Professional Documents
Culture Documents
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính xã
hội- lịch sử của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt
động chính trị- xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động quan trọng nhất,
sớm nhất và cơ bản nhất. Đây là hình thức hoạt động mà trong đó
con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên
nhằm tạo ra của cải vật chất và các điều kiện thiết yếu để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình cũng như của xã hội.
- Hoạt động chính trị- xã hội là hoạt động của các tổ chức, cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến mối quan hệ chính trị-
xã hội để giúp xã hội phát triển mà đỉnh cao nhất là cải biến các
- Hoạt động thực nghiệm khoa học: đây là dạng hình thức đặc biệt
của hoạt động thực tiễn. Đó là hoạt động được tiến hành trong điều
kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái
trong tự nhiên và xã hội nhằm xác định quy luật cải biến và phát
triển của đối tượng nghiên cứu. Trong điều kiện cách mạng và khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão thì hình thức hoạt động thực
tiễn này lại càng đóng vai trò quan trọng hơn.
- Ngoài 3 hình thức cơ bản này, hoạt động thực tiễn còn xuất hiện ở
một số lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, nghệ thuật... Nhưng xét
đến cùng, những hình thức hoạt động thực tiễn trong các lĩnh vực
trên đều thuộc những hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản.
- Mối quan hệ giữa những hình thức cơ bản: Mỗi hình thức hoạt
động thực tiễn có một chức năng quan trọng nhất định, không thể
thay thế được cho nhau song chúng lại có mối quan hệ gắn bó với
nhau, tác động lẫn nhau không tách rời. Trong mối quan hệ đó, hoạt
động sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng, giữ vai trò quyết
định các hình thức thực tiễn khác. Hình thức chính trị- xã hội và
thực nghiệm khoa học giữ vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động trực tiếp vào các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự tác động ấy khiến cho
các sự vật phải bộc lộ những thuộc tính, mối liên hệ và quan hệ qua
lại giữa chúng, đem lại tài liệu cho nhận thức, giúp nhận thức được
bản chất và quy luật vận động và phát triển của thế giới.
Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, nó luôn đặt ra những
vấn đề mới đòi hỏi nhận thức phải trả lời, đưa ra những nhiệm vụ
và phương pháp phát triển cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức
mới, những khái quát mới để lý giải những vấn đề mới nảy sinh. Do
Nhờ có thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng phát
triển tinh tế hơn và hoàn thiện hơn, năng lực tư duy logic của con
người cũng được củng cố và phát triển. Nhờ đó mà con người ngày
càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế
giới, làm phong phú và sâu sắc thêm tri thức của mình về thế giới.
Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các phương tiện công cụ máy móc
nhận thức ngày càng được phát triển tinh vi hơn, hiện đại hơn, giúp
nối dài giác quan của con người hơn trong nhận thức về thế giới,
Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân tri thức
mà là nhằm phục vụ, cải tạo thế giới tự nhiên để phục vụ đời sống
vật chất và tinh thần của con người. Do đó, tri thức về khoa học và
những lý luận chỉ có ý nghĩa thiết thực khi nó được vận dụng vào
thực tiễn, tức là vận dụng vào sản xuất vật chất, vận dụng vào cải
Để kiểm nghiệm tính đúng đắn hay sai lầm của nhận thức, không
con đường nào thay thế được vai trò của thực tiễn. Thực tiễn là tiêu
chuẩn, là thước đo giá trị của những tri thức đã thu nhận được trong
nhận thức. Đồng thời, nó còn sữa chữa, điều chỉnh, bổ sung và
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương
đối. Mang tính tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất
còn mang tính tương đối vì thực tiễn thường xuyên biến đổi và phát
triển. Thực tiễn không chỉ là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu
tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là
nơi nhận thức phải luôn hướng về để kiểm nghiệm tính đúng đắn
của mình.
Nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức.
Đây là giai đoạn mà con người sử dụng các giác quan của mình tác
động trực tiếp sự vật, hiện tượng nhằm nắm bắt sự vật, hiện tượng.
Nhận thức cảm tính gồm 3 hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng.
+ cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật hiện
tượng khi chúng tác động trực tiếp vào giác quan của con người
+ tri giác là sự phản ánh tương đối toàn diện và đầy đủ về sự vật
khi sự vật ấy tác động trực tiếp vào các giác quan của con người.
Tri giác được nảy sinh trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của
+ biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất của giai đoạn nhận
thức cảm tính, là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh của sự
vật còn lưu lại trong bộ óc của con người khi sự vật ấy không còn
tác động trực tiếp đến giác quan của con người.
Trong nhận thức cảm tính đã xuất hiện đầy đủ cả bản chất, cả tính
tất yếu và tính ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn cái bên ngoài của sự
vật, hiện tượng. Nhưng ở đây con người chưa nhận thức được cái
nào là bản chất và không là bản chất, đâu là cái tất yếu và đâu là cái
ngẫu nhiên, đâu là cái bên trong của sự vật, hiện tượng. Nhận thức
yêu cầu con người phải nhận thức được bản chất của sự vật, nhận
thức được tính tất yếu và cái bên trong của sự vật hiện tượng ấy.
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật đòi hỏi quá trình nhận
thức phải phát triển lên một tầm cao mới, cao hơn về chất. Đó là
giai đoạn nhận thức lý tính, hay còn gọi là tư duy trừu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn nhận thức gián tiếp, trừu tượng và
khái quát những đặc điểm, bản chất của sự vật. Đây là giai đoạn mà
nhận thức thực hiện chức năng quan trọng của mình đó là tách ra và
nắm lấy bản chất đã mang tính quy luật của sự vật hiện tượng. Vì
thế, nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy
đủ hơn bản chất của sự vật. Nhận thức lý tính có 3 hình thức là khái
+ khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh
những đặc tính của bản chất hiện tượng. Sự hình thành khái niệm là
kết quả của sự tổng hợp và khái quát những đặc điểm, thuộc tính
của một sự vật hay một lớp các sự vật hiện tượng
+ phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với
nhau phản ánh một mối liên hệ của sự vật hiện tượng nhằm khẳng
định hoặc phủ định một thuộc tính hay một đặc điểm nào đó của sự
+ suy luận là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức lý tính,
phản ánh những mối liên hệ phức tạp giữa các sự vật, suy luận là sự
tổng hợp các phán đoán để rút ra một phán đoán mới.
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của quá
trình nhận thức, chúng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau,
không tách rời nhau. Nhận thức cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận
thức lý tính, không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý
tính. Có nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì sẽ
không nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính
có tác động trở lại nhận thức cảm tính giúp nhận thức cảm tính xác
định phương hướng đúng đắn hơn, chính xác hơn và nhạy bén hơn.
lý hay sai lầm. Hơn nữa mực đích của nhận thức là để phục vụ con
người, định hướng hoạt động cải tạo xã hội phục vụ con người
- Quay trở lại thực tiễn, nhận thức đã hoàn thành 1 chu trình biện
chứng của nó. Trên cơ sở một điều kiện thực tiễn mới một chu trình
biện chứng tiếp theo lại bắt đầu và cứ như thế đến mãi mãi làm cho
quá trình nhận thức của con người luôn vận động và phát triển
- Có thể thấy quy luật chung của quá trình vận động và phát triển của
nhận thức là thực tiễn nhận thức tái thực tiễn tái nhận thức ..... quá
trình ấy không có điểm dừng cuối cùng, nhờ đó quá trình nhận thức
đạt được nhiều tri thức đúng đắn hơn, sâu sắc hơn đầy đủ hơn về
tắt là quy luật lượng chất) là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật. Quy luật này chỉ rõ cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan: từ sự tích lũy dần dần về lượng đạt đến một giới hạn nhất định
1. Khái niệm
- Chất là phạm trù dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật hiện
- Thuộc tính của sự vật là những đặc điểm những tính chất những trạng thái
cấu thành nên sự vật. Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được
sinh ra hay hình thành trong sự vận động và phát triển của chúng. Những
thuộc tính vốn có của sự vật chỉ được biểu hiện ra thông qua sự tác động qua
- Chất của sự vật được biểu hiện thông qua những thuộc tính của nó. Tuy nhiên
chúng ta không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính. Bởi vì
thứ nhất, một sự vật có rất nhiều thuộc tính. Thuộc tính của sự vật không
tham gia vào việc quy định chất như nhau. Chỉ có những thuộc tính cơ bản
mới quy định chất của sự vật. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất
của sự vật hiện tượng mới bị thay đổi. Khi những thuộc tính không cơ bản có
thể thay đổi thì không làm thay đổi chất của sự vật. Thứ 2, chất và thuộc tính
của sự vật chỉ được biểu hiện thông qua những mối liên hệ cụ thể. Vì vậy,
việc phân biệt thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản, chất và thuộc
tính của sự vật cũng chỉ là tương đối. Một sự vật không chỉ có một chất mà
có nhiều chất tùy thuộc vào mối quan hệ của nó với các sự vật khác. Tuy
nhiên mỗi sự vật hiện tượng chỉ có 1 chất căn bản, đó là loại chất mà sự tồn
tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân mỗi sự vật.
- Chất của sự vật không chỉ được quy định bởi chất của những yếu tố cấu
thành mà còn được quy định bởi phương thức liên kết các yếu tố tạo thành,
tượng, biểu thị quy mô, số lượng, nhịp điệu, trình độ của sự vận động và phát
triển của sự vật hiện tượng cũng như các thuộc tính của nó
- Lượng được biểu thị bằng những con số hay những đại lượng cụ thể như kích
thước dài hay ngắn, tổng số nhiều hay ít, quy mô to hay nhỏ, tốc độ nhanh
hay chậm.... đối với những sự vật phức tạp không thể diễn tả bằng những con
số hay đại lượng thì ta cần nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa, khái
quát hóa
- Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có của các sự vật hiện
tượng. Tồn tại trong sự khách quan của mình, sự vật có vô vàn chất do đó nó
cũng có vô vàn lượng. So với chất, lượng là yếu tố thường xuyên biến đổi, vì
- Sự phân biệt giữa lượng và chất cũng chỉ là tương đối, nghĩa là trong quan hệ
này là chất nhưng trong quan hệ khác nó lại là lượng và ngược lại. Do đó cần
chống chủ nghĩa tuyệt đối hóa ranh giới giữa lượng và chất
- Bất kì sự vật hiện tượng nào cũng bao gồm hai mặt lượng và chất. Chất và
lượng là hai mặt quy định lẫn nhau, không thể tách rời nhau, một chất nhất
định trong sự vật hiện tượng này sẽ có lượng tương ứng với nó. Ví dụ sự
khác nhau về chất( trạng thái) của nước ở thể lỏng và nước ở thể rắn( nước
đá) là do nhiệt độ quy định. Sự biến đổi tương quan giữa lượng và chất tạo
- Trong quá trình phát triển của sự vật, sự vật bao giờ cũng có sự tích lũy dần
dần về lượng đạt đến một ngưỡng nhất định trở thành sự thay đổi về chất.
Chất và lượng là hai mặt đối lập nhau, chất tương đối ổn định còn lượng
thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên hai mặt này không tách rời nhau mà có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở một độ
Xét các trạng thái khác nhau của nước với tư cách là những chất khác
nhau(chất-trạng thái), ưng với chất- trạng thái thì lượng ở đây là nhiệt độ.
Trong điều kiện áp suất bình thường, sự tăng hoặc giảm nhiệt độ từ 0 độ c
đến 100 độ c thì nước vẫn duy trì ở trạng thái lỏng chứ chưa chuyển sang
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật
Trong ví dụ trên, sự thống nhất giữa trạng thái lỏng của nước và khoảng nhiệt
độ từ 0 đến 100 độ c là độ của nước duy trì ở trạng thái lỏng. Khi nhiệt độ
giảm xuống 0 độ c và duy trì ở đó thì nước từ trạng thái lỏng chuyển thành
về chất của sự vật. Bất cứ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Trong
ví dụ trên nhiệt độ 0 độ c và 100 độ c được gọi là điểm nút, tại đó sự thay đổi
- Sự thay đổi chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là phạm trù
dùng để chỉ sự thay đổi về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng từ trước
đó gây ra
- Bước nhảy là bước ngoặt căn bản kết thúc một quá trình biến đổi về lượng, là
sự gián đoạn trong sự vận động biến đổi không ngừng của sự vật, do đó phát
triển là sự đứt đoạn trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút
- Bước nhảy không chấm dứt sự vận động nói chung mà chỉ chấm dứt một
trạng thái tồn tại của sự vật. Trong sự vật mới, lượng mới lại biến đổi đến
- Quy luật lượng chất không chỉ nói lên một chiều là sự thay đổi về lượng dẫn
đến sựu thay đổi về chất mà còn nói lên chiều ngược lại. Tức là khi chất mới
ra đời nó lại tạo nên một lượng mới để phù hợp với nó, để có sự thống nhất
giữa lượng và chất. Sự quy định này được biểu hiện ở quy mô, trình độ , nhịp
của hơi nước cũng nhanh hơn, thể tích của nước cũng lớn hơn và độ hòa tan
Nói tóm lại, quy luật lượng chất đã chỉ rõ cách thức của sự phát triển của sự
vật và hiện tượng. Trước hết sự vật có sự biến đổi dần dần về lượng đến khi
đạt đến điểm nút, điểm giới hạn của độ thì sẽ dẫn đến bước nhảy về chất.
Chất mới ra đời lại tạo nên sự thống nhất giữa lượng và chất. Quá trình tác
động đó diễn ra liên tục làm sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.
- Để có tri thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng, ta cần nhận thức được cả hai
mặt lượng và chất của sự vật. Những nhận thức ban đầu về sự vật chỉ trở nên
đúng đắn và được làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa
- Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển thì cần có một quá trình tích lũy về
lượng. Nhưng khi sự tích lũy về lượng đã đạt đến điểm nút thì cần thực hiện
bước nhảy để có sự thay đổi về chất- một khuynh hướng khách quan trong sự
vận động và phát triển của sự vật. Từ đó trong thực tế ta cần chống lại 2
khuynh hướng
+ khuynh hướng tả khuynh là những tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng
chưa có sự tích lũy đủ về lượng đã muốn thực hiện bước nhảy. Hoặc coi nhẹ
sự tích lũy về lượng, chỉ nhấn mạnh đến các bước nhảy từ đó dẫn đến những
+ khuynh hướng hữu khuynh là những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó
không dám thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ chú trọng đến sự tích lũy
Trong thực tiễn cần xác định quy mô tốc độ những bước nhảy một cách
khách quan, khoa học chống giáo điều rập khuôn máy móc bảo thủ khi điều
- Trong thực tế muốn duy trì vật ở trạng thái nhất định cần nắm được độ,
không để cho lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ
biện chứng duy vật, nó chỉ rõ khuynh hướng của sự vận động và phát triển
được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ
định. Như vậy phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất
- Theo quan điểm siêu hình, phủ định là kết quả của sự tác động từ bên ngoài,
là sự phá hủy, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự tồn tại và phát triển của sự vật đó
- Theo quan điểm biện chứng, phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật
khác trên cơ sở mất đi của sự vật cũ và nảy sinh sự vật mới, đó là sự phủ định
mang tính kế thừa, tạo điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Với tư cách là học
thuyết về sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng chú trọng phân tích
không phải sự phủ định nói chung mà là sự phủ định biện chứng
- Phủ định mang tính khách quan. Thể hiện ở chỗ nguồn gốc của sự phủ định
nằm ngay bên trong mỗi sự vật hiện tượng, do kết quả của việc giải quyết
mâu thuẫn quy định. Hơn nữa phương pháp phủ định cũng không phụ thuộc
vào y muốn chủ quan của con người. Khi đề cập đến vấn đề này, chúng ta
phải lưu ý rằng Mỗi sự vật hiện tượng có một phương pháp phủ định riêng,
do đó mà có sự phát triển.
- Phủ định mang tính kế thừa: thể hiện ở chỗ cái mới ra đời trên cơ sở của cái
cũ, đó là sự phủ định mang tính kế thừa, trong đó bao hàm sự loại bỏ những
yếu tố lỗi thời lạc hậu của cái cũ gây cản trở cho sự phát triển và sự kế thừa
những yếu tố tích cực và cải biến đi cho phù hợp với cái mới
Thế giới vật chất vận động và phát triển thông qua quá trình phủ định biện
chứng vô tận. Sự phát triển của các sự vật hiện tượng diễn ra qua nhiều lần
phủ định, tạo ra khuynh hướng đi từ thấp đến cao có tính chu kì. Tính chu kì
được biểu hiện ở chỗ cái mới xuất hiện dường như lặp lại cái cũ nhưng trên
cơ sở cao hơn
Qua quá trình phủ định lần thứ nhất, sự vật trở thành mặt đối lập với chính
mình. Đây là bước trung gian trong quá trình phát triển(cây lúa phủ định hạt
thóc)
Qua quá trình phủ định lần thứ hai, sự vật mới lại trở thành mặt đối lập với
nó, do vậy dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Đây là tiến trình rõ rệt trong sự phát triển(hạt thóc phủ định cây lúa)
Như vậy, kết quả của sự phủ định của phủ định là tổng hợp những yếu tố tích
cực đã phát triển từ trước, trong cái khẳng định ban đầu và trong cái phủ định
lần thứ nhất. Đây là sự lọc bỏ biện chứng những giai đoạn đã qua để đạt được
cái mới cao hơn về chất. Do đó, với tư cách là kết quả của sự phủ định của
phủ định, cái mới mang nội dung toàn diện, phong phú hơn cái khẳng định
- ở ví dụ trên qua hai lần phủ định sự vật trải qua một chu kì phát triển. Như
vật, ở sự vật đơn giản ít nhất cũng phải trải qua hai lần phủ định biện chứng
mới có sự pháp triển. ở sự vật phức tạp hơn, số lần phủ định biện chứng có
vd vòng đời của con tằm: tằm nhộng ngài trứng tằm. Trong xã hội loài người, từ
xã hội không có giai cấp thời cộng sản nguyên thủy đến xã hội không có giai cấp
ở xã hội văn minh cũng phải trải qua vô số lần phủ định
- tuy nhiên, trong nhiều lần phủ định ấy vẫn có thể khái quát thành hai lần phủ
định: lần phủ định thứ nhất là cái xuất phát trở thành mặt đối lập với chính
mình, lần phủ định thứ 2 là sự vật mới lại trở thành mặt đối lập với chính nó
cho nên dường như nó quay trở lại cái đã qua nhưng trên cơ sở cái mới cao
hơn
vd: cộng sản nguyên thủy- chiếm hữu nô lệ- phong kiến- tư bản chủ nghĩa-
cọng sản chủ nghĩa( xã hội không có giai cấp- xã hội có giai cấp- xã hội
- sự phủ định của phủ định là kết thúc một chu kì phát triển đồng thời cũng là
điểm xuất phát của một chu kì phát triển mới và cứ như vậy tạo nên hình thái
xoáy ốc cho sự phát triển ( phát triển không theo con đường thẳng hay vòng
tròn tuần hoàn lặp lại một cách thuần túy mà không có sự tiến lên).
- Biểu diễn nội dung quy luật phủ định của phủ định bằng đường xoáy ốc là sự
biểu đạt rõ ràng nhất những đặc trưng của sự phát triển biện chứng: tính kế
thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát
triển. Mỗi vòng của đường xoáy ốc đều thể hiện trình độ phát triển cao hơn
đồng thời dường như lặp lại cái đã qua, lặp lại vòng trước đấy. Sự nối tiếp
nhua của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự
- Tóm lại nội dung quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy
vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định
trong quá trình phát triển. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển,
cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ, kế thừa những nội dung tích cực từ sự
vật cũ và phát huy nó trong sự vật mới tạo thành tính chu kỳ của sự phát
triển. Khái quát tính tất yếu khách quan của sự vận động đi lên của sự vật
hiện tượng là theo đường xoáy ốc chứ không phải là đường thẳng
- Quy luật phủ định của phủ định khẳng định sự phát triển là khuynh hướng
chung của sự vật, là tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Tuy nhiên sự phát triển không diên ra theo đươgf thẳng mà
diễn ra theo đường xoáy ốc, quanh co, trai qua nhiều khâu trung gian phức
tạp. Do đó giúp chúng ta tránh được cái nhìn phiến diện, giản đơn trong việc
nhận thức sự vật hiện tượng đặc biệt là hiện tượng xã hội
- Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định cái tất thắng của cái mới vì
cái mới là cái ra đời phù hợp với sự phát triển của sự vật. Tuy cái mới ra đời
còn non yếu nhưng nó là cái tiến bộ, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất
so với sự vật cũ. Vì thế trong thực tiễn ta cần có ý thức phát hiện ra cái mới
- Quy luật cũng khẳng định cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ. Giữa cái mới
và cái cũ không có ranh giới tuyệt đối. Vì thế khi phê phán cái cũ cần biết
chọn lọc những yếu tố phù hợp của cái cũ, tránh thái độ hư vô chủ nghĩa, phủ
sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau tạo ra năng
lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu
năng thói quen tri thức, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật
- Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động
- Đối tượng lao động không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ có 1 bộ phận
của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, được con gnuwoif sử dụng mới là
đối tượng lao động. Đối tượng lao động chia thành 2 loại, thứ nhất là đối
tượng lao động có sẵn trong tự nhiên, con người tách nó ra khỏi mối liên hệ
trực tiếp với tự nhiên và biến thành sản phẩm như gỗ trong rừng nguyên sinh,
tôm cá dưới sông, thứ 2 là đối tượng lao động đã qua chế biến như than trong
nhà máy...
- Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình
với đối tượng lao động, chúng dẫn truyền sự tác động của con người vào đối
tượng lao động nhằm biến đối tượng lao động thành sản phẩm thỏa mãn nhu
Ý thức
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của bộ óc người về hiện thực khách
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn là nguyên nhân sinh thành và chi phối
- Theo quan điểm duy vật siêu hình đồng nhất ý thức với vật chất, coi ý thức
chỉ là một dạng vc đb do vc sản sinh ra. Chẳng hẳn óc tiết ra ý thức như gan
tiết ra mật
- Theo quan điểm duy vật biện chứng sự ra đời của ý thức dựa trên 2 nguồn
+ nguồn gốc tự nhiên được thể hiện ở sự phát triển của thuộc tính phản ánh
Phản ánh là năng lực giữ lại tái hiện của hệ thống vc này những đặc điểm của
Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật vật tá động và vật nhận tâc
động. Trong đó vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác
động. Đó là yếu tố để thể hiện nguồn gốc tự nhiên của phản ánh
Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh cũng biến đổi
và phát triển từ thấp đến cao từ đơn giản đến phức tạp phản ánh vật lý phản
nhiên vô sinh. Đây là hình thức phản ánh mang tính chất thụ động, chưa có
sự định hướng, chưa có sự chọn lọc thể hiện qua những biến đổi cơ lý hóa
như sự thay đổi vị trí. Quá trình biến dạng và phá hủy của giới tự nhiên vô
sinh
- Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
- Tính kích thích xuất hiện ở động vật thức vật bậc thấp. Phản ứng kích thích
là sự trả lời của cơ thể trước sự tác động của môi trường bên ngoài có sự
chọn lọc. Nhờ nó mà cơ thể động vật thực vật bậc thấp mới có khả năng thích
- Tính cảm ứng xuất hiện ở động vật có năng lực cảm giác. Khi sự vật ngoài
môi trường tác động vào cơ thể động vật thì cơ thể động vật có khả năng trả
lời lại sự tác động ấy. Nhờ hệ thân kinh mà mối liên hệ giữa cơ thể động vật
và môi trường có thể diễn ra qua những hoạt động không điều kiện
- Phản ánh tâm lý là hình thức phản ánh có ở những động vật bậc cao có hệ
thần kinh trung ương phát triển. Gắn liền với các hoạt động có điều kiện, ở
phản ánh tâm lý, ngoài cảm giác còn có cả tri giác và biểu tượng. Phản ánh
tâm lý mang đến cho động vật thông tin của những sự vật và ý nghĩa của
dạng vật chất có tổ chức cao nhất đó là bộ não con người. Hoạt động ý thức
chỉ diễn ra trong hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới
khách quan tác động vào các giác quan của con người
- Ý thức là thuộc tính của vật chất nhưng không phải là thuộc tính của mọi
dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ
- Bộ não người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh
vật xã hội, có cấu trúc phức tạp gồm 14 15 tỷ tế bào thần kinh
- Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ
não người. Khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối
loạn. Tuy nhiên không thể đồng nhất hoạt động ý thức với hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người vì hoạt động ý thức chỉ là một mặt của hoạt động
- Tóm lại, không có bộ não người và không có sự tác động của thế giới khách
quan vào bộ não người thì không có ý thức. Sự phản ánh thế giới khách quan
- Nguồn gốc xã hội của ý thức được thể hiện ở vai trò của lao động và vai trò
các loài động vật kHÁC. Trong lao động con người đã biết chế tạo ra công cụ
lao động và biết sử dụng công cụ lao động để chế tạo ra của cải vật chất. Lao
động của con người là hoạt động có mục đích, sử dụng công cụ lao ododngj
tác động vào thế giới khách quan nhằm tạo ra của cải thỏa mãn như cầu của
con người
- Trong lao động, cấu trúc cơ thể người thay đổi, bộ não con người ngày càng
phát triển và hoàn thiện hơn dẫn đến tư duy trừu tượng của con người cũng
- Lao ododngj còn là cơ sở hình thành và phát triển ngôn ngữ. Trong lao
ododnjg con người tất yếu có mối quan hệ với nhau, có nhu cầu trao đổi kinh
nghiệm. Từ đó có ngu cầu phải nói với nhau một cái gì đấy. Ngôn ngữ ra đời
và phát triển cùng với lao động. Đây là cách giải thích duy nhất đúng về
- Ngôn ngữ la hệ thống vật chất tín hiệu mang nội dng ý thức, ngôn ngữ ra đời
là vỏ vật chất của tư duy, là hiệnt hân trực tiếp của ý thức, là phương thức để
- Ngôn ngữ là phương tiện để con người gió tiếp trong xã hội phản ánh 1 cáhc
khái quát sự vật tổng kết kinh nghiệm thực tiễ và trao đổi chứng giưa các thế
hệ. Ngôn gnuwx và lao động là hai sức kích thích chủ yếu biến bộ não con
vật thành bộ não con gnuwoif,, biên sphanr ánh tâm lý thành phản ánh ý thức
- Lao động và ngôn ngữ là hai nguồn góc xã hội quyết định sự hình thành và
- Chủ nghĩa duy tâm đã cường điệu vai trò của ý thức một cách thái hóa coi ý
thức, thoát ly đời sống hiện thực là nguyên thể đầu tiên tồn tại độc lập và là
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình thì tầm thường hóa vai trò của ý thức,coi ý thức
là dạng vật chất đặc biệt hay sự sao chép giản đơn thụ động thế giơi vật chất
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng giải thích bản chất của ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan, là quá trình phản ánh tích cực, năng động,
- Ý thức la fhinfh ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nội dung của ý thức
do thế giới khách quan quy định nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình
ảnh tinh thần nó không mang tính vật chất. Ý thức không bao giờ có thể là
cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức. Sự hình thành ý thức chịu sự tá
động bởi lăng kính chủ quan của mỗi người tâm tư tình cảm nguyện vọng
- Ý thức của con người có tính năng động, sáng tạo. Tính năng động thể hiện ở
chỗ ý thức không phải là sự sao chép giản đơn, nguyên xi hiện thức khách
quan mà là sự phản ánh có chọn lọc, phảnh ánh theo như cầu của thực tiễn.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ từ tri thức đã có, ý thức sáng tạo ra tri
thức mới về sự vật, tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, tiên tri dự báo
tương lai tưởng tượng ra những huyền thoại học thuyết khoa học. Tính sáng
tạo của ý thức không phải là ý thức đẻ ra vật chất. Tín sáng tạo của ý thức là
sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh
mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Ý thức chẳng qua
cũng chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người và
- Ý thức mang bản chất xã hội, con người là thực thể của xã hội nên ý thức
mang bản chất xã hội; ý thức ra đời gắn liền với những hoạt động thực tiễn
lịch sử của con người. Chịu sự chi phối không chỉ của quy luật sinh học mà