You are on page 1of 26

ÔN TẬP

1. Nội dung, ý nghĩa định nghĩa vật chất của Lênin

*) Các quan niệm về vật chất của triết học trước Mác, chỉ ra ưu điểm, hạn
chế của những quan điểm này

*) Hoàn cảnh ra đời

*) Phương pháp định nghĩa

*) Đưa ra định nghĩa

*) Nội dung định nghĩa

*) Ý nghĩa của định nghĩa

2. Mối quan hệ BC giữa vật chất và ý thức

- Khái niệm vật chất, khái niệm ý thức

- Vật chất quyết định ý thức

- Ý thức tác động trở lại vật chất

- Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn

3. Nội dung, ý nghĩa nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

*) Các quan niệm khác nhau về mối liên hệ

*) Khái niệm mối liên hệ

*) Cơ sở của mối liên hệ


*) Tính chất của mối liên hệ (Tính khách quan, tính phổ biến, tính đa dạng
phong phú)

*) Phân loại mối liên hệ

*) Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm toàn diện; Quan điểm lịch sử - cụ
thể

4. Nội dung, ý nghĩa nguyên lý về sự phát triển

*) Các quan niệm khác nhau về phát triển

*) Khái niệm phát triển

*) Phân biệt vận động và phát triển

*) Tính chất (4 tính chất): Khách quan, phổ biến, đa dạng phong phú và kế
thừa.

*) Ý nghĩa phương pháp luận: Quan điểm phát triển; Quan điểm lịch sử - cụ
thể.

5. Quy luật lượng chất

*) Vị trí của quy luật (vai trò của quy luật)

*) Khái niệm chất, lượng

*) Nội dung quy luật

*) Phân loại bước nhảy

*) Ý nghĩa phương pháp luận

6. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn


*) Khái niệm thực tiễn (khái niệm, đặc trưng), khái niệm lý luận

*) Các hình thức thực tiễn

*) Thực tiễn quyết định lý luận, thể hiện:

- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, của lý luận.

- Thực tiễn là động lực của nhận thức, của lý luận

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý luận

- Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý, kiểm nghiệm lý luận

*) Lý luận tác động trở lại thực tiễn

Thứ nhất, lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn.

Thứ hai, lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập
hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo
quần chúng. Lý luận khoa học góp phần định hướng cho quần chúng trong cuộc
sống và trong hoạt động thực tiễn

Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự vật,
của thực tiễn sẽ góp phần dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn;
giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.

Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về
tự nhiên, xã hội và về bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó,
con người có thể thông qua hoạt động thực tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội và
bản thân phục cho mục đích của mình.

Thứ năm, lý luận có vai trò tác động tích cực đối với thực tiễn, một khi nó
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, thâm nhập được vào đông đảo quần
chúng nhân dân và được con người vận dụng nó một cách sáng tạo, linh hoạt, phù
hợp điều kiện thực tiễn, lịch sử - cụ thể. Nếu lý luận sai lầm, ảo tưởng, chủ quan,
duy ý chí, giáo điều, kinh nghiệm v.v.. sẽ tác động tiêu cực trở lại đối với thực tiễn.

Mức độ, hiệu quả tác động của lý luận đối với thực tiễn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, nhưng trước hết phụ thuộc vào tính đúng đắn, khoa học của lý luận; mức độ
thâm nhập của lý luận vào quảng đại quần chúng nhân dân; vào sự vận dụng sáng
tạo, đúng đắn lý luận hay không bởi chủ thể hoạt động thực tiễn.

*) Ý nghĩa phương pháp luận

Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động. Quan điểm thực
tiễn đòi hỏi nhận thức sự vật, nhận thức lý luận phải gắn với nhu cầu thực tiễn;
phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn đánh giá sự đúng, sai của lý luận, chủ trương,
đường lối chính sách; phải tăng cường tổng kết thực tiễn để kiểm tra lý luận, chủ
trương, đường lối, chính sách và kịp thời bổ sung, điều chỉnh, phát triển lý luận
cũng như chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp thực tiễn mới. Phải thấm
nhuần lời căn dặn của V.I.Lênin: ‘‘Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức’’.

Phải thấy được vai trò to lớn của lý luận khoa học, trên cơ sở đó mỗi cán bộ,
đảng viên không ngừng học tập, nâng cao trình độ lý luận cho bản thân. Phải thấm
nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch ‘‘Lý luận rất cần thiết nhưng nếu cách học tập
không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận chúng ta cần
nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế’’.

Thực tiễn, kinh nghiệm đóng vai trò hết sức to lớn trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn của con người. Nhưng nếu coi thực tiễn, kinh nghiệm là tất cả,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường, hạ thấp lý luận, không chịu học tập lý luận
thì sẽ mắc bệnh kinh nghiệm. Biểu hiện của căn bệnh này rất đa dạng, như coi th-
ường lý luận, coi thường học tập lý luận; cho kinh nghiệm là yếu tố duy nhất quyết
định mọi thành công trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; không đánh giá đúng
vai trò của đội ngũ trí thức, v.v..

Nếu tuyệt đối hóa vai trò của lý luận và không đánh giá đúng, hạ thấp vai trò
của thực tiễn trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động lý luận, hoặc áp dụng
lý luận và kinh nghiệm không tính tới điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể sẽ rơi vào
bệnh giáo điều.

Nước ta có hai loại bệnh giáo điều. Một là, giáo điều lý luận, thể hiện ở chỗ
vận dụng lý luận không căn cứ vào những điều kiện thực tiễn - cụ thể; học tập lý
luận tách rời thực tiễn, xa rời cuộc sống, rơi vào bệnh bệnh sách vở; bệnh “tầm
chương, trích cú”; bệnh câu chữ,v.v.. Hai là, giáo điều kinh nghiệm, thể hiện ở chỗ
vận dụng kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa phương khác, nước khác
vào mình nhưng không tính tới những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể của mình.

7. Quy luật quan hệ sản xuất – lực lượng sản xuất

*) Khái niệm PTSX, QHSX, LLSX

*) LLSX quyết định QHSX

*) QHSX tác động trở lại LLSX

*) Liên hệ

Như Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ ra là chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao, hoàn thiện quan
hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phải xây
dựng lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay là phải phát triển khoa học
kỹ thuật, khoa học công nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối tượng lao
động, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông
qua công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chấn hưng nền giáo dục
nước nhà. Muốn phát triển sản xuất ở nước ta hiện nay, chúng ta không chỉ phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển sức sản xuất; mà phải còn xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, điều đó có
nghĩa là chúng ta phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Muốn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta cần phải tiến hành đồng bộ những công việc sau:

Thứ nhất, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường;

Thứ hai, phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp;

Thứ ba, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường;

Thứ tư, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Qua đó ta thấy mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ là mối quan
hệ biện chứng, liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau.
Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ
nghĩa.

Trước hết ta hãy phân tích tại sao (hay căn cứ vào đâu) mà Đảng ta lại chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa? Điều này cũng có nghĩa là phân tích sự vận dụng quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của Đảng ta hiện
nay.

Trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, nhìn chung, là rất đa
dạng, không đồng đều, nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, công cụ sản xuất, công cụ lao động hiện nay ở nước ta cũng rất
đa dạng, không đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ công chiếm phần
lớn trong nông nghiệp, còn trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản đơn.
Nhưng bên cạnh đó ta cũng đã có công cụ lao động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại
hóa, tự động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí đan xen nhau trong một
cơ sở sản xuất, trong một nhà máy. Nếu như phương Tây nhìn một cách đại thể đi
từ lao động thủ công lên máy móc cơ khí, rồi lên tự động hóa, thì ở ta hiện nay có
tất cả. Điều này nói lên tính chất đa dạng, nhiều trình độ của công cụ lao động ở
nước ta hiện nay.

Thứ hai, thích ứng với sự đa dạng của công cụ lao động sản xuất như vậy,
kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện nay cũng rất khác
nhau. Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất ở Việt Nam hiện nay ở những cơ sở sản xuất khác nhau cũng
rất khác nhau.
Thứ ba, về khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay, nhìn chung là thấp, chậm
phát triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi trước, đón đầu. Từ đó, ta
thấy trình độ khoa học kỹ thuật ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.

Tóm lại, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay khá đa dạng,
không đồng đều, tức nhiều trình độ. Theo quy luật, muốn sản xuất phát triển thì
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ như vậy; do đó,
lôgíc tất yếu đối với quan hệ sản xuất, hay trong quan hệ sản xuất chúng ta cũng
phải đa dạng. Đa dạng thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, đa dạng trong thành phần kinh tế, tức chúng ta phải xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần không phải là một
chủ trương vu vơ không có căn cứ, mà nó dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Cụ thể hiện nay chúng ta có năm
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư
bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này khiến chúng ta càng
nhìn nhận một cách rõ nét tính chất chủ quan duy ý chí của thời kỳ 1975- 1986 với
hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể.

Thứ hai, đa dạng trong hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lý,
nhiều hình thức phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở hữu là toàn dân
và tập thể), ngày nay chúng ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư
nhân.

Thứ ba, đa dạng trong phân phối. Nếu như trước kia chúng ta phân phối
theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo nhiều cách khác
nhau như theo lao động(tức theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả kinh
tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác, theo phúc lợi xã hội, an sinh
xã hội.

8. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

*) Khái niệm CSHT, KTTT

*) CSHT quyết định KTTT

*) KTTT tác động CSHT

*) Liên hệ

Vận dụng:

*) Hoàn thiện Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế để củng cố và hoàn thiện kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay chúng ta đang đổi mới mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nhanh, bền vững.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính
trị; xây dựng Đảng trong sạnh, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; Phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng,
kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của
Đảng.
Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đảm bảo Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
do Đảng lãnh đạo.

Thứ tư, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng
dân chủ nghĩa là dân làm chủ, tức dân coi công việc Nhà nước, việc chung cũng như
việc của gia đình, của bản thân mình.

Thứ năm, kinh tế nhiều thành phần, nhưng chúng ta kiên trì chủ trương
nhất nguyên về chính trị.

Thứ sáu, chúng ta phải từng bước đổi mới chính trị, đặc biệt bổ sung, hoàn
thiện đường lối phản ánh đúng, phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước và
thời đại.

Ngày nay, nhờ có đường lối chính trị đúng đắn với chủ trương kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, mà chúng ta đã đưa đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, chính trị
xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững, vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

9. Nguồn gốc, bản chất, chức năng, các kiểu và hình thức nhà nước

*) Nguồn gốc của nhà nước


Sự tồn tại của nhà nước và xã hội không phải khi nào cũng gắn liền với
nhau. Nhà nước là một hiện tượng lịch sử, chỉ xuất hiện trong một giai đoạn phát
triển nhất định của lịch sử xã hội, giai đoạn xã hội có sự phân chia thành giai cấp.

Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, xã hội chưa phân chia thành giai cấp,
nhà nước chưa xuất hiện.

Tổ chức đầu tiên của xã hội loài người, phù hợp với tình trạng kinh tế còn
thấp kém lúc bấy giờ là chế độ thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là
những tộc trưởng, hội đồng tộc trưởng. Họ là những người do nhân dân bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân coi sóc các công việc chung và có thể bị bãi miễn
nếu không còn sự tín nhiệm của nhân dân.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ cuối của xã hội nguyên
thuỷ đã làm xuất hiện chế độ tư hữu và xã hội bị phân hoá thành những giai cấp có
lợi ích đối lập nhau. Các cơ quan quản lý xã hội trong chế độ thị tộc, bộ lạc trở nên
bất lực. Bộ máy quản lý mới phù hợp với xã hội có đối kháng giai cấp ra đời. Bộ
máy đó chính là nhà nước.

Nói về nguồn gốc trực tiếp của sự xuất hiện và tồn tại nhà nước, V.I.Lênin
viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là
không thể điều hoà được”.

*) Bản chất của nhà nước

Nhà nước xuất hiện từ sự cần thiết phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai
cấp, là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, cho nên theo quy luật chung, nó là nhà
nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có
nhà nước mà giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị. Do đó, nhà
nước về bản chất là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm
duy trì trật tự xã hội hiện hành, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, trấn áp sự
phản kháng của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, lợi ích của các giai cấp là không thể điều
hoà được và do đó – như V.I.Lênin chỉ ra: “Theo Mác, nếu có thể điều hoà được
giai cấp thì nhà nước không thể xuất hiện và cũng không thể đứng vững được”

Nhà nước nào về bản chất cũng là quyền lực chính trị của một giai cấp. Hay
nói cách khác, nhà nước mang tính giai cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ mong
muốn chủ quan, mà chủ yếu là do cơ sở kinh tế trên đó nhà nước tồn tại quy định.

Cơ sở kinh tế không chỉ quy định giai cấp nào là giai cấp cầm quyền mà còn
quy định đường lối, chủ trương, chính sách, Hiến pháp, pháp luật của nhà nước.
Đường lối, chủ trương, chính sách, Hiến pháp, pháp luật của nhà nước chỉ có tính
khả thi và có tác dụng tích cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội khi nó phản
ánh được cơ sở kinh tế. Mà phản ánh cơ sở kinh tế suy cho cùng là phản ánh ý chí,
nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị về kinh tế.

Như vậy nhà nước mang tính giai cấp không chỉ bắt nguồn từ mong muốn
chủ quan của giai cấp cầm quyền, mà còn là và chủ yếu là do cơ sở kinh tế quy
định. Chính vì vậy, dù có chủ trương hay không có chủ trương xây dựng nhà nước
theo đường lối giai cấp thì nhà nước vẫn mang tính giai cấp.

*) Chức năng của nhà nước

- Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại


- Chức năng đối nội là những hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất
nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có
trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị.

- Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các nước
khác trong cộng đồng quốc tế.

+ Bằng lực lượng vũ trang nhà nước bảo vệ lãnh thổ quốc gia khỏi sự xâm lược
của nước ngoài hoặc mở rộng lãnh thổ quốc gia bằng việc xâm lược các nước khác.

+ Bằng cơ quan ngoại giao, nhà nước tiến hành quan hệ ngoại giao với các nước
khác trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

Hai chức năng trên không tách rời nhau, trong đó chức năng đối nội quyết định
chức năng đối ngoại.

- Chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước

Chức năng giai cấp của nhà nước là chức năng thực hiện sự thống trị chính
trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội. Chức năng giai cấp biểu hiện cụ thể ở
những nhiệm vụ: xây dựng, bảo vệ, cũng cố một chế độ xã hội theo “diện mạo”
của giai cấp thống trị, hay định hướng sự phát triển xã hội theo một chế độ chính
trị phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp cầm quyền; thực
hành chuyên chính, trấn áp các giai cấp đối lập, những lực lượng chống đối (cả về
tinh thần lẫn thể xác) buộc các giai cấp, lực lượng đó phải phục tùng ý chí, quyền
lợi của giai cấp thống trị; ngoài ra chức năng giai cấp còn thể hiện ở nhiệm vụ cũng
cố và mở rộng cơ sở chính trị - xã hội cho sự thống trị của giai cấp cầm quyền,
bằng cách lôi kéo các giai cấp trung gian, chia rẽ, xoa dịu các giai cấp đối lập để
ngăn chặn những xung đột làm ảnh hưởng đến địa vị thống trị của giai cấp thống
trị.
Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng thực hiện quản lý những hoạt
động chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo những công việc chung của toàn xã
hội và trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn một số nhu cầu của cộng đồng
dân cư trong xã hội. Chức năng xã hội biểu hiện ở những nhiệm vụ như: giải quyết
những công việc chung của xã hội; tổ chức kiến tạo và bảo vệ trật tự công cộng,
bảo vệ môi trường sinh thái; quản lý, điều tiết các lĩnh vực của đồi sống xã hội…

*) Các kiểu và hình thức nhà nước

- Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước

+) Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp
nào, tồn tại trên cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.

+) Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác, đó là hình thức cầm quyền của
giai cấp thống trị.

- Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử

+) Nhà nước chiếm hữu nô lệ:

Là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử. Cơ sở kinh tế của nó dựa trên chế
độ chiếm hữu nô lệ.

Nhà nước chiếm hữu nô lệ tồn tại dưới các hình thức: quân chủ, cộng hòa,
dân chủ và quý tộc

+) Nhà nước phong kiến:

Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là chế độ chiếm hữu về ruộng đất.

Nhà nước phong kiến tồn tại dưới hai hình thức: nhà nước phong kiến
phân quyền và nhà nước phong kiến tập quyền.

+). Nhà nước tư sản:


Cơ sở kinh tế của nhà nước tư sản là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất.

Nhà nước tư sản tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như cộng hoà và
quân chủ lập hiến. Dù tồn tại dưới hình thức nào, nhà nước tư sản vẫn là nhà
nước của giai cấp tư sản.

*) Liên hệ

- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tính tất yếu và bản chất nhà
nước XHCN Việt nam

Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – như
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011) đã khẳng định - là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Đó là nhà nước thuộc phạm
trù nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó không chỉ bắt nguồn từ đặc điểm của
thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà còn
xuất phát từ thực tế và đòi hỏi của cách mạng Việt Nam, “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

- Những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng nhà nước Việt Nam
hiện nay

+) Xây dưng Nhà nước dưới hình thức nhà nước pháp quyền
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền
trong thời gian vừa qua, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta như sau:

Một là, đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều
chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ,
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

+) Phát huy chức năng xã hội trên cơ sở đảm bảo sự thống nhất giữa
tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước

Cũng như các nhà nước khác, nhà nước XHCN có cả chức năng bạo lực trấn
áp, cả chức năng tổ chức xây dựng. Nhưng điểm khác nhau hết sức cơ bản so với
các nhà nước bóc lột là đối với nhà nước XHCN chức năng tổ chức xây dựng là
chủ yếu.
+) Xây dựng Nhà nước gắn liền với cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc
phục bệnh quan liêu

Câu 10: Tính độc lập tương đối của YTXH

*) Khái niệm TTXH, YTXH (khái niệm, kết cấu, tính giai cấp)

Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, bao gồm các yếu tố cơ bản:

- Phương thức sản xuất vật chất: là cách thức làm ra của cải vật chất của con
người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

- Điều kiện tự nhiên: điều kiện địa lý, khí hậu, tài nguyên.

- Dân số: bao gồm số lượng dân số, mật độ dân số và tốc độ gia tăng dân số.

Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã
hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.

*) Tính độc lập tương đối của YTXH


a) Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.

- Nghĩa là khi tồn tại xã hội cứ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã
hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng, hoặc khi tồn tại xã hội mới đã ra đời, phát
triển nhưng ý thức xã hội không biến đổi kịp để phản ánh về nó.

- Nguyên nhân ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là:

+) Một là, Sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên, trực tiếp của hoạt động thực tiễn
của con người làm cho tồn tại xã hội biến đổi nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản
ánh kịp nên lạc hậu hơn. Xét về mặt quy luật, tồn tại xã hội có trước phải biến đổi trước,
ý thức xã hội có sau, biến đổi sau.

+) Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như
do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

+) Ba là, vấn đề lợi ích, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng
phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.

b) Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội

Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn
tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người.

- Lưu ý: Tuy nhiên, tư tưởng khoa học tiên tiến xét cho cùng vẫn do tồn tại xã hội
quyết định và ở đây chỉ nói đến khả năng phản ánh sớm hơn, chính xác hơn quy
luật vận động của tồn tại xã hội so với các tư tưởng khác ở cùng thời đại.

c) Tính kế thừa trong quá trình hình thành phát triển ý thức xã hội.
- Lịch sử phát triển đới sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm
lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện mảnh đất trống không mà được tạo ra
trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước.

- Sự kế thừa của ý thức xã hội là kế thừa có chọn lọc, nghĩa là chỉ kế thừa những
yếu tố tích cực, tiến bộ và lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ của ý thức xã hội
cũ. Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của
các giai cấp nhất định. Các giai cấp tiên tiến tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, còn
các giai cấp lỗi thời, phản động thì duy trì các tư tưởng lạc hậu, bảo thủ.

d) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng

- Các hình thái ý thức xã hội bao gồm: chính trị, khoa học, pháp quyền, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo,... ở mỗi thời đại lịch sử, có thể có một hình thái ý thức xã hội
nào đó nổi lên hàng đầu, tác động mạnh đến các hình thái ý thức xã hội khác.

VD: thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt,
triết học được coi là “khoa học của mọi khoa học”. Thời Trung cổ ở Tây Âu
thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền...
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh
vực của đời sống tinh thần xã hội. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triền theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức xã hội
khác.

e) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Ý thức xã hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời trong hình
thức hoàn chỉnh của nó, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Sự tác
động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nhiều chiều, đan xen, phức
tạp, nhưng nhìn chung theo hai hướng tích cực và tiêu cực:

+) Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.

+) Nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.

- Mức độ tác động và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào những quan hệ kinh tế xã hội và khả năng
mở rộng, thâm nhập của YTXH vào trong quần chúng nhân dân

*) ý nghĩa phương pháp luận

- Ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng
thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, bảo vệ,
phát huy truyền thống tư tưởng tốt đẹp.

- Quan điểm của Đảng ta trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế: “phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, vừa
giữ gìn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới”.

- Khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những
phải vạch ra tính chất khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản
động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của
chúng trong lịch sử.

- Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học nghệ thuật, ... không được tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn
của Đảng, nếu không sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lệch và
không có đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

C11. Mối quan hệ BC giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

*) Khái niệm TTXH, YTXH (khái niệm, kết cấu, tính giai cấp)

Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, bao gồm các yếu tố cơ bản:

- Phương thức sản xuất vật chất: là cách thức làm ra của cải vật chất của con
người trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

- Điều kiện tự nhiên: điều kiện địa lý, khí hậu, tài nguyên.

- Dân số: bao gồm số lượng dân số, mật độ dân số và tốc độ gia tăng dân số.

Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã
hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.

*) TTXH quyết định YTXH

Mác - Ăngghen chứng minh rằng, “không phải ý thức của con người
quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức
của họ”. Điều này thể hiện ở:
- Tồn tại xã hội như thế nào thì sinh ra YTXH như thế ấy. Đời sống vật chất và các
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội quyết định sự hình thành, phát triển đời
sống tinh thần của xã hội.

- Khi tồn tại xã hội, đặc biệt là PTSX biến đổi thì những tư tưởng xã hội (chính trị,
triết học PQ, đạo đức...) cùng với các hiện tượng tâm lý xã hội sớm muộn cũng
thay đổi theo. Vì thế, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có
những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện
khác nhau của đời sống vật chất quyết định.

VD: trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản
xuất còn hết sức thấp kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên
chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ công xã nguyên thuỷ
tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu
nghèo, bóc lột và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh
tư tưởng tư hữu, bóc lột.

- Tuy nhiên, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản
đơn trực tiếp mà thường phải qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư
tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và
trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà có khi xét đến cùng ta mới thấy
rõ những mối quan hệ kinh tế phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư
tưởng ấy.

*) Tính độc lập tương đối của YTXH


a) Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.

- Nghĩa là khi tồn tại xã hội cứ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã
hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng, hoặc khi tồn tại xã hội mới đã ra đời, phát
triển nhưng ý thức xã hội không biến đổi kịp để phản ánh về nó.

- Nguyên nhân ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là:

+) Một là, Sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên, trực tiếp của hoạt động thực tiễn
của con người làm cho tồn tại xã hội biến đổi nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản
ánh kịp nên lạc hậu hơn. Xét về mặt quy luật, tồn tại xã hội có trước phải biến đổi trước,
ý thức xã hội có sau, biến đổi sau.

+) Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như
do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.

+) Ba là, vấn đề lợi ích, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng
phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.

b) Ý thức xã hội có thể phản ánh vượt trước tồn tại xã hội

Trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt
những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn
tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người.

- Lưu ý: Tuy nhiên, tư tưởng khoa học tiên tiến xét cho cùng vẫn do tồn tại xã hội
quyết định và ở đây chỉ nói đến khả năng phản ánh sớm hơn, chính xác hơn quy
luật vận động của tồn tại xã hội so với các tư tưởng khác ở cùng thời đại.

c) Tính kế thừa trong quá trình hình thành phát triển ý thức xã hội.
- Lịch sử phát triển đới sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm
lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện mảnh đất trống không mà được tạo ra
trên cơ sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước.

- Sự kế thừa của ý thức xã hội là kế thừa có chọn lọc, nghĩa là chỉ kế thừa những
yếu tố tích cực, tiến bộ và lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ của ý thức xã hội
cũ. Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của
các giai cấp nhất định. Các giai cấp tiên tiến tiếp thu những tư tưởng tiến bộ, còn
các giai cấp lỗi thời, phản động thì duy trì các tư tưởng lạc hậu, bảo thủ.

d) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng

- Các hình thái ý thức xã hội bao gồm: chính trị, khoa học, pháp quyền, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo,... ở mỗi thời đại lịch sử, có thể có một hình thái ý thức xã hội
nào đó nổi lên hàng đầu, tác động mạnh đến các hình thái ý thức xã hội khác.

VD: thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt,
triết học được coi là “khoa học của mọi khoa học”. Thời Trung cổ ở Tây Âu
thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền...
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh
vực của đời sống tinh thần xã hội. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triền theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức xã hội
khác.

e) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội

Ý thức xã hội ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời trong hình
thức hoàn chỉnh của nó, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Sự tác
động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội là nhiều chiều, đan xen, phức
tạp, nhưng nhìn chung theo hai hướng tích cực và tiêu cực:

+) Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.

+) Nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn tại xã hội.

- Mức độ tác động và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào những quan hệ kinh tế xã hội và khả năng
mở rộng, thâm nhập của YTXH vào trong quần chúng nhân dân

*) ý nghĩa phương pháp luận

- Ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư
tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng
thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, bảo vệ,
phát huy truyền thống tư tưởng tốt đẹp.

- Phải có quan điểm kế thừa có chọn lọc. Quan điểm của Đảng ta trong điều kiện kinh
tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế: “phát triển văn hoá dân tộc đi đôi với mở rộng
giao lưu văn hoá với nước ngoài, vừa giữ gìn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, vừa
tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới”.

- Khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những
phải vạch ra tính chất khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản
động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của
chúng trong lịch sử.

- Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học nghệ thuật, ... không được tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn
của Đảng, nếu không sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lệch và
không có đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.

You might also like