You are on page 1of 9

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của Chủ

nghĩa Mác - Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng.Người
nhấn mạnh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giảng dạy lý luận
chính trị là yêu cầu cấp thiết và giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

(Theo quan điểm triết học Mác xít,...)


*Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong lí luận nhận thức mác xít. Lê-nin cho
rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lí luận nhận thức”.

Triết học Mác – Lênin đánh giá phạm trù thực tiễn là một trong những
phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học nói chung và lý luận nhận thức
nói riêng. Quan điểm đó đã tạo nên một bước chuyển biến cách mạng
trong triết học. Triết học Mác khẳng định:

Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.

Như vậy, khác với hoạt động tư duy, trong hoạt động thực tiễn, con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất
làm biến đổi chúng theo mục đích của mình. Đây là hoạt động đặc trưng
và bản chất của con người. Nó được thực hiện một cách tất yếu khách
quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch
sử. Do vậy, thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và
mang tính lịch sử – xã hội.
Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản sau:

 Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực
tiễn. Đây là hoạt động mà con người sử dụng những phương tiện
thích hợp tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất, nhằm
duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội.
 Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau nhằm cải biến các mối quan hệ xã hội để thúc đẩy
xã hội phát triển. Đây là những hoạt động làm cải biến mối quan
hệ xã hội, làm thay đổi các chế độ xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển.
 Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong đều kiện
do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật vận động của
đối tượng nghiên cứu. Đây là một hình thức đặc biệt của thực tiễn,
nó có vai trò ngày càng tăng trong sự phát triển của xã hội.
 Giữa các dạng hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất, đóng vai trò
quyết định. Bởi vì nó là hoạt động khách quan, thường xuyên nhất
tạo ra điều kiện cần thiết để con người tồn tại và phát triển; đồng
thời cũng tạo điều kiện để tiến hành các dạng hoạt động khác. Còn
các dạng hoạt động khác nếu tiến bộ thì tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất vật chất được tăng cường, nếu phản tiến bộ thì kìm
hãm sự gia tăng của sản xuất vật chất.
 Chính sự tác động lẫn nhau giữa các dạng (hình thức) hoạt động
làm cho thực tiễn vận động, phát triển không ngừng và ngày càng
có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
(Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ
thuộc vào nó được hướng dẫn bởi lý luận)
*Lí luận và các cấp độ lí luận
Lí luận theo tiếng Hy Lạp là “theoria” có nghĩa là sự quan sát, nghiên
cứu, nhận ra, thảo luận.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về “lí luận”, song có thể hiểu theo cách
phổ biến nhất: “Lí luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một
lĩnh vực nào đó trong thế giới. Nói cách khác, lí luận là hệ thống các
luận điểm nhất định gắn bó chặt chẽ với nhau về mặt logic và phản ánh
bản chất, các quy luật, hoạt động và phát triển của khách thể được
nghiên cứu”.

Để tồn tại và phát triển, con người luôn tìm mọi cách để thỏa mãn nhu
cầu hiểu biết của mình về thế giới, trên cơ sở đó nhằm cải biến thế giới.
Sự hiểu biết của con người cũng có nhiều cấp độ khác nhau.

Cấp độ thấp của nhận thức là kinh nghiệm. Đây là loại nhận thức hình
thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh
nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Có hai loại, tri thức kinh nghiệm thông
thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.

Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự
quan sát trực tiếp hàng ngày.

Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát
các thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở
để hình thành nhận thức khoa học và lý luận.

Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau
để tạo nên tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
Trình độ cao hơn của nhận thức kinh nghiệm là nhận thức lý luận. Đây
là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái
quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của
nhận thức lý luận là tri thức lý luận.

Tri thức lý luận có tính gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên
cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Tri thức lý luận có tính trừu tượng và
khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật
của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc
hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.

Ngoài ra, căn cứ trên tính chất tự phát hay tự giác của quá trình nhận
thức, có thể chia nhận thức thành: nhận thức thông thường và nhận thức
khoa học.

SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


*Vai trò của thực tiễn đối với lí luận
Lý luận và thực tiễn không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau,
trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức, của lí luận và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức. Sở dĩ
như vậy là vì :

Con người liên hệ với thế giới hiện thực bên ngoài bằng thực tiễn, chỉ
thông qua hoạt động thực tiễn thì còn người mới nhận thức được thế giới
khách quan. Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề
ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động, phát triển
của nhận thức.

Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo
thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự
vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật
vận động, biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên
trong giúp con người nhận thức được bản chất, quy luật vận động và
phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó mà hình thành các lí thuyết khoa
học.

Mặt khác, thực tiễn là động lực thúc đẩy hoạt động thực tiễn ở chỗ : nhờ
có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày càng được hoàn
thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển;
các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối
dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.

Hơn nữa, thực tiễn là mục đích của nhận thức. Cụ thể: nhận thức ra đời
và không ngừng hoàn thiện trước hết không phải vì bản thân nhận thức
mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực tiễn đặt ra và để chỉ
đạo, định hướng hoạt động thực tiễn. Chính nhu cầu của thực tiễn đã dẫn
đến sự hình thành và phát triển của các ngành khoa học, biến những tri
thức thành phương tiện giúp cho hoạt động thực tiễn ngày càng hiệu quả
hơn.

Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý, kiểm tra tính chân lý
của quá trình nhận thức. Sở dĩ như vậy là vì:

Thực tiễn là thước đo giá trị của những nhận thức đã đạt được trong quá
trình nhận thức, đồng thời không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa,
phát triển và hoàn thiện nhận thức.

Nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình thức trực
tiếp và gián tiếp, điều đó không thể tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận
thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác, trong
quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự vật cần nhận thức
không đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng.

Những tri thức phù hợp với hiện thực khái quát được thực tiễn kiểm
nghiệm là tri thức chân thực, đó là chân lý và ngược lại, thực tiễn kiểm
nghiệm thấy không phù hợp thì có thể chứng minh tri thức đó là sai lầm.
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn mà con người khái quát, tổng hợp và xây
dựng thành lí luận. Chính quá trình phát triển của thực tiễn đã đặt ra
những vấn đề đòi hỏi lí luận phải giải đáp. Lí luận được hình thành, phát
triển và kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ xung, phát triển trong
thực tiễn.

*Vai trò của lí luận đối với thực tiễn


Lí luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song nó có
tính độc lập tương đối. Điều đó thể hiện ở chỗ, không phải lí luận nào
cũng xuất phát từ kinh nghiệm, có lí luận được xây dựng không trên cơ
sở những dữ liệu kinh nghiệm có trước. Điều này chỉ có thể lí giải bởi
tính ưu việt, vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lí luận có
vai trò rất to lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại làm biến đổi thực tiễn
thông qua hoạt động của con người.

Lí luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó góp phần hạn
chế tính mò mẫm, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ động tích cực
trong hoạt động của con người.

Từ những điểm trên, chúng ta cần quán triệt những điểm vận dụng sau :

Một là, nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn.

Hai là, nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn.

Ba là, phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.

Đồng thời chúng ta cũng cần phải chống bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý
chí và đặc biệt tránh chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thực dụng.
VẬN DỤNG TẠI VIỆT NAM
*Phê phán bệnh kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều
Ở Việt Nam, việc vận dụng sai hai nguyên tắc trên chủ yếu dẫn đến hai
sai lầm đó là bệnh kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều.

Chủ nghĩa giáo điều là phương pháp tư duy vận dụng những khái niệm,
những công thức bất biến, không chú ý đến những tài liệu mới của thực
tiễn và của khoa học, những điều kiện cụ thể của địa điểm và thời gian,
tức là coi thường nguyên lý về tính cụ thể.

Điều này thể hiện cụ thể nhất ở các hệ thống văn bản pháp luật cũ của
nước ta và cách áp dụng cũ. Chúng ta có những văn bản kế thừa một
cách “quá mức” đến nỗi sử dụng nguyên từng câu trữ hệ thống pháp luật
nước ngoài (Nga). Trong khi tình hình xã hội, chính trị, kinh tế của các
nước không giống nhau tại từng thời điểm.

Ngay gần đây thôi, chúng ta đồng thời vi phạm quy tắc sự thay đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất biểu hiện ở việc chúng ta xây dựng
một Hội đồng bảo hiến. Trong khi tình hình thực sự chúng ta chưa có
bước đệm, chưa có đủ lượng thực tiễn để có thể duy trì Hội đồng này.
Khiến cho việc nghiên cứu tốn rất nhiều công sức, tiền bạc nhưng kết
quả bản Hiến pháp 2013 không hề ghi nhận một Hội đồng bảo hiến nào.

Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi
thường lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò
lý luận. Chúng ta đã có rất nhiều dự án đầu tư sai, không đúng lúc gây
lãng phí, thất thoát ngân sách. Trong khi đó trước khi thực hiện các bản
nghiên cứu dự án dựa trên các nguyên lý, học thuyết kinh tế, xã hội đều
chỉ ra tính không hiệu quả, rủi ro cao. Tuy nhiên vì quá tuyệt đối kinh
nghiệm mà các dự án này vẫn được phê duyệt với lý do chủ dự án đã có
nhiều kinh nghiệm thành công trước đây.
*Tiến bộ hiện nay
Tuy nhiên hiện nay chúng ta cũng đã vận dụng và thực hiện đúng
nguyên tắc này, tạo ra những chủ trương phù hợp, kịp thời kích thích xã
hội – kinh tế phát triển. Đặc biệt nhất phải nói đến chính sách khuyến
khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp với cả khuyến
khích từ phía chính phủ cũng như toàn cộng động, chia sẻ kiến thức, đơn
giản hóa thủ tục …

Thực tiễn nước ta năm qua có thể được gọi dưới tên “quốc gia khởi
nghiệp” với hơn 1500 doanh nghiệp khởi nghiệp gọi vốn lên tới hàng
chục triệu USD từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời tạo tiền đề sức
bật cho Việt Nam đón đầu, bắt kịp với cuộc cách mạng công nghệ 4.0
đang diễn ra hiện nay.

Tuy nhiên, xét cho cùng chúng ta vẫn cần vận dụng đúng và phù hợp
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để dự đoán đúng tương
lai, để trở thành “người dẫn đường” tin cậy cho xã hội – kinh tế nước
nhà.

lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau.
Trong đó, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu
chuẩn để kiểm tra chân lý. Còn lí luận sau khi ra đời sẽ tác động trở lại
sự phát triển của thực tiễn.

Do lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau nên trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, cần chú ý đúng mức tới cả hai nhân tố này; coi trọng lí
luận song không cường điệu, tuyệt đối hóa vai trò của lí luận, xem
thường thực tiễn, cách lí luận khỏi thực tiễn. Lê nin cho rằng, bản thân ý
chí của con người, thực tiễn của con người đối lập với sự thực hiện mục
đích của con người… do chúng tách rời khỏi nhận thức và không thừa
nhận hiện thực bên ngoài là tồn tại khách quan. Phải có sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn rằng: “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Thực tiễn không có lí
luận dẫn đường thì thành thực tiễn mù quáng. Lí luận không liên hệ với
thực tiễn là lí luận suông.”

Trong bối cảnh đất nước đang quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, việc
nghiên cứu và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vào thực tiễn xã hội nước ta là một việc làm vô cùng quan trọng và cần
thiết. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần những chính sách, hướng đi “gãi
đúng chỗ ngứa” như chính sách “quốc gia khởi nghiệp” hiện nay.

You might also like