You are on page 1of 13

TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIIN

Câu 1: Dựa vào các cơ sở nào để phân biệt trường phái triết học? (Chương I)

Trả lời:
Các trường phái TH khác nhau ở cách giải quyết vấn đề cơ bản triết học. Từ cách giải quyết
vấn đề cơ bản TH dẫn đến sự khác nhau của toàn bộ nội dung hệ thống TH đó.
Vấn đề cơ bản của TH là gì? Nội dung? CN duy vật/ duy tâm?thuyết ? (phần 2/ Trang 4,5,6)

Câu 2 : Các hình thức của chủ nghĩa duy tâm, duy vật và vai trò của nó trong đời sống xã
hội? Trang 4-5

Câu 3 : Định nghĩa vật chất của Lenin khắc phục được thiếu sót trong quan niệm về vật
chất của CN duy vật trước Mác ? (Chương II)
Trả lời : nội dung trang 122,123
* Quan điểm trước Mác
- Xuất hiện khoảng 2500 năm trước.
- Theo chủ nghĩa duy tâm: Vật chất là sản phẩm của tinh thần.
- Các nhà duy vật cổ đại đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của nó
VD: Vật chất là nước, là đất, đá,…
Talet quan niệm VC là nước, Heraclit quan niệm vạt chất là lửa, Anaxinien quan niệm Vc
là không khí, Dêmôclit qaun niệm vật chất bắt nguồn từ nguyên tử.
- Các nhà duy vật cận đại <siêu hình> có quan điểm giống các nhà dv cổ đại nhưng đồng
nhất vật chất với kim loại
 Qđ duy vật trước Mác đều có những hạn chế và sai lầm nhất định

 Đồng nhất vật chất với vật thể


 Ko hiểu bản chất ý thức, mqh giữa vc với ý thức
 Ko áp dụng đc qđ duy vật để giải quyết các vấn đề XH
->Điều này làm cho CNDT thắng thế -> Các nhà khoa học bị khủng hoảng thế giới quan
Câu 4 :Phương thức, hình thức tồn tại của vật chất?

Phương thức tồn tại của vật chất: Vận động

Hình thức tồn tại của vật chất: Không gian và thời gian

Câu 5 : Trong 2 nguồn gốc thì nguồn gốc nào quyết định sự ra đời ý thức đối với xã hội ?II
Trả lời :
Nêu 2 nguồn gốc (Tự nhiên và xã hội) Phần 2a/trang 22.
Kết luận: Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức
là lao động và thực tiễn xã hội . Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Câu 6: Trong 2 nguồn gốc của ý thức, nguồn gốc xã hội giữ vai trò quyết định sự ra đời của
ý thức. Vì sao nói ý thức không chỉ phản ánh thế giới mà còn sáng tạo ra thế giới (Chứng
minh bằng lí luận thực tiễn) ?

 Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc của con người, phản ánh thế
giới vật chất xung quanh; hình thành, phát triển trong quá trình lao động và định hình thể
hiện bằng ngôn ngữ. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
 Ý thức con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội:
 Nguồn gốc tự nhiên:

+ Ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà
chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.

+ Ý thức không tự sinh ra trong bộ óc người mà là kết quả phản ánh sự tác động của
thế giới bên ngoài vào bộ não người. Bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác
động lên bộ óc chính là nguồn gốc tự nhiên của ý thức

 Nguồn gốc xã hội:

+ Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và
những quan hệ xã hội. Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội.

+ Trong quá trình lao động đã xuất hiện ngôn ngữ của con người. Ngôn ngữ là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này thì ý
thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ là cái bỏ vật chất tư duy, là hiện
thực trực tiếp của tư tưởng.

 Về bản chất của ý thức: Các Mác đã chỉ ra rằng ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được di
chuyển vào bộ óc của con người và được cải biến đi ở trong đó. Như vậy bản chất của ý
thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Có nghĩa là nội dung dung của ý
thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng khi phản ánh thì nó mang dấu ấn chủ
quan của con người.
 Ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào óc người nhưng đó là phản ảnh
sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở
những cái đã có, ý thức có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạp ra những
huyền thoại, những giả thiết…
 Phản ánh của ý thức là tích cực. chủ động: con người trên cơ sở hoạt động thực
tiễn, chủ động tác động vào sự vật hiện tượng làm cho chúng bộc lộ tính chất,
thuộc tính, đặc điểm dẫn đến hiểu biết vận dụng tri thức để nhận thức và cải tạo
thế giới khách quan.
 Ý thức mang bản chất xã hội
Khi thừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, quyết định ý thức thì
sự nhận thức thế giới không thể xuất phát từ ý thức con người, mà phải xuất phát từ
thế giới khách quan. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo các
quy luật khác quan. Leenin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng không được lấy ý muốn chủ
quan của mình làm chính sách, lấy ý chí áp đặt cho thực tế vì như vậy sẽ mắc phải
bệnh chủ quan duy ý chí. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật đồng thời vạch rõ sự tác động
trở lại vô cùng to lớn của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều đó
sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm thường và bệnh bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và
hành động. nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý
thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện
tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. nghịa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những qu luật dó, phải có ý
chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt
động của con người, có thể quyết định làm cho con người quyết định đúng hay sai,
thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Do đó, con
người càng phản ánh đầy đủ chính xác thế giới khách quan thì càng tạo thế giới có
hiệu quả. “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo
thế giới”

Câu 7: Cơ sở lí luận của quan điểm khách quan ?


Trả lời :
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Phần 3/trang 24,25
Câu 8 :Vì sao nói sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặt của Cách mạng trong lịch sử ?

1. Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời triết học Mác

Triết học Mác không phải là một sản phẩm có tính chất chủ quan, đồng thời nó cũng
không phải từ trên trời rơi xuống. Triết học đó là sản phẩm tất yếu của lịch sử.

- Triết học Mác đã kế thừa có phê phán toàn bộ triết học trước đó nhất là triết học duy
vật và phép biện chứng. Đó là những tiền đề lý luận không thể thiếu được của triết
học Mác.
- Triết học Mác ra đời còn gắn liền với những điều kiện khách quan của sự phát triển
kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học đương thời. Trong khoa học tự nhiên
thế kỷ XIX đã có ba phát minh lớn: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; học
thuyết tế bào; học thuyết tiến hoá. Đồng thời về mặt xã hội thế kỷ XIX cũng là thời
kỳ chủ nghĩa tư bản đã bộc lộ những mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Đặc biệt là mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn ấy được biểu hiện thông qua các
cuộc đấu tranh giai cấp hết sức sôi động và quyết liệt ở châu Âu. Trước tình hình trên,
cần phải có một sự kiến giải mới về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Và
tất yếu xuất hiện một học thuyết mới đó là học thuyết triết học khoa học, do Mác và
Ăngghen đề xướng, sau này được Lênin phát triển.
2. Sự ra đời của triết học Mác - Lênin là một bước ngoặt cách mạng trong triết học
Cơ sở của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Với cơ sở này, lần đầu tiên giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã có một vũ khí
tinh thần để đấu tranh giải phóng giai cấp mình và cả xã hội ra khỏi sự áp bức bóc lột.
Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là
lực lượng "vật chất" của triết học Mác. Sự thống nhất chặt chẽ giữa triết học Mác với
giai cấp vô sản, làm cho triết học Mác thực sự thể hiện tính cách mạng của mình và
giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là lật đổ xã hội cũ, từng bước xây
dựng một xã hội mới.
- Khác với tất cả các hệ thống triết học trước đó, triết học Mác đã chỉ ra vai trò quyết
định của hoạt động thực tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và trong nhận thức.
Nếu không hiểu đúng vai trò của thực tiễn, nhất là thực tiễn sản xuất xã hội, thì tất
yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục
đích của nhận thức, là nơi mà lý luận hướng đến để giải thích và cải tạo thế giới. Mác
đã cho rằng: "Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới". Tất nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của
hoạt động thực tiễn, Mác và Ăngghen không coi nhẹ vai trò của lý luận. Các ông cho
rằng, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng, sẽ trở thành lực lượng vật chất vô
cùng to lớn. - Bước ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa Mác thực hiện là đã
đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử. Trước Mác, các nhà triết học hiểu sự phát triển
của xã hội một cách duy tâm - coi động lực phát triển của xã hội là ở trong ý thức,
tinh thần của con người. Đối lập với quan điểm trên, Mác, Ăngghen đã giải quyết
đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trong đời sống xã hội; không phải ý thức xã hội
quyết định tồn tại xã hội, mà ngược lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự phát
triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên nhân vật chất, chứ không phụ thuộc vào ý thức
của con người; sự phát triển của xã hội mang tính quy luật, là quá trình lịch sử tự
nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các hình thái kinh tế - xã
hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập với ý chí và ý thức của con người;
trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sáng tạo ra lịch
sử... Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen
đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của
nó với các khoa học khác. Triết học Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương
pháp luận của các khoa học cụ thể. Các tri thức của các khoa học cụ thể là cơ sở để cụ
thể hoá và phát triển triết học Mác. Lênin đã bảo vệ và tiếp tục phát triển triết học
Mác trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông
cho rằng, đây là thời kỳ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, và
ông đã trực tiếp lãnh đạo, thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Lúc này,
khoa học có nhiều phát minh lớn, nhất là trong vật lý học, Lênin đã khái quát những
thành tựu của khoa học, phát triển hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.

Câu 9: Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện ?


Trả lời :
Nêu nội dung của nguyên lí về mối liên hệ phổ biến (Phần 2a dấu chấm thứ 2/trang 27,28)
Câu 10: Cơ sở lí luận của quan điểm phát triển? Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc
phục được những hạn chế gì trong hoạt ñộng nhận thức và hoạt ñộng thực tiễn

Nguyên lý về sự phát triển: 28 29


Khắc phục:
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục
ñược quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt ñộng thực tiễn và nhận thức của chính
mình.
- Quan ñiểm phát triển mâu thuẫn với sự trì trệ, bảo thủ trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn.
- Nguyên tắc phát triển đòi hỏi chủ thể phải sử dụng các nguyên tắc khác kèm theo
mới làm sáng tỏ bản tính vận động và phát triển tự thân của sự vật như nguyên tắc
(phân tích) mâu thuẩn, nguyên tắc tích lượng-chất, nguyên tắc phủ định biện chứng,

Câu 11: Cơ sở lí luận của quan điểm lịch sử cụ thể ?


Trả lời :
Nêu nội dung 2 nguyên lí (NL về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển) Phần 2 trang
27,28,29.

Câu 12 : Quy luật lượng chất vạch ra ý thức của sự phát triển ?
Trả lời :Nội dung Phần a,b,c trang 37,38,39.

Câu 13 :Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự phát triển ?
Trả lời :
Nêu nội dung a b c trang 39,40,41,42

Câu 14: Quy luật Phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển?
Trả lời:
Nêu nội dung a b c trang 42,43,44.

Câu 15: Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của
sự nhận thức hiện thực khách quan.
Trả lời:
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực
khách quan.
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức là phản ánh đúng
đắn đối với hiệt thực khách quan) là một quá trình. Đó lá quá trình bắt đầu từ "trực quan sinh
động" (nhận thức cảm tính) tiến đến "tư duy trừu tượng" (nhận thức lý tính). Nhưng những sự
trừu tượng đó không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp
tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính
đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính là quy
luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận thức
mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật,
hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu hiện phong phú của nó trong mối
quan hệ với sự quan sát của con người. Ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ phản ánh được cái
hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh
được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính
là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba
hình thức cơ bản là: cám giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn giản
nhất của các quá trình nhận thức, nhưng nếu không có nó thì sẽ không thể có bất cứ nhận thức
nào về sự vật, hiện tượng khách quan. Mỗi cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách
quan đều có một nội dung khách quan, mặc dù nó thuộc về sự phản ánh chủ quan của con người.
Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật, hiện
tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp những cảm
giác về sự vật, hiện tượng. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn,
phong phú hơn, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những biểu hiện bên ngoài của sự vật,
hiện tượng khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật khách quan.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã được phản ánh bởi
cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức lạp nhất của giai đoạn nhận thức
cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên nhận thức
lý tính. Đặc điểm của biểu tượng là có khả năng tái hiện những hình ảnh mang tính chất biểu
trưng về sự vật, hiện tượng khách quan, nó có tính chất liên tưởng về hình thức bên ngoài, bởi
thế nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng hóa về sự vật, hiện tượng. Đó là tiền đề của
những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận thức lý tính.
Tuy nhiên, ở giai đoạn cảm tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật
khách quan để nhờ đó nhận thức có thể lý giải được đúng đắn các sự vật, hiện tượng được phản
ánh trong giai đoạn nhận thức cảm tính, có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận thức phục vụ
hoại động thực tiễn, nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới khách quan.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp,
trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện tượng khách
quan, Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái
bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua
ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất của
sự vật, hiện tượng. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các
đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở hình
thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự vật, hiện tượng khách quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông qua việc liên kết
các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính
nào đó của đối tượng nhận thức.Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm
ba loại: phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là
hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
-   Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn Nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế, chúng thường
diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức, song chúng có những chức năng và
nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách
thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có
thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng
giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về
đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa
thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực
hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực
tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình
nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại
phục vụ thực tiễn..
 Chân lý và vai trò của chân lý đối với thực tiễn
- Khái niệm chân lý
Mọi quá trình nhận thức đều dẫn tới sự sáng tạo ra những tri thức, tức những hiểu biết của con
người về thực tại khách quan, nhưng không phải mọi tri thức đều có nội dung phù hợp với thực
tại khách quan, bởi vì nhận thức thuộc về sự phản ánh của con người đối với thực tại khách quan
đó. Thực tế lịch sử nhận thức của toàn nhân loại cũng như của mỗi con người đã chứng minh
rằng, những tri thức mà con người đã và đang đạt được không phải bao giờ cũng phù hợp với
thực tế khách quan; trái lại, có rất nhiều trường hợp không phù hợp, thậm chí hoàn toàn đối lập
với thực tế khách quan.
Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm chân lý được dùng để
chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan; sự phù hợp đó được kiểm tra và
chứng minh bởi thực tiễn.
Theo nghĩa đó, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức, cũng không đồng
nhất với khái niệm giả thuyết. Đồng thời, chân lý cũng là một quá trình. Theo V.I.Lênin: "Sự phù
hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình dung
chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ
mờ), không khuynh hướng, không vận động" .
- Các tính chất của chân lý
Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý chí chủ
quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế khách quan chứ không phải
ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm
thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận
thức; trái lại nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.Khẳng
định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt quan niệm về chân lý
của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri - là những học
thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất và phủ nhận khả năng con người
nhận thức được thế giới đó.
Chân lý không chỉ có tính khách quan mà còn có tính tuyệt đối và tính tương đối. Tính tuyệt
đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với
hiện thực khách quan về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế
giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể
nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn
chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều
kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượngđược phản ánh. Do đó, chân lý có tính
tương đối.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện
chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tuơng đối. Mặt khác, trong
mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối.
V.I.Lênin viết: "Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát
triển; chân lý tương đối là những phản ảnh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập đối
với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là
có tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối"
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối
của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan
trong nhận thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính
tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ.
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó
sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy
biện, thuyết hoài nghi và thuyết bẩt khả tri.
Ngoài tính khách quan, tính tuyệt đối và tính tương đối, chân lý còn có tính cụ thể. Tính cụ thể
của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định
cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ
cũng có một nội dung cụ thể, xác định. Nội dung đó không phái là sự trừu tượng thuần túy, thoát
ly hiện thực mà nó luôn luôn gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian,
thời gian hay một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân
lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử - cụ thể, tức là có tính cụ thể. Nếu thoát ly
những điều kiện lịch sử - cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ
rơi vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế, nó không phải là những tri thức đúng đắn và không được
coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, V.I.Lênin đã khẳng định: "không có chân ly trừu
tượng", "chân lý luôn luôn là cụ thể". Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có
một ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hoại động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó
đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi việc làm của con người phải dựa trên
quan điểm lịch sử - cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử - cụ thể mà vận dụng những
lý luận chung cho phù hợp. Theo V.I.Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân
tích cụ thế mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách
quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm cụ thể nhất định.
- Vai trò của chân lý đối với thực tiễn
Để sinh tồn và phát triển, con người phải tiến hành những hoạt động thực tiễn. Đó là các hoạt
động cải biến môi trường tự nhiên và xã hội đồng thời cũng qua đó con người thực hiện một cách
tự giác hay không tự giác quá trình hoàn thiện và phát triển chính bản thân mình. Chính quá trình
này đã làm phát sinh và phát triển hoạt động nhận thức của con người. Hoạt động thực tiễn chỉ
có thể thành công và có hiệu quả một khi con người vận dụng được những tri thức đúng đắn về
thực tế khách quan trong chính hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, chân lỷ là một trong những
điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công và tính hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
Coi trọng tri thức khoa học và tích cực vận dụng sáng tạo những tri thức đó vào trong các hoạt
động kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của những hoạt động đó về thực chất cũng chính là phát
huy vai trò của chân lý khoa học trong thực tiễn hiện nay.

Câu 16: Giải thích vì sao chân lí tuyệt đối = tổng vô hạn chân lí tương đối.

Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản
ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến tính
tuyệt đối của chân lý (chân lý tuyệt đối). Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn
tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được.
Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả năng đó lại bị hạn chế bởi
những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định về không
gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý lại có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là giữa
nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng
bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự
thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các
tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết: "Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là những
phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản
ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương
đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối".
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính
tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình,
chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối
của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối.
Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài
nghi và không thể biết.
Câu 17:Theo quan điểm CNDV lịch sử yếu tố nào phát triển cuộc sống loài người?
Trả lời: Yếu tố Sản xuất vật chất. Chép thêm nội dung 1,2 trang 155,156.

Câu 18: Phân tích kết cấu của lực lượng sản xuất. Tại sao nói trong thời đại ngày nay, khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ?

 Lực lượng sản xuất:


 Kết cấu của lực lượng sản xuất:

Lực lượng
sản xuất

Tư liệu sản
Người lao xuất
động

Đối tượng
Tư liệu lao
lao động
động

Công cụ lao Phương tiện


động lao động

+ Người lao động: là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và
năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là
chủ thể sáng tạo, đồng thời là chủ thể tiêu dùng của cải vật chất xã hội. Đây là
nguồi lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.
+ Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất bao gồm:
o Đối tượng lao động: là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người
dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với
mục đích sử dụng của mình.
o Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà con người dựa
vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao
động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Bao gồm
công cụ lao động và phương tiện lao động.
 Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là do
những thành tựu khoa học đã được áp dụng trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất vật chất.
Nghĩa là khoa học đã được vật chất hóa vào các yếu tố của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn
như nhờ các nghiên cứu cải tiên khoa học kỹ thuật mà các công cụ lao động ngày càng
được cải tiến đem lại năng suất lao động cao hơn, người lao động cũng càng ngày càng
có điều kiện để tiếp cận với những tri thức khoa học mới để góp phần tạo ra những dạng
sản phẩm mới.
VD: Từ những nghiên cứu khoa học, rất nhiều những loại vật liệu mới, những ngành sản
xuất mới ra đời, góp phần đáp ứng ngày càng tối hơn nhu cầu của con người…
 Khoa học kỹ thuật và sản xuất gắn bó với nhau, tác động nhau, hỗ trợ nhau cùng
phát triển. Sản xuất đặt ra những yêu cầu đòi hỏi khoa học kỹ thuật phải nghiên
cứu, giải quyết để thúc đẩy sản xuất.

Và như thế, tri thức khoa học được kết tinh, thẩm thấu vào người lao động , người lao động, vào
công cụ lao động và đối tượng lao động. Sự phát triển của khoa học đã kích thích sự phát triển
năng lực làm chủ sản xuất của con người.

Câu 19: Trong tất cả các yếu tố cấu thành yếu tố nào đậm chất cách mạng nhất?

Trả lời: Yếu tố con người.

Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản phổ biến nhất chi phối vận động phát triển xã hội ?

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: 61 – 62

Câu 21: Quy luật nào phản ánh kinh tế và chính trị ?

Trả lời: Phân tích MQH biện chứng của CSHT và KTTT và ý nghĩa …: trang 160,161,162,

Câu 22: Vì sao nói sự phát triển của hình thái KT-XH là một quá trình Lịch sử - tự nhiên ?

Là nội dung Câu 15: 162 – 163

Câu 23: Giai cấp nào nắm trong tay kinh tế, tư liệu sản xuất ?

 Để phát huy nguồn lực con người, cần phải:

Câu 24: Trình bày mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn. Vận dụng mối quan hệ này vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau.
a. Thực tiễn là cơ sở, là ñộng lực, là mục ñích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận
hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng ñược yêu cầu thực tiễn.
+ Thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên đầu tiên bằng
hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc lộ những
thuộc tính, quy luật để từ đó con người nhận thức chúng. Ban đầu con người nhận
thức bằng những tài liệu cảm tính, qua quá trình phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
…để phản ánh bản chất quy luật vận động của sự vật hiện tượng trong thế giới từ
đó xây dựng thành một môn khoa học lý luận Thực tiễn cung cấp những tài liệu cho
nhận thức, lý luận. Với CN Mác, thực tiễn trước hết là hoạt động sản xuất vật chất
vì nó là cơ sở sinh sống của con người; lý luận xuất hiện trên cơ sở của thực tiễn, là
kết quả tổng kết kinh nghiệm của quần chúng, không có thực tiễn thì không có và
không thể có lý luận khoa học. Lý luận khoa học không phải là những hiện tượng
độc lập, mà chỉ có những lý luận nào gắn với thực tiễn, phục vụ nhu cầu của thực
tiễn và ñược thực tiễn kiểm tra thì mới bắt rễ sâu xa trong đời sống.
+ Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề
đòi hỏi lý luận phải hoàn thiện chính mình ñể bao quát và giải quyết tốt các vấn đề
do thực tiễn đặt ra. Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và
sâu sắc hơn.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem
lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn
đã giúp cho lý luận hoàn thành ñược mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ
đạo thực tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ ñược coi là chân lý khi nó
phù hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó ñược thực tiễn
kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ ñược bổ sung
vào kho tàng tri thức nhân loại.; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn sẽ tiếp tục
điều chỉnh , bổ sung hoặc nhận thức lại.
+ Thừa nhận thực tiễn là chân lý, cần chú ý những vấn đề: Thực tiễn là chân lý của
lý luận khi thực tiễn đạt ñến tính toàn vẹn của nó. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát
triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó thì lý luận có thể xa
rời thực tiễn. Ngoài tiêu chuẩn thực tiễn, còn có những tiêu chuẩn khác: logic, tiêu
chuẩn giá trị…nhưng những tiêu chuẩn này vẫn trên nền tảng thực tiễn. Cần hiểu
thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận một cách biện chứng, tiêu chuẩn này vừa
có tính tuyệt đối (vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm lý luận) vừa
có tính tương đối (vì thực tiễn không ñứng nguyên một chỗ, mà biến ñổi và phát
triển). + Với việc phân tích vai trò của thực tiễn với lý luận, đòi hỏi chúng ta phải
quán triệt quan điểm thực tiễn: xây dựng lý luận phải xuất phát từ thực tiễn , dựa
trên cơ sở thực tiễn, nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới lý luận suông.
b. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực
tiễn. Thực tiễn phải ñược chỉ đạo bởi lý luận.
+ Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường. Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt động thực tiễn của con người mới trở
thành tự giác , đạt ñược mục đích mong muốn. Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý
luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp
thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển của các mối quan hệ thực
tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy ra. Lý luận còn là cơ sở để khắc phục
những hạn chế hiểu biết của con người, tăng năng lực hoạt ñộng, có vai trò giác ngộ
mục tiêu lý tưởng của con người, liên kết các cá nhân thành cộng đồng.
+ Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận
dụng lý luận máy móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị
của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu
giữa lý luận và thực tiễn
+ Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
+ Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết ñiểm của lý
luận hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Câu 25: Trình bày quan điểm cơ bản của triết học Mác – Lênin về dân tộc và nêu ý nghĩa của
việc nghiên cứu vấn đề này đối với công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc ở nước ta hiện nay.
(Cac ban co the chep o trang 177 đen 184 cua sach nhe. Vi qua dai nen tui luoc ra)
 Quan điểm về dân tộc:
 Các hình thức hình thành cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc:
+ Thị tộc: là một sự phát triển của “bầy người nguyên thủy”, là một thiết chế chung
cho tất cả các dân dã, cho tận đến khi họ bươc vào thời đại văn minh, và thậm chí còn
sâu hơn nữa. Thị tộc vừa là thiết chế xã hội đầu tiên, vừa là hình thức cộng đồng
người sớm nhất của loài người.
+ Bộ lạc: là cộng đồng bao gồm những thị tộc có quan hệ cùng huyết thống hoặc các
thị tộc có quan hệ hôn nhân liên kết với nhau. Một thị tộc đã được coi là một đơn vị
cơ sở của xã hội, thì toàn bộ chế độ thị tộc, bào tộc Và bộ lạc đều phát triển từ cái đơn
bị ấy với một sự tất yếu hầu như không thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là điều hoàn toàn
tự nhiên.
+ Bộ tộc: là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân chia giai
cấp. Các bộ tộc được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc sống trên một lãnh thổ
nhất định. Bộ tộc là sự liên kết của nhiều bộ lạc không cùng huyết thống. Với sự ra
đời của bộ tộc, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại có một hình thức cộng đồng người
hình thành không theo huyết thống mà dựa trên những mối liên hệ về kinh tế, về lãnh
thổ và văn hóa mặc dù những mối liên hệ đó còn chưa thực sự phát triển.
 Dân tộc – hình thức cộng động người phổ biến hiện nay:
- Dân tộc là một cộng đồng người ổn định được hình thành trong lịch sử trên cơ sở
một lãnh thổ thống nhất một ngôn ngữ thống nhất, một nền kinh tế thống nhất,
một nền văn hóa và tâm lý tính cách thống nhất, với một nhà nước và pháp luật
thống nhất.
- Dân tộc có đặc trưng chủ yếu sau:
+ Dân tộc là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất. Mỗi dân
tộc có một lãnh thổ
+ Dân tộc là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
+ Dân tộc là cộng đồng thống nhất về kinh tế.
+ Dân tộc là một cộng đồng bên vững về văn hóa và tâm lý.
+ Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam

You might also like