You are on page 1of 4

Họ và tên: Dương Tuyết Chinh

Lớp :Tr25.17
Msv: 2520220633
KIỂM TRA MÔN VIẾT LẦN 2
Đề :
Câu 1: trình bày nội dung nguyên lý về mqh biện chứng và thực tiễn
Câu 2: trình bày nội dung nguyên lý về mqh giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

CÂU 1

Định nghĩa lý luận


Lý luận là một hệ thống các quan điểm phản ánh thực tiễn, được thể hiện dưới dạng hệ thống
những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ
bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Hay nói cách khách, lý luận là hệ thống những tri thức
được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Lý luận đặc thù của
một nhóm ngành như lý luận khoa học xã hội. Lý luận phân theo phạm vi phản ánh và vai trò phương
pháp luận gồm có lý luận ngành, lý luận cơ bản,…
Định nghĩa thực tiễn là:
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng cơ bản, không chỉ của lý luận nhận thức
Mác-xít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung. Hoạt động thực tiễn là quá trình con
người sử dụng công cụ phương tiện vật chất, sức mạnh vật chất tác động vào tự nhiên xã hội để cải
tạo làm biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa
chủ thể và khách thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách
thể, vì vậy có thể thực tiễn bao gồm những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người: thực tiễn hay chính là hoạt động bản chất
của con người, có con người mới có thực tiễn, bởi con người hoạt động có mục đích rõ ràng nhằm cải
tạo thế giới để thoả mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động với thế giới xung quanh.
Đối với hoạt động thực tiễn, con người biết sản xuất lao động, tạo ra những vật phẩm vốn không có
sẵn trong tự nhiên.
Thứ hai, thực tiễn là hoạt động mang tính lịch sử - xã hội: thực tiễn tồn tại dưới dạng hoạt động cơ
bản và phổ biến của xã hội loài người mặc dù trình độ và các hình thức hoạt động thực tiễn có những
thay đổi qua các giai đoạn lịch sử.
-, Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là:
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ trao đổi, tác động lẫn nhau để hình thành nên hoạt động
sản xuất vật chất, phản ánh mặt tinh thần và thực tiễn xã hội. Có thể nhận thấy, thực tiễn là cơ sở,
động lực của lý luận. Hay nói cách khác, thực tiễn là cung cấp cho lý luận những mục tiêu, chuẩn hoá
lý luận. Song, thực tiễn cung cấp chất liệu để hoàn thành lý luận, thông qua thực tiễn, lý luận được
hoàn thiện, sinh động hoá – hiện thực hoá hơn.
Về vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
+, Thực tiễn là cơ sở của lý luận: thông qua hoạt động thực tiễn những thuộc tính, quan hệ, tính
chất, cấu trúc của sự vật được phản ánh, hình thành tri thức kinh nghiệm. Từ tri thức kinh nghiệm tích
luỹ được con người hệ thống hoá, khái quát hoá hình thành nên lý luận.
+,Thực tiễn còn là mục đích của lý luận: Lý luận không chỉ đáp ứng nhu cầu nhận thức mà còn góp
phần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người, lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự
khi chúng được vận dụng vào thực tiễn và cải tạo thực tiễn. Vì vậy, thực tiễn là mục tiêu hướng tới
của hoạt động lý luận.
+, Thực tiễn còn là động lực chủ yếu và trực tiếp của lý luận: Nhu cầu thực tiễn thúc đẩy sự ra đời
và phát triển của lý luận, thông qua thực tiễn những bế tắc của lý luận sẽ phát triển; thực tiễn làm cho
xã hội ngày càng phát triển, năng lực trí tuệ ngày càng cao hơn, khả năng nhận thức và khái quát lý
luận ngày càng tốt hơn, qua đó mỗi hệ thống lý luận ngày càng hoàn thiện và phát triển.
+, Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự phù hợp hay không phù hợp của lý luận: Thông qua thực
tiễn để đánh giá tính mục đích và tính hiệu quả của lý luận có thực hiện được hay không. Vì vậy, thực
tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng đắn của lý luận.
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
+,. Lý luận là “kim chỉ nam” soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt động thực tiễn
Bởi vì lý luận nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của hiện thực. Do đó, lý luận giúp cho
việc xác định được mục tiêu, phương hướng, làm cho hoạt động trở nên chủ động, tự giác, hạn chế
tình trạng mò mẫm, tự phát và điều chỉnh hoạt động theo đúng mục tiêu đã xác định và vạch ra
phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn.
+,Lý luận góp phần phát huy tối đa sức mạnh của cộng đồng trong hoạt động thực tiễn
Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người
càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát lý luận. Lý luận làm rõ vị trí, vai trò,
lợi ích của chủ thể. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận
ngày càng đầy đủ và phong phú và sâu sắc hơn. Từ đó, lý luận không chỉ là sự giải thích thế giới ngày
một rõ hơn mà còn giúp con người hiểu thêm về ý nghĩa của thế giới đem lại mà không ngừng cải tạo
thế giới. Lý luận không chỉ mở rộng khả năng nhìn thấy trước, dự báo tương lai, mà lý luận khoa học
còn bao hàm cả ý nghĩa tự giác hình thành cái tương lai đó. Khi lý luận thâm nhập vào quần chúng,
thông qua phong trào của quần chúng trở thành sức mạnh vật chất.
Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, xác định phương pháp, biện pháp thực hiện, liên
kết, tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn cải tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của các cá
nhân và xã hội. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn trong việc giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ
chức, tập hợp quần chúng khi đã thâm nhập vào quần chúng trở thành lực lượng vật chất to lớn, cải
tạo tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của con người và xã hội.
Vai trò này của lý luận được thể hiện rõ nét ở nước ta điển hình như những đòi hỏi của đất nước
cần phải thay đổi định hướng phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã tổng kết lại kinh
nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa ra để thực hiện một số vấn đề có tính lý luận về nền kinh tế thị
trường như sau: Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần; Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; Giải
quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực tiễn công bằng xã hội.
Những lý luận này được xem như giải pháp để nền kinh tế thị trường của nước ta được hoàn thiện hơn
và cũng là những vấn đề đòi hỏi thực tiễn cần phải đặt ra và phải được thực hiện.
+, Lý luận chỉ ra phương pháp tiến hành hoạt động thực tiễn
Bởi vì lý luận được tóm tắt trong phương pháp. Từ một hệ thống lý luận rút ra các nguyên tắc chỉ
đạo và điều chỉnh hoạt động thực tiễn. Lý luận khoa học sẽ cho phương pháp khoa học có hiệu quả.
Xuất phát từ khả năng tư duy ưu việt của con người mà bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát
triển của thực tiễn được con người nắm bắt. Nắm quy luật thực chất là nắm các mối quan hệ bản chất,
tất yếu, quyết định chiều hướng vận động, phát triển của thực tiễn. Khi thực tiễn đang vận động, đang
phát triển đến một giai đoạn nhất định, bằng việc sử dụng lý luận mà con người có khả năng dự báo
trước được sự vận động, phát triển của thực tiễn trong tương lai. Lý luận khoa học dự kiến sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát
triển.

Ý nghĩa phương pháp luận


- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu
cầu:
+,Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Đường lối, chủ trương,
CS của Đảng, PL của NN, Chính sách của địa phương của ngành chỉ đúng đắn, phù hợp khi nó đáp
ứng được nhu cầu của TT, phù hợp với TT, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất
nước.
+, Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành -> Bám sát TT,
hướng vào thực tiễn. Vận dụng LL vào CMVN, vào công tác cán bộ
+,Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng
như chủ trương, đường lối, chính sách. TT luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy cần phải
thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển nhận thức nâng lên thành LL để LL ấy quay lại
phục vụ cho TT. Việc tổng kết TT làm cho con người có thêm nhiều tri thức mới, bài học kinh
nghiệm. Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta phải luôn chú ý đến việc tổng kết thực tiễn để có
những định hướng phù hợp với tình hình đất nước và thời đại -> Đẩy mạnh công tác nghiên cứu LL,
tổng kết có hệ thống sự nghiệp XD và BV Tổ quốc, rút ra những kết luận đúng đắn.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Phải luôn tôn trọng TT, căn cứ
vào TT để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lý luận cũng như đường lối, chủ trương, chính sách…
Một đường lối, chủ trương đúng đắn hay sai lầm chỉ có thể nhận biết qua thực tiễn, vận dụng vào TT
- Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (là khuynh
hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, đề cao vốn kinh nghiệm bản thân,
coi thường, hạ thấp lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng
tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, cường điệu vai trò của LL, coi thường và hạ thấp kinh
nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước
khác một cách rập khuôn máy móc, không tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm” , tránh
nói một đằng, làm một nẻo ; nói nhiều làm ít ; nói mà không làm...
CÂU 2
Định nghĩa lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu
cầu đời sống của mình.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất. Chính người lao động là chủ
thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.
Định nghĩa quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất
xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con
người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào
ý muốn chủ quan của con người.
-, Mối quan hệ biện giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách
rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát
triển xã hội.
Vai trò của lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất là:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù
hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới
phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản
xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
Vai trò của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là:
+ Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh
hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải
tiến công cụ lao động.Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng,
hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hoặc tiêu cực, kìm hãm lực
lượng sản xuất khi nó không phù hợp.
Ý nghĩa của phương pháp luận là
+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ vào thực trạng (tình
hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để xác lập nó cho phù hợp chứ không phải căn
cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc
bảo tồn, khai thác – sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất
đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao hơn
là một cuộc cách mạng chính trị để có thể giải quyết được mâu thuẫn này.

You might also like