You are on page 1of 20

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................

1. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................


2. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................
3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................
4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1 : Giới thiệu về chủ nghĩa duy vật lịch sử


1.1 Chủ nghĩa duy vật lịch sử là gì?
1.2 Nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Chương 2: Quy luật quan hệ sản xuất trong chủ nghĩa duy vật lịch sử
2.1 Quan hệ sản xuất là gì?
2.2 Tầm quan trọng của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển xã hội
2.3 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
2.3.1 Đặc điểm của lực lượng sản xuất
2.3.2 Tương quan và sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
2.3.3 Những tranh luận về quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
2.4 Ý nghĩa và ứng dụng

Chương 4: Liên hệ với những yêu cầu đặt ra cho sinh viên trong phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay

4.1 Giới thiệu


4.1.1 Bối cảnh phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

1
4.1.2 Mục đích nghiên cứu và tầm quan trọng của việc đặt ra yêu cầu
đối với sinh viên Việt Nam
4.2 Thách thức và cơ hội trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành tiểu luận: “ Phân tích lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; liên hệ với
những yêu cầu đặt ra cho sinh viên trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Việt Nam hiện nay” nhóm em xin được bày tỏ lòng biết ơn đến giảng viên Đỗ Thị
Thanh Huyền đã truyền đạt cho chúng em những kiến thức nền tảng, những kĩ năng cần
thiết để có thể hoàn thiện bài tiểu luận một cách tốt nhất. Chúng em chúc cô luôn mạnh
khỏe, thành công trong công việc và cuộc sống.

Mặc dù, đã rất cố gắng nhưng do trình độ chuyên môn còn hạn chế trong quá trình
nghiên cứu, nhóm em còn gặp nhiều khó khăn và không tránh khỏi những sai sót. Vì
vậy, chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phản hồi từ phía cô để bài
tiểu luận của chúng em có thể hoàn thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn cô!

2
TÀI LIỆU KHAM KHẢO

1. C. Mác và Ph. Ăngghen: toàn tập, Sđd, t.19, tr.166


2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập (trọn bộ 50 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995
3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T.4, tr.
598-562
4. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 65
5. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 266, 268
6. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 23, tr. 266, 268
7. Nguyễn Hữu Thắng: “Đặc điểm và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư tới phát triển kinh tế - xã hội”, trong sách Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
- thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2017, tr.
45
8. C.Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr.
187

3
PHẦN MỞ ĐẦU

Trong thời kì lịch sử từ trước tới nay của loài người, các loại chế độ khác nhau đã ra đời.
Chế độ xã hội cũ được thay thế bằng chế độ xã hội mới. Thế thì nguyên nhân nào đã gây
ra việc thay thế các chế độ xã hội? Trong sự biến đổi của chế độ xã hội, có quy luật
khách quan tồn tại không phụ thuộc vào ý chí và nguyện vọng của con người hay
không? Hay là sự thay thế đó là do tình hình ngẫu nhiên, do ý chí của nhân vật đột xuất
cả biệt gây ra? Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong những lý luận quan trọng nhất
của triết học Mác-Lênin. Chủ nghĩa này nhấn mạnh vai trò quyết định của quan hệ sản
xuất trong quá trình phát triển của xã hội. Theo đó, mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã
hội sẽ có một hình thức kinh tế đặc trưng, có quy luật riêng phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không phải
là nghiên cứu một số mặt cả biệt của đời sống xã hội, mà nghiên cứu toàn bộ xã hội,
nghiên cứu mối liên hệ bên trong, sâu sắc nhất giữa các hiện tượng xã hội, và quy luật
chung nhất của sự phát triển xã hội. Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan hệ
sản xuất trong một xã hội phát triển phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp là một đặc trưng quan trọng và cần thiết để
đảm bảo sự phát triển bền vững của một xã hội. Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực
lượng sản xuất bao gồm các yếu tố về công nghệ, máy móc, trình độ tổ chức và kỹ
thuật lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất được xem như một lực thúc
đẩy cho sự phát triển của xã hội. Vì vậy, quan hệ sản xuất cần phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất để tạo điều kiện cho sự tiến bộ trong nền kinh tế và xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một yêu cầu cấp
thiết để đạt tới sự phát triển bền vững. Sinh viên được coi là những nguồn nhân lực
quan trọng trong quá trình phát triển của quốc gia. Để đáp ứng yêu cầu này, sinh viên
cần có kiến thức chuyên môn vững vàng, kỹ năng thực hành cao, và khả năng sáng tạo
và ứng dụng kiến thức vào thực tế. Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, việc
xác định và áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong việc đào tạo sinh viên là rất quan trọng.
4
1. Mục tiêu nghiên cứu
Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về triết học Mác – LêNin. Từ
đó tìm ra cách thức và yêu cầu cho sinh viên trong việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao của đất nước thông qua việc ứng dụng những kiến thức về
chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu của đề tài nói trên, chúng ta cần thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Xác định, phân tích những yếu tố học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch sử
tác động đến đời sống của con người
- Từ những kết quả phân tích chỉ ra các yêu cầu đặt ra cho sinh viên trong
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
3. Đối tượng nghiên cứu
- Lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật sản xuất
- Sinh viên trong quá trình phát triển nguồn nhân lực của đất nước hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tiến hành thu nhập và nghiên cứu, phân
tích thông tin từ những tạp chí khoa học, sách, giáo trình, website chính
thống và các công trình nghiên cứu có liên quan trước đó.
- Phương pháp phân tích: Sau khi thu thập được đủ tài liệu, phân tích và
hiểu sâu về lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Áp dụng vào thực tiễn: Khi đã hiểu rõ lý luận, áp dụng nó vào thực tế
hiện tại. Có thể nghiên cứu về cấu trúc và quan hệ sản xuất trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội của đất nước hiện tại để xác định xem liệu quy luật

5
quan hệ sản xuất có phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
hiện tại hay không.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1:GIỚI THIỆU VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

1.1 Tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử đối với sự phát triển của nhân loại
Qua nhiều giai đoạn lịch sử ta thấy rằng xã hội loài người vận động thay thế nhau, phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao, từ xã hội nguyên thủy đến chiếm hữu nô lệ, đến
phong kiến, đến tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Như vậy câu hỏi đặt ra là vì sao các hình thái xã hội lại thay thế nhau từ thấp đến cao ?
Chính là sự vận động nội tại của những quy luật trong lòng hình thái kinh tế xã hội. quy
luật đó chính là quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quy luật kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với cơ sở hạ tầng.. Chính sự vận động khách
quan trong lòng hình thái kinh tế xã hội mà dẫn tới hình thái xã hội cũ bị thay thế bởi hình
thái xã hội mới tiến bộ hơn. Cho nên khi nghiên cứu về điều này, C. Mác thấy rằng sự
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội nó là một quá trình lịch sử tự nhiên và tuân theo
quy luật khách quan.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử thực chất là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội, chính là
một trong những phát minh vĩ đại nhất của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với nhân loại, tìm
ra được quy luật cơ bản nhất, phổ biến nhất, chi phối sự vận động và phát triển của xã hội
loài người. Đặc biệt, họ đã giải thích được một cách khoa học trên lập trường duy vật biện
chứng về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức; giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; chỉ ra
nhưngc quy luật vận động phát triển của xã hội loài người, thực chất nó là những quy luật
phản ánh hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử. Và trong triết học công lao của
C. Mác và Ph. Ăngghen đóng vai trò rất lớn khi chỉ ra những quy luật, những động lực
phát triển xã hội và giải quyết được nhứng bí ẩn, bế tắc của mọi lý luận triết học cũ mà
các nhà triết học vĩ đại trước đó không làm được điều này.
1.2 Nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
C. Mác đã ứng dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để giải thích sự phát triển của xã hội
loài người, đã tìm ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. C. Mác và Ph. Ăngghen đã xuất phát từ
tiền đề nghiên cứu về lịch sử xã hội là con người hiện thực, sống và hoạt động thực tiễn.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật phát triển khách quan của xã hội, và chứng
minh điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định mặt tinh thần, tư tưởng, và ý
thức của con người. Cũng như trong giới tự nhiên, vật chất có trước ý thức, còn trong xã
hội, sinh hoạt vật chất có trước sinh hoạt tinh thần của xã hội. C. Mác đã chứng minh rằng

6
xã hội phát triển theo quy luật khách quan của nó. Quá trình sản xuất tư liệu vật chất là cơ
sở phát triển hợp với quy luật của xã hội. Động lực thúc đẩy con người hoạt động trong
tiến trình lịch sử là nhu cầu và lợi ích, trước hết là như cầu vật chất. PH. Ăngghen nhấn
mạnh rằng, “cái sự thật hiển nhiên,… là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc,
nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, tôn giáo, triết
học, v.v..”1 .Sản xuất tư liệu vật chất trực tiếp có trước đời sống tinh thần của con người,
và quyết định đời sống tinh thần của con người.

CHƯƠNG 2 : QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT TRONG CHỦ NGHĨA DUY
VẬT LỊCH SỬ
2.1 Quan hệ sản xuất là gì?
Quan hệ sản xuất là tổng hợp các quan hệ kinh tế- vật chất giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất. Đây chính là mối quan hệ vật chất quan trọng nhất – quan hệ
kinh tế, trong các mối quan hệ vật chất giữa người với người. Chính nhờ mối quan hệ
giữa con người và con người với nhau nên quá trình sản xuất xã hội mới diễn ra bình
thường. Quá trình sản xuất vật chất chính là tổng thể các yếu tố trong một quá trình thống
nhất, gồm sản xuất, thông nhất, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất.
Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức
và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
 Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản nhất, quan trọng nhất,
đặc trưng cho quan hệ sản xuất của xã hội và quyết định hai quan hệ còn lại. Bao
gồm công cụ lao động, phương tiện lao động và đối tượng lao động thuộc sở hữu
của ai đó và nó sẽ xác định địa vị kinh tế của con người
 Quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất: trong xã hội, ai là người tổ chức điều
hành và quản lý sản xuất. Nó sẽ trực tiếp tác động đến quá trình, quy mô, tốc độ và
hiệu quả sản xuất
 Quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động là sự phân chia thành quả lao động
sau quá trình sản xuất cho những người phân chia sản xuất. Quan hệ này ảnh
hưởng đến lợi ích của người sản xuất nên nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển sản xuất
Vì vậy, quan hệ sản xuất đóng một vai trò vô cùng quan trọng và ý nghĩa trong việc
xác định sự phân bố và sử dụng tài nguyên trong xã hội. Nó ảnh hưởng đến cách thức
sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ, và có thể dẫn đến sự bất bình đẳng trong
cộng đồng. Việc hiểu rõ về quan hệ sản xuất là vô cùng quan trọng để đưa ra các quyết
định kinh tế và chính trị phù hợp để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong xã hội.

7
2.2 Tầm quan trọng của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển xã hội

Trong thực tế, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ sự đi lên của lực lượng sản xuất,
trước hết là phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động. Muốn loa bỏ một quan hệ
sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất, không phải là kết quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên
ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tùy
tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí. Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan
trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để
nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
quá trình cách cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước
hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và
vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật này đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là sự
vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Khác với quy luật của tự nhiên, quy luật xã hội là quy luật hoạt động của con người, tồn
tại và tác động thông qua hoạt động của con người, gắn với điều kiện thực tiễn, hoàn cảnh
lịch sử – cụ thể. Do đó, việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội nói chung, quy luật về
sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng
phải phù hợp với điều kiện thực tiễn cụ thể của từng quốc gia dân tộc, từng giai đoạn phát
triển của đất nước và sự biến đổi của tình hình thế giới.
2.3 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất quy định sự vận
động, phát triển của các phương thức sản xuất trong lịch sử. Lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất là hai mặt của một phương thức sản xuất có tác động biện chứng, trong đó lực
lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, còn quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với
lực lượng sản xuất. C. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con
người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định

8
của các lực lượng sản xuất vật chất của họ”2. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu
không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản
nhất của sự vận động và phát triển xã hội.

2.3.1 Đặc điểm của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, tạo ra sức
sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét
trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội
(người lao động). Lực lượng sản xuất chính là sự kết hợp giữa “lao động sống” với “lao
động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất
của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Chính vì vậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.
Mác khẳng định: “Lịch sử chẳng qua chỉ là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ trong đó
mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả
những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền
lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn
cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi” 3.

C. Mác cũng chỉ ra những yếu tố cơ bản cấu thành nên nó, đó là người lao động và tư liệu
sản xuất. Theo ông, để cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, người lao động
cần phải có một sức mạnh tổng hợp. Trước hết, đó là sức mạnh của thể chất và trí tuệ -
những yếu tố tạo nên khả năng lao động của con người. Ông viết: “Để chiếm hữu được
thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con
người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay, chân, đầu và hai bàn
tay” 4. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó thì quá trình sản xuất vật chất vẫn chưa thể diễn
ra. Ngoài bản thân chủ thể lao động, con người còn sử dụng những yếu tố khác, như “sử
dụng những thuộc tính cơ học, lý học, hóa học của các vật, để tùy theo mục đích của
mình, dùng những vật đó làm công cụ tác động vào các vật khác” 5. Những vật đó được C.
Mác gọi là “khí quan”, giúp người lao động có khả năng nối dài đôi bàn tay và làm cho
9
quá trình tác động vào giới tự nhiên trở nên có hiệu quả hơn. Nếu tư liệu sản xuất là điều
kiện cần của quá trình sản xuất vật chất thì người lao động chính là chủ thể, đóng vai trò
quyết định sự phát triển của sản xuất.

Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực
sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo,
đồng thời là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội.

Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà
con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục
đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà
con người dựa vào đó để tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao
động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất của con người. Tư liệu lao động gồm công
cụ lao động và phương tiện lao động. Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của
sản xuất, cùng với công cụ động mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao
động trong quá trình sản xuất vật chất. Công cụ lao động là những phương tiện vật chất
mà con người trực tiếp sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng,
tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu
tố vật chất “trung gian”, “truyền dẫn” giữa người lao động và đối tượng lao động trong
tiến hành sản xuất. Đây chính là “khí quan” của bộ óc, là tri thức được vật thể hóa do con
người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương tiện vật chất của quá trình sản
xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, là
nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử; là thước đo trình độ
tác động, cải biến tự nhiên của con người và tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế
khác nhau. Chính vì vậy, C. Mác khẳng định: “Những thời đại kinh tế khác nhau không
phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những
tư liệu lao động nào”5.

10
Đặc trưng chủ yếu của lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa người lao động và công
cụ lao động. Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố hàng đầu giữ vai trò
quyết định, bởi vì người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động. Người
lao động là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất vật chất, nguồn gốc của sự phát
triển sản xuất.

Nghiên cứu sự phát triển của lực lượng sản xuất trong lịch sử, C. Mác khẳng định: “Tri
thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực
lượng sản xuất trực tiếp”6. Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học sản
xuất ra của cải đặc biệt, hàng hóa đặc biệt. Đó là những phát minh sáng chế, những bí mật
công nghệ, trở thành nguyên nhân của mọi biến đổi trong lực lượng sản xuất.

Trong thời đại ngày nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển, cả
người lao động và công cụ lao động được trí tuệ hóa, nền kinh tế của nhiều quốc gia phát
triển đang trở thành nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của kinh tế tri thức là công nghệ cao,
công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và trong đời
sống xã hội.

Lực lượng sản xuất trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, trước hết là toàn cầu
hoá lực lượng sản xuất, cái mà thời C.Mác gọi là quá trình tư bản hóa. Ông viết :''Nhờ cải
tiến mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng
tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh.
Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn
lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng
phải hàng phục. Nó buộc các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư bản, nếu
không sẽ bị tiêu diệt'' 7.

2.3.2 Tương quan và sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất

11
 Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất

Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực
lượng sản xuất. Cơ sở khách quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực
lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động
và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể
sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi
hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ
mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là
“hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trở thành “xiềng
xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. C. Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của
sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: “Những quan hệ
xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản
xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức
sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của
mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi
nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” 2.

 Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi
khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất; giữa các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa lực lượng
sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc
sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý cho
người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao
động.

12
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều
hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mô sản
xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học và công nghệ được áp dụng nhanh chóng;
người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp sẽ kìm hãm,
thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những
giới hạn, với những điều kiện nhất định.

Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn.
C. Mác khẳng định: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước
đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản
xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” 2.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy
luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng
giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử
kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên
thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa

2.3.3 Những tranh luận về quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất

Nhận thấy chủ nghĩa duy vật cũ là không triệt để và phiến diện , nên Mác cho là cần phải
“ làm cho khoa học xã hội phù hợp với cơ sở duy vật và dựa vào cơ sở số để cải tạo khoa
học ấy” .Nếu chủ nghĩa duy vật nói chung đòi hỏi tồn tại để giải thích ý thức thì khi áp
13
dụng vào đời sống xã hội của loài người, nó buộc phải lấy tồn tại xã hội để giải thích cho
ý thức xã hội. Mác đã nói (“Tư bản”, quyển 1): “ Kỹ thuật học cho thấy rõ phương thức
tác động của con người đối với tự nhiên, cho thấy rõ quá trình sản xuất trực tiếp ra đời
sống vật chất của con người, và do đó cho thấy rõ nguồn gốc của những quan hệ xã hội và
của những ý niệm tinh thần phát sinh ra từ những quan hệ xã hội ấy . Trong lời tựa của tác
phẩm “Góp phần phê phán kinh tế chính trị học”, Mác đã phác thảo một cách trình bày
đầy đủ những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa duy vật áp dụng cho xã hội và lịch sử loài
người như sau: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan
hệ với nhau, những quan hệ sản xuất này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định
của các lực lượng sản xuất vật chất của họ” Điều này có nghĩa là tất cả những quan hệ sản
xuất cấu thành nên cơ cấu kinh tế của xã hội. Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định quá trình đời sống xã hội, chính trị, tinh thần nói chung. Không phải ý thức
của con người quyết định sự tồn tại của họ. Tóm lại, với những hình thức tư tưởng mà qua
đó con người nhận thức được cuộc xung đột này mà đấu tranh để vượt qua nó. Và không
thể đánh giá một người chỉ dựa vào chính ý kiến của người ấy về bản thân, cũng như
không thể phán đoán một thời đại đảo lộn nào đó mà chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại
đó. Trái lại phải “ Giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng
sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất của xã hội với những quan hệ sản xuất..”

Việc vận dụng triệt để chủ nghĩa duy vật vào nghiên cứu lĩnh vực hiện tượng xã hội dã
góp phần loại bỏ hai sai sót cơ bản trong các lý thuyết lịch sử trước đây. Thứ nhất, các lý
thuyết này cùng lắm thì chỉ xem xét những động cơ tư tưởng của hoạt động lịch sử con
người mà không đi sâu để tìm hiểu nguyên nhân của những động cơ này, cũng như không
phát hiện được những quy luật khách quan trong sự phát triển của hệ thống quan hệ xã hội
của sản xuất vật chất và không nhận thấy rằng trình độ phát triển của sản xuất vật chất là
nguồn gốc của những quan hệ ấy. Thứ hai, các lý luận trước kia không quan tâm đến hành
động của bản thân quần chúng nhân dân, còn chủ nghĩa duy vật lịch sử lần đầu tiên đã
giúp xem xét các điều kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi trong
những điều kiện này một cách chặt chẽ như lịch sử tự nhiên. Lịch sử học trước Mác thì
nhiều lắm chỉ tích lũy và trình bày một số mặt nào đó của quá trình lịch sử, chỉ là một tập
14
hợp rời rạc các sự kiện còn nguyên vẹn. Chủ nghĩa Mác đã mở đường cho việc nghiên
cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh, phát triển và sự suy tàn của các hình thái
kinh tế xã hội bằng cách xem xét những xu hướng mâu thuẫn, bằng cách quy những xu
hướng ấy vào những điều kiện sinh hoạt và sản xuất đã được xác định rõ ràng của các giai
cấp trong xã hội hay bằng cách gạt bỏ chủ nghĩa chủ quan và thái độ tùy tiện khi lựa chọn
những tư tưởng “chỉ đạo” hay chỉ giải thích những tư tưởng ấy bằng cách vạch ra nguồn
gốc của mọi tư tưởng và mọi xu hướng khác nhau trong trạng thái của lực lượng sản xuất
vật chất mà không loại trừ bất kỳ ý tưởng hay xu hướng nào. Nguyên nhân của sự xung
đột nhau là gì? Tất cả những xung đột tồn tại trong xã hội loài người là gì? Đâu là những
điều kiện khách quan để sản sinh ra đời sống vật chất, những điều kiện ảnh làm nền tảng
cho mọi hoạt động của con người trong suốt lịch sử? Mác đã chú ý đến tất cả những vấn
đề ấy và đã vạch ra một con đường nghiên cứu lịch sử một cách khoa học.

Quy luật sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất bởi giữa chúng
có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, chúng phụ thuộc lẫn nhau và tác động qua lại với
nhau hình thành nên nhưng quy luật xã hội cơ bản của lịch sử loài người. Mối quan hệ
biện chứng vốn có giữa sản suất và quan hệ sản xuất là một tất yếu khách quan. Nền sản
xuất vật chất của xã hội luôn có xu hướng phát triển. Suy cho cùng, sự phát triển luôn
bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đầu tiên là các công cụ làm việc. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Khi nói đến
trình độ năng suất là nói đến trình độ của công cụ lao động và trình độ của người lao
động. Khi trình độ sản suất còn bị chi phối bởi lao động chân tay, lao động của con
người vẫn mang tính cá nhân và con người có thể sử dụng nhiều loại công cụ lao động
khác nhau để tạo ra sản phẩm trong quá trình sản xuất. Ở trình độ sản suất này, bản chất
chủ yếu là mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, máy móc công
nghiệp thì một người không thể đảm nhiệm hết tất cả các công đoạn của quá trình sản
xuất mà mỗi người chỉ có thể đảm nhận một công đoạn nhất định trên dây chuyền sản
xuất. Quá trình sản xuất đòi hỏi sự tham gia của nhiều người, sản phẩm là sự kết tinh
sức lao động của nhiều người. Với trình độ của lực lượng sản xuất như vậy thì tính chất
của lực lượng sản xuất là mang tính xã hội. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì
15
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực
lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động lại là yếu tố động, nó luôn luôn được con
người cải tiến và phát triển, dẫn đến các mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có và khi
ấy xuất hiện sự đòi hỏi khách quan phải xóa bỏ đi các quan hệ sản xuất cũ và thay thế
vào đó các quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn. Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết
học” của C.Mác đã khẳng định: “Do có được những lực lượng sản xuất mới , loài người
thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức, cách kiếm sống
của mình, loài người thay đổi tất cả những mối quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay
quay bằng tay, đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước, đưa lại xã
hội có nhà tư bản công nghiệp” 10. Và lịch sử loài người chính là bằng chứng cụ thể minh
chứng cho kết luận ấy.

2.3.4 Ý nghĩa và ứng dụng của quy luật này đến sự phát triển xã hội
 Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trước Đổi Mới ( từ năm 1986 trở về
trước)

Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu tiến hành quá trình khôi phục
và phát triển đổi mới đất nước, tuy nhiên chúng ta vấp phải rất nhiều khó khăn trong quá
trình ấy. Một trong những vấn đề chính làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm là sự lạm
phát nghiêm trọng, sản xuất chậm phát triển, không đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân
còn giá cả thì leo thang từng ngày. Điển hình như chỉ số giá năm 1975 là 1 lần thì 1980 là
2,5 lần và 38,5 lần (g.t lịch sử kinh tế tr.399). Bên cạnh đó, do người lao động chủ yếu
hoạt động dựa trên kinh nghiệm mà ông cha để lại mà chưa được đào tạo một cách bài
bản nên trình độ người lao động rất thấp và đại bộ phận vẫn là lao động thủ công nên hầu
như không có chuyên môn tay nghề. Không chỉ vậy, ở nước ta lúc bấy giờ, tư liệu sản
xuất nhất là công cụ lao động còn rất thô sơ và lạc hậu. Là một nước chú trọng phát triển
nông nghiệp nhưng công cụ lao động chủ yếu là cuốc, cày chủ yếu là sử dụng sức người.
Về công nghiệp thì Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ

16
nước ngoài, trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa còn rất hạn chế, khoa học kĩ thuật chưa phát
triển cao và phần lớn là nhập khẩu kĩ thuật chứ thực chất chúng ta chưa có khả năng
nghiên cứu các công nghệ do trình độ về khoa học ứng dụng còn hạn chế. Về thương
nghiệp, tuy phát triển nhanh nhưng còn yếu vì hoạt động thu mua và phân phối hàng hóa
còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra nhận thức của người lao động chưa có sự tự giác trong
công việc và học tập, một phần cũng là do sự quản lí kém, trình độ tổ chức và phân công
lao động chưa có hiệu quả.

 Nhìn chung trước Đổi Mới, lực lượng sản xuất ở Việt Nam còn lạc hậu và phát
triển không đồng đều

Nhận thấy được sự tụt hậu và giảm sút của tình hình kinh tế của nước ta lúc bấy giờ so
với các nước phát triển triển, Đảng và Nhà nước đã yêu cầu cấp bách đề xuất ra một
chính sách kinh tế phù hợp với yêu cầu của thời đại để sớm đưa đất nước ra khỏi trình
trạng kém phát triển. Như vậy Đổi Mới chắc chắn phải lấy kinh tế làm trọng tâm. Có
đảm bảo về nhu cầu cuộc sống vật chất cho nhân dân thì mới có thể phát huy được các
mặt khác của xã hội. Từ đó xã hộ mới phát triển và tiến đến gần hơn trong quá trình
hội nhập thế giới.

 Công cuộc Đổi Mới năm 1986 đến nay:

Với tinh thần “ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra cấp bách với mong
muốn phải đổi mới toàn diện đất nước để đưa nước ta vượt khỏi khủng hoảng và tiếp
tục phát triển. Đảng khẳng định: “Cùng với việc đánh giá đúng những thành tích đã
đạt được, ở Đại hội này, chúng ta chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích
sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân, nêu ra biện pháp khắc
phục, xác định nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu cho những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ”.

17
CHƯƠNG 4: LIÊN HỆ VỚI NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA CHO SINH VIÊN
TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

4.1 Giới Thiệu

4.1.1 Bối cảnh phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập và Cách mạng công nghiệp 4.0, Việt Nam đang trong giai đoạn
phát triển và có nhiều giải pháp được đề xuất nhằm tạo việc làm cho người lao động. Thời
gian qua, mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn ở mức ổn định 6,5-7%, mang lại nhưng
chuyển biến tích cực giúp giải quyết việc làm cho người lao động. Nhờ việc thực hiện đổi
mới, đề xuất ra các chính sách thúc đẩy đầu tư và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân,
quá trình tăng trưởng kinh tế của chúng ta đã tạo ra nhiều ngành nghề mới, đòi hỏi lực
lượng lao động lớn có kỹ năng và trình độ để đáp ứng được yêu cầu. Năng suất lao động
nước ta hiện nay tuy được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp và phần lớn phụ thuộc vào
số lượng lớn lao động phổ thông, người lao động hiện nay do có nhiều sự lựa chọn về thời
gian làm việc và thu nhập nên một số ngành không tuyển đủ công nhân. Bên cạnh đó,
trình độ chuyên môn của lực lượng lao động còn hạn chế do khả năng quản lí, làm việc
nhóm, tính chuyên nghiệp trong công việc còn yếu, lý thuyết vững nhưng kỹ năng thực
hành còn nhiều thiếu sót dẫn đến các doanh nghiệp không tuyển được đúng vị trí làm
việc.

4.1.2 Mục đích nghiên cứu và tầm quan trọng của việc đặt ra yêu cầu đối với
sinh viên Việt Nam

Để phát triển nguồn nhân lực thì chính người lao động phải có những yêu cầu cần thiết và
khắt khe tùy theo mức độ và vị trí làm việc mà nhà tuyển dụng sẽ yêu cầu. Và người lao
động chính là sinh viên trong tương lai sau khi ra trường, hiện nay yêu cầu dành cho sinh
viên được chia làm 2 loại: yêu cầu về chuyên môn và kỹ năng mềm .

• Yêu cầu về chuyên môn: sinh viên cần phải đáp ứng những yêu cầu chính cho việc
họ sẽ làm và với thời kỳ đổi mới, để đất nước phát triển thì không chỉ làm được mà còn
18
phải làm giỏi, lực lượng lao động thì nhiều nhưng lực lượng lao động có chuyên môn cao
thì hiếm. Chính vì vậy, để đạt được những mục tiêu về thu nhập, cuộc sống thì việc nâng
cao chuyên môn là một vấn đề vô cùng quan trọng.

• Mặc khác, trong bối cảnh hội nhập hóa máy móc dần thay thế con người, yêu cầu
đặt ra đối với sinh viên là bên cạnh việc không ngừng trau dồi kiến thức chuyên môn,
ngoại ngữ, công nghệ thông tin thì còn phải quan tâm đến việc học tập và hoàn thiện các
kỹ năng mềm của bản thân.

=> Tóm lại, việc đặt ra yêu cầu với sinh viên là một việc quan trọng và cần thiết để đào
tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp cho xã hội và đất nước ngày càng
phát triển, đồng thời giúp sinh viên dạn dĩ hơn và dễ dàng hội nhập với nguồn lao động
toàn cầu.

4.2 Những thách thức và cơ hội trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Nguồn nhân lực chất lượng cao theo quan niệm của C. Mác đó là: “Những con người có
năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất, C.Mác rất chú
trọng đến những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ
thống trong thực tiễn”.Thứ nhất là trong thời đại công nghiệp hóa- hiện đại hóa, cụ thể là
cuộc cách mạng 4.0 thì tri thức đã trở thành lực lượng quan trọng nhất đối với sự phát
triển. Với hệ thống Internet và các mạng lưới thông tin toàn cầu đã tạo điều kiện cho việc
truy cập và truyền bá các kiến thức về thị trường quốc tế. Đây là cơ hội giúp cho Việt
Nam tìm hiểu và rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế với các nước phát triển trên
thế giới. Thứ hai, nhờ có các mạng lưới hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin phát triển
đã giúp mở ra nhiều hình thức kinh tế số đa dạng, điều này tạo ra một thị trường lao động
đa dạng phong phú và mở ra cơ hội phát triển nguồn cung lao động. Thứ ba, dân số Việt
Nam là dân số trẻ, vì vậy nguồn nhân lực ở Việt Nam là một lợi thế lớn vì lao động trẻ đa
số ham học hỏi, chịu khó cần cù và có chí cầu tiến, nhờ lực lượng dân trí khá cao mà
nguồn lao động chất lượng cao ở Việt Nam ngày càng được nâng cao, đáp ứng đủ yêu cầu
của doanh nghiệp. Thứ nhất, sự bất bình đẳng giữa các khu vực có thể coi là vấn đề trầm

19
trọng trong nền kinh tế số, bằng chứng rõ nhất cho thấy các ngành công nghiệp mới chủ
yếu xuất hiện ở các khu vực đô thị có tỷ lệ lao động có tay nghề cao. Và những lao động
có tay nghề thấp có nguy cơ sẽ bị thay thế bằng những hệ thống tự động hóa, nếu không
thì chỉ hưởng lợi rất ít. Vì vậy việc nâng cao tay nghề đối với đối tượng lao động là rất
quan trọng. Thứ hai, do sự quản lý của nhà nước còn nhiều bất cập và thiếu kinh nghiệm
nên việc bảo đảm an toàn và bảo mật trong hoạt động đối với nền kinh tế được coi là một
thử thách lớn. Thứ ba, theo thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0 thì yêu cầu của thị trường
cũng tăng theo, mà chất lượng nguồn nhân lực lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế, khả
năng hòa nhập vào môi trường của con người còn yếu nên đây cũng được coi là thách
thức không nhỏ đối với nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong bối cảnh phát triển
nền kinh tế số. Nhận thấy được những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Việt Nam, nhà nước đã đưa ra nhưng giải pháp đổi mới. Đầu tiên, chính phủ đảm
nhiệm vai trò dẫn dắt, tạo cơ chế, môi trường thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số của toàn
xã hội làm xuất hiện xã hội số.Thứ hai, chú trọng phát huy vai trò chủ động, tích cực của
các doanh nghiệp.Thứ ba, tập trung nguồn lực để xây dựng nền giáo dục, gắn chiến lược
phát triển giáo dục - đào tạo với chiến lược phát triển nguồn nhân lực dựa vào chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội chung của quốc gia.

20

You might also like