You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

z
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG MỐI
LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC
TA

Sinh viên thực hiện: Cao Tuấn Vũ


Mã SV: 1811120169
Ngày sinh: 17/9/2000
Số thứ tự: 80
Lớp tín chỉ: TRI102(57-1/1819).9_LT
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đào Thị Trang

Hà nội, tháng 10 năm 2018


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................4
Chương 1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..........................................................4
1.1. Khái niệm lý luận..............................................................................4
1.1.1. Định nghĩa ..........................................................................4
1.1.2. Vai trò.................................................................................4
1.2. Khái niệm thực tiễn...........................................................................4
1.2.1. Định nghĩa...........................................................................4
1.2.2. Vai trò.................................................................................5
1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.................................................5
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA
ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA..........................7
2.1. Nội dung đổi mới…..........................................................................7
2.1.1. Đổi mới tư duy....................................................................7
2.1.2. Đổi mới kinh tế...................................................................8
2.2. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi
mới kinh tế ở nước ta..........................................................................................9
2.2.1. Mối liên hệ..........................................................................9
2.2.2. Vận dụng.............................................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................16
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế với khu
vực và thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, trước bối cảnh lịch sử
mới, chúng ta có những thời cơ mới xong phải đối mặt với những thách thức hết sức
to lớn. Vì vậy để tạo được bước đột phá mới cần kết hợp đổi mới tư duy với đổi mới
kinh tế, phải hiểu được mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn là bản chất, qua đó vận
dụng linh hoạt để đổi mới nền kinh tế nước nhà.
Là sinh viên trường Đại học Ngoại Thương danh giá, là chủ nhân tương lai của
đất nước, em luôn mong muốn học hỏi tự hoàn thiện bản thân muốn trở thành một
người công dân có ích cho đất nước.
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu quá trình đổi mới ở Việt
Nam dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên chưa có nhiều công trình lý giải cạnh
kẽ về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế nước ta. Do đó vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng
những kiến thức đã học được từ môn “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-
Lenin” em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“ Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi
mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”.
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.1. Khái niệm lý luận:
1.1.1. Định nghĩa:
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát tử thực tiễn phản ánh
mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ:” Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”. Lý luận được hình
thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng lý luận không hình
thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất
phát kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ
kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với
kinh nghiệm. Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao
nên nó đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Như vậy lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn,
hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó phạm vi ứng dụng của
nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.

1.1.2. Vai trò:


Lý luận có các vai trò sau đây:
-Khái quát kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết thực tiễn.
-Vạch ra những qui luật vận động phát triển của thực tiễn.
-Liên kết, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức thực hiện.
-Chỉ đạo và cải tạo cuộc sống.

1.2. Khái niệm thực tiễn:


1.2.1. Định nghĩa:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử
-xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là quá trình con người sử dụng công cụ phương tiện vật
chất, sức mạnh vật chất tác động vào tự nhiên xã hội để cải tạo làm biến đổi cho phù
hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và
khách thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể trên cơ sở đó nhận thức
khách thể. Vì vậy thực tiễn là mắt khâu trung gian nối liền ý thức của con người với
thế giới bên ngoài.
Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (loài người). Hoạt động đó không thể
tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ mà phải bằng hoạt động của đông đảo quần
chúng nhân dân trong xã hội. Đó là hoạt động của nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp . Chủ
thể không phải là một vài cá nhân mà là cả xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định.
Cho nên xét về nội dung cũng như về phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử
xã hội.
Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến bộ của tự nhiên
xã hội loài người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhưng hoạt động vật chất nào đi
ngược lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì không goị là hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn có ba dạng cơ bản:
-Hoạt động sản xuất vật chất: đây là hoạt động thực tiễn cơ bản và quan
trọng nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
-Hoạt động chính trị –xã hội: nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển
các quan hệ xã hội, chế độ xã hội.
-Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động nhằm rút ngắn độ dài
của quá trình con người nhận thức và biến đổi thế giới.

1.2.2. Vai trò:


Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức. Mọi nhận thức đều bắt nguồn từ
thực tiễn, tác động vào sự vật hiện tượng buộc nó bộc lộ thuộc tính trên cơ sở đó khái
quát, rút ra bản chất của sự vật hiện tượng, biến nó thành vật cho ta.Thực tiễn là tiêu
chuẩn để kiểm nghiệm nhận thức, thước đo để đánh giá nhận thức. Thước đo không cố
định, luôn luôn vận động, phát triển, nhưng vẫn đủ để kiểm nghiệm nhận thức và lý
luận, vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối. Từ thực tiễn mà con người
sáng tạo ra các phương pháp để cải tạo chính thực tiễn.

1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn:


Thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức và
do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận. Mọi tri
thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan hệ này cũng không thay đổi.
Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở
cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới
có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng
cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực
tiễn, mô hình lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô hình lý
luận. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài
khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng:
thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không
mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực
tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là
thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.
Lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn. Không có lý luận thì trong
hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn.
Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh
giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ
thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất và cũng không thể
vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có
vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Lý luận phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ
với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.Lý luận
cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế
là lý luận suông.
Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân
lý. Nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu
chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ
thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ
thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng
của quá trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có được lập trường thực tiễn sáng
suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy
móc và bệnh lý luận suông.
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA
ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA

2.1. Nội dung đổi mới:


2.1.1. Đổi mới tư duy:
Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Mỗi quốc gia, dân tộc đều phải suy 
nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều
kiện, đặc điểm của nước mình. Hiện nay, nước ta còn đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn, phù hợp với
thực tế và quy luật khách quan; không thể nôn nóng, giáo điều, máy móc. 
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Đối với nước ta trong
giai đoạn hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho kinh tế tăng 
trưởng nhanh, phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính trị trọng đại số một, nhiệm
vụ trọng tâm.
Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Tại Đại 
hội VI lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặt đúng tầm vấn
đề xã hội trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng về sau Đảng ta càng khẳng định phải
gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa 
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn bản của
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, sự phát
triển tư duy lý luận của Đảng ta.
Giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước: Chúng
ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách nhìn thế giới
chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn toàn diện hơn; coi thế giới như
môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối ngoại theo tinh thần
"thêm bạn bớt thù"…
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Chúng ta
từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối
ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm "an ninh quốc gia" và "bảo vệ Tổ quốc".
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta. Báo
cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: Thực chất của công cuộc đổi mới
và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa;
dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.
Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng: Sự lãnh đạo
của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng như toàn
bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh
đạo đúng đắn và có hiệu quả, Đảng càng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

2.1.2. Đổi mới kinh tế:


Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, cụ thể:
Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa đã đi đến quan niệm về
một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh
tế này, ngoài hai thành phần nói trên, còn có: kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận của
nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài,
cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, phải nhanh chóng hoàn thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể,
tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm cho
rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải
phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất
là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất đã đi đến quan niệm về một nền kinh
tế nhiều sở hữu. Trong đó, không chỉ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được thừa
nhận, mà ngay chế độ công hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các tư liệu sản
xuất mà chỉ là về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc
dân.
Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đã đi đến quan niệm
kinh tế nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự
trữ quốc gia, ngân sách nhà nước ) là chủ đạo.
Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập
thể hóa tư liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã
càng gần chủ nghĩa xã hội, do đó mà gò ép những người lao động cá thể vào hợp tác
xã, đã đi đến quan niệm hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ
sở người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và
mức độ tập thể hóa tư liệu sản xuất khác nhau. 
Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã là nền
tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân, thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát triển hai
thành phần đó với những bước đi thích hợp.
Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập
trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm phân biệt
rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc Nhà nước, còn
chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. 
Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất
chính đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất,
kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường tư bản
chủ nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế
mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu; kết hợp nội lực với ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời
ra sức tranh thủ ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế
quốc tế nhưng vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ quyền và bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ
nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là
sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương
thức sản xuất mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển đến mức
điển hình. 

2.2. Vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở
nước ta:
2.2.1. Mối liên hệ:
Tại sao Đảng ta lại đặt ra yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, trước hết là
đổi mới tư duy? Bởi vì không có bước đổi mới tư duy đi trước thì không có bất cứ một
sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy để tìm ra những vấn đề lý luận và thực tiễn nước ta,
làm căn cứ phương pháp luận cho việc xác định con đường và bước đi sắp tới. Đổi
mới tư duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để mang ý nghĩa lịch sử. Tư tưởng
giải phóng là một quá trình rời bỏ khỏi bản thân mình và toàn xã hội những gì đang
kìm hãm và cản trở sự phát triển, là quá trình tổ chức lại xã hội và đưa vào cơ chế vận
hành của xã hội một hệ thống đồng bộ các yếu tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực đẩy
cho sự phát triển nhanh và bền vững. 
Ngày nay cách mạng đã chuyển sang một giai đoạn phát triển mới khác về chất:
Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Một phương thức
chưa từng có trong tiền lệ. Con đường mới lại diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá và sự
cạnh tranh rất quyết liệt trước sức ép của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ. Trong hoàn
cảnh ấy, đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng trở thành nhu cầu không
thể thiếu. 
Thực tiễn cho thấy, sức sống của một Đảng chính trị tập trung trước hết là
ở đường lối của chính Đảng ấy. Là một Đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo cách
mạng cũng chính bằng đường lối chính trị của mình. Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa rõ ràng là những vấn đề hoàn toàn mới cả về lý luận và thực tiễn. Mác,
Ăng ghen, Lênin và kể cả các lãnh tụ tiền bối của Đảng ta cũng chưa từng đề cập đến
vấn đề này. Con đường phía trước đòi hỏi chúng ta phải hoàn toàn sáng tạo mới. 
Con đường ấy vừa thể hiện sự trung thành với quá khứ, nhưng không lệ thuộc vào
quá khứ. Trong kinh tế, chúng ta một mặt rất muốn phát triển, nhưng mặt khác lại rất
sợ phát triển vượt khỏi khuôn khổ chuẩn mực của chủ nghĩa xã hội theo những tiêu
chí truyền thống. Vì vậy, đường lối kinh tế vẫn mang nặng hơi thở của lối tư duy cũ,
tư duy thời kế hoạch hoá-tư duy bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường. Kết quả là
đường lối đổi mới trong kinh tế chưa thực sự khơi dậy mọi nguồn lực hiện có. Nguy
cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn là có thật. Do đó, Đảng đã chỉ đạo chuyển sang
kinh tế thị trường, thiết kế một hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện để tất cả mọi
công dân ở trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, có khả năng làm kinh tế đều
hoàn toàn có thể tham gia làm kinh tế, theo những định hướng vĩ mô của nhà nước,
trong khuôn khổ của luật pháp. 
Khẳng định đổi mới tư duy là trước tiên, là cơ sở cho việc đổi mới ở các lĩnh vực
khác, Đảng ta cũng khẳng định đổi mới kinh tế giữ vai trò trọng tâm. Điều đó không
chỉ có ý nghĩa là kinh tế có vị trí hàng đầu, có tác dụng quyết định mà còn là vì phát
triển kinh tế trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, có tầm quan trọng đặc biệt, nếu không muốn nói là quan trọng bậc nhất.
Nó còn có ý nghĩa là vai trò kinh tế tuy chiếm vị trí hàng đầu nhưng tư duy kinh tế
của chúng ta trong nhiều năm qua còn quá lạc hậu so với cuộc sống, cản trở không ít
đến sự phát triển kinh tế. Tư duy kinh tế lỗi thời bắt nguồn từ căn bệnh giáo điều, bảo
thủ, trì trệ, luôn bám lấy cái cũ, không chịu đổi mới, chính vì vậy mà nền kinh tế - xã
hội nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng kéo dài và đang trở thành vấn đề nóng
bỏng, nổi lên hàng đầu. Đổi mới tư duy kinh tế, vì vậy, là điểm xuất phát trong đổi
mới lý luận của Đảng, là điều hợp với thực tế, với logic cuộc sống.Trong quá trình đổi
mới, từ thực tế nền kinh tế nước ta ở điểm xuất phát thấp kém, lạc hậu, lại lâm vào
khủng hoảng từ cuối thập niên bảy mươi, Đảng ta chủ trương lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm, tạo ra bước phát triển có tính bứt phá để sớm đưa đất nước ra khỏi khủng
hoảng, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. 

2.2.2. Vận dụng:


Bối cảnh quốc tế mới và những đòi hỏi nội tại của đất nước đặt ra yêu cầu phải tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ và hoàn thiện tư duy phát triển kinh tế - xã hội trên một số nội
dung quan trọng dưới đây:
Thứ nhất, tư duy mới về nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn phát triển mới, cần có tư duy, nhận thức mới về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
- Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, có thể được xây dựng ở
các nước có thể chế chính trị khác nhau, với mô hình riêng, phù hợp với các điều kiện
và mục tiêu cụ thể của từng nước.
- Nền kinh tế thị trường thực sự và đầy đủ, bỏ hết các yếu tố bao cấp, “xin - cho” để
tạo ra thị trường cạnh tranh và sôi động.
- Từ sau những năm 90, nhờ ứng dụng một cách nhanh chóng và mạnh mẽ các thành
tựu mới của khoa học và công nghệ vào nền kinh tế (kể cả về mặt kỹ thuật - công
nghệ, tổ chức, quản lý), kinh tế thị trường đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới -
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Vì thế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng phải là
nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế theo chuẩn mực quốc tế. Đây là
luận điểm đầu tiên Đảng ta khẳng định trong văn kiện Đại hội XII. 
Thuộc tính mới này của nền kinh tế đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể chế
phát triển; đổi mới mô hình tăng trưởng... tham gia chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn
cầu.
Phát triển kinh tế tri thức; chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng khoa học - công
nghệ hiện đại..., phát triển hệ thống an sinh xã hội, thúc đẩy và hoàn thiện những
chuẩn mực văn minh trong sản xuất, tiêu dùng và quan trọng hơn là tuân thủ các cam
kết quốc tế, các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu mà Việt Nam đã ký kết. Bên
cạnh đó, Đảng ta khẳng định mạnh mẽ hơn, dứt khoát hơn về vai trò của kinh tế tư
nhân - một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Điều này xuất phát từ thực tiễn phát triển hết sức năng động của khu vực kinh tế tư
nhân, hàng trăm ngàn doanh nghiệp tư nhân đã tạo nên sự phát triển sôi động, góp
phần quan trọng tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, mạnh dạn đi đầu trong
nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mới; lực lượng doanh nhân Việt Nam đông đảo
đang có tiếng nói và vai trò ngày càng quan trọng trong các quyết sách phát triển đất
nước.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam có đặc trưng riêng - định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường là một thể thống nhất, không tách
rời nhau, những yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố nội sinh bên
trong kinh tế thị trường.
Phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Vì lợi ích tối đa của đa số nhân dân, hướng vào con người, vì con người, lấy con
người làm trung tâm của sự phát triển, mọi người được tham gia, mọi người được
hưởng lợi chính là tính nhân văn, đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới tư duy về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước phù
hợp với quy luật phát triển và định hướng chính trị của Đảng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế nhà
nước luôn được đặt ở vị trí hàng đầu, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và là một
trong các yếu tố quan trọng bảo đảm cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển
theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan điểm được xác định nhất quán
trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp quy của Nhà nước, từ Hiến pháp
đến các đạo luật và văn bản dưới luật có liên quan.
Tuy vậy, tư duy và nhận thức về bản chất, nội hàm và vai trò của kinh tế nhà nước
chưa phù hợp với lý luận và thực tiễn. Vì thế cần có bước đột phá mới về tư duy, phải
nhận diện đúng về thành phần kinh tế nhà nước, từ đó kiên trì quan điểm “Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo’’.
Có thể hiểu kinh tế nhà nước là tập hợp sức mạnh kinh tế mà nó thể hiện trên các
ngành, lĩnh vực trọng yếu, từ các định chế pháp luật, định chế tài chính đến hiệu quả
sản xuất, kinh doanh của ‘’lực lượng nòng cốt” - khu vực doanh nghiệp nhà nước,
không chỉ đóng khung trong khối tài sản đăng ký của doanh nghiệp nhà nước, ở quy
mô sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân mà nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
Hiểu như vậy, rõ ràng kinh tế nhà nước với các nguồn lực, công cụ, chính sách của
mình... giữ vai trò trọng yếu trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng cơ
bản để phát triển các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế và các loại hình
doanh nghiệp.
Vì thế, kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển, giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế: trong định hướng và điều tiết nền kinh tế; bảo đảm các cân đối lớn
của nền kinh tế, kiểm soát các nguồn tài nguyên chiến lược; phát triển kết cấu hạ tầng
và dịch vụ công có vốn đầu tư lớn, luân chuyển chậm, lợi nhuận không cao, nhưng rất
cần thiết cho nền kinh tế - xã hội mà khu vực tư nhân không sẵn sàng đảm nhận, các
doanh nghiệp nhà nước - lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước phải đi tiên phong,
mở đường ở những ngành, lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, công nghệ cao, một số hoạt động
đầu tư mạo hiểm... tạo nền tảng cơ bản cho những ngành sản xuất với công nghệ cao,
tiên tiến, hiện đại và giá trị gia tăng cao.
Tiếp tục xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế với nội
hàm mới, phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (năm 2013) là chủ trương hoàn toàn hợp lý và đúng đắn của Đảng ta.
Thứ ba, tư duy mới về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập trung
bình”.
Qua 30 năm chuyển đổi tư duy phát triển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao
cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đáng tự hào.
Tuy vậy, nhiều nhà nghiên cứu lo ngại Việt Nam có nguy cơ rơi vào “bẫy thu
nhập trung bình”, tức là tình trạng một nước thoát nghèo, đứng vào nhóm các nước có
thu nhập trung bình (GDP trong khoảng 1.025USD - 9.385USD/người/năm) nhưng
trải qua nhiều thập niên vẫn không thể trở thành quốc gia phát triển (nước có GDP
trên 9.385 USD/người/năm và đạt các tiêu chí khác về phát triển công nghệ, kinh tế -
xã hội).
Thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế vượt “bẫy thu nhập trung bình”
là phải có tư duy đúng về mô hình tăng trưởng kinh tế, hướng tới mô hình hiện đại,
tức là mô hình đặt các mục tiêu chất lượng (cơ cấu, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, vị
thế của nền kinh tế trong hệ thống phân công lao động quốc tế và khu vực...) lên vị trí
ưu tiên hàng đầu so với mục tiêu tăng trưởng sản lượng (tốc độ tăng GDP, tiết kiệm,
đầu tư, xuất khẩu và nhập khẩu...).
Theo đó, phải đổi mới tư duy phát triển, tư duy chính sách, nghĩa là phải chuyển
nhanh và triệt để tư duy “coi tốc độ tăng trưởng cao là ưu tiên hàng đầu và phải đạt
được bằng mọi giá” sang tư duy, trước hết, nhấn mạnh đến hiệu quả, năng lực cạnh
tranh và vị thế của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Nói một cách cô
đọng là điều chỉnh tư duy phát triển từ theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá
sang phát triển hiệu quả và bền vững.
Tư duy phát triển mới này đòi hỏi:
1) Tăng trưởng kinh tế được xây dựng trên những nền tảng vững chắc mang tính
bền vững, với 3 yêu cầu: Kết quả của tăng trưởng kinh tế được tạo ra bởi chính
các yếu tố mà Việt Nam có thế mạnh, có lợi thế, tiềm năng.
Các yếu tố đó cần phải được tạo dựng, nuôi dưỡng và phát huy thế mạnh, được
xem như động lực chính để thực hiện mục tiêu tăng trưởng; các yếu tố tăng trưởng
theo chiều sâu, như khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tố
năng suất tổng hợp (TFP)... đóng vai trò tích cực và chiếm tỷ trọng lớn trong kết quả
tăng trưởng kinh tế; các nguồn lực tự nhiên - tài nguyên thiên nhiên của đất nước được
khai thác, sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm, bảo tồn và tái tạo phát triển.
2) Tầm nhìn dài hạn trong tăng trưởng, tức là phải tạo ra, duy trì, củng cố các cơ
sở tăng trưởng dài hạn, như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiện đại hóa
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất lao
động, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo vị thế cạnh tranh trên thương trường
quốc tế, xóa bỏ chế độ độc quyền kinh doanh và cơ chế hỗ trợ kinh doanh độc
quyền, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, thuận lợi.
Đồng thời chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc độ tăng trưởng cao bằng mọi giá
theo mô hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng, tăng trưởng nhờ dồn sức vào tăng
khối lượng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động thô, giá rẻ.
3) Gắn tăng trưởng kinh tế với việc tạo tác động lan tỏa tích cực đến các đối tượng
ảnh hưởng. Theo đó, vấn đề quan trọng không phải là bám đuổi mục tiêu tăng
trưởng kinh tế nhanh, mà là duy trì mục tiêu tăng trưởng kinh tế hợp lý trong
mối quan hệ với những ràng buộc về tài nguyên môi trường (tức là trong quá
trình thực hiện tăng trưởng kinh tế cần quan tâm khía cạnh bền vững về môi
trường, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, tái sinh tài nguyên, chống ô
nhiễm môi trường) và những ràng buộc về các vấn đề xã hội, tức là trong quá
trình thực hiện tăng trưởng kinh tế cần quan tâm giải quyết việc làm, xóa đói,
giảm nghèo, nâng cao thu nhập và mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư;
quan tâm thường xuyên các chỉ tiêu liên quan đến sự phát triển toàn diện cho
con người, như giáo dục, y tế, thể dục thể thao, văn hóa nghệ thuật, cả chỉ số
giới và dân tộc,...).
Việc bảo đảm các chỉ tiêu phát triển xã hội và bảo vệ môi trường sẽ là nhân tố
tích cực củng cố và duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề đưa ra nghiên cứu ở trên, chúng ta có thể thấy được lý luận là
kim chỉ nam cho hành động thực tiễn, thực tiễn là cơ sở, mục đích, động lực và là tiêu
chuẩn để kiểm nghiệm lý luận. Qua đó phải coi trọng lý luận nhưng không được
cường điệu vai trò của lý luận coi thường thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt
động cách mạng. Cội nguồn của những đột phá tạo ra những bước tiến vượt bậc của
xã hội loài người có sự đóng góp của lý luận đích thực. Tuy nhiên, lý luận phải gắn
với thực tiễn, phải được kiểm tra đúc kết, khái quát từ thực tiễn thông qua việc tổng
kết thực tiễn. Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới-hội nhập, thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hơn lúc nào hết chúng ta cần hiểu rằng phải vận dụng linh hoạt,
sáng tạo, đổi mới tư duy kết hợp đổi mới kinh tế mới có thể đưa nước ta sánh vai với
cường quốc năm châu như Bác Hồ kính yêu hằng mong.
 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chu Văn Cấp, Đổi mới tư duy nhằm mở đường cho sự phát triển KT-XH có
tính đột phá ở nước ta, tạp chí Tài chính, số đăng ngày 14/8/2018.
2. Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa X về 
“Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
3. Phan Đình Diệu, Tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế xã hội, tạp chí Tia 
sáng, số đăng ngày 28/9/2006.
4. Trần Nhâm, Tư duy đổi mới của đồng chí Trường Chinh, Việt báo, số đăng 
ngày 8/2/2007.
5. Vi Thái Lang, Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, tạp chí 
Triết học, số đăng ngày 11/5/2007.

You might also like