You are on page 1of 16

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC: LÝ LUẬN VÀ VẬN

DỤNG

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý
thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng không thụ động mà
có thể tác động trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem đến cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh lại và không tồn
tại lệ thuộc vào cảm giác. Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên
và lịch sử xã hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là
sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người thông qua
hoạt động thực tiễn.
Vật chất và ý thức có quan hệ 2 chiều và tác động qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức được thể hiện qua nhận thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất: Vật chất có vai trò quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con
người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là
kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết
luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên;
nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới
khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là
chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất
(bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc
của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung
của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu
hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống
quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội
dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
Thứ hai: Ý thức tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người.
Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện
thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người
đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới
vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người
xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp,
công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác
động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực.
Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý
chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực
vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo
– đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng
hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của
con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định hành
động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại,
hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có
thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo ý thức; là
điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác
động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của
con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý
thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con
người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo
định hướng của ý thức.
VẬN DỤNG
Trong kinh tế và chính trị
Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới – Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, kinh
nghiệm những thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng đó là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Trong việc xây dựng nền kinh tế mới
Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết từ phân tích của nhà khoa học,
nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nó
là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những nhận thức cụ thể. Có
những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người mới có ích cho
nhiều việc.
Từ sự hiện diện của vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và
tác động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật,
thực vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát
triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế giới loài người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ
trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực
của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT: LÝ LUẬN VÀ VẬN DỤNG

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biếncủa các sự vật và hiện tượng


1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn
nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một
sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
2. Nội dung và tính chất của mối liên hệ
– Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động,
mà vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó
mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan.
+Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy.
+Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện
tính thống nhất vật chất của thế giới.
– Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế
giới vật chất là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu
các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và
riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian
và thời gian, v.v.. Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một
mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.
– Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất
của thế giới khách quan. Còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng
nghiến cứu của các ngành khoa học cụ thể.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
– Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tôn trọng quan điểm toàn
diện, phải tránh cách xem xét phiến diện.

+Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động
qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián
tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
+Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ,
phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối
liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ
bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của bản thân.
+Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta
không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới
những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử
dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết
tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.
– Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú – sự vật, hiện tượng khác nhau, không
gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử – cụ thể.
+Quan điểm lịch sử – cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự
vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật
sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm
khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện
khác.
+Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của từng
thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước
ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó và
trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho phù
hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
2. Nguyên lý về sự phát triển
TÍNH TẤT YẾU, VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Khái niệm giai cấp
Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người có địa vị khác nhau trong
mộthệ thống kinh tế - xã hội nhất định
Khái niệm đấu tranh giai cấp
-Cuộc đấu tranh giai cấp của quần chúng bị tước quyền, bị áp bức và lao động,
chống bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của
nhữngngười công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người
hữu sản hay giai cấp tư sản.
-Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những
tầnglớp mà lợi ích của chúng đối lập nhau trong thể điều hòa với nhau được.
-Có nhiều hình thức đấu tranh: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu
tranh tưtưởng… Trong thực tế còn có đấu tranh dân tộc, tôn giáo.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp
Nguyên nhân sâu xa của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất
Nguyên nhân trực tiếp của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị
và giaicấp thống trị về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho phương
thứcsản xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho
phương thức sản xuất lỗi thời, lạc hậu
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của các xã hội có
giai cấp (Vai trò)
-Thứ nhất, kết cục của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
vàquan hệ sản xuất được giải quyết, quan hệ sản xuất cũ bị mất đi được thay
thế bằng quanhệ sản xuất mới, cơ sở hạ tầng mới ra đời, kiến trúc thượng tầng
mới xuất hiện, làm chomọi mặt của đời sống xã hội phát triển, từ đó thúc đẩy
cho sự phát triển của xã hội.
-Thứ hai, đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới,
cùng với quá trình đó, kết cấu xã hội - giai cấp cũ bị xóa bỏ, kết cấu xã hội - giai
cấp mới được hình thành làm cho xã hội phát triển.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động, lạc
hậu, mà còn đồng thời có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và
quần chúng cách mạng, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng và thúc đẩy xã hội
phát triển.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kì cách
mạng, mà còn là động lực phát triển của xã hội ngay cả trong thời kì <hòa
bình= của xã hội có giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất,
cách mạng khoa học – công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội… không
tách rời cuộc đấu tranh của giai cấp tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế
lực thù địch phản động
Đấu tranh cách mạng (Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp trong
giaiđoạn hiện nay. Hỏi thì mới trả lời).
-Đấu tranh giai cấp là một tất yếu không chỉ dưới chủ nghĩa tư bản, mà ngay
cảtrong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Dưới chủ nghĩa tư bản, đấu tranh
giai cấp vẫn là một tất yếu, bởi vì:
-Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
ngàycàng mang tính xã hội hóa và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân về tưliệu sản xuất vẫn chưa được giải quyết. Biểu hiện về mặt xã
hội là mâu thuẫn giữa giaicấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối
kháng không thể điều hòa. Hơn nữa,nhiều vấn đề xã hội nan giải không thể giải
quyết. Đặc biệt, bản chất của chủ nghĩa tưbản là một chế độ áp bức, bóc lột.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp vẫn là một tất yếu,
bởi vì:
-Thứ nhất, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại cơ sở kinh tế
làmphân hóa xã hội thành giai cấp, đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, nênbên cạnh mặt tích cực còn có mặt hạn chế đó là sự phân hóa xã
hội thành giàu nghèo
-Thứ hai, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động luôn
rắptâm mưu đồ giành giật lại chính quyền mà chúng đã bị mất.
-Thứ ba, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn tồn tại những tàn dư
của xãhội cũ để lại.
-Thứ tư, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế mở cửa, bên
cạnhmặt tích cực còn có mặt tiêu cực, đó là sự du nhập của những yếu tố
ngoại lai không phù hợp.
-Thứ năm, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động
trongnước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng <Diễn biến hòa
bình= chống lạithành quả cách mạng của nhân dân các nước…
Vì vậy, đấu tranh giai cấp hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu
Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
(Vậndụng)
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam:
-Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu. nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
-Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức, nhưng nổi bật lên
trướchết là cuộc đấu tranh giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các
lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, vănminh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do
Đảng lãnh đạo, với một bên là cácthế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chống Đảng,Nhà nước và pháp luật, phá hoại
trật tự xã hội và an ninh quốc gia.
Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở “cuộc đấu tranh giữa hai con
đường xãhội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa”
Nội dung đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục
những tư tưởng và hành động chống phá của các thế thực thù địch, bảo vệ độc
lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh,
nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liênminh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các
tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của Đảng kết hợp hài hòa các lợi ích
cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành
phần kinh tế, của toàn xã hội.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp
củacuộc đấu tranh giai cấp. Cần nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa
Mác - Lenin,tránh rơi vào hai thái cực sai lầm hoặc quá cường điệu đấu tranh
giai cấp đi đến rụt rè,không dám đổi mới, hoặc mơ hồ mất cảnh giác đi đến
phủ nhận đấu tranh giai cấp.

Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội


Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức.
Trong lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và
quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư
tưởng ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã
hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay đổi thì
sớm hay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.
Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó
sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm
lý xã hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những nguyên nhân sau đây:
- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những
hoạt động thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể
không phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội
nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một
số hình thái xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất
định trong xã hội.
Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác
dụng tổ chứ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải
quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.
Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa vai trò của ý
thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ
nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư
tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào tính
chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
Vận dụng mốỉ quan hệ biện chứng giữa đời sống tinh thần xã hội và ý thức xã hội trong công
tác phòng, chông dịch Covid -19 hiện nay
Đại dịch Covid - 19 bùng phát tại Việt Nam kể từ đầu năm 2020 đến nay, trải qua đợt dịch lần
thứ 4 (kể từ 27/04/2021), có phần diễn biến phức tạp hơn, phạm vi lan rộng, nhanh ở nhiều
tỉnh thành, có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống kinh tế -xã hội nước ta. Điều đó,
đem lại thách thức to lớn cho Đảng và Nhà nước ta trong việc đề ra những chủ trương, chính
sách hợp lý để thực hiện “mục tiêu kép”: vừa thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch đem
cuộc sống trở lại bình thường với người dân, đồng thời nỗ lực khôi phục phát triển kinh tế -xã
hội gắn với thực hiện an sinh xã hội, trong đó có việc chăm lo đời sống tinh thần của người dân.
Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù YTXH và đời sống TTXH, soi rọi vào tình
hìnhcThực tế trong công tác phòng, chống dịch hiện nay của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
QUAN ĐIỂM CỦA CNDVLS VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI: LÝ LUẬN VÀ
VẬN DỤNG
1.Con người và bản chất con người
a) con người là thực thể sinh học xã hội
-khái niệm: con người là một sinh vật có tính xã hội ở một trình độ phát triển cao nhất của giới
tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn
minh và văn hóa
Quan điểm của triết học Mác-leennin:
-con người là thực thể sinh học-xã hội
 Thực thể sinh học: chịu sự quy định của các quy luật sinh học để tồn tại và phát triển
 Thực thể xã hội: thông qua những sinh hoạt cộng đồng như lao động, giao tiếp, nhờ đó
một hệ thống các QHXH được thiết lập
Bản tính sinh học của con người được phân tích từ 2 giác độ sau:
-Thứ nhất: con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên
-thứ hai: con người là bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “ là than thể vô
cơ của con người”
Bản tính xã hội của con người được thể hiện:
-thứ nhât: lao động đã đóng góp phần cỉa tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con
người trở thành con người đúng nghĩa
-thứ hai: sự tồn tại của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xh, xh
thay đổi con người thay đổi
b) con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình
- lao động tức là sx ra tư liệu sh của mk, tạo ra con người và xh, thúc đẩy con người và xh phát
triển. Đây là điểm khác biệt rất căn bản chi phối các điểm khác biệt giữa con người với các động
vật khác
c)con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản than con người
- con người là sản phẩm của lịch sử và của bản than con người, nhưng con người khác với các
động vật khác, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người là chủ thể của lịch
sử
d) con người vừa là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử
- con người vừa là sản phẩm lâu dài của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm
của lịch sử xh loài người và của chính bản than con người
e) bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xh
- bản chat của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể
trong những điều kiện lịch sử cụ thể
- các qh xh tạo nên bản chất của con người là sự tổng hòa chúng, mỗi qh xh có vị trí vai trò khác
nhau có tác động qua lại, không tách rời
-các qh xh thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hay muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức một cách đúng
đắn về chiến lược phát triển con người và khẳng định bằng Nghị quyết, chủ trương và chính
sách thật sự coi trọng con người, coi con người là nhân tố có tính quyết định để xây dựng thành
công xã hội mới. Đảng ta rất chú trọng đến việc phát huy nhân tố con người và coi đây là mục
tiêu động lực của toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Từ Đại hội VI – Đại hội đổi mới, Đảng ta đã chú
trọng đến quyền làm chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy
sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội
mới”[5], đào tạo con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức là động lực mạnh mẽ nhất để xây dựng xã hội mới, đồng thời là
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Mục đích cao nhất của hệ thống chính sách này nhằm phát triển
trí tuệ của người Việt Nam, nguồn vốn quyết định nhất, quý giá nhất của chúng ta trong sự
nghiệp đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi công cuộc đổi mới đất
nước đang đi dần vào chiều sâu và phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức to lớn và phức tạp
thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc
hậu bằng khoa học và công nghệ”
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HÌNH THÁI KT-XH LÀ MỘT QUÁ TRÌNH TỰ NHIÊN
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở
từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương
ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt
cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với
nhau. Các hình thái kinh tế – xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội
khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi
của quan hệ sản xuất.
Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn
nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên?
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở
phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận:
“Sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Nguyên
nhân của sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tư nhiên vì:
+ Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân
theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế –
xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,…
Trong đó quan trọng và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
+ Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa,… của xã hội suy đến cùng, xét đến cùng đều có nguyên nhân trực
tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội
+ Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định
chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của
nó, là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế – xã hội: hình thái kinh tế – xã hội
nguyên thủy đến hình thái kinh tế – xã hội nô lệ, phong kiến, hình thái kinh tế – xã hội tư bản
chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, quá trình lịch sử – tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một
hoặc một vài hình thái kinh tế – xã hội nhất định
Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư bản, vạch
ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái
kinh tế – xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định
con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể
của nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ
hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội
trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái
cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa“.
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong
thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính
trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CSHT VÀ KTTT
Cơ sở hạ tầng là gì? Kiến trúc thượng tầng là gì?
– Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơ cấu kinh tế của
một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các
hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những CSHT thống trị, những QHSX tàn
dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều
thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu
hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính giai
cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự
xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.
– Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế
tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư
của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian.
Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một
hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai
cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà
tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do đó, cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng
với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định.
2.1. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh
tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần. Quan hệ sản xuất nào thống trị thì
tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng. Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định
tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng.
Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng: nhà nước, pháp luật,
đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều
trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.
Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản
trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng hình thái kinh tế-xã hội và rõ rệt
hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Sự biến mất
của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh chóng, có những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những
yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến
trúc thượng tầng mới.
Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp
trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác.
2.2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:Sự tác động trở lại của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc
thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống trị chính trị và tư
tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.
Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có tác
dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào hệ tư tưởng mà còn dựa vào
chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen
viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà nước) cũng là một lực lượng kinh tế”. Các bộ phận khác
của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở
hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua nhà nước, pháp luật.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ nảy sinh trong quá
trình của cơ sở kinh tế mới – mới phản ánh nhu cầu của sự phát triển kinh tế, mới có thể thúc
đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi
thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời,
sớm muộn nó sẽ bị cách mạng khắc phục.
3. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta
hiện nay:
Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và thống
nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi
ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác
tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ
bóc lột.
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và
triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với
một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn
kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách
mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh
tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân,
cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau
cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà
có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò
quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo
hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề,
các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy
được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành
phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ
cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng
tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan
trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng
kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình
thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi
tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ
bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa , nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

You might also like