You are on page 1of 34

Câu 1 mqh biện chứng giữa vật chất và ý thức

Vật chất là một phạm trù triết học đúng đồ chi thực tại khách qua được đem lại cho con người trong cầm
giải, được cảm thức của chúng ta chép lại, chụp lại, phân anh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm gi
Ý thức là thuộc tỉnh của một dạng vật chất sống có tổ chức cao nhất là bộ óc nguồn
Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình phân cánh tích cực, năng tạo
hiện thực khách quan của óc người
Phân tích.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong đó vật chất quyết
định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất
* Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau:

Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3 đến 7
triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên,
cứu thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cải vật chất
có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức

Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà
trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc
con người. Có thể giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được
phản ánh vào ý thức mới có nội dung của ý thức,
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiền cả về bề
rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tỉnh phong phủ và độ sâu sắc của nội
dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ nông muội tới văn minh,
hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phun ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rơi trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của
con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích
cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của
con người là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phân ảnh, vừa sáng
tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.

Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất, vật chất thay đổi thì
sớm hay muộn, ý thức cũng phụ thay đổi theo
dao.
Ví dụ: Trong đời sống xã hội có câu: thực túc, binh anh có thực trời vực được đạo
Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào
trong đầu óc con người
Thứ hai. Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người, nó có thể quyết
định làm cho hoạt động của con người đứng hay sai, thành công hay thất bại.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày này, thời đại
thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa
học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là
tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ
những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng
dẫn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng. không được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phản xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đỏ với
những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan
duy ý chí chủ nghĩa duy vật tầm thường chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan
Phải phát huy tinh năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái
độ thụ động ỷ lại, ngồi chờ, báo thù, trì trệ, thiếu tình sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng
công tác tư tưởng và giáo dục từ tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, cũng có, bồi dưỡng nhiệt tình, coi
trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo sự thống nhất giữa nhiệt
tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ quan, chúng ta còn
phải nhận thức và giải quyết đúng dẫn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích
tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong
nhận thức và hành động của mình
Vận dụng vào việc học tập của bản thân sinh viên trong điều kiện hiện nay
Hiện nay con người hiểu rõ và tiếp thu được những nghiên cứu và kết luận từ phân tích của nhà khoa học,
triết gia vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó vận dụng mối liên hệ giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con
người tác động trở lại với thực tại vật chất qua các nhận thức cụ thể. Có những thứ hiện hữu trong cuộc
sống thực tại mà cần có sự cải tạo của con người thì mới có ích để sử dụng cho nhiều việc
Từ su xuất hiện sẵn có của vật chất trong thế giới này, con người nhận thức đúng. thậm chí sáng tạo thay
đổi và tác động trở lại. Khiến cho vật chất đó sản sinh ra nhiều những đồ vật, món đồ, sinh vật, thực vật,...đa
dạng hơn nữa. Hoặc nếu chủ thể nhận thức đó là thứ có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển và loại bỏ
nó khỏi thế giới con người.
Bởi vậy mỗi sinh viên cần học hỏi tìm tòi, khám phá thế giới vật chất, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức và
lý giải chúng thật chính xác. Từ đó bảo vệ và góp phần phát triển cuộc sống con người tốt và hiện đại hơn.

Câu 2 hai nguyên lý của phép biện chứng


Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Khái niệm liên hệ. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm đối tượng, các thuộc tính của nó thay đổi, và trong
điều kiện có thể còn làm nó biến mất, chuyển hóa thành đối tượng khác. Sự tồn tại của đối tượng, sự hiện
hữu các thuộc tính của nó phụ thuộc vào các tương tác giữa nó với các đối tượng khác, chứng tỏ rằng, đối
tượng có liên hệ với các đối tượng khác. Từ đó ta có thể thấy Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự
thay đổi của một trong số chúng nhất định làm đối tượng kia thay đổi
Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật hiện
tượng giữa các mặt, các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Lấy ví dụ
như: Khi ta cầm cuốn sách trên tay thì cuốn sách và ta có mối liên hệ ta giữ cho cuốn sách không rơi còn
sách thì cung cấp cho ta kiến thức
"Mối liên hệ phổ biến là dùng để chỉ tính phổ biến của mọi lien hệ khẳng định mối liên hệ là cái vốn có của
tất thẩy mọi sự vật hiện tượng trong thế giới, không loại trừ sự vật nào hay hiện tượng nào . Ví dụ như có
một cuốn sách đạt ở trên bản thi cuốn sách đầu chỉ tồn tại riêng về độc lập mà còn bị tác động bởi bàn trọng
lực và các yếu tố khác
*Về tính chất của mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật đã chỉ ra ba tính chất của mối liên hệ phổ biến:
- Tỉnh khách quan
* Mối liên hệ là cái vốn có của sự vật hiện tượng tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào ý thức của con người
+ Có mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng vật chất với các hiện tượng tĩnh thần. Có các mối liên hệ giữa
những hiện tượng tinh thần với nhau (mỗi liên hệ và tác động giữa các hình thức của nhận thức ... Các mối
liên hệ, tác động đó - suy đến cùng, đều là sự quy định, tác động qua lại, chuyển hóa và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng
+ Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ hoàn toàn không có thể thay đổi được nỗ
+Một ví dụ về tính khách quan: Quá trình quang hợp của thực vật cần CO2 và thái ra O2 như vậy quá trình
quang hợp, CO2 và O2 có mối liên hệ với nhau độc lập với ý thức của con người
Tính phổ biến
-Tính phổ biến của các mối liên hệ thể hiện ở chỗ, bất kỳ nơi đâu, trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư
duy đều có vô vàn các mối liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động,
chuyển hóa của các sự vật, hiện tượng
—Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hóa lẫn nhau không những diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, tư
duy, mà còn diễn ra giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
- Tinh da dạng, phong phủ
+Có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng.
-Có mối liên hệ chung tác động lên toàn bộ hay trong những lĩnh vực rộng lớn của thế giới. Có mối liên hệ
riêng chỉ tác động trong từng lĩnh vực, từng sự vật và hiện tượng cụ thể.
+Có mối liên hệ trực tiếp giữa nhiều sự vật, hiện tượng, nhưng cũng có những mối liên hệ gián tiếp
b Các mối liên hệ trên giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động. phát triển của sự vật, hiện tượng. Để phân
loại các mối liên hệ như trên, phải tùy thuộc vào tính chất và vai trò của từng mối liên hệ. Tuy vậy, việc phân loại này
cũng chỉ mang tính tương đối, bởi vì các mối liên hệ của các đối tượng là rất phức tạp, không thể tách chúng khỏi tất cả
các mối liên hệ khác. Mọi liên hệ còn cần được nghiên cứu cụ thể trong sự biến đổi và phát triển cụ thể của chúng
“Ý nghĩa phương pháp luận:
- Như vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt
giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới, cũng như tình vô lượng các sự vật, hiện
tượng đỏ chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng các mối liên hệ có hình
thức, vai trò khác nhau.
- Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng khái quát thành nguyên tắc toàn diện với những
yêu cầu đối với chủ thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau:
+Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố, các thuộc tỉnh, các mối liên hệ của chính thể đó.
+Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức chúng
trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ sự tồn
tại khách quan với nhiều thuộc tỉnh, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của đối tượng.
+Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt
của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp: trong không gian, thời gian nhất định, tức cần nghiên cứu cả những mối liên
hệ của đổi tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
–Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà không thấy
mặt khẩu; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dân trái, không thấy mặt bản chất của đối tượng nên
dễ rơi vào thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung
VẬN DỤNG
Đvs hssv
Bản thân sinh viên cần xác định rõ các giai đoạn, các vấn đề cần làm trong từng giai đoạn. Theo
lời Bác Hồ dạy bảo, ở giai đoạn học tập sinh viên cần “Phải hiểu rõ học thế nào? Học cái gì? Học
để làm gì?”. Đồng thời xem xét các phương diện của bản thân như sở thích, năng khiếu, tài
chính... để lên kế hoạch thực hiện những mục tiêu mà mình mong muốn trong tương lai, hồn thiện
những kỹ năng còn thiếu sót trong quá khứ, sớm phát hiện ra những phương hướng, mục tiêu
chưa phù hợp với bản thân để kịp thời thay đổi.
Học phải đi đôi với hành, trong quá trình học tập phải biết vận dụng những kiến thức đã học vào
trong đời sống. Bác Hồ cũng đã từng khẳng định: “Chỉ biết lý thuyết mà không biết thực hành thì
cũng là trí thức có một nửa, lý luận phải gắn liền với thực tế". Mục đích to lớn nhất của việc học là
để giúp ích cho đất nước, xã hội, để đạt được những ước muốn của chúng ta, nhưng nếu chỉ nắm
vững kiến thức lý thuyết mà không áp dụng vào thực tế thì việc học cũng chẳng còn ý nghĩa gì
nữa. Ngược lại, không có kiến thức, không hiểu rõ bản chất của sự vật, sự việc mà bắt tay vào
làm thì cũng chẳng ra thành quả. Do đó việc học và hành luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau,
không thể tách rời.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, giao lưu học tập văn hóa giữa các nước, sinh viên nên nhớ quan
điểm của nước ta: “Hòa nhập nhưng không hòa tan”. Sinh viên cần tiếp thu kiến thức có chọn lọc,
phù hợp với bản sắc của dân tộc, tránh việc bị đồng hỏa, đồng thời đấu tranh chống các biểu hiện
của lối sống lai căng, thực dụng, xa rồi các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc.
- Sinh viên cần rèn luyện đạo đức và quan tâm đến sức khỏe của bản thân. Người phát triển toàn
diện không chỉ đáp ứng đủ yêu cầu về tri thức, thẩm mỹ mà còn về phương diện đạo đức sức
khoẻ, sinh viên cần chăm chỉ rèn luyện thể dục thể thao, sống lành mạnh, ngay thẳng làm những
việc có ích cho xã hội.
Đvs sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay
- Trong suốt quá trình đổi mới Đảng và Nhà nước ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới toàn diện, đồng bộ, lập kế hoạch phương hướng phù hợp trong từng giai đoạn, thời kỳ.
Xác định trọng tâm, trọng điểm, bước đi rõ ràng, phù hợp. Cần nắm vững các mối quan hệ biện
chứng, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong đời sống xã hội, quan hệ giữa lực lượng sản xuất -
quan hệ sản xuất, kinh tế - chính trị, quốc phòng - an ninh.
- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với nguyện vọng nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái
mới. Được thực hiện một cách sáng tạo để góp phần giải phóng được mọi tiềm năng của lực
lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội, khơi dậy được tài sức của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ đất nước. - Cần nâng cao ý thức, tuyên truyền các hoạt động về vấn đề bảo
vệ môi trường. Các biện pháp chính trị, pháp lý, kinh tế, giáo dục, khoa học – công nghệ cần thực
hiện triệt để hơn. Bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái;
xây dựng nền kinh tế xanh thân thiện với môi trường.
Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức. tổ chức và cán
bộ. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đẩy nhanh chuyển đổi số
trong giáo dục và tăng cường công tác truyền thông
NGUYÊN LÝ VỀ PHÁT TRIỂN
- Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ chất cũ đến
chất mới ở trình độ cao hơn.
+ Tiến hóa là sự biến đổi hình thức của tồn tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp, tập trung giải thích khả năng
sống sót và thích ứng của cơ thể xã hội trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Tiến bộ là một quá trình biến đổi
hướng tới cải thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn so với thời điểm ban đầu

=>Đặc điểm chung của sự phát triển là tính tiến lên theo đường xoáy óc, có kế thừa, tính quanh co, phức
tạp
Tính khách quan nguồn gốc của nó nằm trong chính bản thân sự vật. Hiện tượng, chủ không phải do tác
động từ bên ngoài và đặc biệt không phụ thuộc vào ý thích, ý muốn chủ quan của con người.
Tính phổ biến: sự phát triển có mặt ở khắp mọi nơi trong các lĩnh vực tự nhiên. xã hội và tư duy.
-Tính kế thừa, sự vật, hiện tượng mới ra đời không thể là sự phủ định tuyệt đối. phủ định sạch trơn, đoạn
tuyệt một cách siêu hình đối với sự vật, hiện tượng cũ.
+Tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau phụ thuộc
vào không gian và thời gian, vào các yếu tố, điều kiện tác động lên sự phát triển đó...
-Muốn nắm được bản chất, nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải tự
giác tuân thủ nguyên tắc phát triển, tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của
nó để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển
của nó trong tương lai.
Thứ hai, quá trình trải qua nhiều giai đoạn, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức,
phương pháp tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó
+ Thứ ba, phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển.
+ Thứ tư, phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện
mới. Muốn nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận
động. trong sự biến đổi của nó.
VẬN DỤNG
Các cá nhân trong học tập phải biết nắm chắc cơ sở lý luận cuẩ quan điểm toàn diện, để
từ đó có thể vận dụng một cách sáng tạo, hợp lý. Trong quá trình học tập cần phải phân
biệt các mối liên hệ, phải chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ về bản chất của sự vật và có phương
pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân.
Bên cạnh đó, trong nhận thức và hành động, chúng ta cần lưu ý tới sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện xác định
Ngoài ra, cá nhân cần phải nắm rõ chương trình học và cũng phải thấy rõ khuynh hướng
phát triển của chuyên ngành theo học trong thời gian sau đó, yêu cầu của xã hội đối với
chuyên ngành đang học tập, nghiên cứu là gì? Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những
gì, qua đó hoàn thiện bản thân, nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
CÂU 3 lượng và chất
Khái niệm về chất
Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng làm cho sự vật, hiện tượng là
nó mà không phải là sự vật, hiện tượng khác (trả lời cho câu hỏi sự vật, hiện tượng đó là gì? và
giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác). Đặc điểm cơ bản của chất là nó thể hiện tính ổn
định tương đối của sự vật, hiện tượng: nghĩa là khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng
khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát
triển qua nhiều giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy, mỗi sự vật, hiện
tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất.
Mối quan hệ giữa chất và sự vật
Chat và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không
thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật được
biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tỉnh nào cũng biểu hiện
chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tỉnh không cơ bản. Những
thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại,
sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chủng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay
đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tỉnh của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật
thúc. Bởi vậy, sự phân chịu thuộc tỉnh thành thuộc tỉnh cơ bản và thuộc tính không có bán cũng
chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này, thuộc tỉnh này là thuộc tỉnh cơ bản thể hiện
chất của sự vật, trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc tỉnh khác hay thuộc tỉnh khác là
thuộc tỉnh cơ bản.
Ví dụ: Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tỉnh có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có
tư duy là thuộc tỉnh cơ bản của con người còn những thuộc tỉnh khác không là thuộc tỉnh cơ bản.
Song trong quan hệ giữa những con người cụ thể với nhau thì những thuộc tính của con người về
nhận dạng, về dấu vân tay.... lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu
thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy, Khái niệm về lượng
.
Lượng là khái niệm dùng để chỉ tình quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình
độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tỉnh, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng
ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích
thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận
động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt...
.
Đặc điểm cơ bản của lượng
Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm
một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật, hiện tượng
có nhiều loại lượng khác nhau, có lượng là yếu tố quy định bên trong, có lượng chi thể hiện yếu tố
bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật, hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng
phức tạp theo. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng có thể đo, đếm được; nhưng
trong một số trường hợp của xã hội và nhất là trong tư duy lượng khó đo được bằng số liệu cụ thể
mà chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu tượng hóa. Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ
có ý nghĩa tương đối, tùy theo từng mối quan hệ mà xác định đầu là lượng và đâu là chất cái là
lượng trong mối quan hệ này, lại có thể là chất trong mối quan hệ khác.
.
Mối Quan hệ giữa lượng và chất
Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện tượng là một thể
thống nhất giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự
vật, hiện tượng đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ; nhưng cũng trong phạm
vi độ đo, chất và lượng đã tác động lẫn nhau làm cho sự vật, hiện tượng dẫn biến đổi bắt đầu từ
lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập
tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng, chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn
nhất định (đến độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện
cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
• Khái niệm về độ
Độ là khái niệm dùng để chị mới liên hệ thốờng nhất và quy định lên nhau giữa với lương; là giới hạn tồn tại
của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thủy đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện
tượng vẫn là nó, chìu chuyển hóa thành
sự vật, hiện tượng khác
* Khái niệm điểm nút
Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới chỗ phủ và độ cũ, làm cho chất của sự vật,
hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt
đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nứt.
Đó được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra
đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ
mới và điểm nút mới.
Khái niệm bước nhảy
Bước nhảy là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện tượng
do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng.
Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên
tục của sự vật, hiện tượng.
Sự vật, hiện tượng mới xuất hiện là do bước nhảy được thực hiện: trong sự vật. hiện tượng mới
đó lượng lại biến đổi, đến điểm nút mới, lại xảy ra bước nhảy mới. Cử như thế, sự vận động của
sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự lượng. lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một
đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật
lượng đối - chất đối còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình. nó tạo
ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Bản thân chất mới được tạo
thành cũng thúc đẩy sự thay đổi tương ứng của lượng để cho lượng này trở nên phù hợp hơn với
chất mới
dó.
Như vậy, quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng - chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về
lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại chất là mặt tương đối ổn định, lượng là
mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đột, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành
với lượng mới hương mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó.
Quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Tùy vào sự
vật, hiện tượng, tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện, trong đó diễn ra sự thay
đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy.
Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy, có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước
nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố... của sự vật, hiện tượng thay đổi.
Bước nhảy cục bộ chỉ làm thay đổi một số một, một số yếu tố, một số bộ phận... của chúng. Sự
phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục họ chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi chúng đều là kết quả của
quá trình thay đổi về lương.
Căn cứ vào thời gian của sự thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đủ, có bước nhảy tức thời và
bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời làm chất của sự vật, hiện tượng biên đồi mau chóng ở tất cả các bộ
phận của nó. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích luỹ dẫn những yếu tố
của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ, trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm
hơn
* Kết luận
Từ những điều trình bày ở trên có thể khái quát lại nội dung cơ bản của quy luật chuyển hóa
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau: Mọi đối tượng đều là
sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá
giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất mới ra
đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng
Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai mặt chất và lượng
Thứ hai, cần chú ý khâu tích luỹ về lượng để đến khi có đầy đủ điều kiện chín muồi sẽ thay đổi chất của sự
vật, hiện tượng
Thứ ba, chống lại bênhj chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút mà vội vàng
thực hiện bước nhảy
Thứ tư, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không chịu thực hiện bước
nhảy
Thứ năm, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy và tạo mọi điều kiện cho bước
nhảy được thưc hiện một cách kịp thời
Thứ sáu, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan
hệ giữa chất tự nhiên và chất xã hội của sự vật hiện tượng. Tuỳ vào từng điều kiện lịch sử cụ thể mà có thể
nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên hàng đầu
Thứ bảy, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật hiện tượng
VẬN DỤNG
Đvshssv
việc hiểu rõ và vận dụng các quy luật lượng chất vào quá trình học tập, nghiên cứu và phát triển của học sinh
– sinh viên là rất cần thiết và quan trọng. Chúng không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ tác
động qua lại của hai phạm trù “chất” và “lượng”, mà từ đó ta có thể vận dụng mối quan hệ giữa sự thay đổi
về lượng và sự thay đổi về chất để áp dụng vào thực tiên như các ví dụ đã nói trên. Vậy là một sinh viên cần
phải làm gì và làm như thế nào để áp dụng một cách hiệu quả nhất? Sinh viên cần xác định rõ mục tiêu, định
hướng đúng đắn trong học tập và làm việc, hiểu rõ và vận dụng tốt các quy luật “khi lượng đổi dẫn đến chất
đổi và ngược lại”. Ngoài ra việc thay đổi môi trường từ THPT lên Đại học cũng có nhiều sự khác nhau, để
không bị mất phương hướng trong việc học, sinh viên cũng cần phải có tính tự chủ, chủ động thích nghi với
môi trường, liên tục phấn đấu và rèn luyện tích cực trong học tập và công việc, không ngừng tích luỹ kinh
nghiệm để có thể thành công hơn trong tương lai. Ngoài ra, “lượng” không chỉ là những kiến thức mà sinh
viên học trên ghế nhà trường, mà đó còn là những kỹ năng cần thiết như “kỹ năng làm việc nhóm, thuyết
trình, đàm phán,…” và khả năng linh hoạt hoà nhập với môi trường khác nhau. Vì thế, trong quá trình học
tập, sinh viên cũng cần phải hài hoà, phối hợp giữa kiến thức và kĩ năng để có thể tăng những tích luỹ về
“lượng” mà các nhà tuyển dụng đang tìm kiếm. Bởi vậy, ta lại càng thấy rõ hơn được tầm quan trọng và sự
tác động qua lại của quy luật “lượng” – “chất”, từ đó sinh viên sẽ chủ động hơn trong việc trang bị cho mình
những chuyên môn kiến thức và kĩ năng cần thiết và đó cũng là tiền đề, bước chân đầu tiên để phát triển sự
nghiệp sau này.
Câu 4
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP ( dấu gạch chân nếu thấy dài quả
có thể lược bỏ nha)
Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập thể hiện bản chất, là hạt nhân của phép biện chứng duy
vật, bởi nó đề cập tới vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật - vấn đề nguyên nhân.
động lực của sự vận động, phát triển. Theo V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học
thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng,..."103.
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu
tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Yếu tố tạo thành mâu thuẫn
biện chứng là các mặt đối lập, các bộ phận, các thuộc tính... có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau
+ Thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng và được thể hiện ở, thứ
nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền để cho nhau tồn tại, không có mặt này thì
không có mặt kia; thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái
mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn; thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng,
đồng nhất do trong các mặt đối lập còn tồn tại những yếu tố giống nhau.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại theo hướng bài trừ
phủ định lẫn nhau giữa chúng và sự tác động đó cũng không tách rời sự khác nhau, thống nhất,
đồng nhất giữa chúng trong một mâu thuẫn
Căn cứ vào sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, hiện tượng có mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không
có bán. Mâu thuẫn cơ bản tác động trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng bộ quy định bản chất,
sự phát triển của chứng từ khi hình thành đến lúc tiêu vong. Mâu thuẫn không cơ bản đặc trưng cho một ph
diện nào đó, chỉ quy định sự vận động phát triển của một hay một số mật của sự th hiện tượng và chịu sự chi
phối của mâu thuẫn cơ bản.
+ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng trong mỗi giai đoạn
nhất định, có thể phân chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu luôn nổi lên
hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng có tác dụng quy định đối với các mâu thuẫn khác
trong cùng giai đoạn đó của quá trình phát triển. Giải quyết mâu thuẫn chủ yếu sẽ tạo điều kiện để giải quyết
các mâu thuẫn khác ở cùng thủ đoạn, còn sự phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng từ hình thức này
sang hình thức khác phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn
không đóng vai trò quyết định trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, hiện tượng. có mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt các khuynh hướng
đối lập nằm trong chính mỗi sự vật, hiện tượng; có vai trò quy định trực tiếp quá trình văn động và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài xuất hiện trong mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau; tuy cũng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng, nhưng phải
thông qua mâu thuẫn bên trong mới phát huy tác dụng.
Căn cứ vào tính chất của lợi ích cơ bản là đối lập nhau trong mối quan hệ giữa các giai cấp ở một giai đoạn
lịch sử nhất định, trong xã hội có mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng
là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng xu hướng xã hội... có lợi ích cơ bản đối lập nhau
và không thể điều hoà được. Đó là mâu thuẫn giữa các giai cấp bóc lột và bị bóc lột, giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị... Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, tập đoàn người, lực lượng, xu
hướng xã hội... có lợi ích cơ bản không đối lập nhau nên là mâu thuẫn cục bộ, tạm thời.
=>:Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối " nhau tạo
thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập này là
nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển làm cho cái cũ mất đi và cái mới
ra đời.
Vi du
Trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiến hướng trái ngược
với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm do có thể đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản
phẩm được sản xuất ra đều cần có người tiêu dùng
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng. Nếu như
không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có tiêu dùng
Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không phải là đối tượng nói
chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất làm môi giới cho người tiêu dùng.
Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương thức tiêu
dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng. Điều
này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối
với sản phẩm đó.
Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai mặt đối lập, chúng có tinh
chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển
hóa, cùng phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết
mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn, cần tìm ra
thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp
đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn. Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem
xét quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ
giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mẫu
thuần
cụ thể và để ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc
giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, không điều hoà mâu thuẫn cũng không
nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi
hay chưa
VẬN DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG HIỆN NAY
Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất và vừa đấu tranh với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự nương tựa, sự ràng buộc quy định lẫn
nhau và làm tiền đề cho nhau để cùng tồn tại; nếu không có sự thống nhất của các mặt
đối lập thì sẽ không tạo ra sự vật.
+ Có thể hiểu một cách đơn giản thì thống nhất chính là sự đồng nhất, sự phù hợp ngang
nhau của hai mặt đối lập đây là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.
+ Thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tạm thời là tương đối có nghĩa là nó chỉ tồn tại
trong một thời gian nhất định, đó là trạng thái đứng im, ổn định tương đối của sự vật.
+ Việc đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp được diễn ra từ tháp đến
cao và bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng.
- Sự đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập chính là nguồn gốc, là động lực của sự
phát triển
Việc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ gây ra những biến đổi các mặt đối lập khi cuộc đấu
tranh của các mặt đối lập trở nên quyết liệt. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập chính là
các mau thuẫn được giải quyết thì sự vật cũ sẽ bị mất và sự vật mới xuất hiện. Các mặt
đối lập chuyển hóa lẫn nhau với ba hình thức sau đây:
+ Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và ngược lại
nhưng trình cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.
+ Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hóa thành một mặt đối lập mới.
+ Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau và cải biến lẫn nhau
Tóm lại, Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến, nó tồn tại trong tất cả sự vật,
hiện tượng, ở mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng. Nhưng ở các sự
vật, hiện tượng khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật hiện
tượng ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành một sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác
nhau. Sự thống nhất và đáu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự
vận động và phát triển dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn.
Do đó, trong hoạt động thực tiễn phát triển từng mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể
để nhận thức đưuọc bản chất, khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng
để từ đó tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn
và tổ chức thực hiện để giải quyết mâu thuẫn. Vì vậy trong đời sống xã hội, mọi hành vi
cần được coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
5, QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
*Khái niệm: Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác trong quá
trình vận động và phát triển của sự vật.

Phủ định biến chứng là khái niệm dùng để khi sự phủ định làm tiền đề, để tạo điều kiện cho sự
phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện trung
cũ và là yếu tố liện hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ đối với sự vật hiện tượng mới.

*Phủ định của phủ định: Dùng để chỉ sự vật, hiện tượng qua hai lần phủ định dường như quay lại
cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.

*Tính chất và đặc điểm của phủ định hiện chứng

-Phủ định hiện chứng có tình khách quan (sự vật, hiện tượng tự phủ định mình do mâu thuẫn bên
trong nó gây ra), tính kế thừa (loại bỏ các yêu tố không phù hợp và cải tạo các yếu tố các sự vật,
hiện cũ còn phù hợp để đưa vào sự vật, hiện tượng mới). Phủ định biện chứng còn có tinh phổ
biến (diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy ), tính da dung phong phú của phủ định
biện chung thể hiện ở nội dung, hình thức của nó,
-Đặc điểm cơ bản của phủ định biện chứng là sau một số (ít nhất là hai) lần phủ định, sự vật, hiện
tượng phát triển có tính chu kỳ theo đường xoáy ốc mà thực chất của sự phát triển đó là sự biến
đổi, trong đó giai đoạn sau vẫn bảo tồn những gì tích cực đã được tạo ra ở giai đoạn trước. Với
đặc điểm này, phủ định biện chứng không chỉ khắc phục hạn chế của sự vật, hiện tượng cũ, mà
còn gắn chúng với sự vật, hiện tượng mới; gắn sự vật, hiện tượng được khẳng định với sự vật, hiện
tượng bị phủ định. Vì vậy, phủ định hiện chứng là vòng khâu tất yếu của sự liên hệ và sự phát
triển.

Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tưởng là do mâu thuẫn bên trong
của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa giữa những mặt
đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện tượng cũ chuyển
thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó, phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện
tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ, nhưng cũng đã mang không ít
nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời
do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa bị phủ định lần nào),
nhưng về nội dung, không phải trở lại chúng giống y như cũ, mà chỉ là dường như lặp lại chúng, bởi
đã trên cơ sở cao hơn. Phủ định biện chứng chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển vì chỉ
thông qua phủ định của phủ định mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy,
phủ định của phủ định mới hoàn thành được một chu kỳ phát triển, đồng thời lại tạo ra điểm xuất
phát của chu kỳ phát triển tiếp theo. Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển có thể
nhiều hơn hai, tùy theo tính chất của quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải qua hai
lần mới dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, hoàn thành được một chu kỳ phát triển.
Mỗi lần phủ định biện chứng thực hiện xong sẽ mang thêm những yếu tố tích cực mới, do vậy, sự
phát triển thông qua những lần phủ định biến chúng sẽ tạo ra xu hướng phát triển không ngừng
của sự vật, hiện tượng. Do có sự kế thừa nên phủ định biện chứng không phải là phủ định sách
trơn, không loại bỏ tất cả các yếu tố của sự vật, hiện tượng cũ, mà là điều kiện cho sự phát triển,
duy trì và gìn giữ, lặp lại một số yếu tố tích cực của sự vật, hiện tượng mới sau khi đã được chọn
lọc, cải tạo cho phù hợp và do vậy, sự phát triển của các sự vật, hiện tượng có quỹ đạo tiến lên
như đường xoáy ốc.

Ví dụ. Vòng đời của một con tăm trứng - tâm - nhộng - ngài - trứng. Sự xuất hiện của "tằm" xóa bỏ
sự tồn tại của "trứng" nên tằm là phủ định của nhộng.

- "Nhộng" sinh sôi, tằm không còn là tằm nên "nhộng" là sự phủ định của "tằm"

- "Ngài" phát triển từ "nhộng", xoá bỏ sự tồn tại của "nhộng" nên tằm là phủ định của "nhộng".

- Cuối cùng, trứng mới ra đời từ ngài, bắt đầu một quá trình mới. Trứng chính là sự phủ định của
"ngài". Quá trình phát triển của tằm đã trải qua 4 lần phủ định.

Trong ví dụ trên, ta gọi "trứng" là sự khẳng định ban đầu (có tồn tại).

*Ý nghĩa phương pháp luận.


Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện tượng; sự
thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi đã trải qua các mắt xích
chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển.

Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là quá trình diễn ra
quanh co, phức tạp, không hề đều đặn thẳng tắp, không va vấp, không có những bước thụt lùi.

Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới, ra đời phù hợp với quy
luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển.

Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào đó, sự
vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho nó
phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện
tượng cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.

*Kết luận: Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa thông qua
khâu trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định biện chứng không
phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội dung tích cực của
các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái ban đầu trên cơ sở mới cao hơn; do
vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không chỉ theo đường thẳng, mà theo đường xoáy trôn ốc.
Vì vậy, trong quá trình đổi mới, hoàn thiện, chúng ta cần phải cân nhắc, đi theo từng nước, không
chủ quan, bỏ qua những bước cần thiết, đặc biệt là trong đổi mới kinh tế

* Vận dụng quy luật để lý giải trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa” ở Việt Nam trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
giảng viên cần lưu ý những điểm như sau:

Thứ nhất, phủ định chủ nghĩa tư bản bằng tư duy biện chứng. Trước đây, đã có thời kỳ các nước
xã hội chủ nghĩa phủ định “sạch trơn” chủ nghĩa tư bản. Điều này không chỉ cản trở việc kế thừa
chủ nghĩa tư bản trong xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn hình thành tư duy siêu hình, cản trở sự
phát triển của chính các nước xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng: chúng ta không
thể thủ tiêu một lực lượng sản xuất nếu điều kiện cho sự tồn tại của nó chưa mất đi, nên chúng ta
không thể phủ định chủ nghĩa tư bản bằng khát vọng, bằng ý muốn. Cần nhận thức đúng về vị trí,
vai trò, địa vị lịch sử của giai cấp tư sản đối với sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các nhà
kinh điển của Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng, ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một giai cấp đứng ở
vị trí trung tâm của thời đại. Ở thời kỳ hình thành, phát triển và thống trị của chủ nghĩa tư bản thì
giai cấp tư sản chính là giai cấp ấy. Khi còn là giai cấp cách mạng, giai cấp tư sản đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong chủ nghĩa tư bản góp phần phá bỏ thành lũy phong
kiến; thúc đẩy giải phóng con người, giải phóng tư tưởng với sự thống trị chuyên quyền, độc đoán
của chủ nghĩa phong kiến. Giai cấp tư sản hết vai trò lịch sử khi nó bộc lộ tính chất lỗi thời, phản
động, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó giai cấp vô sản xuất hiện và thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình là giải phóng xã hội loài ngoài khỏi mọi áp bức bóc lột, bất công.

Với vị trí, vai trò lịch sử như vậy của giai cấp tư sản chúng ta cần tranh thủ giai cấp này trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, khẳng định tính quy luật của sự phát triển lịch sử xã hội loài người.

Toàn bộ sự phân tích của C.Mác và Ph.Ăngghen thông qua học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
đã đi đến khẳng định: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên,
có nghĩa là sự phát triển này theo quy luật tất yếu khách quan, không chịu sự chi phối chủ quan
của bất kỳ giai cấp nào trong lịch sử. Tuy nhiên, trong lời tựa của bộ tư bản xuất bản lần thứ nhất,
C.Mác vạch rõ: “một xã hội, ngay cả khi phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó,
…cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ
những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể, rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ”. Khi
nghiên cứu về tình hình nước Nga Ph.Ăngghen đã đưa ra tư tưởng về sự phát triển rút ngắn lên
Chủ nghĩa Cộng sản. Khi C.Mác tìm hiểu sâu hơn về nước Nga, ông đã đồng ý với Ph.Ăngghen về
quan điểm đó. Quan điểm của V.I.Lênin sau này cũng thống nhất với những ý kiến đó. Ông khẳng
định quan điểm về khả năng phát triển rút ngắn ngay ở những nước chưa trải qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Điều này vẫn là quá trình lịch sử - tự nhiên.

Thứ ba, tránh tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh về vấn đề phủ định chủ nghĩa tư bản. Bởi vì, tư
tưởng tả khuynh nóng vội khi phủ định chủ nghĩa tư bản, sẽ dẫn đến những sai lầm nguy hại to
lớn. Bên cạnh đó tư tưởng hữu khuynh, mơ hồ khi cho rằng không cần phải đấu tranh giai cấp,
thực hiện “dung hợp giai cấp” để xây dựng “xã hội siêu giai cấp”…thì cũng phá hoại thành quả của
chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, xác định đúng những nội dung cốt yếu để phủ định chủ nghĩa tư bản. Trong điều kiện
hiện nay, Đảng ta đã khẳng định, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa”, tức là bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản, còn chúng ta vẫn kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ
nghĩa tư bản.

Việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật phủ định của phủ định để lý giải về công cuộc xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” ở Việt
Nam cho thấy rằng đó là một tất yếu khách quan, hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại, với
đặc điểm lịch sử - cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Có như vậy, việc vận dụng quy luật phủ định của phủ định để làm rõ luận điểm “bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa” đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học
tập của Nhà trường.

* Vận dụng quy luật phủ định của phủ định trong học tập:

- về đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên ngành giáo dục và đào tạo: Cần thiết phải xây dựng được
đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên có phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo – chất lượng “trồng người”. Đội ngũ giáo viên, casn bộ
quản lý phải có đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, có ý chí vươn lên, sáng tạo trong tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, làm đầu tàu cho đội ngũ sư phạm nhà trường, khả năng tiếp cận nhanh
được các phương pháp dạy học mới, hiện đại và có tinh thần mạnh dạn áp dụng các phương pháp
hiệu quả; chuyển dạy học thụ động sang dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm; đổi mới
nội dung và phương pháp dạy học; đổi mới cơ chế quản lý.

- Đối với học sinh, sinh viên:

• Đảng và Nhà nước ta xác định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và coi “hiền tài là nguyên
khí quốc gia”. Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân; đào tạo những người lao động có tay nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào
dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạng, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

• Thực hiện công bằng xã hội trong học tập bằng cách coi học tập là quyền và nghĩa vụ của công
dân, cần ban hành chính sách về học bổng và học phí để khuyến khích và giúp đỡ người học gặp
hoàn cảnh khó khăn, đảm bảo cho tất cả mọi người đều được đi học, trường học không có sự
phân biệt dân tộc, giàu – nghèo, tôn giáo, tín ngưỡng, nam – nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội…
Mọi công dân đều được bình đẳng về cơ hội học tập, để người giỏi được phát huy tài năng.

- Về cơ sở vật chất – Kỹ thuật trong các cơ sở giáo dục xã hội hóa sự nghiệp giáo dục là coi phát
triển giáo dục là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân. Kêu gọi và huy động mọi nguồn lực
trong xã hội đầu tư vào giáo dục, đa dạng hóa các loại hình trường học và các hình thức giáo dục,
xây dựng xã hội học tập đáp ứng nhu cầu học thường xuyên, học suốt đời của nhân dân.

- Vai trò giữa gia đình, nhà trường và xã hội: Nền giáo dục Việt Nam phát triển theo nguyên lý học
đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội và gia đình.

6, VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC


Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Các khái niệm:

- Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người; là quá trình tạo thành tri
thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người.

- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất- cảm tính, có tính lịch sử - xã hội của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ nhân loại tiến bộ.

*Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

-Thực tiễn là cơ sở là động lực của nhận thức:

•Thực tiễn cung cấp những tài liệu, vật liệu cho nhận thức của con người. Không có thực tiễn thì
không có nhận thức, không có khoa học, không có lý luận, bởi lẽ tri thức của con người xét đến
cùng đều được nảy sinh từ thực tiễn.

• Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó
luôn thúc đẩy cho sự ra đời của các ngành khoa học. Thực tiễn có tác dụng rèn luyện các giác quan
của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn thiện hơn, trên cơ sở đó giúp quá trình
nhận thức của con người hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.

• Hoạt động thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức, chẳng hạn như kính hiển vi, kính thiên văn, hàn thứ biểu, máy vi
tính, v.v.. đã mở rộng khả năng của các khí quan nhận thức của con người.

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức

• Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất với tư cách là người
đã bị quy định bởi những nhu cầu thực tiễn. Bởi lẽ, muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản
xuất và cải tạo tự nhiên và xã hội

•Nhận thức của con người là nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn chứ
không phải để trang trí, hay phục vụ cho những ý tưởng viễn võng.

• Nếu không vì thực tiễn, nhận thức sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học - kết
quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp dụng vào đời sống thực tiễn một cách trực tiếp
hay gián tiếp để phục vụ con người.

- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý:

•Tri thực của con người là kết quả của quá trình nhận thức, tri thức đó có thể phản ánh đúng
hoặc không đúng hiện thực khách quan. Do đó thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn khách quanh duy
nhất để kiểm tra chân lý, bác bỏ sai lầm.

• Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hoá được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua
đó mới khẳng định được chân lý hoặc phủ định một sai lầm nhỏ đó. C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề
tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới tính chân lý khách quan không, hoàn toàn không
phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn".

• Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính chất tuyệt đối, vừa có tính chất tương đối. Tính
tuyệt đối của thực tiễn với tư cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất để kiểm tra, khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối của thực tiễn với tư
cách tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ, thực tiễn có quá trình vận động, biển đổi, phát triển.

• Vì vậy, nếu xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng dài, trong chỉnh
thể thì càng rõ đâu là chân lý, đâu là sai lầm.

*Ý nghĩa phương pháp luận:

- Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, chúng ta rút ra nguyên tắc thực tiễn trong

nhận thức và hoạt động. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật luôn phải gắn với nhu cầu thực
tiễn. Coi trọng tổng kết thực tiễn, để bổ sung, hoàn thiện, phát triển, nhận thức, lý luận cũng như
chủ trương, đường lối, chính sách.
- Do vậy, nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc chống bệnh giáo điều, cho quan, duy ý chí.
Nếu không quán triệt tốt nguyên tắc thực tiễn thì dễ mắc phải bệnh bệnh giáo điều. Bệnh giáo
điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận coi nhẹ thực tiễn, tách lý luận
khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể.

- Để khắc phục và ngăn ngừa có hiệu quả các giáo điều, chúng ta phải từng bước, quán triệt tốt
nguyên tắc thực tiễn; tăng cường tổng kết thực tiễn.

*Vận dụng: Anh (chị) hãy đưa ra quan điểm của mình nhằm khắc phục bệnh giáo điều lý luận
biểu hiện ở việc học tập lý luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh sách vở?

- Trong tác phẩm. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rồi. "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý
luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận xuông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn quyển lý
luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách. Bệnh giáo điều là
khuynh hướng tư tưởng cường diệu hóa vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi
thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể. Biểu hiện: Nắm lý luận chỉ dùng ở của chữ theo kiểu
"tầm chương trích cứ". không nắm được thực chất khoa học của lý luận, không tiêu hóa được kiến
thức sách vớ; Coi những nguyên lý, lý luận như những tin điều, không thấy được sức sống của lý
luận là ở chỗ phát luôn sửa đổi, bổ sung, phát triển trên cơ sở thực tiễn mới; Vận dụng lý luận và
những kinh nghiệm đã có một cách rập khuôn, máy móc, không tính đến điều kiện lịch sử - cụ thể,
đến trình độ của thực tiễn. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là không biết vận dụng lý luận vào
thực tế, không biết đem lý luận ra thực hành..

- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lý luận khoa
học. Biểu hiện: Thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, ngại học lý luận không chịu khó nâng
cao trình độ lý luận; Tiếp xúc với lý luận ở trình độ tư duy kinh nghiệm từ đó đơn giản hóa, thông
tục hoá, kinh nghiệm hóa lý luận, cố gắng “đẽo gọt" lý luận cho vừa với khuôn khổ, kích thước kinh
nghiệm của minh; Coi thường lý luận, không tin vào lý luận và không chịu khó vận dụng lý luận vào
thực tiễn. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm cũng là do không hiểu, không thấy được vai trò to
lớn của lý luận khoa học đối với thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn chứng: "Có những cán bộ,
những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho
Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà
lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng
cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không
có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ".

* Vận dụng vào cuộc sống của học sinh, sinh viên:

Trong học tập: "Học phải đi đối với hành, học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì
hành không trôi trảy ", lời dạy của Bác Hồ có ý nghĩa rất quan trọng đối mới việc học của chúng ta
ngày nay. Đối với sinh viên còn đang ngồi trên giảng đường đại học, nhận thức, hiểu cụ thể chính
là quá trình tiếp thu kiến thức đã được tích lũy trong sách vỡ, là nắm vững lý luận đã được đúc kết
trong các bộ môn khoa học, là tìm hiểu khám phá những trị thực của loài người nham chinh phục
thiên nhiên, vũ trụ. Còn "vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức" ở đây chính là “hành”,
tức là là, là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lý thuyết cho thực tiễn đời sống.
- Trước khi vận dụng phải vững lý thuyết. Giỏi lý thuyết không vẫn chưa đủ. Nếu không ứng dụng
vào cuộc sống thì những gì chúng ta học được chẳng phải vô ích sao?. không phải tự nhiên mà một
chiếc máy bay có thể bay được. Đó là kết quả của hàng vạn cuộc thí nghiệm, nghiên cứu của hàng
nghìn nhà khoa học suốt nhiều thế kỷ, thành công có thất bại có. Nhưng nếu không thử thì đã
không có phương tiện hiện đại nhanh bậc nhất như bây giờ. Sau khi thất bại nên tự hỏi “tại sao
mình thất bại?" để rút kinh nghiệm cho lần sau. Giữ vững niềm tin, đam mê, sáng tạo ứng dụng lý
thuyết vào thực nghiệm thành công sẽ mỉm cười. Tuy nhiên từ nhận thức đến thực tiễn là cả một
đoạn đường dài. Muốn đi được trên chặng đường ấy, ta phải trả bằng mồ hôi công sức, thời gian,
của cải, nước mắt và có khi cả bằng máu. Đôi khi qua thực hành mà ta kiểm định lại kiến thức đã
học bằng thực nghiệm mà người ta tìm ra lỗ hổng của những giả thiết tưởng chừng là đúng.

- Sinh viên cần phải có ý thức đúng đắn trong việc "học" và hành”. Cần có thái độ học tập nghiêm
túc, không học qua loa chiếu lệ kiểu "cưỡi ngựa xem hoa", vừa học vừa chơi. Tập trung chú ý nghe
thâỳ cô giảng bài. Mạnh dạn hỏi những điều chưa hiểu chưa biết, ghi chép bài theo cách riêng của
mình nhưng dễ hiểu mà vẫn khoa học, không chéo tiếng câu từng chút từng dấu phẩy, học bài cũ,
nghiên cứu trước bài mới, làm bài lập đầy đủ. Tránh học vẹt, học lý thuyết suông mà phải kết hợp
lý thuyết thực hành, vận dụng sáng tạo những kiến thức thầy cô truyền thụ vào bài tập thực hành.
Khi thầy cô đưa ra một vấn đề, một nhận định hay học thuyết nào đó, hãy tự hình dung trong đầu
những ví dụ về sự vật, hiện tượng quanh ta về nó rồi sau đó xem xét, đánh giá, so sánh tương
quan nó trong mối quan hệ biện chứng với những sự vật, hiện tượng khác có liên quan tới chúng.
Câu hỏi "Vì sao lại thế?" phải luôn thường trực trong đầu mỗi sinh viên đại học. Chỉ với việc làm
nhỏ đó, chúng ta đang dần bước đến phương pháp nghiên cứu khoa học.

- Học sinh, sinh viên cần xác định xem học để làm gì và mỗi người nên tư duy về cái gì để phù hợp
với sở trường, năng lực, điều kiện và công việc cá nhân. Xã hội học tập nhưng học cái gì để thiết
thực cho công tác sản xuất của mỗi người học.

- Đề vận dụng tốt thực tiễn vào nhận thức, sinh viên trước hết phải là những người chủ động trong
đón nhận tri thức và vận hành nó bằng chính bàn tay và khối óc của mình. Nguồn kiến thức là vô
hạn, và cách tiếp cận nó cũng muốn hình vạn trạng. Ngoài học từ sách vở thầy cô, nên học hỏi từ
bạn bè, ông bà, cha mẹ từ báo chí,... Muốn nhận thức tốt phải thực hiện đầy đủ 4 thao tác: nghe,
nhìn, đọc, viết, nghĩa là phải huy động bốn giác quan, bốn bộ phận cơ thể để học, học và học. Thức
hai, sinh viên nhất thiết phải bổ trợ thêm kiến thức xã hội để phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
Sinh viên năng động, vì vậy nên tích cực tham gia vào thảo luận hoạt động nhóm các câu lạc bộ,
các diễn đàn, các hoạt động đoàn trường sôi nổi để trau dồi kĩ năng sống, kỹ năng quản lý sắp xếp,
giúp nhận thức của bản thân dễ dàng hòa nhập và biến đổi phù hợp trong thực tiễn đời sống. Nếu
ví thuyền là nhận thức thì sinh viên chúng ta là những thuyền trưởng có kinh nghiệm, kĩ năng
trước biển lớn chính là thực tiễn.

- Trong rèn luyện nhân cách, đạo đức, ý thức trách nhiệm, thể chất,...

Việc rèn luyện phải qua quá trình "học tập", tức là tìm hiểu về đời sống chính trị-văn hoá kinh tế,
truyền thông, lịch sử thông qua việc tham gia các hoạt động cộng đồng. Ngày nay trước quá trình
toàn cầu hóa”, việc Việt Nam đã gia nhập WTO cũng tức là mở cửa, hội nhập, cạnh tranh với các
nước trên thế giới thì bên cạnh những cơ hội, những mặt tích cực, còn có rất nhiều tiêu cực, thách
thức. Đặc biệt, sự du nhập của những luồng tư tưởng phản động, những văn hóa phẩm độc hại...
đã ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ nói chung và sinh viên chúng ta nói riêng. Vì thế, vừa học tập,
rèn luyện đạo đức là rất cần thiết với mỗi chúng ta.

Trong quá trình vận dụng, sinh viên chúng ta cũng cần đặc biệt coi trọng việc vận dụng thực tiễn
vào trong nhận thức. Chúng ta không thể chỉ nói suông mà không làm. Thực tế, sinh viên đều biết
xả rác bừa bãi là không tốt cho môi trường, nhận thức là thế vậy sao chúng ta không hành động
một cách triệt để: thu gom rác thải gọn gàng, vứt rác đúng nơi quy định, nhắc nhở tuyên truyền
mọi người cùng hành động vì môi trường xanh của chúng ta. Giúp đỡ người già, trẻ nhỏ, người
khuyết tật là những hành động tốt đẹp, vậy thì ngại gì mà không nhường chỗ cho cụ già trên xe
buýt, ngại gì mà không giúp một người mà băng qua đường.

Đây thực sự chỉ là những việc làm bình thường mà chúng ta ít nhiều đã được học trong sách vở
hay nghe nói ở đâu đó, nó hoàn toàn có thể được sinh viên chúng ta áp dụng vào thực tiễn đời
sống, noi gương tốt thì làm việc tốt. Hằng ngày, tôn trọng pháp luật bằng việc đi đúng làn đường,
đi xe máy đội mũ bảo hiểm, không lạng lách đánh võng,... là sinh viên chúng ta đang làm tròn
nghĩa vụ trách nhiệm của một công dân. Đơn giản là những gì chúng ta đã được học, được nhận
thức đúng đắn thì hãy áp dụng ngay vào đời sống hàng ngày của chúng ta, ngày này qua ngày
khác, năm này qua năm khác. Như vậy là chúng ta đang trong quá trình tự rèn luyện hoàn thiện
nhân cách bản thân qua thực tiễn cuộc sống, điều mà ra không thể làm được trọn vẹn chỉ trên
trang giấy.

* Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào quá trình đổi mới ở Việt Nam:

Công cuộc thay đổi chính thức xuất phát từ việc Đảng ta thừa nhận và được cho phép tăng trưởng
kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần, quản lý và vận hành theo chính sách thị
trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta lúc bấy giờ. Phải
dung hòa và sống sót nhiều thành phần kinh tế tài chính là một tất yếu do lịch sử dân tộc để lại tuy
nhiên đưa chúng cùng sống sót và tăng trưởng mới là một yếu tố nan giải, khó khăn vất vả. Bên
cạnh việc thừa nhận sự sống sót của kinh tế tài chính tư bản tư nhân, đương nhiên phải tiếp tục
đấu tranh với xu thế tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt xấu đi trong những thành phần kinh
tế tài chính, xử lý xích míc sống sót trong sản xuất giữa chúng để cùng tăng trưởng .

Sự nghiệp thay đổi ở nước ta cung ứng một bài học kinh nghiệm to lớn về nhận thức. Đó là bài học
kinh nghiệm về không cho quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
quan điểm cơ bản và số 1 của triết học Mác xít. Sự nghiệp thay đổi với đặc thù mới mẻ và lạ mắt
và khó khăn vất vả của nó yên cầu phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự tò mò về lý luận phải trở
thành tiền đề và điều kiện kèm theo cơ bản làm cơ sở cho sự thay đổi trong hoạt động giải trí thức
tiễn. Phải qua thực tiễn mới có kinh nghiệm tay nghề, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận .

Vì vậy, quy trình thay đổi ở nước ta chính là quy trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý
luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quy trình thay đổi. Có những
điều tất cả chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết,
thậm chí còn có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát kinh tế, yếu tố
khoán trong nông nghiệp, yếu tố phân phối loại sản phẩm … Trong quy trình đó, tất yếu sẽ không
tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, xô lệch nhất định .

Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc phát minh sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng kế hoạch đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật
hơn nữa – đó là bài học kinh nghiệm không riêng gì của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm
mà còn là bài học kinh nghiệm của sự nghiệp thay đổi vừa mới qua và lúc bấy giờ .

Trong khi tôn vinh vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận. Quá
trình thay đổi là quy trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng nỗ lực
tăng trưởng lý luận, thay đổi tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Nó được bộc lộ qua năm bước chuyển của thay đổi tư duy tương thích với sự hoạt
động của thực tiễn đời sống trong những thực trạng và điều kiện kèm theo mới.

- Bước chuyển thứ nhất:

Từ tư duy, dựa trên quy mô kinh tế tài chính hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội ( Nhà
nước và tập thể ) với sự tăng trưởng vượt trước của quan hệ sản xuất so với sự phát triền của lực
lượng sản xuất dẫn tới hậu quả ngưng trệ sự tăng trưởng sản xuất … sang tư duy mới. Xây dựng
nền kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ yếu trong sự thống nhất biện chứng với tính phong phú những hình thức chiếm hữu, phong
phú những hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng đa phần nhằm mục
đích thôi thúc sản xuất tăng trưởng .

(Đây chính là bước chuyển cơ bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách quan về
sự tương thích giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ; tuỳ thuộc vào trình độ tăng trưởng
của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho tương thích .)

- Bước chuyển thứ hai:

Từ tư duy quản trị dựa trên quy mô một nền kinh tế tài chính chỉ huy tập trung chuyên sâu, kế
hoạch hóa tuyệt so với chính sách bao cấp và trung bình sang tư duy quản trị mới thích ứng với
nền kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần, quản lý và vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản trị của Nhà nước theo khuynh hướng Xã hội Chủ nghĩa

-Bước chuyển thứ ba:

Thực thi thay đổi mạng lưới hệ thống chính trị, từ chính sách tập trung chuyên sâu quan liêu với
phương pháp quản trị hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa những nghành của đời sống xã hội,
thực thi dân chủ tổng lực .

-Bước chuyển thứ tư:

Đổi mới ý niệm về sự hình thành và tăng trưởng của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải xuất phát
từ chủ nghĩa Mác – Lê nin trong điều kiện kèm theo thực trạng lịch sử dân tộc đơn cử của nước
đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan pháp luật nhận thức và những tìm
tòi phát minh sáng tạo của chủ thể chỉ huy sự nghiệp thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó cũng
đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối chủ
trương .

-Bước chuyển thứ năm:

Đó là sự hình thành ý niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức mới về tác nhân
con người .

Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử vẻ
vang xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự tăng trưởng, dự kiến những khuynh hướng cơ
bản của sự tiến hóa xã hội. Trong tiến trình lúc bấy giờ của sự nghiệp thiết kế xây dựng kinh tế tài
chính xã hội yên cầu phải nắm vững và vận dụng phát minh sáng tạo và góp thêm phần tăng
trưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Để khắc phục những ý niệm lỗi thời trước đây cần tất cả chúng ta
phải tăng cường công tác làm việc điều tra và nghiên cứu lý luận, tổng kết có mạng lưới hệ thống
sự nghiệp thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng nhanh sự nghiệp thay đổi. Có như vậy, lý luận
mới thực thi vai trò tích cực của mình so với thực tiễn .

Đổi mới nhận thức lý luận và công tác làm việc lý luận là một quy trình phức tạp, yêu cầu phải đấu
tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những ý niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với những tư
tưởng, ý niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, phủ định sạch
trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội .

7. QUY LUẬN VỀ QHSX PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LLSX
Lực lượng sản xuất là một hệ thống gồm các yếu tố (người lao động và tư liệu sản xuất) cùng
mối quan hệ (phương thức kết hợp), tạo ra thuộc tính đặc biệt (sức sản xuất) để cải biến giới tự
nhiên, sáng tạo ra của cải vật chất theo mục đích của con người. Đặc trưng chủ yếu của lực lượng
sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người
lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là kết quả năng lực thực
tiễn của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quy định bởi những điều kiện khách
quan mà trong đó con người sống và hoạt động. Vì vậy, lực lượng sản xuất luôn có tính Khách
quan. Tuy nhiên, quá trình phát triển lực lượng Sản xuất là kết quả của sự thống nhất biện chứng
giữa khách quan và chủ quan.

Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa người với người trong quá trình
sản xuất vật chất. Đây chính là một quan hệ vật chất quan trọng nhất - quan hệ kinh tế, trong các
mối quan hệ vật chất giữa người với người. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu
tố trong một quá trình thống nhất gồm sản suất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản
lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động. Trong đoa quan hệ về
sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định bản chất và tính chất của quan hệ sản xuất.

*Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:

- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất: Sự vận động và phát triển
của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực
lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính "đứng im" tương đối của
quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là "hình thức phù hợp", "tạo địa bàn” phát triển của
lực lượng sản xuất trở thành "xiềng xích" kìm hiểm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi
tất yếu của nền sản xuất xã hội là phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển. Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời
của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ
sản xuất.

- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất: Sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất quy định mục định, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình
thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của
nền sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kim hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ
biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương
thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ qua phương thức sản xuất chiếm
hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát
triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm,
đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức
và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở
Việt Nam hiện nay.

*Vận dụng : QHSX chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị trưởng và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến bộ vì nó hơn hơn QHSX phong kiến
và QHSX tư bản chủ nghĩa ( có bản chất bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch
sử). Và QHSX xã hội chủ nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên trong bộ máy sản
xuất và cả xã hội đến ẩm no, hạnh phúc. Đa dạng bởi các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở
nước tạ hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một QHSX
phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hoá lực lượng sản xuất do công nghiệp hoá, hiện đại hóa mang
lại, con đường cơ bản của sự phát triển "quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự hình
thành đa dạng các hình thức sở hữu hỗn hợp, đàn kết lẫn nhau giữa hai nhân tố công hữu và tư
hữu bằng những hình thức kinh tế trung gian quá độ. Trong đó, nhân tố công hữu sẽ ngày càng
tăng lên thông qua một quá trình tích lũy về lượng bằng những định hướng của Nhà nước phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất và theo đó yếu tố công hữu sẽ ngày càng làm tốt hơn vai
trò chi phối và chủ đạo trong nền kinh tế. Các hình thức kinh tế quá độ để chuyên tư lưu thành
công hữu là rất đa dạng. Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung
thêm những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyên tư hữu thành
công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước,
mà còn có thể bằng phát triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và
các tổ chức kinh tế của những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa là
chúng ta xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu
tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong nền
kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay. Quan hệ sở hữu đang
ngày càng tiến bộ vì nó đang vận hành theo hướng hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực
trong quá trình sản xuất và phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho toàn xã hội. Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo. Không ngừng xây dựng
và phát triển QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thông qua việc xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ. Giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trưởng. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Qua phần phân tích trên ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa phát triển LLSX với xây dựng
hoàn thiện từng bước QHSX trong thời kỳ quá độ là mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau.
Qua đó, đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh việc phát triển mạnh mẽ LLSX với một trình độ khoa học
công nghệ ngày càng cao làm cơ sở cho việc lựa chọn, vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình
độ của LLSX. Góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân cả nước.

8. BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG


Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động
hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó.

Cấu trúc của cơ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản
xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản xuất
thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.

Vd: Trong xã hội phong kiến :

- Chiếm hữu nô lệ nguyên thủy là quan hệ tàn dư

- Phong kiến là quan hệ thống trị

- Tư bản chủ nghĩa là quan hệ mầm mống

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế xã hội
tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định.
Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về chính trị, pháp
quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học... cùng những thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác

*Phân tích: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng

Bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng, như chính trị, pháp luật, đảng phái, triết
học, đạo đức,v.v. đều không thể giải thích được từ chính bản thân nó mà tất cả xét đến cùng phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Bởi vậy, vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ, cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh
tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu kiến trúc thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng
không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng - tức là quyết định nguồn gốc, mà
còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận động, phát triển của kiến trúc thượng tăng

Cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của kiến trúc thượng tầng là như thế ấy. Trong xã
hội có đối kháng giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống
trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính
chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội.

Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự biến đổi căn bản trong
kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong tùng hình thái kinh tế - xã hội ,cũng như khi
chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh t-xã hội khác. C.Mác khẳng
định: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều
nhanh chóng"

- kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng

Kiêu trúc thường tầng là sự phản ánh cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định nhưng có sự tác
động trở lại to lớn đối với kiến trúc thượng tầng. Bởi vì kiến trúc thượng tầng có tính độc lập
tương đối so với cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực ý thức, tinh thần khi ra đời, tồn tại thì có quy luật vận
động nội tại của nó. Vai trò của kiến trúc thường tầng chính là vai trò tích cực, tự giác của ý thức,
tư tưởng. Vai trò của kiến trúc thượng tầng còn do sức mạnh vật chất của bộ máy tổ chức - thể
chế luôn có tác động một cách mạnh mẽ trở lại cơ sở hạ tầng.

Kiến trúc thượng tầng củng cố, hoàn thiện và bảo vệ cơ sở hạ tầng sinh ra nó; ngăn chặn cơ sở hạ
tầng mới, đầu tranh xoá bỏ tàn dư cơ sở hạ tầng cũ; định hướng, tổ chức, xây dựng chế độ kinh tế
của kiến trúc thượng tầng. Mặt khác, kiến trúc thượng tầng trong các xã hội có giai cấp còn đảm
bảo sự thống trị về chính trị và tự tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị về kinh tế. Nếu giai cấp
thống trị không xác lập được sự thống trị về chính trị và tư tưởng, cơ sở kinh tế của nó không thể
đứng vững được.

Tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều hướng. Kiến trúc
thượng tầng tác động cùng chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng
phát triển và nếu tác động ngược chiều với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của cơ cấu kinh tế nó
sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng, của kinh tế. Khi kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng
tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Và ngược lại,
khi kiến trúc thượng tầng không phản ánh đúng tính tất yếu kinh tế, các quy luật kinh tế khách
quan sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội.

Nhà nước là bộ máy có sức mạnh để bảo vệ củng cố duy trì quan hệ sản xuất thống trị sinh ra nó.
Kiến trúc thượng tầng tiến bộ thì thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển và ngược lại. Các yếu tố khác
của kiến trúc thượng tầng cũng tác động lại. (Trong thực tiễn của đời sống xã hội, không phải chỉ
có quyền lực nhà nước mới có sự tác động to lớn đến cơ sở hạ tầng, mà các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật.... cũng đều tác động mạnh mẽ đến
cơ sở hạ tầng bằng những hình thức khác nhau, với các cơ chế khác nhau. Song thường thường
những sự tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp luật, các thể chế tương ứng và chỉ qua đó
chúng mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.)

*Ý nghĩa phương pháp luận Là cơ sở lý luận khoa học để Đảng ta xây dựng đường lối kết hợp
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ đại hội.

Cơ sở lý luận khoa học để xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử trong việc xem xét mới quan hệ
lịch sử.

Là cơ sở khoa học để chúng ta nhận thức, vận dụng đúng đường lối đổi mới kinh tế, chính trị
nước ta.

* Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện
nay:

Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất và thống
nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không bao hàm những lợi ích
kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn dân và tập thể, hợp tác tương trợ
nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm theo lao động, không còn chế độ bóc lột.

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và
triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó. Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với
một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn
kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.

Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách
mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế như: kinh tế
nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng
các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn
tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất

Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì vậy mà có
sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan
trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng
như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí
nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm
năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác
nhau về vai trò, chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.

Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng
thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong đó thì biện pháp kinh tế là quan trọng nhất
nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc
doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ
phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột
thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất
nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà
nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

Những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã lần nữa chứng minh sự đúng đắn của mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Không thể nào có được một đất
nước mà cơ sở hạ tầng phát triển song kiến trúc thượng tầng, ngược lại không có sự phát triển
thích ứng với cơ sở hạ tầng và cũng như không có được một kiến trúc thượng tầng được coi là
hoàn hảo mà lại đứng trên một cơ sở hạ tầng lạc hậu thấp kém, ta không thể coi đó như là một sự
phát triển bình thường mà là một sự phát triển sai lệch què cụt. Mỗi chúng ta tự hào về công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Song chúng ta hiểu rõ vẫn còn nhiều thiếu sót chưa
giải quyết hết được. Đó là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa quan liêu, của chế độ quan liêu
bao cấp đã xâm nhập vào tổ chức bộ máy và hoạt động của nhà nước trong một thời gian dài. Đặc
quyền, đặc lợi, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân viên… gây nên những tổn thất
nặng nề về kinh tế và văn hoá, ảnh hưởng xấu về chính trị, tinh thần và đạo đức trong xã hội ta. Dù
đâu đó vẫn còn nhiều thiếu sót chưa giải quyết, song mỗi chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và Nhà Nước ta mà nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh chúng ta sẽ thành công

9. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIKT-XH LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Khái niệm:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội
ở từng nấc thang lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất trưng cho xã hội đó, phù hợp với
một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng
trên những quan hệ sản xuất ấy.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao
gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: Lực lượng sản xuất: quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng); kiến trúc
thượng tầng.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các thời
đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động. Phát triển của hình thái kinh tế
- xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội, đồng
thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người tronglĩnh vực tinh
thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
Phân tích
Sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội được tạo nên bởi ba yếu tố cơ bản: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất (cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng tác động biện chứng, thông qua sự tác
động tổng hợp của hai quy luật cơ bản là quy luật quanhệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội.
Sự vận động phát triển của xã hội bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là
sự biến đổi, phát triển của công cụ sản xuất và sự phát triển về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng của
người lao động. Mỗi sự phát triển của lực lượng sản xuất đều tạo khả năng, điều kiện và đặt ra
yêu cầu khách quan cho sự biến đổi của quan hệ sản xuất. Sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là yêu cầu khách quan của nền sản xuất xã
hội. Khi lực lượng sản xuất phát triển về chất, đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới về chất. Sự phát triển về chất của quan hệ sản xuất, tất yếu dẫn đến sự
thay đổi về chất của cơ sở hạ tầng xã hội. Khi cơ sở hạ tầng xã hội biến đổi về chất dẫn đến sự
biến đổi, phát triển căn bản (nhanh hay chậm, ít hoặc nhiều) của kiến trúc thượng tầng xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn ra đời. Cứ như vậy
lịch sử xã hội loài người là một tiến trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế -
xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ - chiếm hữu nô lệ -phong kiến - tư bản chủ nghĩa - xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, thống nhất giữa quy luật chung cơ bản phổ biến với quy luật đặc thù và quy luật riêng
của lịch sử. Chính vì vậy, C.Mác viết:" Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên".
Tiến trình lịch sử xã hội loài người là kết quả của sự thống nhất giữa lôgic và lịch sử
Xu hướng cơ bản, xu hướng chung của sự vận động, phát triển lịch sử loài người là do sự chi
phối của quy luật khách quan (thống nhất giữa cái chung với cái đặc thủ và cái riêng) xét đến cùng
là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lôgic của toàn bộ tiến trình lịch sử loài người là sự kể tiếp
nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao.
Sự thống nhất giữa lôgic và lịch sử trong tiến trinh lịch sử - tự nhiên của xã hội loài người bao hàm
cả sự phát triển tuần tự đối với lịch sử phát triển toàn thế giới và sự phát triển "bỏ qua" một hay
vài hình thái kinh tế - xã hội đối với một số quốc gia, dân tộc cụ thể.
Sự phát triển phong phú, nhiều vẻ, đa dạng, phức tạp của các hình thái kinh tế - xã hội cụ thể của
các giai đoạn xã hội, các quốc gia, dân tộc cụ thể. Bao gồm cả những bước quanh co, thậm chí
những bước thụt lùi lớn, khả năng rút ngắn, bỏ qua những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
Theo VILênin: “Tỉnh quy luật chung của sự phát triển lịch sử toàn thế giới đã không loại trừ mà trái
lại còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm về hình thức hoặc về trật tự
của sự phát triển đó
Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là tất yếu khách quan của lịch sư xã hội. Phát
triển là xu hướng tất yếu, cơ bản của lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa tư bản không phải là
nắc thang phát triển cuối cùng của xã hội loài người. Chính những mâu thuẫn cơ bản trong lòng
xã hội tư bản đã quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người. Tiền đề lý luận cho sự
vận động phát triển xã hội đã xuất hiện, đó là hệ tư tưởng Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự
thay thế hình thái kinh tế -xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa phải thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa
tuân theo tính tất yếu của các quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các nhân tố khác
nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Từ đó lịch sử phát triển của xã
hội được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tỉnh thống nhất của
nó.
Ý nghĩa phương pháp luận
Về vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội được thể hiện ở
- Đời sống xã hội phải được giải thích từ sản xuất, từ phương thức sản xuất.
- Xã hội là một tổ chức sống; các yếu tố của nó thống nhất, tác động lẫn nhau.
-Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
-Quy luật phát triển chung của xã hội loài người và quy luật riêng, đặc thù của mỗi dân tộc.

Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế – xã hội

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra
các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh
tế – xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng
ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau.
Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và
điều kiện cụ thể của nước ta.
Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa“
Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu
hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất
ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công
là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại
ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng
cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục
và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
10.ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Phân tích lý luận đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản theo quan
điểm của Chủ nghĩa Mác- lênin. Liên hệ ở Việt Nam?
Khái niệm
Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống sản xuất
xã hội nhất định trong lịch sử thường được pháp luật quy định và thừanhận.
Ví dụ: Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối lập nhau trong xã hội cổ đại
Phân tích Đấu tranh giai cấp
* Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp V.I Lênin chỉ rõ: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh
của bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền,
bị áp bức và lao động.chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh
của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay
giai cấp tư sản”
Đấu tranh giai cấp là tất yếu do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hoà được giữa các
giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau
trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột
chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng.
Đấu tranh giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn trong lịch sử. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa
các giai trong lịch sử tất yếu phát triển đến cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đây là
cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản đứng
lên giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của mình và thông qua nền chuyên chính đó
tiến hành cải tạo triệt để xã hội cũ, tiến tới xóa bỏ mọi đối kháng giai cấp, xây dựng thành công xã
hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong đấu tranh ghi cấp, liên minh giải cấp là tất yếu. Liên minh giai cấp là sự liên kết giữa những
giai cấp này để chống lại giai cấp khác.Liên minh giai Cập này là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng để tập hợp và phát triển lực lượng trong các cuộc đấu tranh giải cấp. Cơ sở của liên minh
giai cấp là sự thống nhất về lợi ích cơ bản.
*Vai trò của đấu tranh giải cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, dấu tranh giải cấp là động lực quan trọng, trực tiếp của lịch sử. C.Mác và
Ph. Angghen luôn nhấn mạnh vai trò của đấu tranh giải cập, đặc biệt là cuộc đấu tranh giai cập
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, coi đó là "đòn bảy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện
đại".
Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cập. Song vai trò là động lực của các
cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử không giống nhau. Vai trò của đấu tranh giai cấp đến mức độ
nào điều đó phụ thuộc vào quy mô, tính chất của các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi
cuộc đấu tranh giai cấp phải giải quyết.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh giai cấp cuối
cùng trong lịch sử. Do tính chất, quy mô rộng lớn và triệt để của các nhiệm vụ mà nó phải giải
quyết, vì vậy đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản là "đòn bẩy vĩ đại nhất" trong lịch sử xã hội có
giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng không phải là động lựcduy nhất mà là
một động lực trực tiếp và quan trọng.
Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
* Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền
Đấu tranh kinh tế là một trong những hình thức cơ bản đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đấu
tranh kinh tế có nhiệm vụ trước mắt là bảo vệ những lợi ích hàng ngày của công nhân như tăng
lương, rút ngắn thời gian lao động, cải thiện điều kiện sống v.v...Đấu tranh kinh tế bao gồm nhiều
hình thức đa dạng và có vai trò rất quan trọng nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp vô sản
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản. Mục tiêucủa đấu tranh
chính trị là đánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, phản động, giành chính quyền về tay giai cấp
vô sản. Đấu tranh chính trị có nhiều hình thức cụ thể và trình độ khác nhau. Thực tiễn cách mạng
cho thấy, khi chưa có điều kiện tiến lên đánh đổ chính quyền của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản
sử dụng nhiều hình thức đấu tranh như: tham gia nghị viện tư sản và dùng nghị viện làm phương
tiện để tố cáo chính sách của nhà nước tư sản; tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công
chính trị.v.v...Những hình thức đấu tranh này có ý nghĩa hết sức to lớn, nhằm nâng cao giác ngộ
và bảo vệ lợi ích giai cấp, 167 phát triển lực lượng cách mạng.v.v...
Đấu tranh tư tưởng có mục đích đập tan hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, khắc phục những ảnh
hưởng của tư tưởng, tâm lý, tập quán lạc hậu trong phong trào cách mạng;vũ trang cho họ hệ tư
tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân, đó là chủnghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, đấu
tranh tư tưởng còn nhằm giáo dục quần chúng nhân dân lao động thấm nhuần đường lối chiến
lược, sách lược cách mạng của đảng, biến đường lối cách mạng của đảng thành hành động cách
mạng.
Ba hình thức đấu tranh cơ bản của giai cấp vô sản có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau,
nhưng có vai trò không ngang bằng nhau. Trong thực tế, các hìnhthức đấu tranh kinh tế, đấu tranh
chính trị và đấu tranh tư tưởng được sử dụng dan xen nhau. Chúng vừa là tiền đề, vừa là cơ sở
của nhau, thống nhất với nhau bố trợ lẫn nhau và đều dẫn tới mục tiêu cao nhất. Trong đó, đấu
tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của giai cấp vô
sản.
* Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản sau khi giành được chính quyền được diễn ra trong
điều kiện mới với những thuận lợi rất cơ bản, song cũng có không ít các khó khăn, thách thức đặt
ra.
Khác với cuộc đấu tranh giai cấp trước khi giành được chính quyền, cuộc đấu tranh giai cấp của
giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nội dung mới.
Cuộc đấu tranh giai cấp của võ sản giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới, với nội dung mới
tất nhiên phải có những hình thức mới.
Ý nghĩa phương pháp luận về giải quyết các vấn đề của nước ta hiện nay:
Một là, phải bám sát điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đấu tranh
giai cấp là một quá trình phức tạp trong sự vận động của lịch sử - xã hội, một xu thế tất yếu, khách
quan của xã hội có giai cấp.
Hai là, Việt Nam là nước đã giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và sau khi có
chính quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vẫn phải tiếp tục trong điều kiện mới, với tính
chất gay go, phức tạp, có mặt ngày càng gay gắt hơn.
Ba là, chính quyền giai cấp vô sản phải tiếp tục sử dụng phương pháp cách mạng không ngừng.
sử dụng chuyên chính vô sản của mình để đập tan mọi âm mưu của các thế lực thù địch, đồng
thời định hướng chính trị cho phù hợp với mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhân dân ta đã
chọn.
Liên hệ Việt Nam
Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độn lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Quả độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, các thế lực phản động trong nước đang bằng nhiều âm mưu và thủ đoạn chống phá sự
nghiệp cách mạng của đất nước. Chúng đang ra sức tập hợp lực lượng,lôi kéo các phần tử bất
mãn với chế độ, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo...để chống phá sự
nghiệp cách mạng. Để thực hiện các mưu đồ phản động đó, chúng đang tìm mọi cách câu kết với
chủ 170 nghĩa đế quốc, ráo riết thựchiện âm mưu “diễn biến hòa bình" hòng xóa bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những tàn dư và tư tưởng, tâm lý
và tập quán lạc hậu của giai cấp phong kiến, tư sản, của chủ nghĩa thực dân cũ, chủ nghĩa thực
dân mới, v.v.. còn tồn tại. Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra gay go, phức
tạp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay được diễn ra trong điều kiện mới với những thuận lợi
rất cơ bản song cũng có không ít các khó khăn.
Giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và có sự phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Khối liên minh giai cấp mới công nhân - nông dân - trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được củng cố vững chắc và trở thành nền
tảng của chế độ xã hội mới
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên nhân dân Việt Nam phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
11. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Trả lời:
a) Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội: là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản tạo thành tồn tại xã hội bao gồm:phương thức sản
xuất vật chất, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên hoàn cảnh địa lý và dân cư. Trong đó,phương
thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

- Ý thứ c xã hộ i: là khá i niệm dù ng để chỉ phương diện sinh hoạ t tinh thầ n củ a xã hộ i,
bao gồ m nhữ ng quan điểm, tình cả m, tâ m trạ ng, truyền thố ng.... đượ c nả y sinh từ tồ n
tạ i xã hộ i và phả n á nh tồ n tạ i xã hộ i trong nhữ ng giai đoạ n phá t triển nhấ t định.

.b. Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

Thứ nhất: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội


Theo quan điểm thế giới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong
lĩnh vực xã hội thì quan hệ này đươc biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định
ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:

- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư tưởng
ấy trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó, tồn tại xã hội để lý giải
cho ý thức xã hội

- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức sản xuất đã thay đổi thì
sớm hay muộn ý thức xã hôi cũng phải thay đổi theo.

Thứ hai: Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Lịch sử cho thấy nhiều khi xã hội cũ mất đi thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội cũ đó sinh
ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện đặc biêt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã
hội như trong truyền thống, tập quán, thói quen.Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã
hội do những nguyên nhân sau đây:

- Sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt
động thực tiễn của con người; thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp thời và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.

- Do sức mạnh của thói quen truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số
hình thái xã hội.

- Ý thức xã hội luôn gắn với những lợi ích nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định
trong xã hội.

Thứ ba: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng khoa học
tiên tiến, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, và có tác dụng
tổ chứ chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào hướng giải quyết
những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất mà xã hội đặt ra.

Thứ tư: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt
đối hóa vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan niệm duy vật tầm
thường hay chủ nghĩa duy vật kinh tế, phủ nhận tác dụng tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với
sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lich sử cụ thể, vào
tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà tư tưởng đó sinh ra.
c) Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện
thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, một mặt, phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực
của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; mặt khác, phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa,
xây dựng con người mới.
Các giải pháp hình thành giá trị mới của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Cá nhân bản thân cần tự tiếp thu thêm nhiều tri thức, khoa học, công nghệ mới :không ngừng
trau dồi kiến thức cho bản thân, hơn hết là tiếp thu có chọn lọc các vănhóa mới về nước khác
nhưng vẫn giữ một nét riêng của văn hóa người Việt Nam.
-Xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận, bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, đời
sống vật chất và tinh thần phong phú, lành mạnh; có tính thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự
quản, dân chủ, xây dựng môi trưởng xã hội lãnh mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
-Phải thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh
nghiệp, doanh nhân với các chuẩn mực trung thực, tôn trọng chữ tín, trách nhiệm...
- Hơn hết là thường xuyên đổi mới bản thân, tiếp nhận thêm những tư duy mới để bản thân ngày
một hiện đại chứ không phải cứ giữ mãi một quan niệm rồi sẽ trở thành một người lạc hậu đi chậm
tư tưởng.
-Tập trung xây dựng nếp sống mới, những chuẩn mực văn hóa mới, xây dựng, phát triển và sáng
tạo những giá trị văn hóa mới trên nền tảng bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, kể
thừa và phát huy tính đa dạng, bản sắc văn hóa của các dân tộc, của các vùng, miền.
- Hướng đến các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ tới giá trị chân- thiện - mỹ.
Gắn xây dựng. rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyển và nghĩa vụ công dân.
Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri
thức và xã hội học tập. Đúc kết và xây dựng hệ giả trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
- Mở rộng giao lưu văn hóa, tiếp biến có chọn lọc tỉnh hoa văn hóa nhân loại, lối sống hay, sống
đẹp của các dân tộc trên thế giới, làm phong phủ thêm nền văn hóa dân tộc ngăn ngừa và đấu
tranh chống sự xâm nhập văn hóa độc hại và lối sống phản văn hóa trong quá trình hội nhập quốc
tế.
12 quan điển CNDVLS về con người và bản chất con người
Khái niệm con người
Con người là một thể tự nhiên mang đặc tính xã hội, có sự thống nhất giữa hai phương diện tự
nhiên và xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người thể hiện ở chỗ, cũng giống như những động vật khác, con người
cũng chịu sự quy định của các quy luật sinh học, của tự nhiên như quy luật đồng hoá và dị hoá,
quy luật biến dị và di truyền, v.v. Mặt sinh vật có những tương đồng với động vật cao cấp nhưng
đã được người hoá, nhân tính hoá.
Bản tính xã hội của con người thể hiện ở chỗ, con người là một loại động vật có tính chất xã hội.
Toàn bộ đời sống và hoạt động của con người là do hoàn cảnh xã hội quyết định. Con người chỉ
trở thành người đích thực khi sống trong xã hội và có hoạt động xã hội cho mình, cho đồng loại.
Trước hết, đó là hoạt động sản xuất vật chất. Chính hoạt động sản xuất vật chất biểu thị bản chất
xã hội của con người
Mặt sinh học (sinh vật) là tiền đề cơ sở cho mặt xã hội của con người. Mặt xã hội chỉ có thể phát
triển được trên cơ sở phù hợp với mặt sinh học. Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội
nên quá trình hình thành và phát triển con người chịu sự quy định của ba hệ thống quy luật. Quy
luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người. Quy luật tâm lý ý thức quy định sự
hình thành tình cảm, niềm tin, khát vọng v.v… của con người, dù chúng được hình thành trên cơ
sở nền tảng sinh học của con người. Quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội của con người.
3.6.1.2. Bản chất của con người
C.Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” (C.Mác
và Ph.ĂngghenToàn tập; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, t.3, tr.11).
Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự nhiên mà
là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ
xã hội. Rõ ràng, con người là con người hiện thực, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể,
trong một thời đại xác định. Thông qua các quan hệ xã hội con người bộc lộ bản chất xã hội của
mình.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người, song
không có nghĩa là chủ nghĩa Mác-Lênin coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố
cấu thành bản chất con người. Ở đây, con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, mặt khác
con người là một thực thể xã hội. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong con
người tạo thành bản chất con người.Không có tự nhiên, không có lịch sử – xã hội thì không thể có
con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, nhưng
con người luôn là chủ thể lịch sử – xã hội. Con người chủ thể lịch sử – xã hội thể hiện ở chỗ:
 Các cá nhân con người chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình, không chịu
khuất phục trước môi trường, điều kiện khách quan, mà chủ động tác động, cải tạo điều kiện
khách quan.
 Nhờ hoạt động thực tiễn mà con người cải tạo tự nhiên đồng thời làm nên lịch sử của mình. Do
vậy chính con người đã sáng tạo ra lịch sử. Thông qua hoạt động thực tiễn của mình con người
thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau
đây:
 Phải chú ý cả hai phương diện tự nhiên và xã hội khi lý giải về con người. Song điều căn bản có
tính quyết định phải là phương diện xã hội.
 Phải biết phát huy năng lực sáng tạo lịch sử của con người – động lực cơ bản của sự tiến bộ và
phát triển xã hội.
 Phải xoá bỏ triệt để các quan hệ kinh tế – xã hội áp bức bóc lột, kìm hãm khả năng sáng tạo lịch
sử của quần chúng nhân dân.
3.6.2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
3.6.2.1. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng giai cấp, những tập đoàn người, những cá
nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động. Trong quần
chúng nhân dân bao gồm:
Một là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần của xã hội. Đây là hạt nhân
của quần chúng nhân dân.
Hai là những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, bóc lột.
Ba là những giai cấp, tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thông qua hoạt động của mình.Khái
niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử. Tuỳ theo chế độ xã hội cụ thể khác nhau mà kết cấu
của quần chúng cũng khác nhau, quần chúng nhân dân biến đổi theo phương thức sản xuất.
3.6.2.2. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử,
lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử, do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt
động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Điều đó thể
hiện:
Thứ nhất: quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, là người trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất – cơ sở tồn tại, phát triển của xã hội. Nói cách khác hoạt động sản
xuất ra của của cải vật chất cho xã hội của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai: quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội; là động lực
cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh, không có cuộc cách mạng nào
mà lại thiếu lực lượng cơ bản là quần chúng nhân dân. Chính quần chúng nhân dân đóng vai trò
quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Thứ ba: quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển văn hóa, nghệ thuật
và khoa học, là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Hoạt động của quần chúng
nhân dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong xã hội. Hơn
nữa, những giá trị văn hoá tinh thần chỉ trở thành trường tồn khi được quần chúng nhân dân chấp
nhận, lưu giữ truyền bá sâu rộng trong nhân dân. Quần chúng nhân dân không chỉ sáng tạo ra
những giá trị văn hoá, tinh thần, khoa học mà còn áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động
thực tiễn
Xét tất cả các mặt trong đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư
tưởng, thì quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định lịch sử. Sức mạnh của quần chúng nhân
dân là sức mạnh vật chất và mọi sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Vì vậy
cần phê phán những quan điểm không đúng về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Khái niệm cá nhân dùng để chỉ một con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định
và được phân biệt với người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan
niệm này, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất , vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ
biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức
năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Mỗi cá nhân tuỳ theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể, có thể tham gia vào
quá trình sáng tạo của cộng đồng nhân dân, “in dấu ấn” của mình vào quá trình sáng tạo lịch sử,
với mức độ và phạm vi khác nhau.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật.
Lãnh tụ là những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần chúng,
được quần chúng tin yêu và tạo nên. Lãnh tụ có vai trò to lớn quan trọng trong lịch sử. Để trở
thành lãnh tụ phải có những phẩm chất cơ bản:
Một là: có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu hướng vận động của dân tộc, quốc tế và thời
đại.
Hai là: có năng lực tập hợp quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng vào
nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại;
Ba là: gắn bó mật thiết với quần chúng, dám hy sinh thân mình vì lợi ích của quần chúng, của dân
tộc, quốc tế và thời đại. Chủ nghĩa MácLênin đánh giá cao vai trò của cá nhân – lãnh tụ trong sự
phát triển lịch sử đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân.

You might also like