CHƯƠNG 1: ĐỐI TƯỢNG, PP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC NĂNG CỦA KTCT M-LN KTCT M-LN là bộ môn khoa học được bắt nguồn từ sự kế thừa những kết quả khoa học của KTCT nhân loại , do C. Mác – Ph. Ăng ghen sáng lập , được Lê nin và các đảng cộng sản, công nhân quốc tế bổ sung phát triển cho đến ngày nay. Đối tượng nghiên cứu của KTCT M-LN là các quan hệ xã hội giữa của sản xuất và trao đổi mà các quan hệ này được đặt trong sự liên hệ biện chứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của phương thức sản xuất nhất định. Phương pháp quan trọng của KTCT M-LN là pp trừu tượng hóa khoa học và pp logic kết hợp với lịch sử. Chức năng của KTCT M-LN là chức năng nhận thức, tư tưởng, thực tiễn và phương pháp luận. Liên hệ: Việc học tập KTCT M-LN giúp chúng ta nghiên cứu các hiện tượng kinh tế-xã hội để đưa ra các quy luật chung có thể áp dụng được vào các quá trình hoạt động kinh tế-xã hội nhằm phát triển nền kinh tế của một q uốc gia. Trong đó, trọng tâm của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất. Cụ thể la, giúp người đọc hiểu được sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các hình thái KT-XH là tất yếu khách quan, là quy luật của lịch sử; có niềm tin sâu sắc vào con đường XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không chỉ vậy, còn giúp ta nắm được các phạm trù và quy luật kinh tế, là cơ sở giúp người học hình thành tư duy kinh tế; đồng thời còn là cơ sở lý luận cho việc hình thành các đường lối, chính sách phát triển nền KTHH nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN ở VN hiện nay. C2: HÀNG HÓA, THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi,mua bán. Hàng hóa là phạm trù kinh tế trung tâm khi nghiên cứu về sản xuất hàng hóa và nền kinh tế hàng hóa. Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm, có thể thỏa mãn nhu cầu cho sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng cho con người. Giá trị là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa, biểu thị mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt, lao động cụ thể và lao động trừu tượng; lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng, lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa. Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là phát kiến quan trọng của C. Mác, giúp ông luận giải triệt để và khoa học về nguồn gốc, bản chất của giá trị - điều mà các nhà kinh tế học trước Mác chưa giải quyết được. Trên thị trường, bên cạnh những hàng hóa thông thường còn có một số yếu tố có những thuộc tính hoặc chức năng đặc biệt cũng được trao đổi, mua bán. Những yếu tố này được coi là những yếu tố có tính hàng hóa. Nghiên cứu về các hàng hóa đặc biệt này có tác dụng hiểu rõ hơn về tính đa dạng của hàng hóa và thị trường trao đổi, mua bán chúng. Trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng; thị trường là đầu ra của sản xuất, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Không có thị trường thì sản xuất và trao đổi hàng hóa không thể tiến hành trôi chảy được. Trên thị trường, các quy luật kinh tế hoạt động , tác động lẫn nhau và điều tiết toàn bộ quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Một nền kinh tế dựa vào hoạt động của thị trường, chịu sự điều tiết của các quy luật kinh tế trên thị trường được gọi là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa; ở đó, mọi quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, dưới hình thức quan hệ hàng hóa – tiền tệ. KTTT có nhiều ưu thế trong phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm… nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, KTTT cũng đi liền với những hạn chế như tính tự phát, chỉ quan tâm lợi ích trước mắt, bỏ qua lợi ích lâu dài, làm tổn hại môi trường tự nhiên…Những hạn chế này có thể khắc phục thông qua phát huy vai trò kinh tế của nhà nước, các tổ chức xã hội và các thiết chế kinh tế khác trong xã hội. Các chủ thể kinh tế cùng tham gia sản xuất và trao đổi hàng hóa trên thị trường bao gồm người sản xuất, người tiêu dùng, các thương nhân, nhà nước, khu vực nước ngoài…Mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi hàng hóa và là 1 tác nhân của nền KTTT. Hoạt động của mỗi chủ thể đều chịu sự tác động của các quy luật KTTT( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ , quy luật cạnh tranh ); đồng thời tuân thủ sự điều tiết, định hướng của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế. Liên hệ: Chúng ta cần phải hiểu về định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta trên các quan điểm sau: 1. CNXH là khát vọng của con người về một xã hội văn minh, giàu có, ai cũng có cuộc sống ấm no hạnh phúc xứng đáng với tài năng và mức độ cống hiến của mình cho nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra mục tiêu định hướng của nền kinh tế nước ta là XHCN. Có nghĩa rằng CNXH là định hướng mà nền kinh tế thị trường nước ta hướng tới. Hiểu như thế về “định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường hướng tới ở nước ta” cho phép chúng ta có cách nhìn khách quan về nền kinh tế thị trường của các nước TBCN, cho phép chúng ta tổng kết, học hỏi những bài học kinh nghiệm của chính các nước này. 2. Mặc dù kinh tế thị trường được hiện thực hóa ở các nước có chế độ chính trị xã hội TBCN, nhưng không phải là thuộc tính riêng có của chế độ chính trị xã hội này, mà là thuộc tính phổ biến mang tính quy luật của tất cả các chế độ chính trị - xã hội dựa trên cơ sở kinh tế của nó là nền sản xuất hàng hóa. Mặc dù CNXH và CNTB là hai chế độ chính trị xã hội khác nhau nhưng cùng đứng trước sự giới hạn về tài nguyên, hàng hóa và dịch vụ so với nhu cầu của con người, nên nền sản xuất tất yếu là sản xuất hàng hóa. Do đó, sự cần thiết phải quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường có điều tiết hay cơ chế kinh tế hỗn hợp cũng là lẽ đương nhiên. 3. Trong hầu hết các hình thức tổ chức nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước TBCN, nhà nước nào cũng thừa nhận sự cùng tồn tại của hai hình thức sở hữu: Sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước TBCN cũng chứng tỏ rằng sự cùng tồn tại của hai hình thức sở hữu này không hề ngăn cản quá trình lưu thông hàng hóa. Ngược lại chính nhờ có bộ phận sở hữu nhà nước này mà một mặt các chính phủ có thể hạn chế bớt được một phần những khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế. 4. Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hóa, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của xã hội. Phải coi trọng cả 2 thuộc tính của hàng hóa để không ngừng cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng, hạ giá thành. Hơn thế, cần nhận thức khách quan và phạm vi hoạt động rộng lớn, lâu dài của quy luật giá trị trong nền kthh nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và vận dụng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước để phát huy vai trò tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường để thúc đẩy sản xuất phát triển, đảm bao công bằng xã hội CHƯƠNG 3:SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KTTT KTTT TBCN là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, vừa có điểm giống với kinh tế hàng hóa về yếu tố, chủ thể, quan hệ kinh tế, vừa khác về mục đích biểu hiện thông qua phạm trù giá trị thặng dư. Sức lao động là hàng hóa đặc biệt là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Bản chất kinh tế - xã hội của giá trị thặng dư là quan hệ giữa lao động làm thuê và người mua hàng hóa sức lao động. Tư bản với tư cách là quan hệ sản xuất thống trị trong nền KTTT TBCN biểu hiện ra dưới nhiều hình thức: tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản cố định, tư bản lưu động. Giá trị thặng dư được đo lường bằng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Các phương pháp cơ bản để gia tăng giá trị thặng dư bao gồm pp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và pp sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Tư bản duy trì sự tồn tại và phát triển thông qua quá trình tích lũy tư bản. Quy mô tích lũy tư bản chịu ảnh hưởng của các nhân tố như tỷ suất giá trị thặng dư, năng suất lao động, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng, quy mô tư bản ứng trước. Tích lũy tư bản dẫn tới gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản, thúc đẩy tích tụ và tập trung tư bản, phân hóa thu nhập trong nền KTTT TBCN. Giá trị thặng dư có biểu hiện cụ thể thông qua các hình thái lợi nhuận, lợi tức, địa tô. Trong nền KTTT TBCN, lợi nhuận bình quân có vai trò điều tiết lợi nhuận, giá cả sản xuất có vai trò điều tiết giá cả thị trường. Liên hệ: Ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN từ một nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư, cần phải: 1. Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. 2. Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân. 3 Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. 4. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. CHƯƠNG 4: CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KTTT Cạnh tranh là tất yếu khách quan gắn với KTTT. Nghiên cứu về cạnh tranh trong nền KTTT TBCN, C. Mác phân tích về cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh có tác động tích cực, đồng thời cũng có tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Trong nền KTTT, cạnh tranh tất yếu dẫn đến độc quyền. Khi xuất hiện các tổ chức độc quyền đã đánh dấu chủ nghĩa tư bản chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn – giai đoạn độc quyền. Theo V.I.Lenin, CNTBĐQ có năm đặc điểm kinh tế cơ bản. Các đặc điểm này trong điều kiện hiện nay có những biểu hiện mới. Trong nền KTTT TBCNĐQ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ xuất hiện CNTBĐQ Nhà nước. CNTBĐQ Nhà nước không phải là giai đoạn phát triển mới của CNTB, mà chỉ là nấc thang phát triển cao hơn và là nấc thang phát triển tột cùng của CNTB. CNTB có vai trò rất lớn trong quá trình phát triển của xã hội , nhưng CNTB cũng có những hạn chế lịch sử nhất định. Theo chủ nghĩa Mác- Lênin, CNTB phát triển đến một trình độ nhất định tất yếu sẽ bị thay thế bằng hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa. Đó là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Liên hệ: Xác định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế. Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản lý Nhà nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong tổ chức, phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan. Đưa nội dung về cạnh tranh và độc quyền vào chương trình giáo dục. Đào tạo các khóa ngắn hạn cho các doanh nghiệp và công chức Nhà nước để nâng cao, trau dồi kiến thức về cạnh tranh và độc quyền. Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về cạnh tranh và độc quyền. C5:KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN VÀ CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM KTTT định hướng XHCN là một kiểu nền KTTT phù hợp với thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Phát triển KTTT theo định hướng XHCN phù hợp với những quy luật khách quan của lịch sử và hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc điểm chung của nền KTTT hiện đại, đồng thời có những đặc điểm riêng có do tính định hướng XHCN quy định. Để phát triển KTTT hướng tới thực hiện mục tiêu của CNXH cần phải xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Đây là trách nhiệm của Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, là động lực của các hoạt động kinh tế. Về bản chất, lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội, mang tính lịch sử. Ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế có nhiều nhân tố, quan trọng nhất là: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách nhà nước, mật độ hội nhập quốc tế… Trong cơ chế thị trường, các chủ thể kinh tế quan hệ với nhau, xuất phát từ quan hệ lợi ích. Đó là quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động; quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động; quan hệ lợi ích giữa những người lao động… Các quan hệ lợi ích đó là biểu hiện của quan hệ sâu xa hơn, quan hệ lợi ích giữa các cá nhân-lợi ích nhóm, nhóm lợi ích-lợi ích xã hội. Bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế là yêu cầu khách quan để phát triển và nhà nước là chủ thể chính trong giải quyết vấn đề này Liên hệ: Chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN: Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần; mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, tạo lập đồng bộ các yếu tố TT; phát triển công tác nghiên cứu, ứng dụng KH và CN, đẩy mạnh CNH, HĐH; giữ vững ổn định chính trị , hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả; xây dựng hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi; thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển TT định hướng XHCN. CHƯƠNG 6: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP KTQT VN Những nội dung cơ bản về CM công nghiệp, CNH-HĐH ở Việt Nam trong bối cảnh cuộc CM công nghiệp lần thứ tư. Phân tích khái quát lịch sử phát triển của các cuộc CM công nghiệp; vấn đề CNH và một số mô hình CNH tiêu biểu trên thế giới.Nội dung chương này cũng đã phân tích và làm rõ tính tất yếu khách quan và những nội dung cơ bản của CNH – HĐH ở VN, đồng thời xác định quan điểm và giải pháp trong bối cảnh cuộc CM công nghiệp lần thứ tư.Qua đó, chỉ rõ VN cần tận dụng những lợi thế của cuộc CMCN lần thứ 4 để đẩy nhanh tốc độ phát triển và hội nhập, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển, sớm đưa VN trở thành một nước CN theo hướng hiện đại, như chiến lược phát triển KT-XH của Đảng và Nhà nước đã đề ra. Thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hội nhập KTQT là đòi hỏi khách quan của thời kỳ toàn cầu hóa. Hội nhập kinh tế có tác động cả về mặt tích cực và tiêu cực cho các nước. Nhận thức về bản chất, nội dung của hội nhập KT có ý nghĩa rất quan trọng. Với xu hướng chung của hội nhập trên toàn thế giới, Việt Nam cần phải tích cực và chủ động tham gia hội nhập KTQT, xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập phù hợp với khả năng, điều kiện của mình , tích cực khai thác lợi thế của hội nhập để phát triển đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ, các tác động bất lợi do hội nhập KTQT mang lại. Liên hệ: VN cần hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, tập trung cao độ các nguồn lực, trí lực, vật lực cần thiết để phát triển KH-CN, ứng dụng thành tựu của CMCN để đẩy nhanh quá trình CNH,HĐH. Hơn thế, VN cần nắm bắt và đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 cũng như phát triển hạ tầng về công nghệ thông tin , truyền thông; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ứng phó với những tác động tiêu cực. Nhằm đẩy mạnh hội nhập KTQT, SV VN phải hiểu biết một cách nhuần nhuyễn các quy luật của nền kinh tế thị trường vận động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở các khâu sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng, ở các hoàn cảnh cụ thể của thị trường trong nước và thị trường thế giới để vận dụng một cách sáng tạo vào việc giải quyết các công việc sản xuất kinh doanh đối ngoại của mình, đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do sự rủi ro hoặc thiếu trách nhiệm gây ra. Không ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết luật pháp đặc biệt là luật kinh tế để giải quyết một cách thông thạo các quan hệ giao dịch và kinh doanh ngang tầm đòi hỏi của thị trường thế giới. Biết tìm kiếm và phát hiện kịp thời những thế mạnh của sản xuất và thị trường trong nước và thế yếu của thị trường thế giới để khai thác tốt nhất trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta theo hướng đa phương và đa dạng hoá.