You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - MARKETING

HỌC PHẦN: Triết học Mác Lê – Nin

Ngày kiểm tra: 04/05/2022


Họ tên sinh viên: VÕ THỊ QUỲNH NGA

Mã số sinh viên : 2121005601

Mã lớp học phần: 2121111013401

Bài làm gồm: 10 trang

Điểm CB chấm thi


Bằng số Bằng chữ (Ký, ghi rõ họ tên)

BÀI LÀM
Câu 1
• Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong
phạm vi hết sức hạn chế: Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận
thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó
thì không còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân
ranh giới chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống
nhất của thế giới, cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả
lời câu hỏi cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không
như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý
thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và
ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng là những nguyên tố, những mặt không thể
thiếu được trong hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải
tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý thức tự nó không thể cải biến được sự vật,
không có khả năng tự biến thành hiện thực.

Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được
tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho
hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng

1
tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức
mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã,
thanh tự nhiên trù phú, sinh động, tự nhiên của con người.

Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện ở tính
độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời sống con người là
sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần
trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những
nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập
giữa vật chất và ý thức không có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có
vai trò như nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học
Mác-Lênin khẳng định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật
chất và ý thức có tác động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính
thứ nhất của nhân tố vật chất so với tính thứ hai của nhân tố ý thức.

Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ
cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì nhân
tố vật chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt
động của con người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần
khác biến thành hiện thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà
con người đề ra cho hoạt động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung,
cụ thể hoá mục đích, chủ trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con
người bao giờ cũng hướng đến mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu
cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi
phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện
vật chất hiện có.

Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác-
Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai trò của nhân tố tinh thần, của tính năng
động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở lại quan trọng đối với nhân tố vật
chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người không thể để cho thế giới
khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động hướng nó đi theo con
đường có lợi của mình. Ý thức con người không thể tạo ra các đối tượng vật
chất, cũng không thể thay đổi qui luật vận động của nó. D đó, trong quá trình
hoạt động của mình, con người phải tuân theo qui luật khách quan và chỉ có thể
đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử -xã hội
của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Khác với các hoạt động khác hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử
dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến
đổi chúng theo mục đích của mình. Đó là hoạt động đặc trưng và bản chất của

2
con người. Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất mang tính
sáng tạo, có mục đích và tính lịch sử - xã hội.

Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thếgiới khách
quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức
về thế giới khách quan đó.

• Quan niệm trên đây về nhận thức xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản
sau:

Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con
người và con người có thể nhận thức được thế giới khách quan ấy.

Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan;
coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người

Ba là, khẳng định sự phản ánh là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo và đi từ thấp đến cao (chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, chưa toàn
diện sâu sắc đến toàn diện sâu sắc...)

Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đíchcủa nhận
thức và là tiêu chuẩn chân lý, kiểm tra tính chân lý của quá trình nhận thức.

Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức

Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, đề ra nhu cầu, nhiệm vụ,
cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức.

Hoạt động thực tiễn của con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội của con
người làm cho các đối tượng tự nhiên và xã hội bộc lộ ra những thuộc tính,
những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng, đem lại những tài liệu cho
nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất, các quy luật vận động
của thế giới, trên cơ sở đó mà hình thành các lý thuyết khoa học

Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức không phải để nhận thức mà để
phục vụ cho hoạt động thực tiễn cải biến tự nhiên và xã hội.

Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận thức.
Thực tiễn đề ra mục đích và nhu cầu cho nhận thức, thúc đẩy nhận thức phát
triển. Thực tiễn làm nảy sinh mâu thuẫn, đòi hỏi phải phát triển nhận thức mới
giải quyết được. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà con người chế tạo những
phương tiện kỹ thuật sử dụng trong nhận thức khoa học.

3
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý trong quá trình phát triển nhận
thức. Thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận
thức đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, hoàn thiện, điều chỉnh, sửa
chữa, hoàn chỉnh và phát triển nhận thức.

Tính thống nhất biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức: được thể hiện ở chỗ
thực tiễn là xuất phát điểm của nhận thức, quyết định sự hình thành và phát triển
của nhận thức, là nơi thể nghiệm và kiểm nghiệm tính đúng đắn của nhận thức;
ngược lại nhận thức, nhất là nhận thức lý luận, nhận thức khoa học khi nó phản
ánh đúng bản chất và quy luật vận động của sự vật, hiện tượng có thể giúp con
người thông qua nhận thức của mình mà xác định các biện pháp cần thiết để
thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn.

Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ
thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, tránh bệnh giáo điều, duy ý chí, quan liêu
nhưng đồng thời cũng không được tuyệt đối hóa thực tiễn để rơi vào chủ nghĩa
thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn với lý
luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận. Lý
luận không có thực tiễn làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định chân lý của nó là lý
luận suông, ngược lại thực tiễn không có lý luận khoa học soi sáng sẽ trở thành
thực tiễn mù quáng.

+ Nhận thức: Là một khả năng tâm lý, suy nghĩ của con người nhìn nhận 1 sự
vật, sự việc và rút ra tư tưởng đi theo chiều hướng tiến bộ thì gọi là nhận thức.
+ Thực tiễn: Là hiện thực bao gồm hiện tại và 1 phần trong tương lai gần về dự
đoán sự phát triển theo các chiều hướng khác nhau (cả xấu lẫn tốt) của sự vật,
sự việc, hiện tượng.

+ Hiện thực khách quan: Là quá trình vận động của các sự vật, sự việc, hiện
tượng trong thực tại được phản ánh vào tư tưởng của con người để từ đó hình
thành những cảm xúc, tri giác, nhận thức trong con người.

- Khi con người nhìn nhận đúng về Thực Tại Khách Quan thì sẽ hình thành Nhận
Thức. Từ Nhận Thức đúng đắn, con người sẽ nhìn ra được Thực Tiễn của Thực
Tại Khách Quan sẽ trở nên như thế nào, sẽ phát triển theo chiều hướng nào
trong thực tại và tương lai gần.

 Do đó, khi nói Nhận Thức và Thực Tiễn đều xuất phát từ Thực Tại
Khách Quan là chính xác.

4
Câu 2
Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến
nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế – xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành tựu đó
khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đó, chúng ta cũng cần phải nhận thức rõ những tiêu cực do nền kinh tế
nhiều thành phần gây ra, đặc biệt là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu
lịch sử. Trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen đã chỉ ra
rằng, sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền thì không thể thủ tiêu
chế độ t­ư hữu ngay lập tức đư­ợc mà phải cải tạo nó dần dần. Đến Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, sau khi giành được thắng lợi
chính trị, giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp t­ư sản.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào đầu những năm 20 của thế
kỷ XX càng khẳng định tính đúng đắn của việc sử dụng và cải tạo dần dần đối
với những thành phần kinh tế của xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch
ra. Nhận thấy chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp trong điều
kiện đất nước đã hoà bình, V.I.Lênin đã dũng cảm thừa nhận: “Chúng ta đã thất
bại trong cái ý định dùng phư­ơng pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con đư­ờng
ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối
theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”
. Từ đó, V.I.Lênin khẳng định cần phải thay thế chính sách cộng sản thời chiến
bằng chính sách kinh tế mới (NEP). Một trong những nội dung cơ bản của NEP
là lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin viết: “Không còn nghi ngờ gì
nữa, ở một nước trong đó những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số
dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những
biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những n­ước t­ư bản
phát triển”
. Một trong các biện pháp quá độ đặc biệt mà V.I.Lênin nói ở đây chính là việc
sử dụng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó được V.I.Lênin giải
thích rõ như sau: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế,
có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ
phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai
cũng đều thừa nhận là có”.

5
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, xét đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ phát triển của lực l­ượng sản xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nư­ớc tiểu nông, do trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên tất yếu còn tồn tại
nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn nữa, một số thành phần
kinh tế của phư­ơng thức sản xuất cũ còn có tác dụng tích cực nhất định đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích rất rõ tại sao phải phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá trình
Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, thể
hiện tư duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.

Trước đổi mới, trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực
sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại ở nước ta trong một thời
gian tương đối dài. Việc cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa
được thực hiện theo kiểu chiến dịch, gò ép, không căn cứ vào trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Những sai lầm này tất yếu dẫn đến tình trạng khủng
hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng vào cuối những năm 70 – đầu những năm
80 của thế kỷ XX. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải có những thay đổi lớn trong
nhận thức và hành động, phải tìm ra con đường, bước đi phù hợp để tiến lên
chủ nghĩa xã hội.

Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa
dạng hoá các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận
thức thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền
kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần
thiết phải có chính sách đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần
kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Cùng với sự vận động của thực tiễn và sự phát triển của nhận
thức, lý luận về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X. Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng ta xác định cơ cấu
nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành thành
phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được phép làm kinh tế tư
nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các

6
thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự yên
tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các thành
phần kinh tế phi nhà nước.

Sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất, tính kế thừa trong phát
triển, cũng như đặc điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, v.v. quy định sự tồn tại đa dạng, đan xen của các hình thức sở hữu
và tương ứng với đó là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
hiện nay. Trong cơ cấu nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước được Đảng xác định là
thành phần đóng vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác góp phần quan
trọng trong việc huy động mọi tiềm năng, nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh,
phát triển lực lượng sản xuất.

Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có những thành phần
kinh tế đã thể hiện tốt vai trò của mình, song cũng có những thành phần kinh tế
còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém.

Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về tư liệu sản
xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp
nhà nước, mà còn bao gồm các tài sản, công cụ kinh tế quan trọng thuộc sở hữu
nhà nước, v.v.. Văn kiện Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, v.v.. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(4).

Trong những năm qua, tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước có xu hướng giảm
xuống. Trước thực trạng này, đã có nhiều ý kiến cho rằng, kinh tế nhà nước chỉ
cần nắm lấy những yết hầu của nền kinh tế là đủ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đó
chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ, bởi nếu nắm được yết hầu kinh tế mà các
doanh nghiệp vẫn thua lỗ triền miên, tỷ trọng GDP quá thấp thì sẽ không thể
đem lại sức mạnh cho kinh tế nhà nước. Vì vậy, kinh tế nhà nước chỉ có thể phát
huy được vai trò chủ đạo của mình khi nó vừa nắm được huyết mạch của nền
kinh tế, vừa có năng suất lao động cao và chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Vấn đề
là ở chỗ, làm cách nào để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả.

Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần kinh tế
của chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa trên hình
thức sở hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững chắc
thành phần kinh tế này, bởi như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mô hình dễ tiếp
thu nhất của những người nông dân để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Rút bài học kinh nghiệm sâu sắc từ phong trào tập thể hoá trước đổi mới và thực
tế những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc
phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng các hợp tác xã kiểu mới

7
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của các chủ thể sản
xuất.

Những năm qua, mặc dù được xác định là cùng với kinh tế nhà nước ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, song sự phát triển của
kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế: hoạt động chưa có hiệu quả, cơ sở vật chất –
kỹ thuật còn lạc hậu, tỷ trọng GDP liên tục giảm. Do vậy, để thực hiện mục tiêu
mà Chính phủ đề ra là kinh tế tập thể chiếm 13,8% GDP vào năm 2010 và quan
trọng hơn, cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc
dân, chúng ta cần có những biện pháp tích cực để kinh tế tập thể phát triển từng
bước, vững chắc.

Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn chung, sau
hơn 20 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây,
kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh
vực, chiếm 45,7% GDP (trong đó kinh tế hợp tác đóng góp 6,8%GDP). Như vậy,
kinh tế tư nhân đạt 38,9% GDP, tương đương với tỷ trọng GDP của kinh tế nhà
nước(5).

Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất, có vai trò quan trọng trong nhiều ngành nghề ở cả thành thị và
nông thôn, có khả năng huy động vốn và lao động. Đóng góp của kinh tế cá thể,
tiểu chủ trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng lại
đang giảm liên tục. Sự giảm sút này không đáng lo ngại, thậm chí là một dấu
hiệu tích cực, phản ánh sự di chuyển khá mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các
thành phần kinh tế có trình độ cao hơn; thực chất, là sự thu hẹp cách thức sản
xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình thức sản xuất tiến bộ hơn. Đây là một xu thế
tất yếu, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ buộc những thành viên của kinh tế
cá thể, tiểu chủ phải thay đổi, di chuyển vào các bộ phận, các thành phần kinh tế
khác để bảo đảm lợi ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh và cơ hội để phát triển
khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.

Đối với kinh tế tư bản tư nhân, đây là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, bộ phận kinh tế này đã đóng góp tích cực vào việc phát triển lực
lượng sản xuất, huy động vốn, tạo việc làm cho người lao động, v.v..

Từ khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời (21/12/1990), các
doanh nghiệp tư nhân đã thực sự đi vào hoạt động với đầy đủ tư cách pháp
nhân, kinh tế tư bản tư nhân đã có sự phát triển đáng kể, phát huy có hiệu quả
khả năng huy động vốn và tạo việc làm mới cho người lao động; đóng góp của

8
nó cũng ngày càng tăng. Tuy nhiên, do mới hình thành, nên tỷ trọng cơ cấu GDP
của nó chưa cao. Đối với thành phần kinh tế này, Đảng ta chủ trương khuyến
khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp
luật không cấm; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để
nó phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, v.v..

Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn
hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài
nước dưới các hình thức hợp tác, liên doanh. Trong quan niệm của V.I.Lênin,
kinh tế tư bản nhà nước là hình thức kinh tế quá độ đặc biệt quan trọng và cần
thiết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Ông coi nó là thứ chủ nghĩa tư bản mà 2/3 là chủ
nghĩa xã hội, là cái “không đáng sợ”, thậm chí còn là “phòng chờ” để đi vào chủ
nghĩa xã hội.

Tuy vậy, sự vận động hiện thực của thành phần kinh tế này ở nước ta đang là
một vấn đề cần phải bàn. Các cơ chế, chính sách, điều kiện ở Việt Nam hiện nay
chưa tạo ra sự thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Những năm đầu
tiên khi chúng ta mới thực hiện đường lối mở cửa, có lẽ các doanh nghiệp nước
ngoài hy vọng vào việc khai thác những tiềm năng của một thị trường còn rất
mới mẻ, nên họ đã đầu tư rất lớn vào Việt Nam, liên doanh, liên kết giữa kinh tế
nhà nước với các doanh nghiệp nước ngoài diễn ra mạnh mẽ, vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam ở mức cao. Tuy nhiên, chỉ sau đó một thời gian, số vốn này
giảm mạnh. Chính vì nguồn vốn đầu tư giảm nên tỷ trọng GDP của thành phần
kinh tế này cũng liên tục giảm. Đầu tư nước ngoài là bộ phận phát triển nhất của
kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta, nếu đầu tư nước ngoài giảm sút thì tất yếu
sẽ làm cho thành phần kinh tế này kém phát triển, thậm chí là không phát triển.

Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong thời gian tới, kinh tế tư bản nhà nước có khả
năng phát triển mạnh mẽ, bởi hiện nay, chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta đang tìm mọi biện pháp tích cực và
hiệu quả để cải thiện môi trường đầu tư. Hơn nữa, hiện nay, một số thành phần
kinh tế khác đang phát triển rất mạnh mẽ, nên trong tương lai không xa, nhu cầu
liên doanh, liên kết sẽ tăng cao, từ đó sẽ làm cho kinh tế tư bản nhà nước phát
triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển sang nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa.

Tuy nhiên, sự phát triển của thành phần kinh tế này đã và đang nảy sinh một vấn
đề – đó là sự lệ thuộc vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Giả định rằng, vì lý do
nào đó, chẳng hạn lạm phát, các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút một số
lượng lớn nguồn vốn đầu tư thì tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam sẽ thế nào?
Hoặc là tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế này ngày càng lớn đến mức ngang
bằng hoặc vượt kinh tế nhà nước thì liệu kinh tế nhà nước có thể duy trì được
vai trò chủ đạo của mình không? Nhà nước có thể kiểm soát được thành phần

9
kinh tế này hay không? Rõ ràng, sự phát triển của thành phần kinh tế này đem
lại những lợi ích kinh tế – xã hội rất lớn, đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ
ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo chúng
tôi, để tận dụng được những đóng góp và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu
cực của nó đối với nền kinh tế – xã hội nước ta, một mặt, chúng ta phải phát
triển mạnh mẽ kinh tế nhà nước để tạo nên sức mạnh thực sự của Nhà nước;
mặt khác, phải có biện pháp hướng thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài vào kinh tế tư bản nhà nước.

Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước đầu
tìm ra những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội. Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường phát triển
thuận lợi, đảm bảo tính độc lập, tự chủ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước phải thực sự đóng vai trò chủ đạo; mặt khác, chúng ta phải tăng
cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế.

(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t. 44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 254.

(2)V.I.Lênin. Sđd., t. 43, tr. 68.

(3)V.I.Lênin. Sđd., t. 43, tr. 248.

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 83.

(5) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 146.

10

You might also like