khi phấn đấu cho lợi ích toàn xã hội. 5 Các Mác và
Ph.Ăngghen toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.610. 16
Muốn thực hiện được vai trò và sứ mệnh của mình, giai cấp vô sản phải liên
minh với giai cấp nông dân, phải thành lập ra đảng của mình, độc lập với tất
cả các đảng khác, đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh vĩ đại của giai cấp công
nhân và quần chúng lao động. Đảng đó phải là đội tiên phong của giai cấp
tiên phong, tiên phong cả về nhận thức- tư tưởng- lý luận- chính trị và cả
trong hành động- trong hoạt động thực tiễn. Đảng đó phải tổ chức và hoạt
dộng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên kiểm điểm, tự phê
bình và quan hệ mật thiết với quần chúng... Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, đem lại lời giải thích khoa học và cách mạng của giai
cấp công nhân, trở thành tư tưởng cốt lõi lý luận chính trị, tạo chuyển biến
nhảy vọt của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, từ không tưởng trở thành khoa học
17

của chủ nghĩa Mác. V.I. Lênin đánh giá: “Điểm chủ yếu trong học thuyết
của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản
là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”6 .
3.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay Hiện
nay, giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp. Để xứng đáng với
vai trò là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hướng tới kinh tế tri thức, hội nhập và gắn với bảo vệ môi trường sinh thái,
cần phải “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,
kỷ luật lao động thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”7 .
Hiện nay, nội dung kinh tế hàng đầu của sự nghiệp đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, được Đại hội XIII xác định là: “Đổi mới mạnh mẽ mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế; tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo”8 . Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết đảm bảo
sự thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân là trách nhiệm của toàn bộ
hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của mỗi người công
nhân. Chủ nghĩa Mác- Lênin là một hệ thống lý luận khoa học- biện chứng,
hiện đại về những quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Giá trị của chủ
nghĩa Mác- Lênin ở tính chuẩn xác, toàn diện, hệ thống và biện chứng.
Em làm gì để học tập và thức đúng về chủ nghĩa mác- leenin

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm được kết hợp khoa học, nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc với thực tiễn cách mạng
Việt Nam và chủ nghĩa Mác-lênin. Đây là một tài sản tinh thần to lớn đối với dân
tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận dụng những giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa
Mác-Lênin dựa trên những giá trị bền vững là: Phương pháp biện chứng duy vật;
Quan niệm duy vật về lịch sử; Học thuyết hình thái kinh tế xã hội; Học thuyết giá
trị thặng dư; Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Vậy nên để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh thì cần phải:
18

Thứ nhất là nắm vững những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai là trung thành với con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường sáng nhất cho dân tộc Việt Nam giành
độc lập được như ngày hôm nay. Vậy nên cần kiên định với con đường ấy đến
cùng. Cần nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm nhìn trí tuệ, luôn luôn có hướng đổi mới
sáng tạo không từ bỏ mục tiêu. Tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm nhất quán của
Đảng, hành động cách mạng của Đảng và toàn dân ta.
Thứ ba là nỗ lực biến khát vọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về đất nước phồn
vinh, hạnh phúc thành hiện thực. Đất nước mà nhân dân ta hướng tới là Độc lập –
Tự do – Hạnh phúc, nên cần có quyết tâm chính trị cao, quyết tâm ấy đã được hun
đúc từ trong những cuộc chiến tranh lịch sử của nước ta. Nhân dân ta đã nỗ lực,
đồng lòng để đánh bại những kẻ xâm lược để giành lại độc lập ngày nay nên quyết
tâm ấy cần tiếp tục phát huy hơn nữa trong thời đại mới.
Để biến khát vọng ấy thành hiện thực thì cần thực hiện nghiêm túc “nói đi đôi với
làm". Mọi cán bộ, nhân dân cần nhận thức nói được là làm được nhằm khắc phục
khuyết điểm nói nhiều mà làm ít, nói hay làm dở, nói mà không làm hoặc nói một
đằng làm một nẻo. Cùng với đó là có những chương trình, kế hoạch tỉ mỉ để toàn
dân thực hiện.
Thứ tư là tăng cường công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Đảng chính là cơ quan lãnh đạo toàn dân nên Đảng cần gương mẫu,
văn minh, những cán bộ của Đảng phải là đầy tớ trung thành của nhân dân, thực
hiện những nhiệm vụ của nhân dân giao phó. Bởi thế Đảng cần có sự trong sạch,
vững mạnh thì mới xây dựng được nhà nước vững mạnh.
Như vậy để vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh thì cần sự nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng toàn dân mà Đảng chính là
người dẫn dắt nhân dân nên mỗi Đảng viên cần rèn luyện phấn đấu học hỏi những
tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác Lênin để vận dụng sáng tạo trong thời kỳ
mới.
NỘI DUNG 2. Tư tưởng Hồ chi Minh về đại đoàn kết dân tộc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và
phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ
thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.

1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam.
19

Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: ” Dân ta
có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến
nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và
củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời
gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá
nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì
dân, vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy
sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm
nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam bao giờ
cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng nghìn năm lịch sử chinh
phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở
đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng
to lớn của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con
đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh
giai cấp công nhân với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của
cách mạng vô sản. Rằng nếu không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân
lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản
không thể thực hiện được.

Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa
học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các
di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt
Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
20

3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới.

Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước
ngòai của Hồ Chí Minh.

a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam

Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu
tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của
ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”
và “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày
của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận
như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.

Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu
nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ
Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của
các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch
sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết
tâm từ Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.

b- Thực tiễn cách mạng thế giới

Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:

“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự
liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ
chức và chưa biết tổ chức…”

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước
ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành
dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính,
Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng
Mười và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại
cho phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp,
21

đoàn kết lực lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính
quyền cách mạng.

II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN
KẾT DÂN TỘC

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp
đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là
tư tưởng xây dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

1- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng.

Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải
tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn
cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp
lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc
luôn luôn được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.

- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là
then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa
đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô của đoàn kết quyết định quy
mô,mức độ của thành công.

- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.

Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại
phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì
đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân
Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không
chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất
và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường
đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào,
22

đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Chính sức mạnh của lực
lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ
tịch Hồ Chí Minh phân tích: “ Vì sao có cuộc thắng lợi đó"? Một phần là vì tình
hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả
các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt
Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ
đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”.

Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc
nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta
rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng, đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” Đây
chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.

2- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng

Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì,
đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần
chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức
mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân,
hạnh phúc cho con người.

3-Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng,
không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đoàn kết dân tộc cũng
có nghĩa phải tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung.
Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ
quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước-
nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con
người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân,
dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công nông-
lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố
vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ
thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
23

4- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt
trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng

Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:

- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm
lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi
ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ
Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái
riêng, cái khác biệt.

Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Người vạch
rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa
số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai
mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó
trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người
chỉ rõ: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị.
Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn
kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Người còn nhấn mạnh: ”Đoàn kết rộng
rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt
thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống hai khuynh hướng sai
lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”. Cũng tại Đại hội đó, Người chỉ
rõ: “Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc của Đại hội
thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của chung toàn dân, của
cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả, một người đã
cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm
nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang
ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão”. Vì
vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng.” Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô
hạn trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải
mở rộng và củng cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của
khối đại đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam
24

THẾ HỆ trẻ việt nam cần phải làm gì để phát huy truyền thống đoàn kết dân
tộc
Cần phải :

++ Quán triệt tư tưởng đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc
++ Không phân biệt các dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, các ngành nghề trong
một mặt trận dân tộc thống nhất
++ Cùng với tổ chức Đoàn thanh niên tuyên truyền tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và an ninh quốc phòng. Cương quyết
chống lại những ý kiến xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.
++ Thực hiện chính sách đối ngoại, hòa bình hữu nghị, hợp tác với tinh thần
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”, thực hiện mở cửa, mở rộng
quan hệ đối ngoại hợp tác quốc tế, đoàn kết trong chủ trương và hành động
cùng bảo vệ chủ quyền đất nước.

NỘI DUNG 3 . Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp cách mạng của Người được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ
thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Leenin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của
Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết
chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện
những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên
Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề
đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-
1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn
Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên.

2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh:

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước
25

và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa
văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp
thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng
phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn
diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất
đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện
đạo đức với mỗi người cách mạng.

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam:

– Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của
Người là mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân
dân, làm cho nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Để
thực hiện mục tiêu đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người
đi tìm đường cứu nước và đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên
toàn thế giới.

– Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.

Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân
tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời
đại. Những tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc:
Phải chống chủ nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở
chính quốc. Con đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc
là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
trên mọi lĩnh vực. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý
luận Hồ Chí Minh.
26

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội bao gồm:

– Chủ nghĩa xã hội là một chế độ nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quvền
làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

– Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện
để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.

– Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi
được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.

– Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới
sự lãnh đạo của Đảng

– Về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và xây đựng con người.

+ Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động,
nòng cốt là công – nông – trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân (sức
mạnh cá thể) với xã hội (sức mạnh cộng đồng); coi trọng động lực kinh tế, phát
triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan
tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu
của chủ nghĩa xã hội. Cần kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài,
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất
quan trọng.
27

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định: cần căn cứ vào đặc điểm lịch sử cụ thể của
mỗi nước để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “tùy hoàn
cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng
đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản), … Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới,
rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản)…”. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là
đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không
phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Vì vậy, khi nói về độ dài của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa
xã hội là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”. Về những
nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh
chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò
quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị –
xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa.

– Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam

+ Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội: Xuất phát từ đặc điểm nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc
địa nửa phong kiến, sức sản xuất chưa phát triển, đời sống vật chất và văn hoá của
nhân dân thấp kém, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “…nhiệm vụ quan trọng nhất của
chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… có
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng
nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.

+ Phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý: Người khẳng
định: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp…
hai chân không đều nhau, không thể bước mạnh được”. Nông nghiệp phải phát
triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu…
Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho
nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc
trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp và cung cấp dần máy cày, máy bừa cho
các hợp tác xã nông nghiệp. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn
28

nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ
nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh công nông để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân.

+ Tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa: Công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thực sự của nhân dân
ta. Trong bài Con đường phía trước (ngày 20-1-1960), Người viết: “Đời sống nhân
dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật
rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp
thêm tay cho người, làm cho sức người tăng lên gấp trăm, nghìn lần và giúp người
làm những việc phi thường. Muốn có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công
nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng
ta: “Con đường công nghiệp hóa nước nhà”.

+ Các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam còn nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Người chỉ ra rằng, ở
thời kỳ quá độ, nền kinh tế đó còn các hình thức sở hữu chính: “Sở hữu của nhà
nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân
lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ. Tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
nhà tư bản”. Tương ứng với chế độ sở hữu là các thành phần kinh tế. Hồ Chí Minh
xác định: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau… Trong năm
loại ấy, loại A [kinh tế quốc doanh] là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả.
Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo
hướng chủ nghĩa tư bản”.

2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết dân tộc:

Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù chính trị
chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân dân. Người
khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi.
Người từng nói với cán bộ: “Nếu lãnh đạo khéo thì việc khó khăn mấy và to lớn
mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc:
phải không ngừng học dân. “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo.
Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”, do vậy cán bộ
ta “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu ấy”.
29

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm có tính
chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn
kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành công”. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng
rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Trong quá trình xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để giải
quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc. Để tập hợp lực lượng, không được
phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn
sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân
chúng là được.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã
vững bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi
người cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để
kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như
Bác Hồ hằng mong muốn.

Em đã học được ở con người Hồ chí Minh những tư tưởng đạo đức phong
cách nào .

Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, linh hồn của khối đại
đoàn kết dân tộc, không chỉ để lại cho dân tộc ta một sự nghiệp cách mạng to lớn
mà còn để lại toàn Đảng, toàn dân ta một di sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng Hồ
Chí Minh. Trong di sản ấy, tư tưởng về đạo đức luôn có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Cùng với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền
tảng tư tưởng của Đảng ta, là ngọn cờ dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi tới thắng lợi,
trước đây, hiện nay cũng như sau này.
30

Trong bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của
tổ chức hay cá nhân một người, đạo đức con người cũng thể hiện vai trò quan trọng
của nó. Khi đạo đức suy thoái, xã hội không thể phát triển bền vững. Trên các
chặng đường cách mạng vừa qua, đặc biệt là trong thời kỳ tiến hành công cuộc đổi
mới đất nước, Đảng ta đã có sự đổi mới trong tư duy, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh chính trị, trí tuệ để đủ sức tiếp tục gánh vác
trọng trách là Đảng cầm quyền. Sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang đặt ra
những yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam, đồng thời tạo ra những thuận lợi và
những thử thách mới đối với mỗi chúng ta trong lĩnh vực đạo đức. Hơn lúc nào hết,
hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang quan tâm đến vấn đề đạo đức, tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện những chuẩn mực đạo đức đúng đắn, tiến bộ; đẩy mạnh giáo dục,
rèn luyện và tăng cường quản lý đạo đức trong Đảng và trong nhân dân

Nội dung 4. Quan niệm về người công dân tốt, người lao động tốt
Người công dân tốt;
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam. Người công dân tốt là người thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định.

- Thực hiện tốt quyền của công dân:

Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận, kiên nghị các vấn
đề chung của cả nước và địa phương. Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử, đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân
theo quy định của pháp luật.

Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật; quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất; quyền xây dựng, thuê nhà ở theo quy
hoạch và pháp luật.

Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền nghiên cứu khoa
học, phát minh, sáng chế; được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.

Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
31

chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những
công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Trẻ
em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.

Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và
giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý
thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng
tạo và bảo vệ Tổ quốc.

Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người và gia đình có công với nước được
hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi
không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.

Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và
từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình
theo quy định của pháp luật. Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào.

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.

Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội
hoặc bất cứ cá nhân nào.

- Thực hiện tốt nghĩa vụ chủ yếu của công dân:

+ Công dân phải trung thành với Tổ quốc.

+ Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

+ Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công
cộng.

+ Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia.
32

+ Công dân phải chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng; có nghĩa vụ thực
hiện các quy đinh về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng.

+ Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp
luật.
Người lao động tốt :

về độ tuổi lao động, Bộ luật Lao động hiện hành quy định đủ 18 tuổi đến đủ 60
tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ. Luật Lao động quy định: lao động
chưa thành niên là người lao động đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuôi; người lao động
cao tuổi là người lao động nam trên 60 tuổi, nữ trên 55 tuổi.
a) Là người công dân tốt đang ở độ tuổi lao động

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần của xã hội.

Về độ tuổi lao động, Bộ luật Lao động hiện hành quy định đủ 18 tuổi đến đủ 60
tuổi đối với nam, đủ 55 tuổi đối với nữ. Luật Lao động quy định: lao động chưa
thành niên là người lao động đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuôi; người lao động cao tuổi
là người lao động nam trên 60 tuổi, nữ trên 55 tuổi.

b) Lao động có kỷ luật, kỹ thuật, có năng suất, chất tượng, hiệu quả cao

Kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều
hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động.

Việc chấp hành tốt kỷ luật lao động là yêu cầu cơ bản, đầu tiên, là bản chất của
người lao động thời đại mới. Người lao động vô kỷ luật sẽ ảnh hưởng đến người
khác, đến tập thể và xã hội; ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, hoặc gây
ra những thiệt hại về vật chất, tài sản...

Lao động có kỷ luật thể hiện ở việc chấp hành tốt nội quy lao động, chủ yếu là tuân
theo thời gian làm việc và nghỉ ngơi, trật tự, an toàn, vệ sinh lao động ở nơi làm
việc, bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh...

Người lao động phải nắm được các thao tác và sử dụng thành thạo các phương
tiện, máy móc theo đúng kỹ thuật, phục vụ cho lợi ích của con người và xã hội.
33

Người lao động kỹ thuật tốt sẽ tiết kiệm công sức, thì giờ, kinh phí, tạo ra sản
phẩm có chất lượng, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành
sản phẩm; từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

Lao động có kỹ thuật là tiêu chí đánh giá trình độ tay nghề, là nhân tố quyết định
nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo ra nhiều của cải có chất lượng cho xã
hội.

Do đó, lao động có kỹ thuật là một trong những yêu cầu không thể thiếu đối với
người lao động.

Các phẩm chất nói trên của người lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau và người
lao động tốt phải là người lao động hội tụ được đầy đủ các phẩm chất đó.
Em cần làm gì để trở thành người công dân tốt , người lao động tốt
Người lao động tốt, công dân có ích cho xã hội được hiểu là những công
dân, người lao động chân chính, không vi phạm pháp luật, không trái lương
tâm đạo đức. Một người lao động có ích cho xã hội là một người công dân,
người lao động hoàn thành tốt những công việc, trách nhiệm của bản thân
trong xã hội.
Chúng ta cũng biết mỗi công dân trong xã hội đều có một công việc khác
nhau vì thế một công dân, người lao động tốt thì hoàn thành trách nhiệm bản
thân mình trong xã hội. Bên cạnh đó những công dân có ích là người nỗ lực,
sống hiến cho đất nước. Như những người đã hi sinh vì đất nước trong chiến
tranh hoặc ngày nay là những người đã và đang nỗ lực phát triển đất nước ta.

Vậy để trở thành người lao động tốt, công dân có ích cho xã hội thì ngay từ giờ học
sinh cần phải làm những điều sau:
 Học sinh cần phải cố gắng nỗ lực học tập, tiếp thu kiến thức để tương lai trở
thành người có ích cho xã hội. Vì chỉ có học tập và tiếp thu kiến thức thì thế hệ
trẻ mới phát triển bản thân và cống hiến chất xám của mình cho xã hội và đất
nước.
 Cần tu dưỡng đạo đức của bản thân, sống lành mạnh và rèn luyện để trở thành
một công dân tốt. Khi tu dưỡng đạo đức của bản thân tốt, sống lành mạnh thì
các em mới học được những đức tính quý báu của một con người và trở thành
người lương thiện, có lòng nhân ái.
34

 Cần chăm chỉ lao động, làm việc tuỳ theo sức của bản thân. Dù ở độ tuổi nào
cũng cần lao động, người nhỏ làm việc nhỏ đề rèn luyện bản thân, không để
bản thân lười biếng. Lao động chính là vinh quang.
Như vậy để trở thành người công dân có ích, người lao động tốt thì các em cần
chăm chỉ, rèn luyện những điều nêu trên để tương lai đem lại lợi ích cho đất nước
và giúp đỡ người thân gia đình mình.
Trên đây là những tìm hiểu của Hoa Tiêu về vấn đề Để trở thành người lao động
tốt công dân có ích cho xã hội ngay từ giờ em cần phải làm gì? Mời bạn đọc tham
khảo thêm những thông tin hữu ích trong mục Học tập liên quan
Nội dung 5. Những truyền thống tốt đẹp của giai cấp công nhân việt nam
Em làm gì để kế thừa và phát huy những truyền thống đó

Tích cực tham gia những lễ hội truyền thống, trò chơi dân gian. Đi thăm quan các
di tích lịch sử, tưởng nhớ công ơn của cha ông.
- Phải lưu giữ mỗi truyền thống đó trong mỗi con người chúng ta: luôn đoàn kết,
yêu thương nhau giữa anh em bạn bè. Luôn hiếu thảo với ông bà, nghe lời cha mẹ.
- Góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh giàng chủ quyền lãnh thổ: Tìm các
văn bản pháp lý, về việc chủ quyền biển đảo của Việt Nam, luôn cảnh giác, tố cáo
ngay những đơn vị có hành vi xấu, ảnh hưởng đến xã hội, đến nhà nước. Tự
nguyên xung phong nhập ngũ, không trốn tránh trách nhiệm.
- Lên án, bài trừ những hành vi gây ảnh hưởng đến văn hóa dân tộc của học sinh:
ăn mặc không đúng quy cách, ăn nói sử dụng từ mượn bừa bãi, tham gia vào các tệ
nạn xã hội
Nội dung 6. Những định hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta .

Từ Đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hóa (CNH) là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đảng ta xác
định thực chất của CNH xã hội chủ nghĩa là ''Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ
thuật, thực hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích lũy xã hội chủ
nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng''. Quan điểm này tiếp tục
được các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo củng cố và mở rộng.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một nền kinh
tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua CNH. Công
nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng sản xuất, làm thay
đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ tạo tiền đề
vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong
điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, CNH-HĐH là động lực phát
triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh-quốc phòng và là
35

tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một
cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Trong quá trình CNH-HĐH, nước ta có thuận lợi cơ bản là nước đi sau, có thể học
hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi trước và có cơ hội rút ngắn
thời gian thực hiện quá trình này. Trước đây, nước Anh thực hiện CNH đầu tiên,
phải mất 120 năm; nước Mỹ đi sau, chỉ mất 90 năm; sau nữa là Nhật Bản xuống
còn 70 năm; và các nước công nghiệp mới (NICs) có hơn 30 năm. Việt Nam thực
thực hiện quá trình này trong bối cảnh loài người đang bắt đầu chuyển sang phát
triển kinh tế tri thức (KTTT), với sự bùng nổ của tự động hóa, công nghệ thông tin,
công nghệ gen, công nghệ nano, công nghệ vật liệu mới... đúng như tiên đoán của
C. Mác và Ph. Ăng-ghen từ giữa thế kỷ XIX: ''Tri thức sẽ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp''. Đây chính là cơ hội lịch sử hiếm hoi mà thời đại tạo ra để các nước
đi sau như Việt Nam rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước đi trước. Việc
chuyển nền kinh nước ta sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu
cấp thiết không thể trì hoãn.
Chính vì thế, tại Đại hội lần thứ IX, lần đầu tiên, Đảng ta đã ghi vào văn kiện luận
điểm quan trọng về phát triển KTTT ''Đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những
ngành và lĩnh vực then chốt để tạo bước nhảy vọt về công nghệ và kinh tế, tạo tốc
độ tăng trưởng vượt trội ở những sản phẩm và dịch vụ chủ lực. Công nghiệp hóa
gắn với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt các giai đoạn phát triển. Nâng cao
hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế- xã hội, từng bước phát
triển KTTT ở nước ta''. Tới Đại hội X, việc phát triển KTTT được thể hiện rõ với
tư cách là một yếu tố cấu thành đường lối CNH-HĐH đất nước: ''Tranh thủ cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn
quá trình CNH-HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT,
coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH-HĐH. Phát triển mạnh các
ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp
việc sử dụng vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại”. Và Đại hội XI, với định hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý
giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững, Đảng ta tiếp tục khẳng định: ''phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm
động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển KTTT, góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế,
sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước”.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp đi lên CNXH, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chúng
ta phải tiến thành đồng thời hai quá trình: Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên
kinh tế công nghiệp (CNH-HĐH); chuyển từ kinh tế nông-công nghiệp lên KTTT.
Trong khi ở các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau, thì ở nước ta, tận
36

dụng cơ hội là nước đi sau, hai quá trình này được lồng ghép với nhau, kết hợp các
bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt, tức là gắn CNH-HĐH với phát
triển KTTT.
Năm 2000, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) đưa ra
định nghĩa: ''KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri
thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm
trong tất cả các ngành kinh tế''. Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công
nhân với các công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể
là công nhân trí thức với công cụ là tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri
thức. Phát triển KTTT nước ta là thực thi chiến lược vận dụng tri thức mới vào tất
cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị của sản phẩm; giảm tiêu hao tài
nguyên và lao động. Nước ta xác định, KTTT là công cụ hàng đầu để rút ngắn thời
gian thực hiện quá trình CNH-HĐH.
Nội dung trung tâm của thực hiện CNH-HĐH gắn với phát triển KTTT là lựa chọn
để có thể bỏ qua một số thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào công nghệ cao,
công nghệ mới nhằm nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao.
Trong ''Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, ngoài một số mục tiêu khối
lượng như: tăng trưởng GDP bình quân 7-8%/năm; GDP bình quân đầu người theo
giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD... còn có một số chỉ tiêu về chất lượng, như là
những nấc thang trên lộ trình CNH-HĐH, phát triển KTTT. Cụ thể là: tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP; giá trị sản phẩm công
nghệ cao đạt 45% GDP; yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt
35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5-3%/năm; giảm tỷ lệ lao động
nông nghiệp xuống còn 30-35%...
Để đạt những chỉ tiêu trên điều tiên quyết là phải cơ cấu lại sản xuất công nghiệp
theo hướng tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong
sản phẩm. Đồng thời phải sử dụng tri thức mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển các ngành kinh tế mũi nhọn như công nghệ thông tin, khai khoáng, luyện kim,
hóa chất, chế biến nông sản, năng lượng... và đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn bằng cách đổi mới công tác đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh
doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người nông dân; sử dụng công nghệ
sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nước ta có được sự lựa chọn rộng rãi để tăng nhanh
hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm. Chúng ta cần phải đẩy mạnh việc
sử dụng những tri thức mới của nhân loại bằng nhiều hình thức khác nhau, như
nhập khẩu trực tiếp công nghệ; nhập khẩu công nghệ gián tiếp qua thu hút đầu tư;
mua bằng sáng chế hay mời chuyên gia nước ngoài vào làm việc. Nhưng điều quan
37

trọng hơn, ngoài phần nhập khẩu công nghệ cứng như nói ở trên, cần chủ động học
hỏi và nhập khẩu những công nghệ mềm như công nghệ quản lý, kinh nghiệm sử
dụng nhân tài, đổi mới thể chế kinh tế... và đổi cách cải tiến để thích nghi với điểu
kiện nước ta. Công nghệ và tri thức của nhân loại sau một thời gian luôn bị thay
thế bởi công nghệ và tri thức mới, do đó việc tiếp cận với chúng là liên tục và
không có điểm dừng. Đây là điều kiện để chúng ta rút ngắn quá trình CNH-HĐH
gắn với việc vận dụng tri thức mới vào tất cả các ngành kinh tế.
Như trên đã nói, chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 qua trình là CNH-HĐH và
phát triển KTTT, do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt, với các đề xuất sau:
Một là, xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao ở Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát triển công nghệ của cả nước
và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ theo hướng
mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao thuận lợi trên thị
trường, được nuôi dưỡng bằng tinh thần cạnh tranh bình đẳng.
Ba là, sử dụng công cụ tín dụng và thuế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bỏ
qua các thế hệ công nghệ trung gian, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công
nghệ cao.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi để các tập đoàn xuyên quốc gia không chỉ đầu tư
xây dựng cơ sở sản xuất mà còn xây dựng cả cơ sở đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực
chất lượng cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.
Năm là, khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có chính sách đãi ngộ
thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc hay lập nghiệp.
Sáu là, cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với những bước đi
thích hợp. Ở giai đoạn đầu, hướng về sự tiếp cận, tiếp thu, chuyển giao công nghệ
mới, trong đó ưu tiên xây dựng các khu công nghệ cao cấp vùng để thu hút công
nghệ mới. Hình thành một số cơ sở nghiên cứu-ứng dụng đủ sức tiếp thu, cải tiến
công nghệ và sáng tạo công nghệ mới gắn sản xuất kinh doanh. Giai đoạn tiếp theo
sử dụng cơ chế tài chính khuyến khích đối tác nước ngoài hợp tác với cơ sở trong
nước trong phát triển công nghệ mới. Trên nền tảng đó, tạo ra năng lực nghiên cứu
nội sinh giúp các nhà khoa học và cơ sở sản xuất trong nước tiến tới vận dụng và
làm chủ những công nghệ và tri thức mới của nhân loại.
Nội dung 7.khái niệm và nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ chí Minh.

I.Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh” là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
38

chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
...Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(1).
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ
yếu sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại
nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
II. Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
1. Điều kiện lịch sử- xã hội, gia đình, thời đại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời
do yêu cầu khách quan, đáp ứng những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam
đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
a. Điều kiện lịch sử.
- Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Các
phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp liên tục nổi lên, dâng cao và lan rộng
trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực,... ở Nam bộ; Trần Tấn, Đặng
Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện
Thuật, Nguyễn Quang Bích... ở miền Bắc. Tuy nhiên, do chưa có một đường lối
kháng chiến rõ ràng, dựa trên ý thức hệ phong kiến, nên đều thất bại.
- Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam bắt đầu có sự biến chuyển và
phân hóa, tầng lớp tiểu tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện,
ảnh hưởng của cuộc vận động cải cách của của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu ở
Trung Quốc tác động vào Việt Nam. Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự xuất hiện của các phong
trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... do
các sĩ phu phong kiến có tư tưởng duy tân truyền bá và dẫn dắt, nhưng do bất cập
trước lịch sử, nên không tránh khỏi thật bại.
- Những năm đầu thế kỷ XX thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào
yêu nước của nhân dân ta. Trường Đông Kinh Nghĩa thục bị đóng cửa (tháng 12-
1907; cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung bị đàn áp
39

(tháng 4 – 1908); vụ Hà Thành đầu độc bị thất bại và bị tàn sát (tháng 6-1908); căn
cứ nghĩa quân Yên Thế bị bao vây và đánh phá (tháng 01 – 1909); phong trào
Đông Du bị tan rã, Phan bội Châu và các đồng chí của ông bị trục xuất khỏi nước
Nhật (tháng 02-1909); các lãnh tụ của phong trào Duy Tân trung kỳ, người bị lên
máy chém (Trần Quý Cáp, Nguyễn Hằng Chi..), người bị đày ra Côn Đảo (Phan
Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn...). Tình hình đó
cho thấy, phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải đi
theo một con đường cách mạng mới.
b. Quê hương, gia đình.
- Quê hương.
Nghệ Tĩnh, quê hương của Hồ Chí Minh là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, chống ngoại xâm. Nơi đây đã nuôi dưỡng nhiều anh hùng nổi tiếng trong
lịch sử Việt Nam như Mai thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, các lãnh tụ yêu
nước cận đại như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu...
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị đàn
áp, bị bóc lột cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Những
tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều
đã thôi thúc Người ra đi tìm một con đường cách mạng mới để cứu dân, cứu nước.
- Gia đình.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân
dân. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho giàu lòng
yêu nước, thương dân sâu sắc, lao động cần cù, có ý chí kiên cường vượt qua gian
khổ, khó khăn để đạt được mục tiêu, chí hướng. Chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn
cho mọi cải cách chính trị - xã hội của cụ Phó bảng Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc
đối với sự hình thành tư tưởng chính trị và nhân cách của Hồ Chí Minh.
c. Thời đại.
- Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc và đã trở thành một hệ thống thế giới. Các nước đế
quốc vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân
tộc nhỏ yếu trong vòng kìm kẹp thuộc địa của chúng.
- Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX đã không còn là hành
động riêng rẽ của mỗi nước chống lại sự xâm lược và thống trị của chủ nghĩa đế
quốc, mà trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa gắn với cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế chống giai cấp tư sản ở chính quốc.
- Khi còn ở trong nước, Hồ Chí Minh tuy chưa nhận thức được đặc điểm của
thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử của đất nước mình Người đã thấy rõ con đường
của các bậc cha anh không đem lại kết quả, phải đi tìm một con đường mới. Trong
khoảng 10 năm, Hồ Chí Minh đã vượt ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên
khoảng gần 30 nước. Nhờ đó, Người đã hiểu được bản chất chung của chủ nghĩa
đế quốc và hoàn cảnh chung của các nước thuộc địa trên thế giới.
40

- Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng trong phong trào
công nhân châu Âu diễn ra ngày càng thêm sâu sắc, dẫn đến sự phân liệt trong nội
bộ các đảng xã hội Dân chủ thuộc Quốc tế II. Một số đảng bị phân hóa. Phái tả
trong các đảng tách ra, thành lập các Đảng cộng sản. Tháng 3 – 1919, Lênin thành
lập Quốc tế III- Quốc tế cộng sản, đưa phong trào cộng sản thoát khỏi chủ nghĩa
cải lương, theo đuôi các chính quyền tư sản của các đảng xã hội. Tác phẩm Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
V.I.Lênin và các văn kiện Đại hội II Quốc tế Cộng sản đánh dấu sự khẳng định về
mặt lý luận việc thực hiện mối quan hệ hữu cơ giữa cách mạng vô sản và cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, có ảnh hưởng sâu sắc đến phong
trào giải phóng dân tộc trên tế giới.
2. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã
tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền
thống tốt đẹp và cao quý.
- Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt
trường kỳ lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa –
tinh thần việt Nam. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào
Việt Nam đều được tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
- Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương
ái. Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh
và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang
thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp –
xã hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy
sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập
trung trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh
thầ lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất
thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc
quan đó.
- Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng
tạo, ham học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người
việt Nam từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan.
Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải
biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.
Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
41

Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp
thụ môt nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài, Người có thể
viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi
có nhu cầu “tự bạch” thì Người làm thơ bằng chữ Hán. Chính điều đó tạo điều
kiện cho Người tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại và làm nên nét đặc sắc ở
Hồ Chí Minh, một con người biểu tượng cho sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông –
Tây.
- Tư tưởng văn hóa phương Đông.
+ Nho giáo. Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, nhưng nho giáo
cũng có nhiều yếu tố tích cực, nên có ảnh hưởng khá lâu dài trong lịch sử. Đó là
triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời; lý tưởng về một xã hội
bình trị; triết lý nhân sinh: tu thân dưỡng tính góp phần đề cao văn hóa, lễ giáo, đề
cao tinh thần hiếu học.
Hồ Chí Minh đã khai thác nho giáo, lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp
để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những
người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của
các đời trước để lại” (2).
+ Phật giáo. Phật giáo là một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam
khá sớm. Những mặt tích cực của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tư
duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể
thương thân; xây dựng nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều
thiện; đề cao tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân
biệt đẳng cấp. Phật giáo Thiền tông coi trọng lao động, chống lười biếng.
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ đã
hình thành nên Thiền phái trúc lâm Việt Nam, chủ trương không xa đời mà sống
gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh
của nhân dân chống kẻ thù dân tộc.
Phật giáo Việt Nam đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao
động, để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hồ Chí Minh cũng nghiên cứu và thấu hiểu tư tưởng của các nhà tư
tưởng phương Đông như Lão tử, Mặc tử, Quản tử... Khi đã trở thành người
mácxít, Hồ Chí Minh vẫn tìm hiểu thêm về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn. Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa
phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của Người.
- Tư tưởng và văn hóa phương Tây.
+ Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học Đông Ba rồi vào Trường Quốc học
Huế, Hồ Chí Minh đã làm quen với văn hóa Pháp. Đặc biệt, Người rất ham mê
môn lịch sử, và say sưa tìm hiểu cuộc Đại cách mạng Pháp 1789.
42

+ Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở New York, làm thuê
ở Bruclin và thường đến thăm khu Haclem của người da đen. Người thường suy
nghĩ về tự do, độc lập, quyền sống của con người... được ghi trong Tuyên ngôn độc
lập 1776 của nước Mỹ.
+ Đến Pháp, Hồ Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà
tư tưởng khai sáng như tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ, khế ước xã hội của
Rútxô... Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng
của Người.
+ Hồ Chí Minh hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống
thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong cách sinh hoạt khoa học ở
Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng xã hội Pháp.
Tóm lại, nhờ sự thông minh, óc quan sát, ham học hỏi và được rèn luyện
trong phong trào công nhân Pháp, trên hành trình cứu nước Hồ Chí Minh đã biết
làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, của văn hóa Đông, Tây, từ
tầm cao củ tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển.
c. Chủ nghĩa Mác – Lênin, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
- Tác động của mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân với dân tộc và thời đại
đã đưa Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác – Lênin, từ người yêu tước trở thành
người cộng sản. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin Hồ Chí Minh đã hấp thụ và chuyển hóa được những nhân tố tích cực và tiến
bộ của truyền thống dân tộc cũng như của tư tưởng – văn hóa nhân loại để tạo nên
hệ thống tư tưởng của mình. Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác
– Lênin, những phạm trù cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong những phạm
trù cơ bản của lý luận mác – Lênin.
- Sở dĩ Hồ Chí Minh đã lựa chọn các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trên một loạt luận
điểm cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyên nhân sâu xa là:
+ Khi đi tìm đường cứu nước, ở tuổi 20, Hồ Chí Minh đã có một vốn học
vấn chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo. Nhờ vậy Người quan sát, phân tích,
tổng kết một cách độc lập tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép, giáo điều,
rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin một cách sáng tạo, phù
hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là để tìm đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng Việt Nam.Chính
Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa
cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin ,tin theo Quốc tế III”(3). Nhờ Lênin, người đã
tìm thấy “Con đường giải phóng chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên
cứu Mác sâu sắc hơn.
43

+ Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức
mácxít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ
ngôn từ. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác – Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng
hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm
những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
- Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán
tinh tường, sáng suốt trong nghiên cứu, tìm hiểu.
- Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của
thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
công nhân quốc tế.
- Đó là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khổ sẵn
sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc
của đồng bào.
Chính những phẩm chất cá nhân cao đẹp đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh
tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hóa phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại
thành tư tưởng đặc sắc của mình.
3. Quá trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một
quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt động
cách mạng phong phú của người.
a. Giai đạon hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng (từ
1890-1911).
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và môi trường sống, Hồ
Chí Minh đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
- Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc.
- Vốn văn hóa dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây.
- Hình thành hoài bão cứu dân, cứu nước khi chứng kiến cuộc sống khổ cực,
điêu đứng của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh.
b. Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm (1911-1920).
Đây là giai đoạn bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã:
- Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và khảo sát cuộc sống của
nhân dân các dân tộc bị áp bức.
- Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa,
Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc.
- Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
44

Sự kiện đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ
người yêu nước thành người cộng sản.
c. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam
(1921 – 1930).
- Hồ Chí Minh hoạt động tích cực trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng
cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Le
Paria nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa.
- Hồ Chí Minh sang Mátxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu
vào Đoàn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự đại hội
V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh niên,
Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế công hội đỏ...
- Hồ Chí Minh về Quảng Châu (Trung Quốc) tổ chức hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, ra Báo thanh niên, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán
bộ, đưa họ về nước hoạt động cuối năm 1924.
Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Các văn kiện này, cùng với hai tác phẩm Người hoàn thành và xuất bản
trước đó là Bản án chế độc thực dân Pháp (1925) và Đường Kách mệnh (1927),
đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng
của Việt Nam.
d. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định của cách
mạng Việt Nam (1930-1941).
- Do không nắm được tình hình thực tế các thuộc địa ở phương Đông và
Việt Nam, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả” khuynh, tại Đại hội VI (năm 1928),
Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích và phê phán đường lối của Hồ Chí Minh vạch ra
trong Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng. Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930 của
Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, cũng ra “Án nghị quyết” thu
hồi chánh cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham
gia các hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và
chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định quan điểm của mình.
- Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) đã có sự tự phê bình về khuynh
hướng “tả”, cô độc, biệt phái, bỏ rơi mất ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong
trào cộng sản. Để cho các đảng tư sản, tiểu tư sản và phát xít nắm lấy mà chống
phá cách mạng. Đại hội có sự chuyển hướng về sách lược, chủ trương thành lập
Mặt trận dân chủ chống phát xít.
45

- Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả”
khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Trên thực tế, từ đây đảng đã trở lại với Chánh
cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939 khẳng định rõ: “đứng
trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi
vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích
ấy mà giải quyết”(4).
Những diễn biến của quá trình này đã phản ánh quy luật của cách mạng Việt
Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh.
đ. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh (1941 –
1969).
- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung
ương 8 (tháng 5 – 1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời
gác khẩu hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra
mặt trận Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở công nông liên minh.
Nhờ đường lối đúng đắn đó, sau bốn năm, Đảng lãnh đạo cách mạng tháng Tám
thắng lợi. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và nhân dân ta phải tiến hành hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam.
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện trên
một loạt vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: về đường lối chiến tranh nhân
dân “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”, về xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện đất nước bị chia cắt
và có chiến tranh; về xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền; về xây dựng
Nhà nước kiểu mới - của dân, do dân, vì dân; về củng cố và tăng cường sự đoàn
kết nhất trí trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
- Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng
liêng gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của
một vĩ nhân hiếm có, đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Di
chúc đã tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt
Nam, đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát
triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
- Đảng ta và nhân dân ta ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn di sản
tinh thần vô giá mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công
cuộc đổi mới phát triển.
46

Những biến động chính trị to lớn trên thế giới diễn ra trong hơn mười năm
qua vừa kiểm chứng, vừa khẳng định tính khoa học, đúng đắn, tính cách mạng,
sáng tạo, giá trị dân tộc và ý nghĩa quốc tế của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Là học sinh em phải làm gì để học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh.
Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay

Đạo đức Hồ Chi Minh là đạo đức cách mạng nêu cao chủ nghĩa tập thể, tiêu diệt
chủ nghĩa cá nhân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, vô ngã vị tha, chí công vô tư.
Dưới ngọn cờ của tư tưởng đó trong từng giai đoạn cách mạng, thế hệ trẻ Việt Nam
đã lập được nhiều kỳ tích to lớn, đóng góp vào tiến trình chung của lịch sử dân tộc.

Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế một
nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng, là
nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức
vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người,
sống nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu
mới. những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó phần lớn sinh
viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh:
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập: sống có bản lĩnh, có chí lập thân,
lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đổi mặt với những khó khăn thách thức,
dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, chày lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành
cùng dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng
văn minh.

Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế do sự bùng
phát của lối sống thực dụng chạy theo danh lợi bất chấp đạo lý đã dẫn đến những
tiêu cực trong xã hội ngày càng phổ biến. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá của các thế lực phản động quốc tế
nhằm thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" đã tác động không nhỏ đến đời sống
đạo đức công dân. ảnh hưởng lớn đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh
viên, thanh niên tri thức. Hậu quả là đã có một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm
tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có trí lập thân, lập nghiệp: chạy
theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia
đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút xách: thiếu trung thực, gian lận trong thi
47

cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng cấp... Đâv là những biểu hiện
không thể coi thường.

- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ là
một nhà đạo đức học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vô song. Chính điều
này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống
mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với
nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội. Để trở thành
người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà thế hệ trẻ Việt Nam nói
chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Dưới đây là một số nội dung cơ bản:

Một là, học trung với nước, hiếu với"dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người Việt Nam đẹp nhất và là một trong những con
người đẹp nhất của thời đại chúng ta.

Ngay từ thủa thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát
mục tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận mọi sự
hy sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vuợt qua mọi khó khăn, gian
khổ, "thắng không kiêu, bại không nản", "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục" nhằm thực hiện bằng được
mục tiêu đó. Người nói: Bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống
hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc, giải phóng giai cấp
công nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội cho sự hợp
tác anh em và hòa bình giữa các dân tộc; "Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên"[1] Đến lúc phải rời thế giới này điều luyến
tiếc duy nhất của người là "không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Tấm gương vì nước, vì dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế
giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và
trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: "nhà cách mạng triệt để", "nhà
hoạt động quốc tế thần thoại", "một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta",
"một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân đạo cao cả nhất.
48

Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt,
bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như
vậy"; một con người "mà cái chết là mầm sống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời
đời bất diệt"[2]...
Hai là học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đòi riêng trong sáng, nếp sống
giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chinh, chí công
vô tư, ít lòng ham muốn vật chất, đó là tư cách người cán bộ cách mạng và tự
mình, Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời Người sống trong sạch, thực hành
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không
gợn chút riêng tư. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng viết:”Hồ Chủ tịch không có cái gì
riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối cao của nước, lợi ích
hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của Người là đại
gia đình Việt Nam".

Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa
chuộng những nghi thức trang trọng cầu kỳ. suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch,
tao nhã, giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc
cho dân. Toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới đều biết bộ ka ki bạc màu, đôi
dép lốp mòn, cái nhà sàn gỗ đơn sơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Nói về những đức
tính vĩ đại của Hồ Chí Minh. X.Asienđê - vị Tổng thống anh hùng của nước Cộng
hòa Chile đã khái quát: "Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi
thường”

Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với
con người.

Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền
với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán
bộ đảng viên, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải
hết sức tránh: phải gần dân, hiểu dân, học dân, kính trọng nhân dân: hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt đầu óc "quan cách mạng" và tự
49

mình. Người thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu. "lắng nghe ý kiến của đảng
viên, của nhân dân, của những người không quan trọng". Là người có uy tín rất cao
và sức hấp dẫn rất lớn song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân
dân chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, "như một người lính vâng
mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận".

Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh dành cho tất cả, chia sẻ với mỗi người
những nỗi đau riêng. Người nói trong "mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau
khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì
thành nỗi đau khổ của tôi”. Cách mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc Việt
Nam vừa trải qua nạn đói khủng khiếp. Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản xuất,
mỗi tháng mỗi người nhịn ăn ba bữa để góp gạo cứu đói và người cũng đóng góp
lon gạo của mình như mọi người dân. Đi thăm trại tù binh trong chiến dịch biên
giới về. Người không còn áo khoác ngoài vì Người đã cho tên quan ba thầy thuốc
người Pháp bị rét cóng...

Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của
dân tộc, nên có sức mạnh và sự cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo
lương tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn cho nên khi làm cách
mạng Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện
chủ nghĩa nhân văn cộng sản, vừa thánh thiện, vừa gần gũi, đã làm xúc động trái
tim nhân loại và Người được suy tôn như "một ông thánh cộng sản"; "một con
người của huyền thoại", cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng có lẫn bình luận:
Lòng nhân đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất tốt đẹp nhất trong
con người Hồ Chủ tịch.

Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua
mọi thứ thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống

Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian
khổ. Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình có giai đoạn hoạt động sôi nổi
được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kỵ, không được giao nhiệm
vụ. Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên
cường, chủ động vượt qua mọi thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống,
50

bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ để tự
răn:

"Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao".

Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí
Minh. Một tờ báo nước ngoài đã viết: "Đằng sau cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là
một ý chí sắt thép, Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng
không có gì uy hiếp nổi"

Trong tình hình hiện nay để phong trào "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh" của sinh viên có hiệu quả đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều
nhân tố: sự giáo dục và việc tự tu dưỡng, rèn luyện của sinh viên; sự nêu gương
của mọi người trong xã hội, của bố mẹ trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của
các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lý giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội
và pháp luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn
luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.

You might also like