You are on page 1of 11

Câu 1 Trình bày mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí

tính?

1. Nhận thức cảm tính là gì? Nhận thức lý tính là gì?


Nhận thức là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan và bản thân con
người thông qua các giác quan và dựa trên kinh nghiệm hiểu biết của bản thân.
Nhận thức ở mức độ thấp là nhận thức cảm tính, ở mức độ cao hơn là nhận thức lý
tính. Nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong cùng một hoạt động thống nhất của con
người.

Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên, thấp nhất của con người. Trong
đó con người phản ánh những thuộc tính bên ngoài, những cái đang trực tiếp tác
động đến giác quan của họ. Nhận thức cảm tính bao gồm: cảm giác tri giác.

Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó con người phản
ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thức
khách quan một cách gián tiếp. Nhận thức lý tín bao gồm tư duy và tượng.

2. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý


tính:
Giống nhau:

- Đều là quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của
con người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.

- Đều là quá trình tâm lí nên có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách tương đối
rõ ràng..

- Chỉ phản ánh thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.

- Phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp.

- Đều có ở động vật và con người

-Là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất định trong hoạt
động nhận thức và toàn bộ đời sống con người.

- Phản ánh riêng lẻ các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
- Là mức độ đầu tiên của nhận thức cảm tính.

-Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và thế giới xung quanh. Nhờ mối liên
hệ đó mà cơ thể có khả năng định hướng và thích nghi với môi trường.

-Cảm giác giúp con người thu nhận nguồn tài liệu trực quan sinh động, cung cấp
nguyên liệu cho các hoạt động tâm lý cao hơn.

- Phản ánh trọn vẹn các thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng.

- Phản ánh sự vật, hiện tượng theo cấu trúc nhất định.

- Gắn liền với hoạt động của con người.

- Là mức độ cao nhất của nhận thức cảm tính.

- Tri giác giúp con người định hướng nhanh chóng và chính xác hơn, giúp con
người điều chỉnh một cách hợp lý hoạt động của mình trong thế giới, giúp con
người phản ánh thế giới có lựa chọn và có tính ý nghĩa.

Khác nhau:

Nhận thức cảm tính:


- Là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng
các giác quan để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy.
- Nhận thức cảm tính gồm các hình thức sau: cảm giác, tri giác, biểu tượng.

Đặc điểm:
- Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức.
- Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và
không bản chất.
- Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật.
-Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản chất,
tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai đoạn cao
hơn, giai đoạn lý tính.

Nhận thức lý tính:


- Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua
các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy luận.

Đặc điểm:
- Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
- Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
- Không có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.

Câu 2 Thực tiễn là gì? Thực tiễn có mấy hình thức cơ bản? Trong đó
hình thức nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Khái niệm: thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch
sử,xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Tính chất của hoạt động thực tiễn:


-Là hoạt động có tính cộng đồng xã hội.
-Là hoạt động có tính lịch sử cụ thể.
-Là hoạt động có tính sáng tạo, có mục đích cải tạo tự nhiên, hoàn thiện con
người.

Thực tiễn có ba hoạt động (hình thức) cơ bản:


– Hoạt động SẢN XUẤT VẬT CHẤT là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ
lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, các điều kiện cần
thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. VD: Hoạt động gặt lúa của
nông dân, lao động của các công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp…
– Hoạt động CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI là hoạt động của các cộng đồng người,
các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những quan hệ chính trị-xã
hội để thúc đẩy xã hội phát triển. VD: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội,
tiến hành Đại hội Đoàn Thanh niên trường học, Hội nghị công đoàn.
– Hoạt động THỰC NGHIỆM khoa học là một hình thức đặc biệt của thực
tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra, gần giống,
giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định
những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng nghiên cứu. Dạng hoạt động
này có vai trò trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại. Ngoài ra, các hoạt động thực tiễn không cơ bản
như giáo dục, pháp luật, đạo đức v.v được mở rộng và có vai trò ngày càng tăng
đối với sự phát triển của xã hội. VD: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của
các nhà khoa học để tìm ra các vật liệu mới, nguồn năng lượng.mới, vác-xin
phòng ngừa dịch bệnh mới.

Trong 3 hình thức (hoạt động) trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò
quan trọng nhất vì:
Sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
+Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên các mối quan hệ.
+Sản xuất vật chất là cơ sở sáng tạo ra toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.
+Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người.
+Là cơ sở cho sự tồn tại của các hình thức thực tiễn khác cũng như các hoạt
động sống khác của con người.

Câu 3 Chân lí là gì? Chân lí và sai lầm có chuyển hóa được cho nhau
không? Vì sao? Cho ví dụ.

- Trong phạm vi lý luận nhận thức của Triết học Mác- Lênin thì chân lý được
dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự
phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Hay nói cách khác thì chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh
và được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Chân lý phải được hiểu như 1 quá trình bởi
nhẽ bản thân sự vật có quá trình vận động biến đổi phát triển và nhận thức về nó
cũng phải được vận động biến đổi , cho nên nhận thức chân lý cũng phải là 1
quá trình .

- Chân lý có chuyển hóa được thành sai lầm không ?


Câu trả lời là có
- Theo nghiên cứu của lý luận nhận thức của Chủ nghĩa Mác – Lênin, chân lý là
định nghĩa dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách
quan; sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn
Trong đó, chân lý còn được chia làm 3 loại :
+ Chân lý tương đối
+ Chân lý tuyệt đối
+ Chân lý vĩnh cửu
1) Sự khác biệt giữa các loại chân lý
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối giống nhau ở chỗ chúng đều là
chân lý, tức là trái ngược với sai lầm. Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối có
sự khác nhau. Chân lý tương đối là chân lý chưa hoàn toàn đúng đắn, và do đó,
sẽ được con người thay thế bằng chân lý khác đúng đắn hơn. Chân lý tuyệt đối
là chân lý hoàn toàn đúng đắn, và do đó, sẽ không thể bị thay thế bằng chân lý
khác đúng đắn hơn. Một chân lý nào đó của con người nếu chưa hoàn toàn đúng
đắn thì sớm hay muộn sẽ được bổ sung và phát triển để trở nên đúng đắn hơn,
chân lý như vậy là chân lý tương đối. Một chân lý nào đó của con người nếu đã
hoàn toàn đúng đắn thì không cần phải được bổ sung và phát triển để trở nên
đúng đắn hơn, chân lý như vậy là chân lý tuyệt đối. Trong chân lý tương đối vẫn
chứa đựng một phần sai lầm. Trong chân lý tuyệt đối thì không chứa đựng một
phần sai lầm nào. Nhưng đến đây, một vấn đề phức tạp lại được đặt ra là ở chỗ,
có chân lý nào là chân lý tuyệt đối không, nói cách khác, phải chăng mọi chân
lý mà con người đạt được đều là chân lý tương đối?
Theo V.I.Lênin: “Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ những chân lý
tương đối đang phát triển”, “Con người không thể nắm bắt được = phản ánh =
miêu tả toàn bộ giới tự nhiên một cách đầy đủ”. Từ luận điểm này, chúng ta có
thể hiểu rằng, theo V.I.Lênin, con người ngày càng đi gần tới chân lý tuyệt đối,
chứ không thể đạt tới chân lý tuyệt đối; mọi chân lý mà con người đạt được đều
không hoàn toàn đúng hay không tuyệt đối đúng, tức đều là chân lý tương đối
chứ không phải là chân lý tuyệt đối; bất kỳ quan điểm nào của bất kỳ ai về bất
kỳ vấn đề nào dù đúng đắn đến đâu cũng đều chưa đầy đủ. Những chân lý đơn
giản như “Mặt Trời mọc ở hướng đông lặn ở hướng tây”, “đồng là kim loại”
cũng chỉ là chân lý tương đối, chứ không phải là chân lý tuyệt đối vì sẽ được
thay thế bằng các chân lý khác đầy đủ hơn, đúng đắn hơn. Không có chân lý
nào đúng đắn đến mức không cần phải bổ sung và phát triển cho đúng đắn hơn.
Khi thừa nhận mọi chân lý đều là chân lý tương đối, chủ nghĩa duy vật
biện chứng khác với chủ nghĩa tương đối. Sự khác nhau đó là ở chỗ, chủ nghĩa
tương đối không thừa nhận chân lý có tính khách quan, còn chủ nghĩa duy vật
biện chứng thừa nhận chân lý có tính khách quan. Chủ nghĩa tương đối cho rằng
mọi chân lý đều là chân lý tương đối với nghĩa nội dung của chân lý phụ thuộc
vào chủ thể nhận thức, tức là cho rằng chân lý không có tính khách quan. Còn
chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng mọi chân lý đều là chân lý tương đối với
nghĩa nội dung của chân lý không phụ thuộc vào chủ thể nhận thức, tức là cho
rằng chân lý có tính khách quan. Khi thừa nhận mọi chân lý đều là chân lý
tương đối, tức là thừa nhận tính tương đối của chân lý, chủ nghĩa duy vật biện
chứng cũng thừa nhận có chân lý vĩnh cửu. Ví dụ, theo Ph.Ăngghen,
“Napôlêông chết ngày...” là một chân lý vĩnh cửu. Chân lý vĩnh cửu mà
Ph.Ăngghen nói ở đây, theo chúng tôi, cần được hiểu không phải là chân lý
tuyệt đối, mà cần được hiểu là chân lý tương đối. Chân lý vĩnh cửu là chân lý
không thể bị bác bỏ, chứ không phải là chân lý tuyệt đối. Chân lý vĩnh cửu cũng
là chân lý tương đối vì vẫn có thể được làm cho đúng đắn hơn. Tuy nhiên, các
chân lý vĩnh cửu là các chân lý đơn giản, dù có thể bổ sung và phát triển nhưng
người ta không cần phải bổ sung và phát triển.
Đó là chân lý, vậy còn sai lầm thì sao ?
Còn sai lầm là những khái niệm để chỉ những quan điểm, việc làm,hành động
không đúng đắn, trái với quy luật khách quan và lẽ phải thông thường
Vậy, quay lại câu hỏi ban đầu : “ Sai lầm và chân lý có quyền chuyển hóa cho
nhau không?”
Thì câu trả lời của tôi là vừa có thể chuyển hóa, vừa không thể chuyển hóa. Với
một số chân lý tương đối và tuyệt đối, nó vẫn có thể chưa hoàn thiện hoặc có
những lỗi sai, và cầm được tìm tòi, khai phá đề thay đổi cho đúng.
Ví dụ vào thời trung cổ, trước khi galilei chứng minh thuyết “Nhật Tâm” thì
trước đó, thuyết “Địa tâm” được coi là chân ái
Hay như ngày xưa người ta nghĩ rằng trái đất không phải hình cầu, nó cũng là
một chân lý cho đến khi nó bị chứng minh là sai lầm
Đó là lí do có thể chuyển hóa
Vậy còn tại sao nó không thể chuyển hóa ?
Là bởi, chân lý còn tồn tại chân lý vĩnh cửu, tức là nó luôn đúng và không thể
sai lầm được,trường tồn với thời gian, khác với chân lý tương đối và tuyệt đối,
bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài thì chân lý vĩnh cửu không thể bị bác bỏ,
như những công thức,định lý
VD: định lý pytago,...
Kết luận:
Chân lý và sai lầm đều có mối quan hệ, chặt chẽ, gắn liền nhau, chân lý là cái
khởi đầu, sai lầm xuất hiện và chỉnh sửa, biến đổi chân lý.

Câu 4 Lực lượng sản xuất là j? Trong các bộ phận của lực lượng sản
xuất bộ phận nào qtrong nhất? Vì sao?
- Khái niệm: Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên, nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội bảo đảm nhu cầu của con người.

- Lực lượng sản xuất bao gồm:


 Người lao động: Là người tham gia vào quá trình sản xuất và là chủ thể
sáng tạo; đồng thời là chủ thể tiêu dùng của mọi của cải vật chất xã hội.
Là nguồn nhân lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất. NLĐ bao gồm
yếu tố: Thể lực, Trí lực.
Trí lực: là nói về sự thông minh, sự nhanh nhạy, tài năng...
Thể lực: là nói về sức khoẻ, sự cứng rắn…
 Tư liệu sản xuất: là phần giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất vật
chất. Trong TLSX bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động

- Đối tượng lao động: Là những vật nhằm súc tác bằng các công cụ lao
động trong quá trình sản xuất vật chất.
- Tư liệu lao động: là phần của giới tự nhiên tham gia vào quá trình sản
xuất vật chất. Gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
* Phương tiện lao động: là những vật hỗ trợ con người vận chuyển, bảo
quản trong quá trình sản xuất vật chất.
* Công cụ lao động: là những vật đóng vai trò “trung gian” "truyền dẫn”
sức của người lao động vào những vật chất khác trong quá trình sản xuất
vật chất.

- Trong bộ phận của lực lượng sản xuất, yếu tố giữa vai trò quan trọng nhất là
Người lao động vì người lao động :
+ Là chủ thể của quá trình sản xuất.
+ Là người tạo ra tư liệu lao động và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao
động để tạo ra sản phẩm. Suy đến cùng, tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao
động của con người. Còn với người lao động, công cụ lao động là yếu tố năng
động, cách mạng.
+ Là yếu tố quyết định năng suất, hiệu quả của quá trình sản xuất
+ Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất để quá trình
sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
-Ý nghĩa: Chiến lược phát triển con người, nối dài bàn tay người và nhân lên
sức
mạnh của con người.

Câu 5 Từ mqh giữa lực lượng sx và quan hệ sx hãy giải thích vì sao Việt
Nam phải phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần?

Việt Nam cần phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần vì mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất cũng cần phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế thị trường nhiều thành
phần giúp tạo điều kiện cho sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành của
quan hệ sản xuất và sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố cấu thành nên lực
lượng sản xuất. Điều này sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ,
đồng thời tạo ra đột phá trong nhiều lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu của thời đại
Cách mạng 4.0

Câu 6 Từ mqh giữa lực lượng sx và quan hệ sx hãy lí giải ở Việt Nam vì
sao công nghiệp hóa hiện đại hòa được coi là nvu trọng tâm ?
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của quá trình sản xuất, có
mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Lực lượng sản xuất
là toàn bộ những tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động được sử
dụng trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản
phẩm.

- Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất có vai trò quyết định, quan hệ sản
xuất có vai trò điều tiết, quy định sự vận động và phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì sẽ đòi hỏi
phải có những quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất.

- Ở Việt Nam, công nghiệp hóa hiện đại hòa được coi là nvu trọng tâm vì:

 Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất còn thấp
kém, chủ yếu dựa vào sức lao động thủ công. Trong khi đó, quan hệ sản
xuất ở nước ta vẫn là quan hệ sản xuất cũ, còn nhiều hạn chế, không phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
 CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền sản xuất và
đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch
vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo. CNH, HĐH sẽ
giúp nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, tạo ra những cơ sở vật chất
- kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. CNH, HĐH cũng sẽ tạo ra cơ sở để xây
dựng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, bảo đảm cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Cụ thể, CNH, HĐH ở Việt Nam sẽ mang lại những lợi ích sau:

 Tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh: Khi lực
lượng sản xuất được nâng cao, các tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức
lao động được cải thiện thì năng suất lao động sẽ được nâng cao, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh cũng sẽ được nâng cao.
 Tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động: CNH, HĐH sẽ tạo
ra nhiều ngành nghề mới, nhiều công việc mới, thu hút nhiều lao động, tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
 Giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: Khi
năng suất lao động được nâng cao, thu nhập của người lao động được tăng lên
thì đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân sẽ được nâng cao, tình trạng
nghèo đói sẽ được giảm thiểu.
 Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc: CNH, HĐH sẽ tạo ra tiềm lực kinh tế, khoa học - công nghệ, quân sự
vững mạnh, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc.

- Do đó, CNH, HĐH là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Để thực hiện thành công nhiệm vụ này, cần có sự nỗ lực của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

- Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), CNH, HĐH ở
Việt Nam cần được đẩy mạnh và đổi mới, tập trung vào các lĩnh vực then chốt,
có lợi thế, như công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ cao, công nghệ thông
tin, nông nghiệp công nghệ cao,... Đồng thời, cần chú trọng phát triển nguồn
nhân lực, khoa học và công nghệ, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư.

Câu 7 Từ mqh giữa cơ sở hạ tầng và cấu trúc thượng tầng hãy lí giải vì
sao ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, Đảng các định đổi mới kinh tế làm
trọng tâm?
- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng là cơ sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị.

- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính trị,
chính trị tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò
kiến trúc thượng tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng
phái vì lợi ích kinh tế sống còn của mình. Sự tác động của kiến thức thượng
tầng đối với cơ sở hạ tầng trước hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách
của đảng, nhà nước. Chính vì vậy Lenin viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập
trung kinh tế… Chính trị không thể không chiếm vị trí hạng đầu so với kinh tế”.

- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào
giữa kinh tế và chính trị đều là sai lầm. Bởi:
+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào
quan điểm duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ,
bất chấp kỷ cương, pháp luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của
kinh tế sẽ dẫn đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai
đoạn và cũng không tránh khỏi thất bại.
- Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
rất quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này. Điều đó thể hiện ở chỗ:
trong thời kỳ đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả
kinh tế và chính trị, trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới
chính trị từng bước thận trọng vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích
hợp, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững
định hướng XHCN.

Câu 8 Tại sao nói sự phát triển các hình thái kinh tế xh lại là một quá
trình lịch sử tự nhiên?

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên
Với kết luận“Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên”. C.Mác đã tìm thấy động lực phát triển của lịch sử
không phải do một lực lượng siêu tự nhiên nào, mà chính là thông qua
hoạt động của con người dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
Do đó, cần phải hiểu kết luận này từ hai khía cạnh khác nhau:
Thứ nhất, kết luận ấy của C.Mác là biểu hiện tập trung nhất của quan
niệm duy vật về lịch sử và được xuất phát từ một sự thật hiển nhiên là:
“Trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động,
trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt
động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.”. Từ sự thật hiển nhiên ấy, cho phép
chúng ta khẳng định rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người thực chất
là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. Để thoả mãn nhu cầu trong quá
trình tồn tại và phát triển của mình, loài người phải tiến hành sản xuất ra
của cải vật chất.
Sản xuất vật chất lại luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, sự
phát triển đó bao giờ cũng bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ lao động - cái mà con người thường xuyên sáng tạo,
cải tiến và phát triển qua các trình độ khác nhau. Do đó, nó kéo theo sự
biến đổi, thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất và hình thành các
phương thức sản xuất kế tiếp nhau. Phương thức sản xuất thay đổi kéo
theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi, đó chính là sự thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội. Theo quy luật phát triển, hình thái kinh tế -
xã hội tiến bộ hơn, cao hơn sẽ ra đời thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ
đã tỏ ra lỗi thời và lạc hậu. Như vậy, sự thay thế lẫn nhau của các hình thái
kinh tế - xã hội trong lịch sử là một quá trình phát triển từ thấp đến cao
theo quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người.
Thứ hai, động lực thúc đẩy các hình thái kinh tế - xã hội phát triển lại
nằm ngay trong lòng xã hội. Đó chính là các mâu thuẫn xã hội, mà trước
hết là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa các giai cấp
(trong xã hội có giai cấp)… Chính sự tác động của các quy luật khách
quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau là con đường
phát triển chung của lịch sử xã hội loài người. Song, con đường phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc còn chịu sự chi phối của những điều kiện về tự
nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hoá, về điều kiện quốc tế và thời
đại v.v… Do đó, lịch sử phát triển của xã hội loài người là thông qua các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Tuy nhiên, cũng có những quốc
gia, dân tộc có thể bỏ qua một, vài hình thái kinh tế- xã hội nào đó. Việc
bỏ qua ấy cũng phải được diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên
tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của quốc gia, dân tộc
ấy.
Như vậy, nếu chúng ta quy các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản
xuất, rồi đem quy các quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, thì sẽ thấy được sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã
hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên.

You might also like