You are on page 1of 8

Nguyễn Thị Thu Huyền – K20502

Câu 1: Điều kiện tự nhiên và tiền đề lý luận ra đời Chủ Nghĩa Mac. Cho ví dụ.

 Điều kiện kinh tế - xã hội

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định được vị thế
của mình và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết
học Mác nói riêng. Điều này thể hiện ở chỗ:

• Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra điều kiện thực tiễn
tuyệt đối cần thiết cho sự thoát khỏi lý tưởng không tưởng xã hội chủ nghĩa cho
chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, bởi lẽ, chính sự phát triển của
kinh tế tư bản chủ nghĩa mới tạo ra cơ cở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện
những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản.

• Thứ hai, chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã đặt ra nhiều vấn đề thực tiễn,
lý luận, chính trị, xã hội... đòi hỏi các nhà lý luận phải giải trả lời, nghĩa là nó kích
thích cho các trào lưu tư tưởng triết học ra đời trong đó có triết học Mác.

• Thứ ba, chính sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa làm cho giai cấp vô sản
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
ngày càng phát triển chuyển từ tự phát lên tự giác. Từ đấu tranh kinh tế sang đấu
tranh chính trị, điển hình như cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt ở Liông (Pháp –
1831), khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức – 1844), Phong trào Hiến chương ở
Anh (Từ năm 1836 đến năm 1847). Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi
phải có một lý luận khoa học, cách mạng dẫn đường, trong khi đó có rất nhiều các
trào lưu tư tưởng phản khoa học tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Điều
này đã thúc đẩy cho sự ra đời của triết học Mác. Có thể nói, sự xuất hiện của giai
cấp vô sản trên vũ đài lịch sử cùng với lực lượng chính trị - xã hội độc lập là nhân
tố chính trị - xã hội quan trọng nhất thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói
chung, triết học Mác nói riêng.

 Tiền đề về khoa học tự nhiên


Bước sang đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên có bước phát triển vượt bậc, đã
chuyển từ trình độ thực nghiệm lên trình độ lý luận, đặc biệt xuất hiện nhiều phát
minh khoa học vạch thời đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự ra đời của triết học Mác:

• Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mikhail Vasilyevich
Lomonosov (8/11/1711 – 4/4/1765) và Antoine Lavoisier (26/8/1743 – 8/5/1794).

• Thuyết tế bào của Theodor Schwann (sinh ngày 7/12/1810, Neuss, Đức; mất ngày
11/1/1882, Köln, Đức) và Matthias Schleiden (1804-1881). Chứng minh sự thống
nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh.

• Học thuyết tiến hóa của Charles Darwin (12/2/1809 – 19/4/1882) là học thuyết
cho rằng sự sống của sinh vật chịu tác động dưới một áp lực gay gắt gọi là chọn lọc
tự nhiên. Chứng tỏ có sự phát triển từ thế giới vô cơ. Giữa các loài sinh vật với giới
tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ. Đó là kết quả của sự tiến hóa tự nhiên. Bác bỏ
quan điểm tôn giáo, thần học về loài người, nguồn gốc loài người.

Ý nghĩa của các định luật và học thuyết đối với sự hình thành và phát triển triết học
Mác: Khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác
nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới,
vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó.

 Tiền đề lý luận

• Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh với những lý luận kinh tế quan trọng của
A.X-mít (1723-1790) và Đ.Ri-các-đô (1772 – 1823). Hai ông đã có những đóng
góp quan trọng cho lý luận về kinh tế. Đặc biệt, đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị.
Tuy nhiên, hai ông chưa chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác –
Ăngghen trên cơ sở kế thừa những giá trị trong học thuyết của hai ông đã chỉ ra
được nguồn gốc của giá trị thăng dư – một cơ sở khoa học để phân tích, giải thích
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa, làm cơ
sở khoa học cho quan niệm duy vật về lịch sử của Mác.

• Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như Xanh
Ximông (1760 - 1825) và Sáclơ Phuriê (1772 –1837). Hai ông đã có nhiều đóng
góp cho lý luận về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt hai ông đã chứng minh được hai điểm
quan trọng:
- Một là, cần phải đập tan nhà nước tư sản;

- Hai là, có thể đập tan được nhà nước tư sản.

Tuy nhiên, hai ông cũng còn nhiều hạn chế, nhưng hạn chế cơ bản nhất là tính
không tưởng trong lý luận của các ông. Mác – Ăngghen trên cơ sở tiếp thu những
giá trị tích cực, khắc phục tính không tưởng, tổng kết phong trào công nhân, tổng
kết thực tiễn lịch sử, đã chỉ ra rằng muốn xóa bỏ nhà nước tư sản phải bằng con
đường cách mạng vô sản và thay thế nó bằng nhà nước vô sản kiểu mới.

• Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen (1770-
1831) và Phoiơbắc (1804-1872), là nguồn gốc lý luận trực tiếp.

- Với triết học Hêghen thì giá trị hạt nhân hợp lý là phép biện chứng, nhưng hạn
chế lớn nhất ở Hêghen là thế giới quan duy tâm khách quan.

- Với Phoiơbắc, giá trị lớn nhất trong tư tưởng của ông là thế giới quan duy vật
nhân bản. Nhưng hạn chế lớn nhất của ông là tính chưa triệt để, máy móc, siêu
hình.

Mác – Ăngghen kế thừa phép biện chứng của Hêghen, cải tạo nó, khắc phục tính
chất duy tâm, thần bí và đặt nó trên nền tảng thế giới quan duy vật. Đồng thời Mác
– Ăngghen kế thừa thế giới quan duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu
hình, máy móc, tính không triệt để của nó và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng
phép biện chứng. Trên cơ sở đó, Mác – Ănghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng.

 Nhân tố chủ quan

• Ngoài những điều kiện kinh tế - xã hội, tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận, thì
sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng không thể thiếu
nhân tố chủ quan của bản thân Mác và Ăngghen. Đó là sự thông minh hơn người
của các ông. Đã vậy, hai ông lại cần cù, chịu khó, nghiêm túc trong nghiên cứu
khoa học. Nhờ những tố chất ấy hai ông đã kế thừa được toàn bộ tinh hoa trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, tổng kết được những thành tựu của khoa học đương đại,
tổng kết phong trào công nhân để cho ra đời một chủ nghĩa Mác – ngọn cờ lý luận
của giai cấp vô sản - hoàn bị trong cả lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực xã hội.
• Cùng với sự thông minh, tinh thần làm việc không mệt mỏi là tình yêu thương
con người hết mình của hai ông và quyết tâm hy sinh vì con người, là những nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói
riêng.

Tóm lại: Triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những tiền đề cho sự ra
đời lý luận mới đã được nhân loại tạo ra.

Câu 2: Trình bày mối quan hệ vật chất ý thức. Cho ví dụ chứng minh

 Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý

thức quyết định vật chất. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ
nhất từ đó sinh ra tất cả; còn thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý
thức tinh thần, là tính thứ hai, do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tiễn, người duy
tâm phủ nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí,
hành động bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.

 Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật

chất quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật
chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức,
không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan.

 Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:

a) Vai trò của vật chất đối với ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên
chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là
sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển
hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học
chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan),
hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao
động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát
triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy
luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này
thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết
định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

b) Vai trò của ý thức đối với vật chất

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong
hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật
chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý
thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho
con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục
tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp,
công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể
hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con
người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm
cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy
luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình
thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa
ý thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan,
bản chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã
đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với
hoạt động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan.

Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật
chất, của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung
và khả năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ
có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải
thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý
thức trong sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ
thâm nhập của ý thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người
và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động
theo định hướng của ý thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người
thực tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức
có sau, vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động của con người

* Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.

VÍ DỤ :Trong ĐỜI SỐNG XÃ HỘI có câu: thực túc, binh cường, có thực mới vực
được đạo.

+ Vật chất Quết định nguồn gốc ý thức: Nghĩa là não người là dạng vật chất cao có
tính chất của vật chất là cơ quan phản ánh để hoàn thành ý thức.

Ý thức phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế
giới khách quan.

+ Vật chất quyết định bản chất, nội dung ý thức: Bản chất là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan: nghĩa là ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất và thế giới vật
chất được dịch chuyển vào óc người, được cải biến trong đó. Vì thế, vật chất quyết
định cả bản chất và nội dung. Nội dung là phản ánh thế giới khách quan.

+ Vật chất quyết định Sự biến đổi ý thức: Ý thức là cái phản ánh, vật chất là cái
được phản ánh khi cái được phản ánh biến đổi thì cái phản ánh cũng phải biến đổi
theo.

* Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động con người cụ thể nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định, các điều kiện vật chất góp phần
cải tạo hình thức khách quan.

Nếu phản ánh đúng hiện thực khách quan – nó thúc đẩy ngược lại thì nó cản trở

Ví dụ: Chủ rương đổi mới cơ chế quan liêu bao cấp, cản trở phát triển con người –
khủng hoảng kinh tế xã hội, động lực

Tóm lại:Quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua
lại, trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông
qua hoạt động nhận thức của con người.

Ví dụ để chứng minh giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau

- Sau ngày 30/4/1975, nhà nước ta phát triển XHCN và xem Liên Xô như là một
"hình mẫu" và rập khuôn 1 cách giáo đều theo mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô trong những hoàn cảnh và điều kiện đất nước khác biệt so với Liên xô
như : Tập thể hóa công – nông nghiệp nhà nước nắm độc quyền về kinh tế dẫn đến
việc hình thành cơ chế quan liêu bao cấp về kinh tế, ( việc bao cấp nền kinh tế
cũng là từ Liên Xô.)

- Thế nhưng, đến năm 1986, ta nhận thấy rằng đối với Việt Nam, ta không có được
bước đà vững chắc và cao lớn như của Liên Xô nên đến năm 1986, Liên Xô không
còn là hình mẫu của việc xây dựng XHCN ở Việt Nam nữa.

- Việc đổi mới cải cách năm 1986 là một bước đi tất yếu của lịch sử, Quan điểm
Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện, Đổi Mới về
kinh tế : Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Theo mối quan hệ biện chứng như thì vật chất quyết định ý thức (Quan điểm về
vật chất và ý thức của Triết học Mác - Lênin) và vận động là phương thức tồn tại
của vật chất nên việc bao cấp hoàn toàn nền kinh tế sẽ dẫn đến việc vận động bị trì
trệ, vật chất không được tạo ra và ý thức trở nên thấp kém. Nền kinh tế bao cấp đã
cho thấy những nhược điểm rất lớn của nó là không thể tạo được sự cạnh tranh
trong lực lượng sản xuất.

- Ngày đó vác cuốc ra đồng, giơ cuốc lên mà nghe tiếng kẻng thì cầm về luôn, ko
thèm cuốc xuống đất nữa vì cuốc hay ko cuốc thì vẫn đc hưởng phần lương giống
nhau, làm hay không làm cũng đc hưởng như nhau, dẫn đến vận động bị trì trệ, vật
chất không được sản xuất và ý thức không được nâng cao .

- Như hợp tác xã giao cho 2 nhà mỗi nhà một con trâu chăng hạn , nhưng có nhà có
hôm lại không đi chăn trâu mặc kệ trâu gầy trâu béo mặc kệ , vì những con trâu
này không phải của nhà mình . Vì chăn hay không chăn vẫn được hưởng phần
lương giống nhau , làm hay không lam vẫn được hưởng phần như nhau , dẫn đến
vận động bị trì trệ, vật chất không được sản xuất và ý thức không được nâng cao .

- Ta thấy nền kinh tế bao cấp sẽ không thể tạo ra sự cạnh tranh trong lực lượng sản
xuất , và nó kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển .

 Vậy dễ thấy rằng vì giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động
qua lại lẫn nhau. Ý thức chỉ có thể tác động đối với vật chất khi nó được thực hiện
thông qua hoạt động thực tiễn . nên nếu thực tiễn trì trệ thì ý thức cũng trì trệ theo .
Nhờ có hoạt động thực tiễn , ý thức của Đảng được nưng cao và đã đề ra đường lối
đổi mới và cải cách . Trước sự trì trệ và chậm chạp ấy, cuộc đổi mới và cải cách
năm 1986 là cần thiết. Công cuộc đổi mới và cải cách ấy đã chấp nhận nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần để tạo nên sự cạnh tranh, thúc đẩy quá trình vận động
của vật chất , tạo nên sự cạnh tranh trong san xuất , thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển , nhằm nâng cao ý thức của con người.

You might also like