You are on page 1of 22

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM


----------

ĐỀ TÀI
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ LỐI SỐNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA; Ý NGHĨA CỦA VẤN
ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN LỐI SỐNG LÀNH MẠNH TRONG SINH
VIÊN TRƯỜNG TA HIỆN NAY
GVHD: GVC. TS. Đặng Thị Minh Tuấn
CÁC THÀNH VIÊN:

Họ và tên Mssv
Phan Văn Khải 21161134
Nguyễn Bình Minh 21161151
Nguyễn Ngọc Biển 18130006
Phạm Quốc Huy 21161130

Tp. Hồ Chí Minh - 10/2023


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2023 – 2024
Mã học phần: 231LLCT120405
Tên đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa và lối sống xã hội chủ nghĩa; ý nghĩa của vấn đề này đối với việc
thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay.
.

STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN


1 Phan Văn Khải 21161134
2 Nguyễn Bình Minh 21161151
3 Nguyễn Ngọc Biển 18130006
4 Phạm Quốc Huy 21161130

Nhận xét của giáo viên


.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 10 năm 2023
MỤC LỤC

PHẦN 1: MỞ ĐẦU...................................................................................................................1

1.1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................................1

1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài..................................................................................1

1.3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................2

PHẦN 2: NỘI DUNG................................................................................................................3

2.1. Bản chất của con người................................................................................................3


2.1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người...................................3
2.1.1.1. Khái quát về quyền con người.........................................................................3
2.1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông.................................4
2.1.1.3. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời cổ đại và trung
cổ…………………….........................................................................................................4
2.1.1.4. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời Phục hung và
Cận đại…………...............................................................................................................5
2.1.2. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội....................................................5

2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người.............................................................6

2.3. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội...............................9

2.4. Ý nghĩa đối với việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện
nay……………........................................................................................................................12

PHẦN 3: KẾT LUẬN.............................................................................................................14

TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................15


PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1.1. Lý do chọn đề tài

Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại. Làn sóng văn
minh thứ ba đang được loài người đưa tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả năng để họ tìm
ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội
chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp
phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ
nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo
và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho
“phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách
quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ
nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người. Trên cơ sở vận
dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban
chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển
con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn
diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Lối sống lành mạnh không chỉ ảnh hưởng đến sức
khỏe cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội. Sự phát triển của một quốc gia không chỉ được
đo lường bằng chỉ số kinh tế mà còn bằng chất lượng cuộc sống và sự phát triển con người.
Sinh viên là nhóm người trẻ tuổi, đang trong giai đoạn hình thành cá nhân và quan niệm về xã
hội. Việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên là rất quan trọng để tạo ra những công
dân chất lượng, có ý thức về trách nhiệm xã hội và có khả năng tham gia vào việc xây dựng
xã hội chủ nghĩa. Sinh viên được xem là những người tiên phong, có khả năng thay đổi xã hội
theo hướng tích cực. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, em đã chọn đề
tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và
lối sống xã hội chủ nghĩa; ý nghĩa của vấn đề này đối với việc thực hiện lối sống lành mạnh
trong sinh viên trường ta hiện nay”.

1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài

1
Đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa và lối sống xã hội chủ nghĩa; ý nghĩa của vấn đề này đối với việc thực hiện lối sống
lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay” sẽ cho chúng ta một hiểu rõ quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin về xây dựng con người mới trong xã hội chủ nghĩa và lối sống xã hội chủ
nghĩa từ đó đánh giá ý nghĩa của quan điểm này đối với việc thực hiện lối sống lành mạnh
trong sinh viên trường ta hiện nay.

Để giải quyết được vấn đề trên, nhiệm vụ của đề cần đạt được là:

+ Tìm hiểu về triết học chủ nghĩa Mác - Lênin và các nguyên tắc cốt lõi của nó.

+ Nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng con người mới trong xã
hội chủ nghĩa và lối sống xã hội chủ nghĩa.

+ Phân tích ý nghĩa và tầm quan trọng của việc áp dụng quan điểm này trong việc thực
hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay.

+ Trình bày kết quả nghiên cứu một cách rõ ràng, logic và cung cấp các ví dụ và bằng
chứng hỗ trợ.

1.3. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, nhóm em kết hợp một số phương pháp sau:

+Phương pháp nghiên cứu thứ cấp: Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

như: sách, báo chí, internet, thời sự có liên quan đến đề tài nghiên cứu.

+Phương pháp nghiên cứu sơ cấp: thông qua dữ liệu thu thập trực tiếp qua đối tượng
nghiên cứu, cụ thể là các bạn học sinh, sinh viên. Phương pháp này được thực hiện bằng cách
khảo trả lời bảng câu hỏi google form.

+Phương pháp phân tích, tổng hợp, logic: từ các thông tin thu thập nhóm em chọn lọc
những thông tin cần thiết và tổng hợp thành một nội dụng hoàn chỉnh, tạo sự mạch lạc và rành
mạch cho đề tài nghiên cứu.

2
PHẦN 2: NỘI DUNG

2.1. Bản chất của con người

2.1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người

2.1.1.1. Khái quát về quyền con người

Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế giới từ
trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu phân tích một
cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề
tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý.
Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội học,… Từ rất sớm trong lịch
sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó
đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất cứ một lĩnh vực
nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây
nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và
tâm lý của những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải
quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con người là gì
và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn troch chính con người.
Con người chỉ đứng sau thần linh theo quan điểm của các nhà triết học thần linh. Con
người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho
rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh
hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết
định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó
không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người
và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên cơ sở
khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy móc coi con
người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa duy tâm chủ quan và
thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái
không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về

3
bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai
trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm
của tự nhiên và hoàn cảnh. Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển
quan điểm triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen là
người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện
ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên
cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó. Sau khi đoạn
tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác
trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản
năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng
thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với
những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
2.1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông

Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo:


+ Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, phủ nhận cái Tôi của con người.
+ Trong quá trình tồn tại, con người có trần tục tính và phật tính. Bản tính con người
vốn tự có cái ác và cái thiện. Cuộc đời con người do chính con người quyết định qua quá trình
tạo nghiệp.
+ Con đường tu nghiệp để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật được coi là đạo làm
người.
Quan điểm về con người trong triết học Nho gia.
+ Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong khoảng
giữa âm - dương và do bẩm thụ tính Trời nên bản tính con người vốn thiện.
+ Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm
dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của Trời Đất,
sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”.
2.1.1.3. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời cổ đại và trung
cổ

Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời cổ đại:
+ Quan điểm về con người trong triết học duy vật Hy Lạp cổ đại (Empêđôclơ, Lơxíp,
Đêmôcrít v.v).

4
+ Quan điểm về con người trong triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại (Xôcrát và Platôn
v.v).
+ Quan điểm về con người trong triết học Arítxtốt.
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời Trung cổ:
+ Quan điểm về con người của Cơ đốc giáo.
+ Quan điểm về con người trong triết học Tômát Đacanh.
2.1.1.4. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thời Phục hung và
Cận đại

Triết học phương Tây thời nào cũng có tư tưởng duy vật gắn với thực tiễn xã hội; tuy
nhiên, ở bất kỳ thời nào quan điểm duy tâm về con người vẫn là tư tưởng thống trị.
Cho đến khi "Thuyết tiến hoá của các loài" của Đácuyn ra đời, các nhà triết học duy
vật mới có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người "Không phải
Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa theo
hình ảnh của con người" (Phoiơbắc). Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy
siêu hình nên đã giải thích sai lệch về nguồn gốc và bản chất con người. Còn các nhà duy vật
thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi con người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính
đồng loại).
Phái nhân bản học sinh vật (Phoiơbắc, Phờrớt v.v) cho con người là một thực thể tự
nhiên, sinh vật; con người sinh vật thuần tuý; con người nhân bản, tuyệt đối hoá yếu tố sinh
vậtcủa con người, quy bản chất của con người vào tính tự nhiên của nó. Ở Phoiơbắc, bản chất
của con người nằm ở tính tộc loại được thể hiện ra trong tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình
yêu.
Đây là quan điểm triết học đã tuyệt đối hoá mặt tự nhiên của con người, tách con
người ra khỏi các hoạt động (thực tiễn) của họ, làm hoà tan bản chất con người vào bản chất
tôn giáo.
+ Quan điểm về con người trong triết học Italia.
+ Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph. Bêcơn).
+ Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpinôda)

2.1.2. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội

Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cải tạo tự
nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến hoá nhưng như thế
không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để không còn một sự liên hệ

5
nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá
lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi
con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt... Song con người khong phải là động vật
thuần tuý như các động vật khác mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có
tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là
tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác
nhau, những quy định về mặt xã hội tạo nên con người. Con người chỉ có thể tồn tịa được khi
tiến hành lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao động sản
xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động là nguồn gốc duy nhất của
vật chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì lao động là nguồn gốc của văn hoá vật
chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất, đó là những
quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các lĩnh vực đời sống và
tinh thần.
Chính vì con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con người chịu sự chi
phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng. Các quy luật tự
nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và môi trường, quy luật về quá trình trao đổi
chất... tác động tạo nên phương diện sinh học của con người. Các quy luật tâm lý, ý thức hình
thành và hoạt động trên nền tảng sinh học của con người hình thành tư tưởng tình cảm, khát
vọng niềm tin, ý chí. Các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa người với người, điều
chỉnh hành vi của con người. Hệ thống các quy luật trên cũng tác động lên con người, tạo nên
thể thống nhất hoàn chỉnh giữa sinh học cái xã hội trong con người.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người sản xuất và
của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là chủ thể cải tạo tự
nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào tự nhiên vừa tác động vào
tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người mới khắc phục được tự nhiên bằng
cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như tự nhiên bằng cách toạ ra những vật chất,
hiện tượng không như tự nhiên vốn có bằng cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự
nhiên, bắt tự nhiên phải phục vụ con người. Tuy nó là sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc
chắn rằng có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy
luật của chính bản thân đó. Quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng tạo ra lịch sử cho
mình. Con người không những là sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể cải tạo
chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật

6
chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách mạng. Con người đánh dấu thêm các trang sử mới cho
chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo những quy luật khách quan song quá
trình vận động của con người luôn xuất phát từ nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi
những mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng cuả
quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình. Nếu không có con người với tư cách
là chủ thể sinh động nhất của xã hội thì không thể có xã hội, không thể có sự vận động của xã
hội mà vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người

Chủ nghĩa xã hội là của nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, việc hình thành các mối quan hệ
đúng đắn giữa con người với vai trò của con người trong sự phát triển xã hội, đặc biệt là trong
chủ nghĩa xã hội là những vấn đề tất yếu trong thế giới quan Mác-Lênin.

Theo quan điểm Mác-Lênin, con người là khái niệm về những cá nhân con người thống
nhất về mặt sinh học và xã hội. Con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của thế
giới tự nhiên và sinh học. Vì vậy, nhiều quy luật sinh học cùng tồn tại và ảnh hưởng đến con
người. Là con người, muốn tồn tại thì trước tiên phải ăn uống... Điều này giải thích tại sao
Marx tin rằng con người phải ăn và mặc trước, sau đó mới tham gia vào chính trị.

Nhưng chỉ ở trong một số lĩnh vực sinh học nhất định của con người không giải thích
được bản chất con người. Quan điểm của Mác không chỉ là “con người là tổng thể của các
quan hệ xã hội” mà còn là một quan điểm toàn diện.

Marx và Ănghen đã nhiều lần nhắc lại quan điểm của các triết gia đi trước. Con người là
một phần của thế giới tự nhiên và là động vật xã hội, nhưng Marx và Ănghen khác với họ, xét
những khía cạnh tự nhiên của con người như ăn, ngủ, đi lại, thích thú... Họ không còn hoàn
toàn tự nhiên như động vật nữa mà đã xã hội hóa. Marx viết: "Bản chất của con người không
phải là một ý tưởng trừu tượng vốn có của một cá nhân riêng lẻ. Theo chủ nghĩa hiện thực của
nó, bản chất con người là một tổng thể phức tạp của các mối quan hệ xã hội". Con người là sự
kết hợp giữa các khía cạnh tự nhiên và xã hội nên Mac nhiều lần so sánh con người với So
sánh động vật. So sánh con người với động vật có bản năng tương tự con người...và khám phá
ra sự khác biệt đó. Marx đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ, chẳng hạn, chỉ có con người tự tạo
ra phương tiện sinh hoạt cho mình, con người biến đổi thiên nhiên theo quy luật tự nhiên, con
người là thước đo của vạn vật, con người làm ra công cụ sản xuất... Lập luận cho rằng con
người là sinh vật có khả năng tạo ra công cụ sản xuất được coi là một lập luận Marxist điển

7
hình về con người. Lập luận của Marx là bản chất con người là một phức hợp của các mối
quan hệ xã hội, và con người chỉ là một phần của thế giới tự nhiên chứ chưa nói đến tính xã
hội của con người. Khi xác định bản chất của con người, trước tiên Marx nhấn mạnh đến tính
chung, tính tất yếu và tính quyết định của những gì làm nên con người. Tiếp đến, khi Lênin
nói về “định hướng hợp lý về mặt sinh học” ông chỉ bác bỏ những yếu tố xã hội thường có tác
động, ảnh hưởng rất lớn đến bản chất và sự phát triển của con người.Bản thân Lênin không
đồng ý với quan điểm cho rằng mọi người đều bình đẳng về mặt sinh học. Ông viết: “Đạt
được sự bình đẳng về sức mạnh, tài năng của con người là một điều ngu ngốc… Khi nói đến
sự bình đẳng, đó luôn là sự bình đẳng trong xã hội và bình đẳng về địa vị hơn là bình đẳng về
sức mạnh thể chất và tinh thần của mỗi cá nhân.

Để khẳng định quá trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế các hình
thức kinh tế - xã hội, Mác đề xuất lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo
chung cho xã hội loài người. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, bao gồm con người
và công cụ lao động do con người tạo ra, tự nó thể hiện trình độ phát triển xã hội thông qua sự
thống trị của con người đối với xã hội và việc tăng cường sử dụng các lực lượng tự nhiên làm
lực lượng sản xuất. Cơ sở vật chất của hoạt động sống của chính con người quyết định quan
hệ sản xuất giữa con người với nhau. Sản xuất ngày càng phát triển và mức độ xã hội hóa
ngày càng cao. Việc tập hợp sức mạnh của toàn xã hội để thực hiện sản xuất tập thể và sự
phát triển mới của sản xuất mà nó mang lại đòi hỏi những con người hoàn toàn mới.Con
người có khả năng phát triển toàn diện, sản xuất sẽ tạo ra những con người, thành viên xã hội
mới có khả năng phát triển toàn diện năng lực phát triển của mình. Mác cho rằng: “Phát triển
sản xuất là vì sự thịnh vượng của xã hội, để mọi người có cuộc sống tốt đẹp hơn.” Sự phát
triển của các thành viên trong cộng đồng xã hội và sự phát triển toàn diện của con người là
một quá trình thống nhất của tăng trưởng sản xuất. “Xã hội” muốn sản sinh ra những con
người phát triển toàn diện hơn, Marx đã lồng ghép chặt chẽ sự phát triển của sản xuất với sự
phát triển của con người như một trong những biện pháp mạnh mẽ để biến đổi xã hội. Con
người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là nhân tố chi phối, quyết định
năng suất lao động xã hội mà còn giữ vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử.Thông qua hoạt
động sản xuất vật chất, con người tạo ra lịch sử của mình cũng như lịch sử xã hội của các loài
khác. Xuất phát từ quan niệm này, Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội
đồng nghĩa với sự phát triển phong phú của bản chất con người, bản thân nó đã là mục tiêu.
Vì vậy, Marx tin rằng ý nghĩa lịch sử của mục đích cao cả của phát triển xã hội là phát triển

8
con người một cách toàn diện, nâng cao năng lực và nhân phẩm, giải phóng con người, loại
bỏ con người khỏi cuộc sống và giúp con người có cuộc sống thực sự. Bước quan trọng nhất
trên con đường này là sự giải phóng xã hội của con người.Điều này chứng tỏ, trong học thuyết
của Mác, mục đích cơ bản của tiến trình lịch sử xã hội loài người là để con người có cuộc
sống tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn, tự do hơn. , theo Ănghen, là biến con người từ vương quốc của
sự cần thiết sang vương quốc của tự do. Cuối cùng, con người là chủ sở hữu cộng đồng cá
nhân của mình, anh ta cũng trở thành chủ sở hữu của thiên nhiên, chủ sở hữu cộng đồng cá
nhân của mình. Đó là quá trình con người tạo ra cho mình những điều kiện tiên quyết và cơ
hội phát triển đáng kể, tự do và hòa hợp cho mỗi cá nhân trong cộng đồng nhân loại. Những
người có thể điều chỉnh tiến trình lịch sử của họ.Quan điểm của Mác về định hướng phát triển
xã hội, lấy phát triển con người làm tiêu chí phổ quát, càng được khẳng định trong bối cảnh
lịch sử của xã hội loài người. Ngày nay, loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đang
thay đổi, xã hội quốc tế thể hiện rõ nét sự đa dạng về các hình thức phát triển của xã hội loài
người từ thời tiền sử đến nay, nó luôn là một hệ thống thống nhất nhưng cũng là một hệ thống
rất phức tạp. Chính sự phức tạp này đã tạo ra sự mất cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội
của các quốc gia và khu vực khác. Ngược lại, sự mất cân đối về phát triển này tạo thành một
bức tranh đầy màu sắc ở mọi hướng, mọi hướng phát triển đều phải được định hướng theo giá
trị nhân văn, định hướng phát triển con người.Trong xã hội luôn có nhiều giai cấp, điều quan
trọng là giai cấp này có phục tùng được nhân dân hay không. Trong quá trình phát triển của
xã hội loài người, chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp tuân thủ đầy đủ mọi quy luật của cuộc
sống nên Marx lấy giai cấp vô sản làm đối tượng nghiên cứu của mình, Marx chủ yếu tập
trung nghiên cứu giai cấp vô sản.

Marx cho rằng giai cấp vô sản là người sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội hiện đại,
nhưng lao động của họ đã bị tha hóa, và lao động đã bị xa lánh nghiêm trọng hơn từ việc phụ
thuộc vào họ đến việc trở thành chính mình và thống trị họ, tình trạng bất hợp lý này cần phải
được giải quyết. Đối với Marx, giai cấp vô sản là con người đại diện cho một phương thức
sản xuất mới, là con người có sứ mệnh, có đầy đủ năng lực giải phóng bản thân, giải phóng xã
hội và xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn.Mác nói: “Trong xã hội cộng sản, con người
không còn thất nghiệp, không còn bị ràng buộc bởi một nghề nhất định. Chỉ cần có khả năng
và hứng thú, họ có thể làm bất cứ ngành nghề nào và có quyền làm việc theo sở thích của
mình”. khả năng và nhận được phần thưởng tùy theo công việc của họ." cần thiết, nhưng
những mong muốn này đã không xảy ra vì cách mạng cộng sản không diễn ra theo mong

9
muốn của họ. Nó không xảy ra cùng một lúc ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, ít nhất là ở
các nước tư bản phát triển, thay vào đó nó xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Nga
(Liên Xô cũ)... một nước công nghiệp kém phát triển, nơi nông dân chiếm đa số. dân số.
Không, khái niệm về con người của anh ấy rất khó chứng minh.

2.3. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội

Bởi vì chúng ta nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt
là vấn đề con người trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta hiện nay. Sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước một cách toàn diện của Đảng và nhân dân ta về nhiều
mặt, nhất là lĩnh vực kinh tế, phần lớn phụ thuộc vào chiến lược của nhiều người: nhân tài
phải được ươm mầm chiều sâu. Thế giới ở trong nước ta, chiến lược con người có ý nghĩa to
lớn, muốn phát triển đúng hướng, chiến lược cần có chính sách phát triển. Mọi người ơi, đừng
để người ta đi chệch khỏi hệ tư tưởng của mình, nhưng trên thực tế, nhiều người sẽ tìm kiếm
khả năng phát triển. Phát triển nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người quay trở lại sự phục
sinh và tìm thấy sự thỏa mãn của con người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống.
Một số người sáng tạo ra những tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với dân tộc Việt Nam.
Nhưng nhìn lại một cách khách quan và khoa học về sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong xã hội Việt Nam, có lẽ không ai có thể phủ nhận vai trò và cam kết nổi bật của nó đối
với sự nghiệp phát triển sáng tạo của con người. Một đất nước còn kém phát triển như nước ta
phải xây dựng những chính sách phát triển lâu dài và có tầm nhìn xa. Phát triển con người
nâng cao chất lượng của người lao động. Hơn bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực
phát triển con người là mục tiêu cao nhất của tất cả mọi người, đưa nhân loại bước vào một kỷ
nguyên mới và mở ra nhiều khả năng tìm ra con đường tốt nhất. Hướng tới tương lai là con
đường tích cực nhất cho sự phát triển của con người. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Trong thực tế đời sống xã hội, Hội nghị toàn thể lần thứ IV Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII đã đề xuất cơ sở ứng dụng khoa học, sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào nhân loại và thông qua “Nghị quyết về phát triển toàn diện của dân tộc Việt Nam”
với tiêu chí “động lực cho sự nghiệp của dân tộc Việt Nam”. Mục tiêu xây dựng xã hội mới
cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”, tức là “con người có trí tuệ phát triển cao, thể
lực cường tráng”, thể chất tinh thần phong phú, đạo đức trong sáng. Bởi vì công nhân nước ta
ngày càng có vai trò quan trọng trên mọi lĩnh vực của xã hội. Đời sống xã hội và phát triển
kinh tế đất nước Trong cơ chế thị trường và dưới sự quản lý của Nhà nước, chất lượng lao
động là yếu tố quyết định định hướng xã hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường và quản lý nhà

10
nước. trình độ, vun đắp và phát triển Nguồn tài nguyên quý giá của nhân dân Việt Nam là
nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.” Thực tiễn đã chứng minh,
trong xã hội ngày nay, vấn đề cốt lõi nằm ở sự bất hòa trong sự tồn tại của mỗi cá nhân, tức là
sự phát triển toàn diện, hài hòa của mọi cá nhân về đạo đức, trí tuệ, thể lực là căn bản. Chủ
nghĩa xã hội muốn xây dựng con người, nhưng mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất là con
người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội và lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản bóp méo chủ nghĩa Mác và cho rằng đó là “chủ nghĩa không
có con người”. Trên thực tế, chủ nghĩa Mác là một tổng thể thống nhất của ba nhánh triết học
nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp chúng ta hiểu được tự nhiên và mối quan hệ mới
giữa tự nhiên, xã hội và con người, kinh tế và chính trị vạch ra những quy luật của tiến bộ xã
hội, còn chủ nghĩa xã hội khoa học thể hiện những con đường và phương pháp nghiên cứu
con người. Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa nhân văn lấy con người làm trung tâm. Lý thuyết này
không chỉ chứng minh bản chất con người (“sự phức tạp của các quan hệ xã hội”) và bản chất
con người (“theo đuổi sự hoàn hảo”) mà còn chỉ ra phương hướng để con người đi theo bản
chất và bản chất của mình, giải phóng, xóa bỏ sự tha hóa, tạo điều kiện phát huy mọi ưu điểm
của bản chất con người, để mỗi cá nhân có thể phát triển toàn diện và hài hòa. Sự tương thích
của tư tưởng Mác với bản chất con người, bản chất đã mê hoặc và mê hoặc những ai luôn khát
vọng vươn lên, xây dựng một xã hội mới, mở ra mọi khả năng phát triển của con người.
Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thẻ vạch rõ được hướng đi đúng cho con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc (1945),
thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do con người Việt Nam điều mà bao
nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp dụng được và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm
thay đổi, trở thành hệ tư tưởng chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống
tinh thần đại đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng xã hội chủ nghĩa vừa
nhanh chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức
đào tạo đa dạng, với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày càng cótư tưởng, trình
độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ cán bộ văn hoá khoa học
công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều trong cả nước. Có thể nói chỉ trong
một thời gian ngắn hệ tư tưởng Mac xít đã thể hiện xu hướng của mình đối với nền văn hoá
dân dã, xoá bỏ dần dần sự thống trị của các loại tư tưởng tự phát, lạc hậu, thấp kém trong con
người cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin mù quáng… Với sức mạnh có tính khoa học, học

11
thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ được những yếu tố phi khoa học, phi nhân đạo, cácloại thế giới
quan, nhân sinh quan sai lệch mà trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con
người của các hệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện rõ tính
ưu việt trong con người đối với các luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của Phương Tây và các
trào lưu tư tưởng tư sản hiện tại đang làm lệch hướng đi của những con người chân chính
trong điều kiện đời sống vật chất khó khăn. Lần đầu tiên trong lịch sử đất nước này, sự trói
buộc của chân lý truyền thống và sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ được hiểu bằng tư duy
hạn hẹp, kinh nghiệm hạn chế, thiếu văn hóa của một dân tộc không khoa học do xã hội cổ đại
để lại. Kiến thức khoa học Mar đang bị phá hủy. Một mức độ ý thức cao hơn đã ra đời. Niềm
tin phải được thay thế dần dần bằng niềm tin khoa học.
Theo chủ nghĩa Mác, con người không tồn tại độc lập mà là một phần của xã hội. Xã
hội không chỉ là môi trường mà con người sống và hoạt động, mà còn là nguồn cung cấp các
yếu tố quyết định trong việc định hình con người. Xã hội ảnh hưởng đến bản chất, ý thức và
hành vi của con người thông qua quá trình tương tác và tác động.
Mác nhấn mạnh vai trò của hoạt động lao động trong đời sống xã hội. Lao động không
chỉ là phương tiện để con người đáp ứng nhu cầu vật chất mà còn là hoạt động sáng tạo, tạo ra
giá trị và hình thành con người. Qua lao động, con người tạo ra các sản phẩm vật chất và giao
tiếp với nhau, hình thành mối quan hệ xã hội và cộng đồng. Lao động cũng là cách con người
thể hiện khả năng sáng tạo và phát triển tiềm năng của mình.
Mối quan hệ sản xuất, tức cách con người sản xuất và trao đổi hàng hóa, đóng vai trò
quyết định trong xã hội. Chủ nghĩa Mác cho rằng mối quan hệ sản xuất tạo ra mối quan hệ xã
hội, xác định sự phân chia tài nguyên và quyền lực trong xã hội. Mối quan hệ sản xuất có thể
tạo ra sự bất công, khủng bố và áp bức, hoặc có thể dẫn đến sự công bằng và tiến bộ. Mác
muốn thay đổi mối quan hệ sản xuất để xây dựng một xã hội công bằng và tự do, nơi mọi
người có cơ hội phát triển toàn diện.
Mục tiêu của chủ nghĩa Mác là xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ, trong đó
con người không bị áp bức và bị bóc lột. Mác tin rằng bằng cách thay đổi mối quan hệ sản
xuất, loại bỏ sự chia rẽ xã hội và xóa bỏ tư bản, xã hội có thể đạt được sự công bằng và tiến
bộ. Vai trò của con người là quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này, bằng cách tham gia
vào hoạt động chính trị, xã hội và kinh tế để xây dựng một xã hội mới.
2.4. Ý nghĩa đối với việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện
nay

12
Quan điểm của Mác - Lênin nhấn mạnh việc xây dựng con người mới, tức là con người có
nhận thức và hành động theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều này đòi hỏi sinh viên phải tiếp
thu và áp dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, như ý thức giai cấp, sự tự
giác, tư duy phản biện, và tình yêu đồng loại. Bằng cách học tập và thực hành các giá trị này,
sinh viên có thể trở thành những người có ý thức xã hội, đóng góp tích cực cho xã hội và xây
dựng một tương lai công bằng, tự do và tiến bộ.
Quan điểm của Mác - Lênin đề cao lối sống xã hội chủ nghĩa, tức là lối sống dựa trên tình
yêu đồng loại, sự chia sẻ và tương tác xã hội. Đối với sinh viên, điều này có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng một cộng đồng sinh viên lành mạnh và thân thiện. Sinh viên cần
phát triển tinh thần đoàn kết, tôn trọng và chia sẻ với đồng sinh viên, khuyến khích sự công
bằng và sự phát triển toàn diện cho tất cả mọi người. Lối sống xã hội chủ nghĩa cũng bao gồm
tư duy phản biện, khả năng tự lập và sáng tạo, giúp sinh viên phát triển các kỹ năng và năng
lực cá nhân để đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Quan điểm của Mác - Lênin về xây dựng con người mới và lối sống xã hội chủ nghĩa có ý
nghĩa đối với việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên ở trường học hiện nay. Sinh
viên cần phải thực hành các giá trị xã hội chủ nghĩa như sự trung thực, tôn trọng người khác,
tự giác và có ý thức về trách nhiệm xã hội. Đồng thời, sinh viên cần phải phát triển tư duy
phản biện để đánh giá và lựa chọn các hành vi lành mạnh và có lợi cho bản thân và cộng
đồng. Việc áp dụng các nguyên lý và giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tế sinh viên
giúp tạo ra một môi trường học tập và sống lành mạnh, khuyến khích sự phát tritriển toàn diện
và đáng tin cậy của sinh viên.

13
PHẦN 3: KẾT LUẬN

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa không chỉ tập
trung vào sự phát triển về vật chất mà còn quan tâm đến điều kiện tinh thần và đạo đức của
con người. Để thực hiện lối sống lành mạnh, sinh viên cần có ý thức về trách nhiệm xã hội, và
họ cần phải đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Họ cần có tinh thần cống hiến và
sẵn lòng làm việc vì lợi ích của cả xã hội, không chỉ riêng mình.

Lối sống lành mạnh trong sinh viên cũng bao gồm việc chăm chỉ học tập, rèn luyện kỹ
năng và trí tuệ, thể hiện lòng tự trọng và sự tự giác. Sinh viên cần hiểu rằng sự nỗ lực và học
tập chăm chỉ là cách để phát triển bản thân và tạo ra giá trị cho xã hội. Ngoài ra, lối sống lành
mạnh còn đề cập đến việc duy trì sức khỏe thể chất thông qua việc tham gia các hoạt động thể
dục và thể thao, ăn uống và sinh hoạt lành mạnh. Sinh viên cần phải hiểu rằng sức khỏe tốt là
nền tảng để phát triển và đạt được mục tiêu trong cuộc sống.

Trên cơ sở đó, việc thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay sẽ
đóng góp vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, nhằm tạo ra một xã hội công
bằng, phát triển và tiến bộ. Sinh viên là những người trẻ tuổi đầy triển vọng, và việc hình
thành lối sống lành mạnh trong họ sẽ ảnh hưởng đến tương lai của đất nước chúng ta. Việc
thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay có thể đạt được bằng cách
đẩy mạnh giáo dục về nhận thức xã hội và tư duy phản biện, giúp sinh viên hiểu rõ về vai trò
cá nhân và trách nhiệm xã hội của mình. Xây dựng một môi trường học tập và sống đa văn
hóa, khuyến khích tình yêu đồng loại và sự chia sẻ giữa sinh viên. Khuyến khích sinh viên
phát triển khả năng sáng tạo và tự lập, đồng thời tạo ra cơ hội để họ thể hiện tiềm năng cá

14
nhân và đóng góp vào xã hội. Thực hiện lối sống lành mạnh trong sinh viên không chỉ giúp họ
phát triển toàn diện về mặt cá nhân mà còn có tác động tích cực đến xã hội. Sinh viên là
nguồn nhân lực trẻ, có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển quốc gia. Khi sinh
viên sống theo lối sống xã hội chủ nghĩa, họ sẽ trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây
dựng một xã hội công bằng, tự do và tiến bộ.

Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa và lối sống xã hội chủ nghĩa mang ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện lối sống lành
mạnh trong sinh viên trường ta hiện nay. Nó tạo ra một khung nhìn toàn diện về việc xây
dựng một xã hội công bằng, tự do và tiến bộ và khuyến khích sự đoàn kết, tư duy phản biện,
tình yêu đồng loại, sáng tạo và phát triển cá nhân. Việc thực hiện lối sống này không chỉ có
lợi cho sinh viên cá nhân mà còn có tác động tích cực đến xã hội và đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1) Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người

https://luanvan.co/luan-van/de-tai-quan-diem-cua-chu-nghia-mac-ve-con-nguoi-60252/

2) Lý luận triết học của Mác Lê-nin về con người và sự vận dụng của Đảng ta trong giai
đoạn hiện nay

http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/ly-luan-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-
va-su-van-dung-cua-dang-ta-trong-giai-doan-hien-nay-246.html

3) Quan niệm về con người trong triết học phương Đông

https://www.lytuong.net/quan-niem-ve-con-nguoi-trong-triet-hoc-phuong-dong/

4) Quan niệm về con người trong Triết học phương Tây

https://luathoangphi.vn/quan-niem-ve-con-nguoi-trong-triet-hoc-phuong-tay/#google_vignette

5) Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người

https://viettieuluan.com/tieu-luan-ly-luan-cua-chu-nghia-mac-lenin-ve-con-nguoi/

6) Lối sống của sinh viên việt Nam ngày nay

https://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-loi-song-cua-sinh-vien-viet-nam-ngay-nay-thuc-trang-va-
kien-nghi-64861/#google_vignette

7)

15
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ ĐÁNH GIÁ HOÀN THÀNH CỦA CÁC
THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT Họ và tên Phân công công việc Đánh giá
tỷ lệ hoàn

16
thành
1 Phan Văn Khải Mở đầu, 2.3, 2.4, Kết luận 100%
2 Nguyễn Bình Minh Powerpoint 100%
3 Nguyễn Ngọc Biển 2.1 100%
4 Phạm Quốc Huy 2.2 100%

17

You might also like