You are on page 1of 10

MỤC LỤC

A.PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………3
B.NỘI DUNG…………………………………………….4
I, LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:…………4
1. Khái niệm vật chất và ý thức………………………4
1.1. Khái niệm vật chất……………………………...4
1.2. Khái niệm ý thức………………………………..4
2. Quan niệm của Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức.…………………………………...….4
2.1. Vật chất quyết định ý thức…………………….4
2.2. Ý thức có tính tương đối và tác động trở lại vật
chất………………………………………………………..5
3. Ý nghĩa của phương pháp luận…………………....6
II, SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY:………………………………………..6
1. Nền kinh tế thị trường theo quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin…………………………………………6
2. Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam…………7
3. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam và giải
pháp…………………………………………………9
III, KẾT LUẬN…………………………………………10
Tài liệu tham khảo………………………………………..11

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Mác-Lênin là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về
thế giới quan cũng như vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy, những vấn đề có
kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ.
Triết học Mác-Lênin đã kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học nhân loại, mang lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân của thế
giới quan cộng sản. Nó giúp cho con người có cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức bản
chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích, ý nghĩa cuộc sống , nâng cao
vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Như vậy, triết học nói chung và triết học
Mác-Lênin nói riêng đóng vai trò to lớn trong việc phát triển đời sống xã hội, đặc biệt
là trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay.
Mà, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức lại là một vấn đề cơ bản của triết học. Đây
là mối quan hệ bao trùm của mọi sự vật hiện tượng trên thế giới, là vấn đề nền tảng và
xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề còn lại của triết học. Đây cũng là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của triết gia và học thuyết của họ bởi các
học thuyết triết học đều trực tiếp hay gián tiếp phải giải quyết vấn đề này. Những bài
học có tính chất phương pháp luận rút ra từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có vai
trò vô cùng quan trọng cho con người cũng như trong hoạt động thực tiễn của con
người.

B. NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC:
1. Khái niệm vật chất và ý thức
1.1. Khái niệm vật chất
Theo như Lênin: "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Ta hiểu định nghĩa của
Lênin như sau:
Thứ nhất : Vật chất là phạm trù triết học
Thông thường, chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vận dụng, một tài
sản của con người...Thế nhưng, vật chất trong định nghĩa của Lênin lại là kết quả sự
sự trừu tượng hoá, khái quát hoá những thuộc tính, cũng như những mối liên hệ vốn
có của các sự vật, hiện tượng, nên nó phản ánh cái chung, cái vô hạn, vô tận, không
sinh ra, không mất đi. do đó không thể đồng nhất vật chất với các dạng biểu hiện cụ
thể khác của vật chất.
Thứ hai : Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
Trong hiện thực, vật chất tồn tại một cách khách quan, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. Ở đây, "tồn tại khách quan” là một thuộc tính cơ
bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất. Con người nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn
tồn tại.
Thứ ba : Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp
hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản
ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
1.2. Khái niệm ý thức
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con
người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là toàn bộ sản phẩm
những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức, kinh nghiệm,
những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin, ... của con người trong
cuộc sống. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội,
là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong não người.
2. Quan niệm của Mác-Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
2.1 Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi
có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất
thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm
của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu
dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan
điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là
những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự
tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện
cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
2.2.Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của
con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song,
mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải
trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về
thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng,
xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để
thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với
vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực hoặc
tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng,
có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách
quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục
đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực cúa ý thức. Còn nếu ý
thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật
khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy
luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, đối
với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết định
hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý
thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác
động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động
thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động
này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào
những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất,
hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
3. Ý nghĩa của phương pháp luận
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động:
Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thông qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những
đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.
Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ vào
hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế hoạch
mới có thể thành công.
Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà
không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vật chất.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người:
Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải luôn chủ
động, phát huy khả năng của mình và luôn tìm tòi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con
người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc
giữa chừng.
Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc sa
vào lười suy nghĩ, lười lao động.

II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:

1. Nền kinh tế thị trường theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ sản xuất
vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.

C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở
giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị
trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là
sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có kỹ thuật tư bản chủ
nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện
đại... thì không thể nói đến CNXH được”. Tuy nhiên, trước khi không còn cơ sở tồn
tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường lại cần thiết cho quá trình xây dựng
thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước Nga. Khi
Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong giai đoạn đầu
cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó ông nhận ra sai
lầm, nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ làm trầm trọng thêm
nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Lênin đã chỉ ra con đường khắc phục
thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới, tức chuyển từ kế hoạch hóa
tập trung sang khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận mức độ nhất
định cơ chế thị trường. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình
thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần…

2. Phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát
triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề
ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là bước phát triển
mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình
đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và
con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh
tế mới.

Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành
tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống
nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô
hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn,
thương mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực
lượng sản xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.

Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI
khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại
hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức
được sử dụng trong Văn kiện của Đảng.
Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần
kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể.

Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc
trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập
thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân
là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau
hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.

Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có
những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu
thành nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình
kinh tế Việt Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền
kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời
bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó
là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước
pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực
chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Như vậy, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là
“nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện
tự do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành
kinh tế được tuân thủ và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý,
điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật
và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết
ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh,
tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường.

Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia
tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ
nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia
phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời
cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền
kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập.

3. Thực trạng nền kinh tế thị trường VN và giải pháp

Nhìn lại trong hơn 30 năm đổi mới có thể thấy, lý luận về mô hình kinh tế đã được đổi
mới liên tục theo thời gian. Nhờ đó, đã tạo ra xung lực mới cho sự phát triển và đã làm
cho nền kinh tế từ nghèo khó từng bước được cải thiện và khởi sắc đi lên. Cùng với
việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam, cần quan tâm một số vấn đề sau:

- Một là, nhận thức rõ quá trình xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là không đơn giản, đó là quá trình lâu dài và trải qua nhiều
giai đoạn, vừa tìm tòi, phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận, vừa phải linh
hoạt, sáng tạo trong thực tiễn, ứng phó tốt trước khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết
tâm và đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay là một lựa chọn tất yếu và không có cách lựa chọn
khác để đi lên CNXH.

- Hai là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam chính là nền kinh tế
thị trường hiện đại, ở đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này có
nghĩa là những yếu tố thị trường của nền kinh tế thị trường hiện đại thì đều được phát
huy và phát triển ở mức cao như tính tích cực của nền kinh tế thị trường, năng động và
hiệu quả, đồng thời, nền kinh tế thị trường cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam để hạn chế các mặt trái tiêu cực của nền kinh tế thị trường, cũng như những tác
động làm cho các quan hệ kinh tế thay đổi về cách thức và phương thức mới theo
hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn.

- Ba là, để có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, đòi hỏi
phải có môi trường công khai, minh bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng
lực điều hành và quản lý nền kinh tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng
cao, chất lượng và hiệu quả, giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm nền kinh tế
phát triển bền vững một cách thật sự.

- Bốn là, để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phát triển, cần tạo lập một
môi trường kinh doanh thông thoáng, hòa nhập với thị trường thế giới. Nền kinh tế
thị trường không có sự phân biệt đối xử đối với các đối tượng và chủ thể trên thị
trường. Và để đạt được điều đó, thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác cần được
xem như mọi thành phần kinh tế khác, được đối xử bình đẳng, không có sự ưu tiên
hay phân biệt. Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, hoạt động bình đẳng, đúng pháp luật, được luật pháp
bảo vệ và khuyến khích phát triển như nhau.

- Năm là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được định hướng
theo đuổi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; huy động
sức mạnh của mọi thành phần kinh tế cũng như của toàn xã hội cho tăng trưởng kinh
tế, từng bước nâng cao đời sống cho đại bộ phận nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế không phải bằng mọi giá, nóng vội mà phải được cân nhắc
tính toán cho phù hợp với điều kiện đất nước theo hướng phát triển nhanh, hiệu quả
mà bền vững; gắn mục tiêu tăng tưởng kinh tế với bảo đảm độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, bảo vệ môi trường... Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển nhằm đảo bảo công bằng về cơ hội
phát triển cho mọi thành viên trong cộng đồng được thụ hưởng lợi ích chính đáng,
công bằng từ những kết quả lao động và cống hiến xã hội của mình và "không một ai
bị bỏ lại phía sau”…

III. KẾT LUẬN:

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó và phức tạp, có thể coi nó
như một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động nhiều của đất nước
ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải kiên
trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh
táo, thông minh nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng
ngày, từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng thành thạo phép duy vật duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh
tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công
cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở thành
những cán bộ quản lý kinh tế giỏi góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới kinh tế
đất nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để có thể đứng cao hơn
nữa vị trí Việt Nam trên chiến trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định
về chính trị của đất nước. Đó là đường lối là trách nhiệm của những nhà quản lí kinh
tế, chính trị của chúng ta, nâng cao hơn nữa vị trí Việt Nam trên chiến trường quốc tế,
góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính trị của đất nước. Đó là đường lối là
trách nhiệm của những nhà quản lí kinh tế, chính trị của chúng ta.

Tài liệu tham khảo:


Giáo trình
https://tapchitaichinh.vn/van-dung-chu-nghia-mac-lenin-trong-phat-trien-nen-kinh-te-
thi-truong-dinh-huong-xhcn-o-viet-nam.html
https://luathoangphi.vn/moi-quan-he-giua-vat-chat-va-y-thuc/#:~:text=%C3%9D
%20th%E1%BB%A9c%20c%C3%B3%20t%C3%ADnh%20%C4%91%E1%BB
%99c,ti%C3%AAu%20c%E1%BB%B1c%20c%E1%BB%A7a%20%C3%BD%20th
%E1%BB%A9c.
http://lichsu.tnus.edu.vn/chi-tiet/368-Kinh-te-thi-truong-o-Viet-Nam-duoi-cai-nhin-
cua-triet-hoc

You might also like