You are on page 1of 14

1. Phân tích khuynh hướng(con đường) của sự vận động và phát triển.

Vận
dụng.( dựa trên quy luật phủ định của phủ định)
 Khái niệm:
- Sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng
sự vật, hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thế tồn tại
khác của cùng một sự vật trong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự
thay thế đó gọi là sự phủ định.
- Phủ định siêu hình: để hiểu phủ định biện chứng trước hết cần phủ định
siêu hình là gì. Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định
không tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, không tạo cho cái mới ra đời,
lực lượng phủ định là ởbên ngoài sự vật.
- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân,
sự phát triển tự thân, là mắt khâu quan trọng trong quá trình dẫn tới sự ra
đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc
trưng cơ bản sau: tính khách quan và tính kế thừa
+ Khách quan: tự thân sự vật phủ định, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người, ngay cả hình thức (cách thức) phủ định của sự vật cũng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Đó là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên
trong sự vật quy định.
+ Có tính kế thừa: có sự liên hệ giữa cái cũ và cái mới, không phủ định sạch trơn
hoàn toàn cái cũ, mà kế thừa có lọc bỏ những cái cũ không còn phù hợp.
 Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định
- Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời cái mới, mối
liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch
trơn. Đồng thời phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.
- Chống thái độ hư vô chủ nghĩa, đồng thời chống thái độ bảo thủ, khư khư
ômlấy những gì đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp, không chịu đổi
mới.Phải hiểu phát triển không phải là đường thẳng mà theo đường xoắn
ốc đi lên. Nghĩa là, có nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình vận động,
phát triển. Phát triển không phải là đường thẳng.
 Ví dụ:
Ví dụ: quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người: xã hội chiếmhữu nô lệ
ra đời là sự phủ định đối với xã hội nguyên thuỷ, đến lượt nó lại bịxã hội phong
kiến phủ định, sau đó xã hội phong kiến lại bị xã hội chủ nghĩa tư bảnphủ
định.Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biệnchứng là sự
thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗilần phủ định biện chứng được
thực hiện sẽ mang lại nhữngnhân tố tích cực mới.Như thế, những lần phủ định
biện chứng nối tiếp nhau sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng. Đó là kết quả
phủ định của phủ định.
Ví dụ : Vòng đời của một con tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - trứng.Sự xuất hiện
của "tằm" xóa bỏ sự tồn tại của "trứng" nên tằm làphủ định của trứng."Nhộng"
sinh sôi, tằm không còn là tằm nên "nhộng" là sự phủ địnhcủa "tằm"."Ngài" phát
triển từ "nhộng", xóa bỏ sự tồn tại của "nhộng" nên“tằm” là phủ định của
"nhộng".Cuối cùng, trứng mới ra đời từ ngài, bắt đầu một quá trình mới.Trứng
chính là sự phủ định của "ngài".Quá trình phát triển của tằm đã trải qua 4 lần
phủ định.
 Vận dụng

Tránh phủ định sạch trơn. Đồng thời, phải biết kế thừa có chọn lọc tinh hoa của cải
cũ để phát triển cái mới:

Theo quy luật phủ định của phủ định. “ sự kế thừa thông qua khâu trung gian giữa
cái bị phủ định và cái phủ định” và sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ,
cái tiến bộ thay thế cải lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả
những nhân tố tích cực của cái cũ: vì vậy, trong hoạt động. con người phải biết kế
thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn. Hoạt động có ý thức của
con người đi liền với xã hội cái mới ra đời. Vì thế, trong hoạt động của mình con
người phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó.

Con người đang sống trong một thời đại mới, với nhiều điều phát triển vượt bậc so
với thời ông cha ta. Tuy nhiên, không phải những điều mới mẻ hơn luôn đúng,
những điều ông cha ta từ xưa dạy cũng là cả một quá trình chắt lọc và phân tích, và
không phải cái gì cũng bảo thủ. Những con người thời đại mới chính là có nhiệm
vụ chắt lọc, kế thừa những kinh nghiệm của người xưa để làm tiền đề, phát triển,
nâng cấp hơn nữa những điều cha ông ta dạy. Học sinh, sinh viên như tôi đang
ngày ngày học tập để kế thừa và chắt lọc những điều ông cha dạy để phát triển cái
mới, cái mà đó là những phiên bản nâng cấp hoàn hảo hơn của những điều cũ. Từ
đó hoàn thiện bản thân hơn, nhận thức đúng đắn trong quá trình trưởng thành đạt
hiểu quả cao trong học tập rèn luyện cũng như cuộc sống thường ngày.
2. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức? Ý nghĩa phương pháp luận.
* Đối với nhận thức, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính đúng đắn của quá trình
nhận thức chân lý:
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động
thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác
động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động
đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và các
quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con
người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở
đó hình thành các lý thuyết khoa học.
Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời
cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì
thế, chủ thể nhận thức KHÔNG THỂ có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc
về thế giới nến nó xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực
tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên
hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của
bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối
hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa.
Như vậy, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn làm
cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất
định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
– Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần hoàn thiện các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực
tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải
biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức”.
Nhận thức không chỉ thỏa mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận
thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải
quyết.
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà
kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại.
– Thực tiễn là tiêu chuẩn tiêu chuẩn của chân lý:
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý
hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý”.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta phải luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
– Phải quán triệt quan điểm thực tiễn: việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.
– Nghiên cứu lý luận phải đi đôi với thực tiễn; học phải đi đôi với hành. Xa rời
thực tiễn dẫn đến bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
– Nhưng không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, tuyệt đối hóa vai trò của
thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
16. Các tính chất của chân lý. Vì sao nói chân lý tuyệt đối bằng tổng số vô hạn
của các chân lý tương đối?
* Các tính chất của chân lý:
- Tính khách quan
Chân lý là tri thức chứ không phải bản thân hiện thực khách quan, nhưng tri thức
đó phải phản ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là
đúng. Cho nên, theo nghĩa đúng của từ này, chân lý bao giờ cũng là khách quan vì
nội dung phản ánh của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể của nhận thức.
V.I. Lênin nhấn mạnh; “Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý không phụ
thuộc vào con người và loài người” chỉ phụ thuộc vào thực tại khách quan, không
phụ thuộc vào tính đơn giản hay tính chặt chẽ của lôgíc, không phụ thuộc vào lợi
ích hay sự quy ước, v.v.. V.I. Lênin cũng khẳng định “là người duy vật, có nghĩa là
thừa nhận chân lý khách quan”.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối
với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế
khách quan chứ không phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri
thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác
lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận thức; trái lại, nội dung đó thuộc
về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt
quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.
- Tính tuyệt đối và tính tương đối
Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật,
hiện tượng nào mà con người hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó
trong quá trình phát triển là vô hạn. Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều
kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân
lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh.
Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt
được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó
trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống
nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là
những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại;
những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù có
tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt
đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ
nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối
của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó
dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và
thuyết bất khả tri.
- Tính cụ thể
Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với
một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có
nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định. Nội
dung đó không phải là sự trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà nó luôn luôn
gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian hay
một hoàn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ chân
lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly những điều
kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào
sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó không phải là những tri thức đúng đắn và không
được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin đã khẳng định: “không có
chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững nguyên tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi
xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan
điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng
những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; bằng phương pháp của Mác
trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm
cụ thể nhất định.
* Chân lý tuyệt đối bằng tổng số vô hạn của các chân lý tương đối vì:
Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách
quan, những tri thức này “ đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ”; Tức là chỉ nhìn
nhận ở một đặc điểm, khía cạnh trong bản chất vấn đề.
Chân lý tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan. Từ
đó cho ta nhìn nhận bao quát, khái quát đối tượng. Chân lý tuyệt đối là sự tổng hợp
vô tận những chân lý tương đối. Không một tri thức cụ thể nào của con người có
thể xem là chân lý tuyệt đối mà chỉ là một phần rất nhỏ của chân lý tuyệt đối.
Mặt khác, mỗi chân lý, trong điều kiện xác định, nó mới chỉ phản ánh được một
phần thực tại khách quan. Qua đó mà con người phải gắn các điều kiện cụ thể mới
có thể khẳng định tính đúng đắn của chân lý đó. Tức là dùng các chân lý tương đối
để chứng minh chân lý tuyệt đối.
Ví dụ:
+ Tính tuyệt đối của chân lý: Trong mặt phẳng có độ cong bằng không thì tổng các
góc trong tam giác tuyệt đối bằng hai góc vuông;
+ Tính tương đối của chân lý: Nếu điều kiện thay đổi độ cong khác không thì định
lý đó không còn đúng nữa.
Như vậy thông thường phải gắn chân lý với các điều kiện cố định. Khi một trong
các điều kiện không còn thì chân lý cũng không còn đúng
I. Câu hỏi 2
1. Sản xuất vật chất là cơ sở sự tồn tại sự phát triển xã hội
- Về khái niệm:
Các nhà triết học duy tâm giải thích nguyên nhân, động lực phát triển của xã hội
là từ ý thức tư tưởng của con người hay là lực lượng siêu nhiên nào đó. Các nhà
duy vật trước Mác cũng giải thích một cách duy tâm về sự phát triển của xã hội.
Riêng Mác thì cho rằng sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người
và của xã hội loài người đó là cái để phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa xã hội
loài người với loài súc vật, đó là quá trình hoạt động có mục đích và không
ngừng sáng tạo của con người. Sự sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra chính bản thân con người. Ba quá trình
này không tách rời nhau trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của sự
tồn tại và phát triển xã hội và xét đến cùng, quyết định đến cùng toàn bộ sự
vận động đời sống xã hội.
Từ đó ta đi đến định nghĩa: Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng
công cụ lao động tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các
dạng vật chất của tự nhiên để tạo ra của cải vật chất xã hội nhằm thỏa mãn nhu
cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại của xã hội
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định
sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội loài người, là hoạt động nền tảng
làm phát sinh phát triển những mối quan hệ của con người. Nó chính là cơ sở của
sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người. Khác với các quan
điểm duy tâm về lịch sử, C.Mác đã xuất phát từ “ Con người hiện thực” và đi đến
kết luận rằng : “... tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền
đề của mọi lịch sử đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra
lịch sử, nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất
ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống
vật chất…”. Cũng vì vậy, có thể khẳng định: con người với tư cách “Người” được
bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.
Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên,
biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không
ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát
triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Như
vậy, sự vận động phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, suy đến cùng có nguyên
nhân từ tình trạng phát triển của nền sản xuất xã hội. Do đó, để giải thích và giải
quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần phải tìm nguyên nhân cuối
cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất vật chất của xã hội đó, mà căn
bản là từ trình độ phát triển phương thức sản xuất của nó.
Sản xuất vật chất không những là cơ sở cho mọi sự sinh tồn của xã hội mà còn là
cơ sở để hình thành nên tất cả các hình thức quan hệ xã hội khác như nhà nước,
pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật,… Theo C.Mác “ việc sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt vật chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất
định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát
triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật, và thậm chí cả
những quan niệm tôn giáo của con người ta”. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự
tiến bộ xã hội, không phải lúc nào sản xuất cũng ở trong trình độ cũ mà nói chung
là không ngừng tiến lên từ thấp đến cao, mỗi khi sản xuất đến giai đoạn mới cách
thức sản xuất cũng thay đổi theo, kỹ thuật được cải tiến, năng suất lao động được
nâng cao các quan hệ sản xuất đều biến đổi theo.
Như chúng ta đã biết: trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, con người luôn phải nổ lực sản xuất để tạo ra của cải vật chất để phục vụ
cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển trong xã hội. Từ thời nguyên thủy đến nay con
người đã trải qua rất nhiều hình thức lao động từ thô sơ lạc hậu nhưng qua quá
trình biến đổi trong xã hội đến ngày nay con người đã sáng tạo ra được nhiều hình
thức lao động hết sức tinh xảo và hiện đại. Ở tất cả các hình thức lao động mà con
người đã tạo ra đó cũng chỉ nhằm mục đích biến đổi tự nhiên để tạo ra những sản
phẩm xã hội phục vụ cho nhu cầu chính yếu cho họ và nhằm thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Trong quá trình phát triển, loài người đã vượt qua nhiều nấc thang lịch
sử, cơ sở của việc chuyển từ nấc thang lịch sử này sang nấc thang lịch sử khác, rồi
cơ sở của tiến bộ xã hội là gì?
C.Mác và Ăngghen đã có một phát minh vĩ đại đó là: “sản xuất vật chất là cơ sở
cho sự phát triển của xã hội loài người” vì: Muốn sống trước hết con người phải có
thức ăn, nhà ở và những của cải vật chất khác.
Những tư liệu sinh hoạt cho con người không có sẵn trong tự nhiên mà chúng được
tạo ra thông qua lao động của con người. Vì vậy sản xuất vật chất là cơ sở của
tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Việc chuyển từ nấc thang này sang
nấc thang khác của sự phát triển ấy trước hết gắn liền với sự phát triển của quá
trình sản xuất.
Tóm lại, dù được xét trong toàn bộ lịch sử của sự hình thành và phát triển của xã
hội loài người hay trong giai đoạn lịch sử cụ thể thì sản xuất vật chất vẫn luôn
đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Liên hệ vào thực tiễn Việt Nam ta hiện nay
Ở Việt Nam ta, do đặc điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất còn thiếu thốn
nghèo nàn, phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản xuất còn thấp kém, muốn
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, cần phải tiến hành đổi mới nhiều mặt.
Trong đó, có đổi mới về kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phát huy nội lực, thu hút
ngoại lực, từng bước đưa nền kinh tế tăng trưởng bền vững tạo ra nguồn của cải vật
chất dồi dào không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho
xuất khẩu. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế
mũi nhọn, kết hợp phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan
niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Bên cạnh đó nước ta vẫn còn một số hạn chế như: còn nghèo và kém phát triển.
Chúng ta lại chưa thực hiện tốt trong tiết kiệm sản xuất, tiêu dùng, dồn vốn cho
đầu tư phát triển chưa đúng cách, chưa tập trung. Tình hình xã hội còn nhiều tiêu
cực và nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất
có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng Quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn
yếu. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.
Từ đó mà ta có những giải pháp như sau:
+Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai đường lối, chủ trương
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh.
+Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài nguyên quốc
gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về khoa học của thế
giới, hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
+Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm: đẩy
mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên gia; tăng cường
cơ sở vật chất kĩ thuật cho các nghành khoa học và công nghệ; xây dựng và
thực hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự phát triển khoa học và công
nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.
+Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại thì chúng ta cần phải xây dựng một đương
lối kinh tế đối ngoại đúng đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, vừa giữ vững được độc lập, chủ quyền dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Phương thức sản xuất và vai trò của nó
Phương thức sản xuất và vai trò của nó:
- Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất
ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
- Vai trò của ptsx:
+ PTSX quyết định sự phát triển của nền sản xuất xã hội: Trong quá trình sản xuất,
người ta cần phải tính tới sự ảnh hưởng tác động từ các yếu tố tự nhiên (địa lý, khí
hậu) cũng như yếu tố dân số (chất lượng, số lượng, mật độ dân cư), song muốn
phát triển sản xuất người ta cần xây dựng một phương thức sản xuất phù hợp, hiệu
quả.
+ PTSX quyết định sự phát triển toàn thể xã hội: Lịch sử loài người là lịch sử của
sự phát triển phương thức sản xuất.
Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất gồm có người lao động và tư liệu sản xuất là một khái
niệm cơ bản trong lý thuyết kinh tế. Đây là một yếu tố quan trọng xác định
khả năng sản xuất của một quốc gia hoặc xã hội.
* Người lao động (Lao động):
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng người lao động là yếu tố quan trọng nhất và có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất vì các lý do sau:
- Người lao động là “động vật biết chế tạo công cụ”: Họ không chỉ sử dụng những
công cụ lao động có sẵn, mà còn tạo ra và cải tiến các công cụ để biến đổi các
nguồn tài nguyên “do tự nhiên cung cấp” thành khí quan hoạt động của con người.
Điều này tăng thêm sức mạnh và hiệu quả của công cụ lao động.
- Sự sáng tạo và kết hợp yếu tố cấu thành của tư liệu sản xuất: Người lao động biết
tận dụng và kết hợp các yếu tố như đối tượng lao động, công cụ lao động và
phương tiện lao động để hiện thực hóa vai trò và tác động của chúng. Nhờ vào sự
sáng tạo và kỹ năng, họ tạo ra sức mạnh tổng hợp để hiệu quả cải tạo giới tự nhiên.
- Tính linh hoạt và năng động trong quá trình sản xuất: Trong khi các yếu tố của tư
liệu sản xuất có hạn và bị hao mòn theo thời gian, người lao động có khả năng tự
nâng cao kiến thức và kỹ năng thông qua quá trình học hỏi và trau dồi. Điều này
giúp họ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của quá trình sản xuất.
Vai trò của người lao động trong quá trình sản xuất không phải là cố định và luôn
thay đổi theo thời gian. Trước đây, do nhận thức còn hạn chế, người lao động chủ
yếu sử dụng sức mạnh cơ bắp để tác động vào giới tự nhiên. Nhưng khi công cụ
lao động và máy móc phát triển, yếu tố kỹ năng và trí tuệ trở nên quan trọng hơn.
Năng lực trí tuệ của người lao động ngày càng được nâng cao, và giá trị do lao
động trí tuệ tạo ra trong quá trình sản xuất cũng ngày càng tăng. Điều này phản ánh
tính hiện đại của người lao động trong lực lượng sản xuất
* Tư liệu sản xuất:
- Tư liệu gồm hai loại: đối tượng lao động và tư liệu lao động
+ Đối tượng lao động: Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư liệu sản
xuất là các tài sản vật chất đầu vào cần thiết để tổ chức sản xuất và tạo ra các sản
phẩm có giá trị phục vụ cho con người. Trong chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp, các
hình thái tư liệu sản xuất được thể hiện rõ nét, phản ánh tính chất mà C. Mác đã
nêu ra.
Một phần trong lực lượng sản xuất là “đối tượng lao động”, tức là những đối tượng
vật chất bị tác động và biến đổi bởi sức lao động của con người nhằm phù hợp với
mục đích sử dụng. Các đối tượng lao động này sẽ trở thành tiền đề cho tư liệu lao
động trong tương lai.
Có hai loại đối tượng lao động:
Đối tượng lao động tự nhiên bao gồm các tài nguyên thiên nhiên như đất đai, cây
cối, khoáng sản, nguồn sinh vật trên cạn và thuỷ sản đa dạng. Ví dụ, cây cối được
khai thác để trở thành gỗ, là nguồn nguyên liệu cho sản xuất giấy sau này.

Ngoài ra, còn có đối tượng lao động đã qua tay con người và được cải biến cấu trúc
từ đối tượng tự nhiên ban đầu. Thường là đối tượng đặc trưng trong ngành công
nghiệp chế biến như vải, nguyên liệu cho xây dựng và các sản phẩm khác. Đối
tượng lao động “nhân tạo” này đang ngày càng tăng mạnh để thay thế cho đối
tượng lao động tự nhiên, do xu hướng công nghiệp hoá dẫn đến sự cạn kiệt của các
tài nguyên tự nhiên. Mặc dù vậy, cơ sở để tạo nên đối tượng lao động chế biến đặc
thù vẫn xuất phát từ nguồn gốc tự nhiên. Vì vậy, nhận thức về vấn đề này, con
người cần có các chính sách phù hợp để khai thác và sử dụng hợp lý.
+ Tư liệu lao động: Tư liệu lao động là yếu tố vật chất trung gian mà con người sử
dụng để tác động lên đối tượng lao động và biến chúng thành sản phẩm đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng. Ví dụ, khi con người sử dụng máy móc để khai thác khoáng sản
phục vụ cho nhu cầu công nghiệp, thì máy móc chính là tư liệu lao động được sử
dụng. Ngoài ra, một số đối tượng lao động trong một ngành công nghiệp có thể là
tư liệu lao động của ngành khác. Ví dụ, gỗ và than đá có thể là tư liệu lao động của
một ngành công nghiệp khác như sản xuất giấy hoặc năng lượng.
Có hai thành phần chính của tư liệu lao động:
Công cụ lao động: Đây là bộ phận trực tiếp tác động lên đối tượng lao động để
biến đổi theo nhu cầu sử dụng của con người. Công cụ lao động có vai trò cầu nối
giữa đối tượng lao động và con người trong quá trình sản xuất và quyết định đến
năng suất và chất lượng sản phẩm. Ví dụ, trong sản xuất gỗ, máy cưa là một công
cụ lao động quan trọng.
Phương tiện lao động: Đây là bộ phận vật chất đi cùng với công cụ lao động để con
người sử dụng trong quá trình tác động lên đối tượng lao động. Phương tiện lao
động bao gồm các bộ phận bình chứa như thùng, lọ, bình dùng để chứa đựng sản
phẩm thô, nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm. Ngoài ra, kết cấu hạ tầng như các
công trình xí nghiệp, nhà máy, giao thông vận tải và viễn thông cũng là phương
tiện lao động phục vụ cho quá trình sản xuất và tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của con
người ở mọi khía cạnh
Tổng hợp lại, để sản xuất hiệu quả, cần có sự kết hợp hài hòa giữa người lao động
có trình độ đào tạo cao, kỹ năng chuyên môn và sáng tạo với tư liệu sản xuất hiện
đại và quản lý tài chính thông minh. Việc đầu tư vào nguồn nhân lực và tài chính,
cùng với việc ứng dụng công nghệ tiên tiến và quản lý hiệu quả, sẽ giúp tăng
cường năng suất và chất lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế và
xã hội

3. Kết cấu của lực lượng sản xuất. Tại sao nói trong thời đại ngày nay,
khoa học đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Nội dung quy luật cơ bản phổ biến nhất chi phối sự vận động và phát
triển của xã hội
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng,
tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là công cụ lao động.

Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản
xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng
lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ
ứng dụng khoa học vào sản xuất.

Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong
lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính
chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém
phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến
trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hóa.

Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.

Trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực
lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản
xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành
“xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ con người
trong lao động sản xuất, đến tổ chức phản công lao động xã hội, đến phát triển và
ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác động đến sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật phổ biến tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế
phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất.
Ý nghĩa trong đời sống xã hội của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh
tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao
động và công cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một
quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban
xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống
tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận
dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự
đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng
Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng
đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

You might also like