You are on page 1of 8

Hãy trình bày nguồn gốc ra đời của TH?

Vì sao TH xuất hiện vào khoảng thế kỷ 8


trước công nguyên mà không xuất hiện sớm hoặc muộn hơn?

Nguồn gốc của triết học: Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời
ở cả Phương Đông và Phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ VI tr.CN) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời Cổ đại. Triết học ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức về thế giới của con người. Triết học chỉ xuất hiện khi
những kho tàng tri thức của loài người đã hình thành được một vốn hiểu biết nhất định. Trên
cơ sở đó, những tri thức riêng lẻ về thế giới phải được tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát
hóa thành những khái niệm, phạm trù, quan điểm, quy luật, học thuyết… đủ sức phổ quát để
giải thích thế giới. Triết học chỉ ra đời khi xã hội loài người đã đạt đến một trình độ tương đối
cao của sản xuất ra hội, phân công lao động xã hội hình thành, có của cải dư thừa, tư hữu
hóa về tư liệu sản xuất, sự phân hóa giai cấp lao động, nhà nước ra đời. Tầng lớp trí thức
xuất hiện, có điều kiện và nhu cầu và nghiên cứu, có năng lực hệ thống hóa các quan niệm,
quan điểm hình thành học thuyết, lý luận. Những người xuất sắc trong tầng lớp này được xã
hội công nhận là các nhà thông thái, các triết gia.

TH xuất hiện vào khoảng thế kỷ 8 trước công nguyên vì:

- Phát triển xã hội và văn minh: Triết học xuất hiện khi xã hội đạt đến một trình độ cao
trong sản xuất xã hội, có sự phân công lao động, và giai cấp phân hóa rõ rệt. Sự
hiện diện của giai cấp và sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội khác nhau tạo điều
kiện cho sự xuất hiện của tư duy triết học.
- Nhu cầu nhận thức của con người: Sự xuất hiện của triết học được liên kết với nhu
cầu tự nhiên, khách quan của con người trong việc hiểu biết thế giới xung quanh và
giải thích những hiện tượng bí ẩn.
- Sự phát triển của tri thức cụ thể: Trước khi triết học ra đời, có sự phát triển của tri
thức cụ thể và riêng lẻ về thế giới. Các tri thức này được hệ thống hóa và trừu tượng
hóa thành những khái niệm và lý luận bởi các nhà triết học, người đã có khả năng hệ
thống hóa và khái quát thông tin.
- Sự xuất hiện của tầng lớp trí thức: Việc xuất hiện của tầng lớp trí thức, những người
quan tâm đến giáo dục và nghiên cứu, là một yếu tố quan trọng. Nhà trường và hoạt
động giáo dục cung cấp môi trường cho sự phát triển của triết học.
- Phân chia giai cấp và nạn áp bức: Sự xuất hiện của giai cấp và sự nạn áp bức giữa
các giai cấp đã tạo nên môi trường đặc biệt cho sự xuất hiện của tư duy triết học,
trong việc phản ánh và đối thoại với tình hình xã hội.
- Sự phân hóa về tri thức và lao động trí óc: Sự phân hóa giữa lao động trí óc và lao
động chân tay đã tạo điều kiện cho sự phát triển của tri thức trừu tượng, khái quát
trong xã hội.

Câu 1: Em hãy cho biết Lê nin đã giải quyết mặt thứ 1 và 2 của Triết học như thế nào?

Phân tích định nghĩa về mặt vật chất:

Chủ nghĩa Marx-Lenin giải thích mặt vật chất thông qua quan điểm lịch sử về sự phát triển
xã hội. Theo họ, mặt vật chất không chỉ là những thực thể vật lý, mà còn bao gồm cả quan
hệ sản xuất và cơ sở hạ tầng xã hội. Cơ sở hạ tầng bao gồm các phương tiện sản xuất và
các quan hệ sản xuất giữa các tầng lớp xã hội.
Lê Nin có thể theo đuổi một quan điểm tương tự, nhấn mạnh về vai trò quyết định của cơ sở
hạ tầng và quan hệ sản xuất trong việc định hình xã hội. Ông có thể xem xét mặt vật chất từ
góc độ của lịch sử phát triển xã hội và sự biến động của quan hệ sản xuất.

Mặt thứ 1 và thứ 2:

Mặt thứ 1 và thứ 2 thường được đề cập đến trong triết học Marx-Lenin để mô tả hai mặt của
mỗi hiện thực xã hội. Mặt thứ 1 là mặt đối tượng, nơi các yếu tố vật chất như sản xuất, công
nghiệp, và quan hệ xã hội được quan tâm. Mặt thứ 2 là mặt chủ thể, liên quan đến ý thức,
văn hóa, tư duy và các yếu tố phi vật chất.

Lê Nin có thể áp dụng cách tiếp cận này để phân tích xã hội Việt Nam. Mặt thứ 1 có thể liên
quan đến sự phát triển kinh tế, công nghiệp, và cơ sở hạ tầng. Mặt thứ 2 có thể liên quan
đến ý thức xã hội, văn hóa, và tư tưởng. Ông có thể thấy sự tương tác giữa hai mặt này và
cách chúng định hình nhau trong quá trình phát triển xã hội.

Câu 2: Hãy trình bày khái niệm triết học. Phân tích đặc trưng của tri thức triết học. Tri
thức triết học giống và khác với tri thức các môn học khác thế nào?

1. Khái niệm triết học dựa trên triết học Marx-Lenin:

Triết học, theo quan điểm của Marx-Lenin, không chỉ là một phương pháp nghệ thuật hoặc
một hệ thống ý thức, mà là một công cụ phân tích để hiểu về thế giới, đặc biệt là để hiểu về
xã hội và con người. Nó không chỉ là việc giải quyết các vấn đề tri thức mà còn liên quan
chặt chẽ đến việc thay đổi thế giới.

2. Đặc trưng của tri thức triết học:

Tiếp cận Tổng quan và Hiện thực: Triết học hướng tới việc đưa ra cái nhìn tổng quan về thế
giới, không chỉ tập trung vào các sự kiện cụ thể mà còn đề cập đến nguyên tắc và luật lý tự
nhiên và xã hội.

Nghiên cứu Về Cơ sở Hạ tầng và Quan hệ Sản xuất: Triết học Marx-Lenin đặt nặng mối liên
kết giữa tri thức và cơ sở hạ tầng xã hội, giữa ý thức và quan hệ sản xuất. Nó quan tâm đến
những lực lượng chủ yếu định hình xã hội và sự biến động của chúng.

Hướng Đến Sự Thay Đổi Xã Hội: Mục tiêu cuối cùng của triết học Marx-Lenin là không chỉ
hiểu thế giới mà còn thay đổi nó. Triết học không chỉ là để giải quyết các vấn đề mà còn để
làm thay đổi thế giới, thường thông qua hành động cách mạng và cải cách xã hội.

3. Sự Giống và Khác Nhau Giữa Tri thức Triết học và Tri thức Các Môn Học Khác:

Giống Nhau:

Cả triết học và các môn học khác đều hướng đến việc hiểu biết và giải thích thế giới xung
quanh.

Cả hai đều sử dụng phương pháp nghiên cứu và phân tích để đạt được kiến thức.

Khác Biệt:
Mục Tiêu Cuối Cùng: Triết học có mục tiêu cuối cùng là làm thay đổi thế giới, trong khi nhiều
môn học khác thường tập trung vào việc tích lũy kiến thức mà không nhất thiết muốn thay
đổi thế giới.

Phương Pháp và Phạm Vi Nghiên Cứu: Triết học thường sử dụng phương pháp lịch
sử-dialectic và nghiên cứu về cơ sở hạ tầng và quan hệ sản xuất. Trong khi đó, các môn
học khác có thể sử dụng các phương pháp và phạm vi nghiên cứu khác nhau tùy thuộc vào
chủ đề cụ thể.

Tóm lại, triết học theo quan điểm Marx-Lenin không chỉ là một hệ thống tri thức mà còn là
một công cụ để hiểu và thay đổi thế giới xã hội. Nó đặc trưng bởi sự liên kết chặt chẽ giữa tri
thức và thực tế xã hội, và mục tiêu cuối cùng là hướng đến sự thay đổi xã hội.

Anh chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối
quan hệ này đối với bản thân?

- Vật chất: Theo Lênin. “ là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.

- Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực
khách quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.

· Vật chất quyết định ý thức.

Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh sau:

- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức:

Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thửc - một thuộc tính
của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa
học tự nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật
chất là cái có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính
thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ
óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý
thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản
ánh hiện thực khách quan.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức:
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực
khách quan vào trong đầu óc con người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là
hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung
mà ý thức phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là
động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy,
ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức:
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng
sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm
lý” như con vật mà lả phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực
tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành,
phát triển ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động và phát triển:

Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất;vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh
vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một
hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh
VD: Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của
họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phát triển của sản xuất,
tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người
ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả
những vấn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khải quát ngày
càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng
khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển
riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức có thể thay đổi
nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chúng nó thường
thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi
những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai”
phục vụ cho cuộc sống của con người. Con người dựa trên những tri thức về
thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục
tiêu, phương hướng, bỉện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục
tiêu đã xác định.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động
của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng
hay sai, thanh công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ỷ thức có thể
dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên
những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào
quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo,
từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác
động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực. Ý thức tác động
lại vật chất thì nó phát huy tính năng động sáng tạo.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của thức ngày càng to lớn, nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc
dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề
vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ
quan của các chủ thể hoạt động.
VD: Sau khi hiểu được tính chất vật lí của thép nóng chảy ở 1000 C , người ta đã
tạo ⁰ra các nhà máy sản xuất gang thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương
pháp thủ công cổ xưa
● Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận
thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ
nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất
phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri
thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi
ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
Đối với bản thân:
- Đầu tiên, vì vật chất quyết định ý thức nên nhận thức và hoạt động của tôi phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Bản thân tôi phải nhận thức được các điều kiện thực
tiễn ảnh hưởng đến học tập, cuộc sống của mình để tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan.
Ví dụ: Trong học tập, tôi cần phải xác định được nội quy trường học, giờ học, thời khóa
biểu, những yếu tố thực tế để có ý thức chấp hành đúng quy định, tham gia các tiết học đầy
đủ và hoàn thành các nhiệm vụ giảng viên đề ra.
Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tôi nhận thức được sự nguy hiểm
của dịch bệnh để thực hiện các phương pháp phòng tránh dịch, tuân thủ quy tắc 5K, ở yên
tại nhà để bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Thứ hai, ý thức cũng có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính
năng động, sáng tạo của ý thức. Tôi phải chủ động tìm kiếm và trau dồi tri thức cho
bản thân mình, bồi dưỡng những kỹ năng cần thiết cho bản thân, không quá phụ
thuộc vào người khác mà phải tự phát huy tính sáng tạo, suy nghĩ mới lạ.
Ví dụ: Trước mỗi giờ học, tôi phải chủ động xem trước giáo trình của ngày hôm đó để đánh
dấu những chỗ mình vẫn chưa hiểu. Trong giờ học tôi thường xuyên tích cực phát biểu và
thảo luận để hiểu rõ hơn bài học. Sau giờ học tôi sẽ tìm thêm bài tập và tài liệu để luyện tập
thêm, trau dồi thêm kiến thức. Ngoài ra để cải thiện kỹ năng mềm tôi cũng tích cực tham gia
các hoạt động ngoại khóa, các phong trào của các tổ chức xã hội.Không chỉ bồi dưỡng kiến
thức, tôi còn cố gắng rèn luyện đạo đức, phẩm chất của mình qua việc đọc sách, tập yoga,
tham gia các buổi trao đổi, thảo luận.
- Thứ ba, tôi phải tiếp thu chọn lọc các ý kiến mới, không để bản thân thụ động, bảo
thủ,không chủ quan trước mọi tình huống.
Ví dụ: Khi tham gia thảo luận nhóm, tôi sẽ lắng nghe và tiếp thu những điều hay mà các
thành viên góp ý cho mình để hoàn thành công việc theo kế hoạch. Hay khi đăng ký học
phần, tôi không chủ quan vào năng lực của mình mà đăng ký quá nhiều môn tránh cho bản
thân không kham nổi.Trong cuộc sống, trước khi đánh giá một người nào đó, tôi phải tiếp
xúc với người đó và lắng nghe những đánh giá của những người xung quanh về người đó,
không thể chủ quan “trông mặt mà bắt hình dong”, không thể chỉ dựa vào cảm xúc cá nhân
mà đánh giá người đó.
Note: Quy luật lượng và chất
QUY LUẬT LƯỢNG-CHẤT *Sự giống và khác nhau của chất và lượng - Giống: Đều
dùng để chỉ những thuộc tính khách quan vốn có của sự vật hiện tượng

- Khác

+ Lượng: chỉ về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ

+ Chất: là cái làm cho sự vật hiện tượng là nó chứ không phải là cái khác

+ Lượng thì thường xuyên biến đổi còn chất thì tương đối ổn định hơn QUAN
TRỌNG

*Vai trò của quy luật: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật chỉ ra cách thức, phương thức
chung nhất của sự vận động, phát triển.

*Sự giống và khác nhau của độ và điểm nút

- Giống: cùng có sự tích lũy, thay đổi về lượng - Khác: + Độ: Một khoảng giới hạn,
lượng đổi, chất chưa đổi (sự thay đổi về lượng chưa đủ làm thay đổi về chất)

+ Điểm nút: Một điểm giới hạn, lượng đổi, chất đổi

*Ca dao tục ngữ:

Đề thi: Anh chị hãy cho biết câu ca dao tục ngữ sau đây là sự vận dụng của quy luật
nào? Hãy phân tích nội dung của quy luật? - Tích tiểu thành đại - Có công mài
sắt có ngày nên kim - Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao - Góp gió thành bão - Có chí thì nên

*Bước nhảy - Căn cứ vào phạm vi, quy mô + Cục bộ + Toàn bộ vd: Cách mạng
tháng 8 là tổng khởi nghĩa (bước nhảy toàn bộ) cho 3 cuộc diễn tập trước đó (3
bước nhảy cục bộ), đồng thời lại là bước nhảy cục bộ cho Cuộc đại thắng mùa
xuân sau đó…

- Căn cứ vào nhịp điệu + Đột biến + Dần dần *Khuynh hướng hữu khuynh, tả
khuynh Không nóng vội, bảo thủ
Anh chị hãy phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức. Từ đó hãy rút ra ý nghĩa đối
với hoạt động nhận thức của bản thân

- Nguồn gốc

Theo triết học Marx-Lenin, nguồn gốc của ý thức xuất phát từ cơ sở hạ tầng xã hội, đặc biệt
là từ quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm cách mà con người sản xuất và trao đổi
hàng hóa trong xã hội. Nguồn gốc của ý thức không nằm ở tâm trí cá nhân mà là sản phẩm
của một hệ thống xã hội cụ thể.

Như Marx-Lenin mô tả, trong quá trình sản xuất, con người tạo ra không chỉ các đối tượng
vật chất mà còn tạo ra một loạt các quan hệ xã hội. Những quan hệ này không chỉ xác định
cách mà sản phẩm được chia sẻ, mà còn định hình ý thức của xã hội.

Bản Chất của Ý Thức:

Bản chất của ý thức, theo triết học Marx-Lenin, là một phản ánh của thế giới vật chất. Ý thức
không tồn tại độc lập mà nó là kết quả của quá trình tương tác giữa con người và thế giới xã
hội xung quanh. Ý thức bao gồm các yếu tố như tri giác, tư tưởng, giáo dục, văn hóa, và tất
cả đều được hình thành dưới ảnh hưởng của điều kiện xã hội và kinh tế tồn tại.

Bản chất của ý thức không chỉ là một cái "đặc điểm" cá nhân mà là một khía cạnh phản ánh,
phản chiếu của xã hội. Ý thức không chỉ là một sản phẩm của ý chí cá nhân mà là kết quả
của một hệ thống xã hội đặc biệt tại một thời điểm cụ thể.

Liên Hệ giữa Nguồn Gốc và Bản Chất của Ý Thức:

Liên hệ giữa nguồn gốc và bản chất của ý thức là sự tương tác chặt chẽ giữa quan hệ sản
xuất và ý thức xã hội. Quan hệ sản xuất xác định cách mà con người tương tác với nhau
trong quá trình sản xuất và trao đổi, và thông qua quan hệ này, nguồn gốc của ý thức được
hình thành.

Bản chất của ý thức, là sự phản ánh của thế giới vật chất, là kết quả của quá trình tương tác
này. Ý thức không phải là một thực thể độc lập mà nó được hình thành thông qua quá trình
tương tác giữa con người và môi trường xã hội.

Ý Nghĩa Đối Với Hoạt Động Nhận Thức của Bản Thân:

Đối với hoạt động nhận thức của bản thân, triết học Marx-Lenin đặt ra ý nghĩa lớn về việc
nhận thức về môi trường xã hội và tìm hiểu về cơ sở hạ tầng kinh tế. Ý nghĩa này đặt ra sự
quan trọng của việc hiểu rõ nguồn gốc của ý thức để từ đó có thể có những hoạt động nhận
thức có ý thức và tích cực hơn.

Bản thân cần nhận ra rằng ý thức cá nhân không phải là một thực thể độc lập mà là sản
phẩm của môi trường xã hội. Điều này có ý nghĩa là để thay đổi ý thức của bản thân, cần có
sự thay đổi trong điều kiện xã hội, đặc biệt là trong quan hệ sản xuất. Hoạt động nhận thức
của bản thân trở nên quan trọng không chỉ để hiểu biết thế giới mà còn để tham gia vào quá
trình thay đổi thế giới, theo hướng mà Marx-Lenin nhấn mạnh là hướng đến xã hội công
bằng và bền vững.
Câu 1: Cơ sở lý luận của nguyên tắc tôn trọng khách quan của chủ nghĩa duy vật biện
chứng là vai trò của vật chất đối với ý thức (tính quyết định của vật chất đối với ý
thức):

Vật chất là nguồn gốc của ý thức (vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau).

Vật chất quyết định nội dung, bản chất và sự vận động, phát triển của ý thức.

Yêu cầu của nguyên tắc tôn trọng khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng là:

Xuất phát từ thực tế khách quan và tính khách quan của vật chất.

Có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan, căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức
và hành động theo quy luật.

Cần phải nắm bắt, tái hiện khách thể, sự vật, hiện tượng trong chính nó mà bất cứ ai trong
chúng ta đều không được thêm hay bớt đi một cách tùy tiện.

Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người
và xã hội.

You might also like