Professional Documents
Culture Documents
1
Trần Thị Hồng Nhung, http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/ly-luan-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-su-van-dung-cua-
dang-ta-trong-giai-doan-hien-nay-246.html, 23/10/2019
2
Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 247-252.
1
Đây là một chỉnh thể phức tạp, năng động và luôn vận động, biến đổi phát triển về
mặt sinh học, con người tồn tại ở cấp độ cơ thể, biểu hiện trong các hiện tượng sinh lí
di chuyển thần kinh và các quá trình khác của cơ thể. Về mặt này, con người phục tùng
các quy luật tự nhiên, sinh học. Về mặt xã hội, con người tồn tại ở cấp độ nhân cách
biểu hiện trong những quá trình ý thức, tính chất, lối sống… là chủ thể quan hệ xã hội
lao động, giao tiếp, tinh thần. Như vậy, con người vừa phải phục tùng các quy luật tự
nhiên - sinh học, vừa phải phục tùng các quy luật xã hội. Sự hình thành, phát triển con
người thông qua quá trình thống nhất giữa cơ chế di chuyển và hoạt động xã hội. Cơ
chế di chuyển quyết định quá trình tiến hóa sinh học của con người tạo nên cơ sở tiến
hóa của xã hội. Quá trình gia nhập hoạt động xã hội, gia nhập vào bối cảnh văn hóa -
lịch sử đã quyết định sự hình thành, phát triển những phẩm chất xã hội của con người.
Cơ chế di chuyển không chỉ quyết định về mặt sinh học là chủ yếu mà còn gắn liền với
sự hình thành bản năng xã hội của con người. Do đó, con người là một bộ phận của
giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của con người".
c. Con người là thực thể cá nhân - xã hội:
Con người là chỉnh thể đơn nhất, vừa là những phẩm chất của hệ thống các quan
hệ xã hội. Đó là hệ thống phát triển năng động, thống nhất giữa chung một cái đặc thù
và cái riêng, con người là nhân cách đặc trưng chung, đại biểu cho nhân loại, tộc loại,
thuộc tính chung nhất, cao nhất là sáng tạo. Con người mang những phẩm chất đặc thù
đại biểu cho một xã hội cụ thể đại biểu cho dân tộc, giai cấp tập thể, nhóm xã hội, gia
đình…những phẩm chất xã hội của con người mang dấu ấn của thời đại lịch sử và
những quan hệ xã hội cụ thể. Những phẩm chất riêng có của mỗi người là cái đơn
nhất, cái đặc thù của cá nhân tạo nên kinh nghiệm, tính đơn nhất về tâm lí xã hội của
mỗi con người. Cái riêng của mỗi người do đặc điểm di chuyển, do điều kiện sống
riêng của mỗi người quy định, nhờ những phẩm chất riêng mà phân biệt được cá nhân
này với cá nhân khác về tình cảm, ý chí, động cơ, tính cách, trí tuệ… Cho nên, Mác đã
từng nói “Con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”.
d. Con người là thể thống nhất giữa tất yếu và tự do: Tự do chính là tiền đề, là điều
kiện cho hoạt động sáng tạo của con người. Hoạt động con người là sự thống nhất giữa
tất yếu và tự do. Con người muốn tự do trước hết phải giải phóng về mặt xã hội, phải
có chế độ KT-XH tạo điều kiện tốt nhất con người vươn tới tự do. Một xã hội bao gồm
2
trong đó những con người phát triển tự dó, toàn diện chính là mục tiêu của một xã hội
đó là xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội:
Theo Mác, “Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội”3. Quan niệm của Mác về biện chứng con người đã khắc phục được hạn
chế của quan niệm DVSH trước đó về bản chất con người. Hạn chế căn bản của quan
niệm DVSH trực quan và trừu tường hóa. Chủ nghĩa DVLS lí giải từ giác độ các quan
hệ LS-XH, từ đó phát hiện ra bản chất con người. Hơn nữa chính bản tính xã hội của
con người, phân biệt con người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Như vậy bản
chất con người xét trên phương diện tính hiệc thực của nó chính là tổng hòa các quan
hệ xã hội bởi xã hội chính là xã hội của con người được tạo nên từ toàn bộ các quan hệ
giữa người với người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức…
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Ý nghĩa lý luận:
Để lí giải một cách khoa học những vấn đề về con người thì không thể chỉ đơn
thuần về phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết
định hơn là phải từ phương diện bản tính xã hội của con người từ những quan hệ kinh
tế, xã hội của nó. Chúng ta cần phải đứng trên nguyên tắc toàn diện để đánh giá thấy
được mặt tự nhiên của con người, phương diên bản tính tự nhiên con người, phương
diện bản tính xã hội. Nhưng trong đó thấy được bản tính xã hội chính là yếu tố quyết
định. Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người,
vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển của xã hội. Cuối cùng, sự nghiệp giải phóng con người nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của con người hướng vào sự nghiệp, giải phóng những quan hệ KT-
XH. Với ý nghĩa PPL, cho thấy một trong những giá trị căn bản nhất của XHCN chính
là mục tiêu xóa bỏ áp bức bóc lột bất công, ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của
con người. Thông qua cuộc Cách mạng XHCN thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn
nhân loại bằng phương thức xây dưng mối quan hệ KT-XH, đó là mối quan hệ công
3
C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3
bằng, văn minh, dân chủ. Muốn làm được điều đó, giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động phải tiến hành cuộc Cách mạng XHCN xóa bỏ chế độ tư bản cũ,
xóa bỏ người áp bức bóc lột và xây dưng CNXH, CNCS văn minh.
2. Ý nghĩa thực tiễn:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận về con người của
chủ nghĩa Mác - Lê nin phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam. Tư tưởng Hồ
Chí Minh bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong đó có các nội dung cơ bản là: tư
tưởng về giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, tư
tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, tư tưởng về phát
triển con người toàn diện. Bằng những tác phẩm “Bản chất chế độ thực dân Pháp”
(1925) và “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Hồ Chí Minh đã vạch trần
bản chất, quy luật vận động, địa vị lịch sử, những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã
man của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa; nêu rõ những nguyện
vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Người đã khẳng định “Người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không
dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ” 4. Không chỉ được
thể hiện trong cơ sở lý luận, quan điểm vận động tuyền truyền trong quần chúng cách
mạng: “Hỡi anh em ở các thuộc địa!… chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” 5. Nhân
dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc “có thể chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải
phóng cho ta”6, giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và qua đó, thúc đẩy cách
mạng chính quốc. Đây là các quan điểm thể hiện lập trường duy vật, khoa học và biện
chứng, là sự vận dụng trung thành và sáng tạo tư tưởng về giải phóng con người, giải
phóng giai cấp và nhân loại của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, quan
điểm này đã được người quán triệt , được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng vào thực
tiễn, được thực tiễn chứng minh hoàn toàn đúng đắn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
con người, nhân dân là mục tiêu, động lúc cách mạng “Vô luận việc gì đều do con
người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” 7. “Muốn tiến lên chủ nghĩa
4
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 467
5
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 127-128
6
Tạp chí quốc phòng toàn dân - 13/08/2012
7
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.5, Sđd. tr.241
4
xã hội thì phải có những con người xã hội chủ nghĩa” 8. Con người cũng Hồ Chí Minh
cũng là nhân dân. Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người. Đặc
điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”.
“Việc lựa chọn các mô hình phát triển phải đảm bảo lợi ích cho tất cả mọi người,
giải phóng xã hội và con người, theo đó xã hội cần phát triển để phục vụ con người,
chứ không phải là một xã hội chỉ theo đuổi lợi nhuận và bóc lột, làm phương hại đến
phẩm giá con người”9. Do đó, trong công cuộc đổi mới đất nước,việc xây dựng, đào
tạo thế hệ trẻ là việc quan trọng, cấp bách, đòi hỏi một kế hoạch kỹ lưỡng, chiến lược
bền bỉ và mang tính lâu dài, bền vững bởi vì đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ cách mạng
kế cận, góp phần tạo nên con người mới xã hội chủ nghĩa. Chúng ta biết rằng, có một
nội dung bao chứa rộng lớn cả về lý luận và thực tiễn nằm xây dựng chế độ mới và
giải phóng con người, vì con người ở trong kho tàng lý luận của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đó là: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa”10.Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá
trình đấu tranh Cách mạng, minh triết đó không chỉ đã trở thành phương châm hành
động mà còn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam.. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng đã đặt ra một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm là: “Phát huy
nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con
người về đạo đức, về nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi
trường văn hóa lành mạnh”11.Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ. Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương
châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển. Thứ
ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội nhằm
tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy vai trò của nguồn lực con người trong
các lĩnh vực.
8
Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.9, Sđd. tr.303
9
Nguyễn Phú Trọng, Nguồn tin: https://www.moha.gov.vn/ (Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH) – Truy cập tháng
08/2021
10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H, 2011, t.13, tr. 66
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.219
5
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
ĐBTQ lần thứ XII, Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã tổng kết thành các bài học
kinh nghiệm. Trước hết, đó là “kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI qua các cột mốc
năm 2025, 2030 và năm 2045, toàn Đảng, toàn dân có mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
chiến lược hàng đầu là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”, phấn đấu đưa nước ta trở
thành quốc gia phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề cần được thực hiện thắng lợi trong bối cảnh thế
giới đang và tiếp tục có nhiều chuyển động sâu rộng, tạo ra sự thay đổi mang tính bước
ngoặt trong sản xuất vật chất và đời sống tinh thần của toàn nhân loại. Trên thế giới
ngày nay, cạnh tranh giữa các quốc gia dân tộc về cơ hội, điều kiện và các nguồn lực
phát triển sẽ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Đặt trong bối cảnh này, công cuộc đổi mới
của chúng ta không thể tiếp tục lộ trình theo kiểu “kinh nghiệm chủ nghĩa”, mà nhất
thiết phải được một lý luận tiền phong soi sáng. Lý luận tiền phong đó chính là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được toàn Đảng, toàn dân kiên định quán
triệt, nhận thức sâu sắc và vận dụng, phát triển sáng tạo. Từ những phân tích trên tiêu
luận đưa ra kết luận rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin về con người nói riêng là kim
chỉ nam, đóng vai trò định hướng cho Việt Nam thực hiện thành công quá trình CNH,
HĐH đất nước; trở thành một quốc gia văn minh, dân giàu, nước mạnh; thoát khỏi
được sự nghèo nàn, lạc hậu. Đồng thời, tiểu luận đã đưa ra khá đầy đủ những giải pháp
được vận dụng trong quan điểm Triết học của chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm cải thiện và
nâng cao nguồn lực con người, phát huy nhân tố con người để đất nước Việt Nam gặt
hái được nhiều thành công trong công cuộc CNH, HĐH.
PHẦN MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị Hồng Nhung, http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/ly-luan-cua-
triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-su-van-dung-cua-dang-ta-trong-giai-doan-hien-
nay-246.html, 23/10/2019.
[2] Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 247-252.
[3] C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 467.
[5] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 127-128.
[6] Tạp chí quốc phòng toàn dân - 13/08/2012.
[7] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.5, Sđd. tr.241.
[8] Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.9, Sđd. tr.303.
[9] Nguyễn Phú Trọng, Nguồn tin: https://www.moha.gov.vn/ (Bài viết của Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên CNXH) – Truy cập tháng 08/2021
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3, H,
2011, t.13, tr. 66.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.219.