You are on page 1of 12

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

…...0O0…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài số 3:
Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung
và liên hệ với thực tiễn.

Họ, tên SV: Hoàng Thu Huyền Mã SV: 11217536


Lớp: 21 Khóa: 63 GĐ: …………..

Hà Nội - 5/2021
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thế giới có vô vàn sự vật và hiện tượng rất đa
dạng và phong phú. Dù vậy, chúng cũng đều được quy về hai lĩnh vực: vật chất và
ý thức. Trong lịch sử, đã có rất nhiều các quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nhưng chỉ có quan điểm triết học của chủ
nghĩa Mác – Lênin – quan điểm đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của của
các quan niệm duy tâm, siêu hình - là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Ngoài ra, quan điểm triết học Mác – Lênin còn chỉ ra
mối quan hệ duy vật biện chứng giữa chúng. Những vấn đề triết học về mối quan
hệ biện chứng giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng cho hoạt
động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.

PHẦN 1: CỞ SỞ LÝ THUYẾT
1. Quan điểm của Mác - Lênin về vật chất và ý thức
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” [Giáo trình triết học Mác –
Lênin, tr 57]. Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản
sau:
- Thứ nhất, vật chất là thứ tồn tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài
ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.
- Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì đem
lại cho con người cảm giác.
- Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Ý thức là dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần (tâm lý) của con người. Ý thức
bao gồm: Tri thức (hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, về chính con người
và chính cái hiểu biết đó); đời sống tình cảm (cảm xúc của con người: yêu, ghét,
vui, buồn, …). Theo nghĩa hẹp khác thì ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo
thế giới khách quan và bộ óc của con người. Mác định nghĩa: “Ý thức thực chất là
cái vật chất được di chuyển vào bộ óc của con người và được cải biến đi ở trong đó
tạo ra tri thức”. Song, V.I Lênin nhận định: “Bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách
quan của óc người” [Giáo trình triết học Mác – Lênin, tr 72].

1
“Phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức
con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng” [Giáo
trình triết học Mác – Lênin, tr 85].
2. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức và ý thức có tác động tích cực trở lại vật
chất.
2.1. Vật chất quyết định ý thức
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: có thể nói vật chất “sinh” ra ý thức,
vì ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, một dạng vật chất có tổ chức cao chỉ
xuất hiện khi có con người. Mà trong mối liên hệ giữa thế giới vật chất với con
người, con người là sản phẩm của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức
tạp của thế giới vật chất, của giới tự nhiên. Vì vậy, ý thức, là một thuộc tính của bộ
phận con người, cũng từ thế giới vật chất, giới tự nhiên sinh ra. Kết luận này đã
được chứng minh bởi các thành tựu khoa học về giới tự nhiên, vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Sự tồn tại của ý thức phụ thuộc vào các hoạt động của
hệ thần kinh bộ não khi đang phản ánh hiện thực khách quan và nó tồn tại khách
quan, độc lập với vật chất. Vậy nên, thế giới vật chất là nguyên nhân cho sự ra đời
của bộ óc con người, cái vật chất có tư duy.
Vật chất quyết định nội dung ý thức: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan, thế giới vật chất; là kết quả của quá trình phản ánh vào trong não bộ của con
người. Hay có thể nói, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những quy
luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức thì mới tạo nên được nội dung
của ý thức. “Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý
thức”. Nó chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan, chủ yếu là những hoạt động
thực tiễn có tính xã hội – lịch sử. Chính sự phát triển của những hoạt động đó là
động lực thúc đẩy tính sâu sắc, phong phú của nội dung ý thức qua các thời đại.
Vật chất quyết định bản chất của ý thức: phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính
không tách rời trong bản chất của ý thức. Sự phản ánh của con người không phải
“soi gương”, “chụp ảnh” hay “phản ánh tâm lý” như con vật mà là sự phản ánh tự
giác, tích cực, có sáng tạo thông qua thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khác
với chủ nghĩa duy vật cũ rằng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người

2
hoạt động thực tiễn. Và những hoạt động thức tiễn có tính cải biến đó là cơ sở để
hình thành, phát triển ý thức có cả phản ánh và sáng tạo.
Vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức: Mọi sự tồn tại, phát
triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi
thì ý thức cũng thay đổi theo dù sớm hay muộn. Con người – một sinh vật có tính
xã hội ngày càng phát triển về cả thể chất và tinh thần, kéo theo ý thức – một hình
thức phản ánh của não người - cũng phát triển cả nội dung và hình thức.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin rằng “sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sắc
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là
thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi
ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”.
2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại bản chất

Tính độc lập tương đối của ý thức: ý thưc là sự phản ánh thế giới vật chất vào
đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng một khi đã xuất hiện thì ý thức có
“đời sống” riêng, có sự quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc hoàn
toàn vào vật chất. Ý thức khi đó sẽ có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế
giới vật chất. Ý thức thường thay đổi chậm so với sự biến của thế giới vật chất.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người: bản thân ý thức không thể biến đổi được hiện thực mà phải thông qua
các hoạt động thực tiễn. Nhờ đó, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” nhằm phục vụ cho cuộc
sống con người. Con người dựa trên cơ sở tri những tri thức, hiểu biết về thế giới
khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để
thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định và đi đến bước thực hiện. Đặc biệt là ý
thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng
vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không
thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khí nó thâm nhập vào quần chúng”.
Ý thức có vai trò chỉ đạo hoạt động, hành động của con người: ý thức có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại.
Vì ý thức không trực tiếp tiến hành các hoạt động vật chất, mà nó trang bị cho con

3
người tri thức khách quan, con người dựa vào đó xác định mục tiêu, đề ra phương
hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, dụng cụ, phương
tiện,... để thực hiện mục tiêu. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức còn có thể dự
báo một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định
hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ được góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được
nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức cũng có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh
sai lạc, xuyên tạc hiện thực, không đúng với quy luật khách quan ngay từ đầu thì
dẫn đến hướng đi của con người đã lệch lạc với các quy luật khách quan và dẫn
đến tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn, hiện thực khách quan.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn: trong thời
đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, tư tưởng
chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất,
của ý thức có thể thấy: không bao giờ và không ở đâu ý thức lại quyết định vật
chất. Trái lại, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo của ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ
thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những
người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn
cảnh vật chất trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức. Tính
năng động, sáng tạo của ý thức có vai trò và khả năng rất to lớn, nhưng nó không
thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào
các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu
quên đi điều đó chúng ta sẽ dễ dàng lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan,
duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không thể tránh khỏi thất bại trong hoạt
động thực tiễn.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra
nguyên tắc phương pháp luận là: Trong mọi hoạt động nhận thức thực tiễn đòi hỏi
phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy
tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc phương pháp luận này, mọi hoạt động

4
nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn, thành công và có hiệu
quả khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng thực tế khách quan với phát huy tính năng động chủ quan; phát huy tính
năng động chủ quan phải là trên cơ sở và trong phạm vi điều kiện khách quan,
chống chủ quan duy ý chí trong nhận thức và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng tính khách quan: trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, chúng ta đều
phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có.
Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không làm như vậy,
chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật
hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không
được gán cho đối tượng cái mà nó không có. Văn kiện Đại hội XII chủ trương,
phải nhìn vào sự thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự
vật hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần
phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm
thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phát huy tính năng động chủ quan: phải phát huy tính năng động, sáng tạo của
ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại,
ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi
trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình
độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện văn minh trí tuệ, kinh tế
tri thức, toàn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức
cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức
khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng
động chủ quan, đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí;
đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện
thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho
chiến lược, sách lược,… chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các
quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích
xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ
lợi trong nhận thức và hành động của mình.

5
PHẦN 2: LIÊN HỆ QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI THỰC TIỄN
1. Liên hệ với quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam
Trong quá trình xây dựng chủ nghiã xã hội, như trong Đại hội VI khẳng định
“Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong
xác định mục tiêu, phương hướng về việc xây dựng cơ sở vật chất, quản lý kinh tế và
cải tạo xã hội… Biểu hiện của sai lầm đó là việc chúng ta đã chủ quan đánh giá
những khả năng thực tại của đất nước, do đó sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải
tạo, phát triển kinh tế. Dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao vượt trên khả năng
thực tế. Hơn thế, Đảng cũng mắc sai lầm khi quá nóng vội cải tạo XHCN , nhanh
chóng phủ nhận nền kinh tế nhiều thành phần, tư duy cũ về kinh tế hiện vật còn ăn
sâu. Đảng đã có nhiều sai sót trong quy trình quản lý tiền tệ cũng như quản lý giai
cấp lãnh đạo, thiếu đi một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa
học dẫn đường. Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và
vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí,
giản đơn hoá, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có những thành
kiến không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất
hàng hoá đang tồn tại khách quan; do đó, không chú ý vận dụng chúng vào việc chế
định các chủ trương, chính sách kinh tế. Chưa chú ý đầy đủ việc tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn của mình và nghiên cứu kinh nghiệm của các nước anh em. Chính
vì vậy, Đảng ta đã đi ngược với nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh
thần của phép biện chứng duy vật.
Như chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước năm
1975, nền kinh tế miền Nam bị suy sụp, nền kinh tế miền Bắc bị phá hoại, còn nhiều
điểm yếu kém. Nói chung, cơ sở vật chất kỹ thuật bị tổn thất, yếu kém, cơ cấu kinh tế
nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động còn thấp, sản xuất không bảo đảm nhu cầu
đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên
liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu,…
Với mục tiêu khắc phục tình hình kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ IV đề ra rất
nhiều các chỉ tiêu kế hoạch cho giai đoạn 1976 -1980, phấn đấu đến năm 1980 đạt
mấy chỉ tiêu lớn sau đây: 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hécta
khai hoang, 1 triệu 200 ngàn hécta rừng mới trồng, 16 triệu 500 ngàn con lợn, sản

6
lượng cơ khí tăng 2 lần rưỡi so với năm 1975, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kilôoát/giờ
điện, 2 triệu tấn xi măng, 1 triệu 300 ngàn tấn phân hoá học, 250 - 300 ngàn tấn thép,
3 triệu 500 ngàn mét khối gỗ, 450 triệu mét vải, 130 ngàn tấn giấy, 14 triệu mét
vuông nhà ở (không kể phần nhân dân tự làm), nhưng những chỉ tiêu này quá cao,
vượt trên năng lực phát triển sản xuất. Và kết quả là đến hết năm 1980, nền kinh tế
vẫn tăng trưởng chậm, nhiều mục tiêu kinh tế chỉ đạt 50 – 60% mục tiêu đề ra, tổng
sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm
0,15%. Đại hội lần thứ V đã nhìn nhận được sau 5 năm, kết quả sản xuất không tương
xứng với sức lao động và vốn bỏ ra, sự mất cân đối trong nền kinh tế vẫn trầm trọng,
đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; nhận ra sự chủ quan trong việc đề ra những
chỉ tiêu, nhiệm vụ ban đầu, song vẫn chưa thể đưa ra được định hướng đổi mới toàn
diện. Chúng ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cải tạo
XHCN và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối lưu
thông.Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì
trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn mắc sai lầm
chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX .Ở đây có thể thấy rõ tác động
tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị
trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức
là tiêu cực thì sẽ dẫn đến hiện thực tiêu cực và sớm hay muộn cũng sẽ bị loại bỏ.
Đến Đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã rút ra kinh nghiệm quan trọng, đó là: phải
tôn trọng thực tế, tôn trọng và hoạt động khách quan. Nhận ra vấn đề lớn nhất là sắp
xếp, bố trí lại cơ cấu và bước đi của nền kinh tế phù hợp với phương hướng, mục tiêu
của những năm trước mắt, phù hợp với khả năng thực tế của nước ta và sự phân công,
hợp tác quốc tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định, vững chắc, với nhịp độ
nhanh. Đảng đã tự phê phán một cách nghiêm khắc, hiểu và phân tích đúng nguyên
nhân của khủng hoảng kinh tế, từ đó đưa ra các chủ trương chính sách tạo bước ngoặt
trong việc đổi mới đất nước, đặc biệt là nền kinh tế. Đại hội VI đề ra mục tiêu thực
hiện ba chương trình kinh tế: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu. Ba chương trình này liên quan chặt chẽ với nhau, là cơ sở và tiền đề cho nhau,
hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế tư sản hàng hóa và kinh tế
tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lý. Dù đã có nhiều tiến triển tích cực, Đại hội lần
thứ VII chỉ ra rẳng: lạm phát còn ở mức cao; sản xuất chưa ổn định; tiêu cực xã hội
vẫn trầm trọng; đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Việc chuyển
sang cơ chế thị trường còn thiếu nhất quán, chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực
tài chính - tiền tệ; quản lý vĩ mô chưa thoát hẳn cơ chế cũ, lại buông lỏng nhiều mặt;
thể chế, bộ máy và đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu mới,… Tình hình chính trị

7
đã dần ổn định, khủng hoảng kinh tế giảm bớt nên đời sống nhân dân được cải thiện,
dân chủ phát huy. Đại hội lần thứ VIII tiếp tục hoàn thiện đường lối đề ra, nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã
chỉ ra những mục tiêu đạt được trong 5 năm tù 1991 đến 1995, quan trọng là phương
châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, lấy đổi mới làm nền để thúc đẩy
các lĩnh vực khác phát triển. Nhờ nhận thức đúng đắn về tính liên kết giữa chính trị
và kinh tế, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng: lạm
phát đảy lùi; tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8,2% (kế hoạch đề ra là 5,5 – 6,5%),
lạm phát chiếm dưới 10%; nông nghiệp và công nghiệp đều có sự tăng trưởng, sản
xuất lương thực tương đối toàn diện, vấn đề lương thưc được giải quyết; quan hệ đối
ngoại được mở rộng theo hướng đa phương hóa; thị trường xuất nhập khẩu được mở
rộng; vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh; kim ngạch xuất khẩu tăng. Không những
thế, khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống người dân được nâng cao, an ninh quốc
phòng được giữ vững. Công cuộc đổi mới ngày càng chuyển biến tích cực nhờ Đảng
đã kịp thời nhận diện và khắc phục được sai lầm, tập trung vào nghiên cứu tìm ra
những mặt hạn chế, từ đó vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức vào quá trình đổi
mới nền kinh tế. Những thành tựu đạt được trong quá trình ngày càng khẳng định con
đường đúng đắn mà Đảng đã chọn: phù hợp với nền kinh tế thị trường, hướng tới
CNXH bỏ qua TBCN, phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Từ những bài học rút ra trong quá trình công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam,
những người cán bộ kinh tế phải biết quán triệt sâu sắc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải coi trọng việc nghiên cứu đề xuất và áp
dụng đúng đắn các chủ trương và chính sách kinh tế để đưa nền kinh tế nước ta thoát
khỏi đói nghèo và ngày càng phát triển hơn, cùng sánh vai với các cường quốc. Việc
xóa bỏ quan liêu bao cấp đòi hỏi người làm công tác quản lí phải năng động, sáng tạo
nắm bát tình hình thực tiễn để vận dụng và phát triển nó. Rút ra từ quan niệm duy vật
biện chứng, chỉ một vấn đề, một chủ trương, thông tin, từ ngữ trong bản hợp đồng
kinh tế bị nhận định sai, bị hiểu lầm, một động thái chậm trễ hay vội vã có thể gây
hậu quả lớn cho nền kinh tế. Nhưng nếu đúng thời cơ bắt được một thông tin dù nhỏ
cũng vẫn có thể lật ngược tình thế dẫn đến thắng lợi lớn. Vậy nên cần phải hiểu và áp
dụng nhuần nhuyễn sự kết hợp giữa thực tế khách quan và nỗ lực chủ quan, giữa tình
cảm và trí tuệ. Là những người cán bộ quản lý thì phải trung thực, nhanh chóng kịp
thời, chính xác nắm bắt thực tế và đề ra giải pháp đúng đắn. Cần phải đấu tranh
chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí trong chủ quan và thực tiễn, chống tư tưởng
nóng vội, bất chấp mọi quy luật; rèn luyện tính kiên nhẫn, chủ động trong sáng tạo,
giành thời cơ,…

8
Sự nghiệp đổi mới và xây dựng CNXH ở Việt Nam là một quá trình dài và khó
khăn, phức tạp. Việt Nam đang trong thời kì công nghiệp hóa hiện, hiện đại hóa đất
nước. Hiện tại và trong tương lai sẽ còn gặp nhiều những biến động, Đảng và Nhà
nước phải kiên trì, quyết tâm chinh phục thử thách; phải tỉnh táo, thích ứng kịp thời
với những biến đổi liên tục. Không chỉ Đảng và Nhà nước, Đảng ta chủ trương “lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”, chú trọng việc nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và chuyên hóa tay
nghề cho người lao động; khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quyết tâm cùng
nhau phát triển đất nước. Đảng liên tục đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng,
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH. Quán triệt
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ,vận dụng
thành thạo phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế ,phát huy
mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng
nền kinh tế quốc dân, xây dựng đất nước.
2. Liên hệ với tình hình dịch Covid – 19
Đại dịch Covid – 19 đã hoành hành trên thế giới hơn hai năm với những biến
chuyển hết sức phức tạp trong khả năng lây nhiễm, các chủng mới,… Những ngày
đầu dịch bệnh lan tiếp cận Việt Nam, về cơ bản nước ta vẫn kiểm soát tốt nhờ vào
các công tác phòng dịch nhanh chóng, nghiêm túc, người dân cũng chủ động trong
việc bảo vệ bản thân. Tất cả những hành động này đều xuất phát từ việc đánh giá
đúng về tình hình, mức độ nghiêm trọng, tác động của Covid – 19 lên sức khỏe cộng
đồng; từ đó, các bộ nghành, các cơ quan chức năng đã nhanh chóng và sáng tạo
trong việc tìm kiếm các biện pháp phòng chống dịch bệnh sao cho phù hợp với từng
địa phương. Song, những chỉ thị được đưa ra đều thực hiện “mục tiêu kép”, vừa
chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo phát triển kinh tế, xã hội. Sau một thời gian thực
hiện rất tốt các biện pháp, chỉ thị này, đất nước đã có những giai đoạn dường như đã
trở lại đời sống bình thường, Nhà nước nới lỏng các công tác phòng chống dịch. Từ
đó, người dân bắt đầu có tâm lý chủ quan dù dịch bệnh vẫn còn hiện hữu và có nguy
cơ bùng phát trở lại. Sự chủ quan đó đã tạo ra lỗ hổng cho sự lây nhiễm của Covid
với những chủng mới, nguy hiểm hơn, lây truyền mạnh hơn, đất nước ta lại một lần
nữa phải gồng mình đấu tranh đẩy lùi dịch bệnh. Như vậy, ta có thể thấy để hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, con người phải xuất phát từ thực
tế khách quan cũng như phát huy tính năng động, sáng tạo chủ quan. Chúng ta cần
phải nhìn nhận thực tế đúng đắn, phản ánh càng đầy đủ, chính xác thế giới khách
quan thì công cuộc cải tạo mới có tác dụng và đạt được thành quả.
3. Liên hệ bản thân
9
Sau khi được tiếp xúc với triết học Mác – Lênin, tìm hiểu về quan niệm duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, em hiểu được tầm quan trọng
của việc nhận thức đúng thực tiễn và tính năng động chủ quan. Để góp phần phát
triển xã hội, nhân tố con người luôn phải được ưu tiên cải tạo, phải phát huy tính
năng động, sáng tạo chủ quan, phát huy vai trò tích cực của ý thức. Muốn thực hiện
được điều này, đầu tiên con người phải tôn trọng tri thức khoa học, chủ động nâng
cao trình độ trí thức, bồi dưỡng trí tuệ. Đấu tranh chống lại bệnh chủ quan duy ý chí,
bệnh bảo thủ, thiếu kiên nhẫn, thái độ tiêu cực, thụ động,… đặc biệt là thời kì đất
nước đang có nhiều sự biến chuyển như hiện nay.
Sinh viên thường mắc “bệnh” thụ động trong học tập, vẫn giữ cho mình thói
quen, tác phong dựa dẫm vào giáo viên, không chịu tự mình tìm hiểu, phân tích vấn
đề dù các nguồn tham khảo rất phong phú. Giảng viên đại học chỉ có trách nhiệm
hướng dẫn và đưa ra định hướng, nhiều bạn sinh viên không chủ động thay đổi cách
học sẽ dễ bị tụt lại phía sau. Là một sinh viên năm nhất Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, để đạt được những mục tiêu như mong muốn, em cần phải cố gắng, tích
cực hơn trong học tập, chủ động trong việc đặt ra, tìm hiểu và khai thác vấn đề. Khi
học bài nên tự mình có những suy nghĩ, tập cách tư duy và cố gắng tìm kiếm các ý
tưởng sáng tạo. Những kiến thức từ sách vở rất quan trọng, là nền móng cơ bản được
áp dụng trong công việc; nhưng vẫn chưa đủ, xã hội đòi hỏi kiến thức phải kèm theo
những kĩ năng mềm, kinh nghiệm. Và cách đạt được yêu cầu đó, ngoài sách vở,
chúng ta nên tích cực tham gia các hoạt động của trường, câu lạc bộ, các dự án và
các hoạt động thiện nguyện; dù các hoạt động này sẽ khiến ta có thêm lượng công
việc, nhưng sau khi hoàn thành, chúng sẽ để lại cho ta những kỉ niệm, kinh nghiệm,
là cơ hội để ta có thể rèn luyện bản thân trở nên tốt hơn. Môi trường đại học luôn ẩn
chứa nhiều cám dỗ và thử thách, vậy nên chúng ta cần phải có ý chí kiên định,
quyết tâm và tránh xa các thói hư tật xấu. Là một môi trường giáo dục, chúng ta cần
nâng cao tinh thần học hỏi, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo
thủ trì trệ. Cần phải lắng nghe và tiếp thu có chọn lọc các ý kiến đóng góp, không
chủ quan trong mọi tình huống; cần có thái độ cầu tiến, cố gắng sáng tạo, tạo điểm
nhấn độc đáo cho bản thân. Là một công dân trẻ tuổi của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, em luôn có mong muốn được cống hiến sức trẻ và năng lực của
bản thân cho sự phát triển của đất nước; luôn giữ tình cảm gắn bó, lòng tự hào Tổ
quốc, tự hào về con người, quê hương. Trung thành với Tổ quốc, với chế độ XHCN,
luôn phải tỉnh táo đề phòng trước những âm mưu chia rẽ, xuyên tạc của các thế lực
thù địch; biết phê phán và đấu tranh chống lại những thái độ, việc làm gây tổn hại
đến an ninh, chủ quyền và lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.

10
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối
với ý thức cùng với tính độc lập tương đối và tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất. Vật chất và ý thức là hai phạm trù cùng nằm tròn mối quan hệ biện chứng. Vật
chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức quyết định nội dung và xu hưóng phát triển của
ý thức; từ khi được sinh ra, ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật
chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, con người phải tôn
trọng khách quan của vật chất và các quy luật tự nhiên xã hội, đồng thời phải tôn
trọng tính chủ quan. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người
phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy đó làm căn cứ cho suy nghĩ, hoạt động của
mình; bên cạnh đó, cần phải phát huy vai trò tích cực của ý thức thông qua phát huy
tính năng động, sáng tạo chủ quan, phát huy yếu tố con người: chủ động tìm tòi, học
hỏi, tích lũy thêm kiến thức cho bản thân phục vụ cho các hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới khách quan. Việc áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin này
và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề hay trong quản lý
kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong
công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế quốc dân sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam ta
vững bước tiến lên trên chiến trường quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Giáo trình triết học Mác – Lênin
2. Bộ giáo dục và đào tạo (2008), “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin”, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IV, V, VI, VII, VIII của
Đảng cộng sản Việt Nam.

11

You might also like