You are on page 1of 103

PĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-------------------------------------------

NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC


ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS
HẢI PHÒNG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học

Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------

NGUYỄN THỊ LỆ QUYÊN

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,


LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG
NGHỆ VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học


Mã số: 603127

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Chúc

Hà Nội - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác
Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 2013
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Lệ Quyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 3
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,.... 13
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN ................................................................ 13
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức, lối
sống ................................................................................................................. 13
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống. ....................................... 13
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống ......................... 24
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, vị trí, vai trò của thanh niên và
tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên........ 26
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, vị trí, vai trò của thanh niên ...... 26
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên ................................................................................... 31
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và phương pháp giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN...................................................................................... 36
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
......................................................................................................................... 37
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên........................................................................................................ 42
Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI
SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY ............................................... 47
2.1. Những nhân tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng .......... 47
2.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội ........................................................................ 47
2.1.2. Đặc điểm của TN................................................................................... 47

1
2.1.3. Vai trò của gia đình............................................................................... 48
2.1.4. Vai trò của Nhà trường ......................................................................... 48
2.1.5. Vai trò của tổ chức kinh tế, chính trị- xã hội ở địa phương ................. 49
2.2. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên ở Trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện nay: thực trạng và những
vấn đề đặt ra .................................................................................................. 49
2.2.1. Một vài nét khái quát về Nhà trường .................................................... 49
2.2.2. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên ở nhà trường hiện
nay: những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. .............................................. 59
2.2.3. Tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối
sống cho thanh niên ở nhà trường hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân. ................................................................................................... 62
2.3. Những vấn đề đặt ra .............................................................................. 72
2.3.1. Những vấn đề trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên
nhà trường....................................................................................................... 72
2.3.2. Những vấn đề trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
đạo đức, lối sống cho thanh niên nhà trường ................................................. 73
Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS HẢI PHÒNG
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ..................................... 75
3.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh ...................................................... 75
3.1.1. Đổi mới nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.............. 75
3.1.2. Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên. ..... 79
3.2. Tích cực hoá hoạt động của các chủ thể giáo dục theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ........................................................................................................ 87

2
3.2.1. Nhà trường quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động văn
hóa xã hội của thanh niên. .............................................................................. 87
3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên và Hội sinh viên trong
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên. ..................................... 90
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội............. 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 97

3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất đồng thời là nhà giáo dục
vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là tấm gương sáng cho thế hệ
trẻ muôn đời sau noi theo.
Với cách nhìn khách quan khoa học, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh
giá cao vai trò, vị trí, khả năng của thanh niên (TN) đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc. Người cho rằng “Thanh niên là người chủ tương
lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần
lớn là do các thanh niên” [14, tr.185]. Chính vì thế trước lúc đi xa, Người
không quên căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết” [20, tr.510]
Trong nội dung bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Hồ Chí Minh
đặt lên hàng đầu vấn đề bồi dưỡng lý tưởng và đạo đức cách mạng. Theo Hồ
Chí Minh, để xứng đáng là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các thế
hệ cha anh thì phẩm chất hàng đầu cần có ở TN là sự trung thành tuyệt đối với
lý tưởng, ý chí kiên định đấu tranh cho thắng lợi của lý tưởng và đạo đức cách
mạng để làm gương lôi cuốn quần chúng. Lý tưởng mà Hồ Chí Minh quan
tâm giáo dục cho TN là suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho đất nước hoàn
toàn độc lập, làm cho chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng sản thắng
lợi hoàn toàn trên Tổ quốc ta và trên thế giới. Tuy nhiên, lý tưởng và ý chí
cách mạng chỉ có thể duy trì và phát triển trên nền tảng đạo đức cách mạng,
Thiếu đi nền tảng này, tuổi trẻ chưa trải qua dạn dày đấu tranh sẽ không đủ
sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn đấu
đến cùng cho lý tưởng. Trong Di chúc, Người lưu ý “Đảng cần chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa CNXH
vừa “hồng” vừa “chuyên” [20, tr.510]

4
Lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên
suốt trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993)
khẳng định “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt
Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không, phần lớn tùy
thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh
niên, công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” [2, tr.82]
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước diễn biến rất phức tạp. Nhiều
nhân tố tiêu cực từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến thanh niên nói chung và
sinh viên (SV) nói riêng. Trước hết là sự khủng hoảng niềm tin vào tương lai
của CNXH sau sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Sau gần 30
năm đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu đáng tự hào. Tuy nhiên kinh tế
thị trường cũng có những mặt trái. Đây là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều
yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều
nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức cách
mạng. Chủ nghĩa cá nhân-kẻ thù nguy hiểm nhất của đạo đức cách mạng theo
cách gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giờ đây có cơ hội trỗi dậy và phát triển.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta xác định giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng đang bị các thế lực thù địch chống phá,công
kích. Ngoài tư tưởng, chúng còn đẩy mạnh tấn công trên các lĩnh vực văn hóa,
đạo đức, lối sống mà đối tượng chủ yếu là TN, SV-đội ngũ trí thức tương lai.
Tất cả những điều đó đã tác động xấu đến việc hình thành và phát triển nhân
cách của SV.

5
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng (1997) đã gióng lên hồi
chuông báo động toàn xã hội khi cho rằng tình trạng một bộ phận học sinh
(HS), SV suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước là
điều “đặc biệt đáng lo ngại” [3, tr.24]. Trong xu thế chung của SV cả nước,
một bộ phận không nhỏ các trường Đại học, Cao đẳng trong đó có SV trường
Cao đẳng Công nghệ Viettronics-Hải Phòng có những biểu hiện lệch lạc trong
nhận thức và hành vi đạo đức như: Xác định động cơ học tập không đúng.
Mục đích của việc học không phải để nâng cao kiến thức mà nhằm có điểm
cao để kiếm học bổng. Hiện tượng bỏ học không lí do, đi muộn, quay cóp
trong thi cử đã trở nên khá phổ biến, cá biệt còn có một số SV tham gia đường
dây thi thuê, thi hộ trong các mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng. SV thờ ơ với
các vấn đề chính trị, các hoạt động xã hội, còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng,
ham ăn chơi đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo đức
truyền thống; tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn lọc; quá coi
trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; sùng bái đồng tiền, có hành vi
vi phạm pháp luật, sa vào các tệ nạn xã hội: trộm cướp, rượu chè, cờ bạc, ma
túy, mại dâm…Trong khi đó, do yêu cầu và đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới
toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước theo định hướng
XHCN, các thế hệ SV đã, đang và sẽ gánh vác những trọng trách to lớn nhưng
vô cùng khó khăn phức tạp. Chính vì thế, tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh
“Đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.126].
Như vậy, trước yêu cầu khách quan và cấp bách của công cuộc đổi mới,
việc giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, SV theo tư tưởng Hồ Chí Minh là

6
nội dung quan trọng hàng đầu trong việc rèn luyện nhân cách tuổi trẻ; là sự
chuẩn bị cực kỳ hệ trọng giúp họ vào đời, lập thân, lập nghiệp. Với lý do trên,
tác giả chọn đề tài: “Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên ở Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Hồ Chí Minh
học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề TN và giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho TN
được nhiều nhà lãnh đạo và nhà khoa học quan tâm nghiên cứu theo những
khía cạnh, cách tiếp cận khác nhau.
* Nhóm tác giả đề cập đến vai trò TN và tầm quan trọng của công tác
giáo dục TN:
- Lê Duẩn, Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb Thanh niên,
Hà Nội, 1978.
- Đỗ Mười, Lý tưởng của Thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995.
- Đoàn Nam Đàn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Phạm Đình Nghiệp, Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2000…
* Nhóm các công trình nghiên cứu về đạo đức và tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh:
- Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
- Trần Hậu Kiêm - Đoàn Đức Hiếu, Hệ thống phạm trù đạo đức học và
giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

7
- Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (1995), “Giá trị trường tồn của tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại tiến bộ”, Tạp chí Thông tin
lý luận, (12).
- Lâm Quốc Tuấn - Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (10).
- Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai).
- Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004.
- Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999…
- Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Đình Quế, Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng đạo
đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, 2000.
- Lê Thị Thủy, Vai trò của đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân
cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, 2001.
- Lê Thị Hoài Thanh, Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại
trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Triết học, 2002.

8
- Doãn Thị Chín, Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, 2004.
- Nguyễn Thị Kính, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc rèn luyện
và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay, Luận văn Thạc sĩ,
2010.
- Hoàng Trung, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học số 5, 1998.
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp tôi tiếp thu
tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Hiện nay, việc
nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống
cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng vẫn chưa có tác
giả nào đề cập một cách cơ bản và có hệ thống dưới giác độ Hồ Chí Minh
học. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp
phần nhỏ bé vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang
đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức, lối sống cho TN; phân tích thực trạng công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettrronics Hải Phòng. Trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:

9
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức, lối sống; về đặc điểm, vị trí, vai trò của TN và tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
- Phân tích tình hình đạo đức, lối sống của TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics-Hải Phòng: ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; phân tích
thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics-Hải Phòng trong khoảng 5 năm gần đây (2008-2013): ưu
điểm, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề rút ra.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; tình
hình đạo đức, lối sống của TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng và thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh từ những năm
20 của thế kỷ XX đến năm 1969;
- Thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng trong 5 năm (2008-2013)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
-Cơ sở lý luận: Luận văn được triển khai trên nền tảng các quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về đạo
đức, về TN và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.

10
- Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, luận văn còn sử dụng các phương pháp lôgíc, phương pháp
logic-lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu khảo sát
thực tiễn,…
+ Đối với phương pháp khảo sát thực tiễn, tác giả đã tiếp xúc với Chi ủy,
Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo và công tác HSSV, Đoàn trường, các giáo viên
và HS, SV trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics để tìm hiểu tình hình đạo
đức, lối sống của HS, SV và công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS, SV
trong thời gian 5 năm (2008-2013)
+ Đối với phương pháp điều tra xã hội học, tác giả đã chọn mẫu điều tra
là 2 Khoa thuộc trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics gồm: Khoa Kế toán,
và Khoa Công nghệ thông tin. Mỗi Khoa 50 SV
- Về đối tượng: có cả SV năm thứ nhất và SV năm cuối, SV nam và SV
nữ
- Về hệ đào tạo: SV hệ cao đẳng chính quy.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
- Nhận định đúng đắn, khách quan về tình hình đạo đức, lối sống của TN
trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng và thực trạng công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics
Hải Phòng hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải
Phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Luận văn cung cấp thêm những luận cứ khoa học giúp Đoàn thanh
niên, Hội Sinh viên, Phòng Đào tạo và công tác HSSV trường Cao đẳng Công

11
nghệ Viettronics Hải Phòng trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
chương trình hành động của mình. Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo để nghiên cứu và giảng dạy ở các lớp tập huấn nghiệp vụ công
tác Đoàn, công tác HSSV, các lớp dạy kĩ năng mềm.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 10 tiết.

12
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống và giáo dục đạo đức,
lối sống
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống.
Ở phương Tây, danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris,
nghĩa là phong tục, tập quán. Đạo đức còn có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos,
cũng có nghĩa là thói quen, tập quán.
Ở phương Đông, theo các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc
cổ đại, đạo đức chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra
mà con người phải tuân theo.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, đạo đức xét đến cùng
là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó
phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con người.“Đạo đức giúp cho xã
hội loài người tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động” [8
tr.371]. Bàn về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, Lênin cho rằng: “Đó là những gì
góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả
những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội
mới của những người cộng sản” [9, tr.214]. Đây là một quan niệm mang tính
cách mạng và khoa học về đạo đức mà quan niệm của các tôn giáo và các nền
đạo đức khác không thể đạt tới.
1.1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Một là, đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan trọng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng. Người xem đạo đức là nền tảng và là sức

13
mạnh của người cách mạng. Người khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng
và phát triển của con người cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông, của suối. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp. Vì thế “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền
tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang” [18, tr.283]. Người cán bộ
đảng viên lại càng cần phải có đạo đức cách mạng. Vì “không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [14, tr.253]. Theo
Người, lãnh đạo không phải là ra lệnh mà chủ yếu bằng lôi kéo, thuyết phục.
Người dạy muốn hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân thì cán bộ đảng viên phải
mực thước, phải “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” [16, tr.568].
Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ
viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến
những người có tư cách, đạo đức. Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở
thành người cộng sản chân chính thì không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn
do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào thì
mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà
những tính tốt như sau ngày càng thêm. Tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân,
nghĩa, trí, dũng, liêm.
Đạo đức cách mạng không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới,
đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung
của Đảng, của dân tộc, của loài người. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái
hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức,
là văn minh” thì mới hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là lãnh
đạo cuộc đấu tranh giành độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc và xây
dựng thành công CNXH trên đất nước ta. Người đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng

14
viên của Đảng phải có đầy đủ những phẩm chất cần có để tham gia và cống
hiến nhiều nhất trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và CNXH.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm
chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó, đức là gốc của tài, hồng là
gốc của chuyên, phẩm chất là gốc của năng lực. Đức là gốc, nhưng đức và tài,
“hồng” và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không
thể có mặt này, thiếu mặt kia. Nói chuyện tại Đại hội SV Việt Nam lần thứ II,
Người cho rằng: “TN phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi
gì cho loài người” [18, tr.172].
Hai là, đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của CNXH
Sức hấp dẫn của CNXH trước hết thể hiện ở những giá trị đạo đức cao
đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và
hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đã trở thành hiện thực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định
vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của
cách mạng vô sản mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ
nghĩa cộng sản trở thành sức mạnh vô địch.
Tấm gương đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh chẳng những có sức
hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế
giới. Tấm gương đó từ lâu đã là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng
đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
* Những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Một là, trung với nước, hiếu với dân

15
Hồ Chí Minh mượn khái niệm đạo đức “trung”, “hiếu” trong tư tưởng
đạo đức truyền thống dân tộc và đưa vào đó một nội dung mới “Trung với
nước, hiếu với dân” tạo nên một cuộc cách mạng trong quan hệ về đạo đức.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là
nước của dân, còn dân lại là chủ nhân của nước; bao nhiêu quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là đầy tớ của dân
chứ không phải là “quan cách mạng”.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước, là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở
chỗ thương dân, tin dân, phục vụ dân hết lòng. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên
quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
Hai là, yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người yêu thương đồng bào, đồng chí của
mình, không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu
nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương của
Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm
lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người
đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con
người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của
người cách mạng” [21.tr 557]
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

16
Vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của “đời sống mới”, nền tảng
của thi đua ái quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người
Đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư là một nội dung của cái
gốc đạo đức, cái gốc của sự phát triển trong triết lý hành động của Hồ Chí
Minh.
Cần, theo Hồ Chí Minh, là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong mọi công
việc; là lao động sáng tạo và lao động với tinh thần tự lực cánh sinh.
Kiệm, là tiết kiệm. Phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to, ‘không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không
phô trương hình thức.
Liêm, là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; " phải "trong
sạch, không tham lam".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn", là việc gì tốt thì dù
nhỏ cũng cố làm, việc gì xấu thì dù nhỏ cũng cố tránh.
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa
lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được.

17
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên
bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em"; là tinh thần đoàn kết với
các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, mà Hồ Chí Minh đã
dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của bản thân mình và
bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết của nhân dân
Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công lý và
tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp tác và
hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc
tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu
nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
* Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan
trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Điều này được Hồ Chí
Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX trong tác phẩm Đường
cách mệnh. Bản thân người là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi
đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Người nói “lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là
một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách
mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Để làm được như thế phải
chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi
trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong
học tập…
Hai là, xây đi đôi với chống

18
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến
hành bằng công việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức
mới. Việc giáo dục đạo đức phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn
cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và từng
môi trường khác nhau, phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi
người.
Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai cái xấu, cái vô đạo
đức trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới
tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên
cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen tập
quán lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi
người mà đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành
nhờ bản thân tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và
trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo
đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong".
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức không phải chỉ là
những lý tưởng cao xa mà còn là những thái độ, hành vi, việc làm cụ thể của
mỗi người hàng ngày, hàng giờ trong cuộc sống sinh hoạt, trong học tập,
trong lao động và trong chiến đấu. Mặt khác, ở đây Hồ Chí Minh còn chỉ ra
rằng đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với
nhau, sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với đạo đức cách mạng và
cũng không thể có đạo đức cách mạng đứng ngoài với đạo đức đời thường.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện

19
trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc công,
từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học tập,
công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cũng bàn đến đạo đức ở mọi
phạm vi từ gia đình tới ngoài xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến
quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một
cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng
của đời sống xã hội và mỗi con người.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi đắp khác với đạo đức cũ về chất,
ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa Mác–Lênin. Đó
là kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với đạo đức mang bản
chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh đã
làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân,
phong kiến, là thứ đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm trói buộc con người, tàn phá
con người. Còn đạo đức mới là vì nước, vì dân; là “dĩ công vi thượng”. Đây là
đạo đức vĩ đại. Bởi lẽ, đạo đức đó “không vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi
ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [14, tr.252].
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lối sống
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “lối sống là toàn bộ những hình thức
hoạt động sống của con người trong một xã hội nhất định được xem xét thống
nhất với các điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [22, tr.742].
Giải thích phạm trù lối sống, học thuyết Mác đi từ phương thức hoạt
động sản xuất của con người. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn
thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá
nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá
nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương

20
thức sinh sống nhất định của họ” [1, tr.30]. Như vậy, phương thức sản xuất
không chỉ là một hình thức hoạt động sinh sống nhất định của con người mà
còn là mặt cơ bản của lối sống, là điều kiện kinh tế-xã hội của lối sống.
Bổ sung quan điểm của Mác, Hồ Chí Minh xem lối sống còn là hình
thức biểu hiện của văn hóa - văn hóa đời sống. Người quan niệm văn hóa là
bộ mặt tinh thần của xã hội và bộ mặt đó được thể hiện ra ngay trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Điều này đã được Hồ Chí
Minh chỉ ra khi nói về nội dung của đời sống mới, cũng như cách thức xây
dựng đời sống mới trong một nước Việt Nam độc lập.
* Về vai trò của lối sống
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc của con người, đạo đức làm cho con
người trở nên đáng kính và giúp con người vượt qua khó khăn, thử thách. Đức
và tài là hai yếu tố cốt yếu của nhân cách, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Ngược lại có tài
mà không có đức thì không thể đem tài đó phụng sự được nhân dân, thậm chí
còn có hại cho xã hội nữa. Do vậy, tài năng phải được xây dựng và dựa trên
nền tảng của đạo đức. Tài năng càng cao thì càng phải củng cố, trau dồi đạo
đức. Các phẩm chất đạo đức được thể hiện thông qua những hành vi hàng
ngày của con người trong cuộc sống. Đó chính là lối sống. Lối sống trong
sạch, lành mạnh là động lực lớn giúp con người và xã hội vươn tới tầm cao
văn hóa.
Theo Hồ Chí Minh, lối sống bộc lộ thông qua các hoạt động của con
người trong cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc. Lối sống
vừa có các giá trị của văn minh nhân loại vừa có các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Bên cạnh các giá trị vĩnh cửu, lối sống cũng chứa đựng các
giá trị phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của từng thời kỳ nhất định; có các
khía cạnh tiến bộ và cả những khía cạnh tiêu cực. Có thể nói, lối sống bộc lộ

21
nhân cách của con người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nhất định.
Con người phản ánh qua lối sống phần nào diện mạo văn hóa thời đại thông
qua năng lực trí tuệ, quan hệ ứng xử và khả năng đồng hóa thẩm mỹ hiện thực
của mình trong nhiều phương diện khác nhau.
Với Hồ Chí Minh, lối sống bao gồm lối sống riêng của từng cá nhân và
lối sống chung của từng nhóm người, rộng hơn là toàn xã hội. Lối sống cá
nhân là toàn bộ hình thức hoạt động sống của cá nhân trong một xã hội nhất
định. Đồng thời là sự phản ánh kết quả nhận thức của cá nhân về các điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Vì thế, lối sống cá nhân luôn mang
đậm dấu ấn cá nhân và có tính phong phú, đa dạng. Mặt khác, được hình
thành từ một điều kiện kinh tế -xã hội nhất định nên lối sống của các cá nhân
lại có những điểm chung tương đồng, tạo nên lối sống chung của toàn xã hội.
Giữa lối sống riêng của từng cá nhân với lối sống chung của toàn xã hội
không có sự tách rời biệt lập mà trái lại luôn thống nhất, tác động qua lại lẫn
nhau. Hồ Chí Minh quan niệm xã hội là do nhiều cá nhân nhóm lại mà thành.
Chính vì thế, nếu mỗi cá nhân có lối sống tích cực thì góp phần hình thành
nên lối sống tiến bộ của xã hội. Lối sống văn minh, cao đẹp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã trở thành mẫu mực cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta học
tập và noi theo. Ngược lại, lối sống xã hội có tác dụng định hướng cho lối
sống cá nhân, giúp mỗi cá nhân điều chỉnh lối sống của bản thân.
* Về nội dung xây dựng lối sống mới
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức, lối sống, nếp sống là ba nội dung hợp thành
văn hóa đời sống, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ yếu nhất. Vì vậy, xây
dựng đời sống mới chính là quá trình tuyên truyền và thực hành đạo đức mới,
lối sống mới, nếp sống mới.
Lối sống mới mà Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng cho mọi người là lối
sống có lý tưởng, có đạo đức, văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền

22
thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Hồ Chí Minh cho
rằng để Việt Nam trở nên một nước mới, một nước văn minh, tiến bộ thì mọi
người phải xây dựng một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, yêu lao động,
biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền danh
lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em phải cởi mở, chân
tình, ân cần, tế nhị; giàu tình yêu thương quý mến con người, trân trọng con
người; đối với mình thì nghiêm khắc, chặt chẽ; đối với người thì khoan dung,
độ lượng. Đã có sinh hoạt lành mạnh, tiến bộ, ứng xử hài hòa, đúng mực thì
còn phải xây dựng tác phong quần chúng, tập thể dân chủ, khoa học trong
cách làm việc.
Lối sống trong quan niệm của Hồ Chí Minh còn là tiêu chí, thước đo
trình độ văn minh, tiến bộ của mỗi dân tộc. Người cho rằng: “Một dân tộc biết
cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một
dân tộc văn minh tiến bộ” [14, tr.642]. Với nghĩa đó, xây dựng lối sống mới
đã trở thành một mục tiêu của CNXH.
* Về mối quan hệ giữa đạo đức và lối sống
Bàn về lối sống, Hồ Chí Minh luôn đặt nó trong mối quan hệ với đạo
đức. Đạo đức và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức
đóng vai trò chủ yếu.
Đạo đức gắn liền với lối sống và là nội dung của lối sống. Còn lối sống
là thể hiện cụ thể quan niệm đạo đức trong những hình thức hoạt động của
con người trong xã hội. Một lối sống được xem là cao đẹp trước hết phải là lối
sống có đạo đức, luôn đề cao trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của cá nhân đối
với cộng đồng và toàn xã hội. Ngược lại, lối sống chỉ biết hưởng thụ cho bản
thân là lối sống ích kỷ, thấp hèn cần phải lên án, đấu tranh vì trái với đạo đức
của dân tộc. Người dạy: “Trong lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người
nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức”

23
[17, tr.392]. Đạo đức quyết định lối sống. Do đó, muốn xây dựng lối sống
mới trước hết phải bắt đầu từ việc xây dựng, thực hành đạo đức mới. Chỉ có
dựa trên cái nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, lành mạnh,
vui tươi hướng con người tới tầm cao của văn hóa, của một đất nước độc lập
và CNXH.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục vì giáo dục có một vai trò quan
trọng trong kháng chiến cũng như kiến quốc. Nói chuyện tại lớp đào tạo
hướng dẫn viên các trại hè cấp I, Người chỉ rõ mục đích của nền giáo dục
cách mạng là “Phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đào tạo lớp người, lớp cán
bộ mới” [17, tr.183].
Trong giáo dục, đối tượng chủ yếu mà Hồ Chí Minh nhằm tới là nhi
đồng và thanh thiếu niên. Bởi đây là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành
hoàn thiện nhân cách. Mặt khác, họ còn là những chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ cha ông. Do đó, rất
cần có sự định hướng của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức. Xuất phát từ
mục tiêu của giáo dục là đào tạo những con người mới vừa có đức vừa có tài,
những công dân biết làm việc để đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước; Hồ Chí Minh chủ trương bồi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ
một cách toàn diện: đức, trí, thể, mỹ. Người yêu cầu: “Trong việc giáo dục và
học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ
nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [19, tr.190].
Trong công tác giáo dục, Hồ Chí Minh coi trọng cả “đức” lẫn “tài”,
nhưng đặt giáo dục đạo đức lên hàng đầu. Người chỉ rõ vai trò và sức mạnh to
lớn của đạo đức, đề ra những chuẩn mực đạo đức mới định hướng cho sự rèn
luyện của mỗi người. Bên cạnh đó, Người còn cụ thể hóa các chuẩn mực đạo
đức thành những phẩm chất cụ thể để mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ vận

24
dụng. Đó là đạo đức mới và chỉ có thông qua phấn đấu, rèn luyện mới trở
thành những con người phát triển toàn diện. Để làm được như vậy, Người
khuyên TN: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp
biển, quyết chí ắt làm nên” [15, tr.95].
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống
mà là kết quả trực tiếp của hoạt động giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của
mỗi cá nhân. Giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức cách mạng cho TN nói
riêng là sự nghiệp của quần chúng. Trong thư Gửi các em học sinh
(24/10/1955), Hồ Chí Minh khẳng định: “Giáo dục các em là việc chung của
gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau
phụ trách” [17, tr.74]. Kết quả giáo dục tùy thuộc rất nhiều vào sự tham gia
tích cực, sự giúp đỡ thiết thực và sự giác ngộ về trách nhiệm đối với giáo dục
của các ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền cũng như của cha mẹ học sinh
và của các lực lượng xã hội. Người đề nghị: “Sự giáo dục thanh niên phải liên
hệ vào dư luận xã hội, lực lượng của Chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có
thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên”
[16, tr.455-456]. Xuất phát từ sự nhìn nhận mặt tốt và mặt xấu trong con
người, nhất là đối với TN-lứa tuổi đang hoàn thiện nhân cách, đang phát triển
và muốn khẳng định mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp cả hai mặt
giáo dục và tự giáo dục. Theo Người, khi mặt tự giáo dục thực sự được đặt ra
ở mỗi người thì việc giáo dục mới có hiệu quả và chắc chắn.
Như vậy, giáo dục đạo đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh là hoạt
động của các cá nhân và thiết chế xã hội nhằm hình thành những phẩm chất
đạo đức ổn định, những nhu cầu, niềm tin, tình cảm, thói quen trong hành vi
đạo đức trên cơ sở nhận thức lý tưởng đạo đức và những nguyên tắc đạo đức
xã hội. Thông qua giáo dục đạo đức, các khái niệm, giá trị đạo đức được nhận
thức sâu sắc hơn, những hành động của con người sẽ phù hợp hơn với các

25
chuẩn mực xã hội, làm cho con người có khả năng tự kiểm tra, đánh giá, thẩm
định và điều chỉnh hành vi của mình. Đạo đức có quan hệ chặt chẽ với lối
sống. Đạo đức là mặt nội dung, qui định lối sống. Còn lối sống là mặt thể hiện
của đạo đức. Do đó, giáo dục đạo đức chính là giáo dục lối sống một cách
gián tiếp, là quá trình định hướng lối sống cho mỗi cá nhân.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, vị trí, vai trò của thanh
niên và tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh
niên
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm, vị trí, vai trò của thanh
niên
1.2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc điểm của thanh niên
TN là một khái niệm có thể được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách. Về
mặt sinh học, các nhà nghiên cứu coi TN là một giai đoạn xác định trong quá
trình “tiến hoá” của cơ thể. Về mặt tâm lý, tuổi TN là tuổi tiếp nhận rất nhiều
ảnh hưởng, lựa chọn rất nhiều giá trị để dần dần định hình giá trị của chính
mình. Với các triết gia, văn nghệ sĩ, “thanh niên là mùa xuân của xã hội”, “là
bình minh của cuộc đời”. Theo Luật Thanh niên được thông qua vào ngày
29/11/2005 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI và được Chủ tịch nước công
bố tại lệnh số 24/2005/L/CTN ngày 09/12/2005 thì “thanh niên là công dân
Việt Nam từ đủ mười sáu đến ba mươi tuổi”. Như vậy, nói tới TN là nói tới
tuổi trẻ và thế hệ trẻ, đó là lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời của mỗi người.
Tuổi TN cũng là tuổi trưởng thành về mọi phương diện, thể lực, trí lực và
phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Trong kho tàng tri thức của loài người, học thuyết Mác-Lênin đã có
những quan điểm lý luận mẫu mực về nhiều vấn đề của TN. Một trong những
phát hiện vĩ đại nhất của C.Mác là học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản hiện đại. Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ được hình thành với tư cách

26
một giai cấp khi nó ý thức được địa vị và tương lai của nó: “…Những công
nhân tiên tiến nhất hoàn toàn hiểu rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân
và do đó, tương lai của nhân loại, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế
hệ công nhân đang lớn lên”. Chính Mác đã gọi thanh niên là cội nguồn sự
sống của dân tộc và giai cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ chế dân tộc.
Ăng-ghen đã đề xuất tư tưởng: Thanh niên không thể đứng ngoài chính
trị. Chính hiện thực cuộc sống đã, đang và sẽ cuốn hút tuổi trẻ vào đời sống
chính trị.
Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và Ăng-ghen trong điều
kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã coi thanh niên là “nguồn sinh lực chiến đấu của
cách mạng”. Ngay cuối thế kỉ XIX, ông đã viết “Người ta quan sát thấy trong
thanh niên công nhân một khát vọng nồng cháy không gì kìm hãm được tới lý
tưởng của dân chủ và CNXH”. Lênin đã sớm nhìn thấy vai trò cách mạng to
lớn của thanh niên học sinh, sinh viên.
Với Hồ Chí Minh, TN có ưu điểm là hăng hái, giàu tinh thần xung phong
nhưng cũng có khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá
nhân, bệnh anh hùng. Do vậy, TN muốn xứng đáng là người chủ tương lai của
nước nhà thì phải tự giác rèn luyện bản thân. Đó là yếu tố hết sức quan trọng.
Trước tiên, TN “phải rèn luyện và thấm nhuần tư tưởng xã hội chủ nghĩa”
[18, tr.310]; “Phải trau dồi đạo đức của người cách mạng” [19, tr.305]. Người
nhắc nhở TN phải luôn luôn gắn chặt quá trình “xây và chống” trong rèn
luyện đạo đức. Người dạy: “Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ
lo cho lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung
sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động
chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu
ngạo, giả dối, khoe khoang” [16, tr.455].

27
1.2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí và vai trò của thanh niên
Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn, quyết định của TN trong tiến trình
lịch sử và có niềm tin sâu sắc vào khả năng cách mạng của họ.
Thứ nhất, TN là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc, sự phát
triển của đất nước.
Xuất phát từ quy luật vận động của xã hội loài người, Hồ Chí Minh
khẳng định TN không những là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của các
thế hệ đi trước, mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc: “Một năm khởi
đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội” [13, tr.167]. Đây là kết quả nhận thức của một người từng trải, có nhiều
năm tháng gắn bó mật thiết với TN, là sự tiếp nối và phát triển những quan
điểm của cha ông, của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò TN trong lịch sử. Từ
nhận thức đó, Hồ Chí Minh đặt trọn mọi tin yêu và kỳ vọng vào TN. Người
xem vận mệnh dân tộc phụ thuộc chặt chẽ vào tầng lớp TN.
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, khi đất nước đang chìm đắm trong
cảnh nô lệ, Hồ Chí Minh khẳng định, “muốn thức tỉnh dân tộc” đứng lên đấu
tranh giành lại độc lập để xây dựng xã hội mới thì trước hết “phải thức tỉnh
TN”: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh
niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” [11, tr.133].
Trong thư gửi cho TN học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người viết: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ
vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em” [13, tr.33].
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt cộng với những khó khăn khi cùng
một lúc tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược, nhưng bằng sự nhìn nhận, đánh giá
khả năng cách mạng to lớn và quyết định của TN, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn

28
lạc quan và vững tin vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam: “Với
một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành công
trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”
[20, tr.66-67].
Hồ Chí Minh nhận thấy thế hệ TN hôm nay xứng đáng là lực lượng kế
tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của thế hệ đi trước. Với một thế hệ như thế
thì tương lai của đất nước, tiền đồ của dân tộc nhất định sẽ “vô cùng vững
chắc và vẻ vang”. Đây là kết luận quan trọng nhất được rút ra từ sự nhìn nhận
khách quan, khoa học của Hồ Chí Minh đối với vai trò lịch sử mà các thế hệ
TN đã đảm nhiệm.
Thứ hai, TN là lực lượng to lớn, là đội quân xung kích trên mọi mặt
trận của cách mạng.
Theo học thuyết Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
nhân dân là người làm ra lịch sử. Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh xác
định đúng đắn lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể quần chúng bị áp
bức và những người tiến bộ. Người cũng sớm nhận thấy vị trí của TN trong
lực lượng cách mạng. Là lực lượng đông đảo trong xã hội “chiếm độ 1 phần 3
tổng số nhân dân” [17, tr.94], sức khỏe dồi dào, hăng hái, nhiệt tình, có lý
tưởng, sẵn sàng hy sinh xả thân vì nghĩa lớn, TN trở thành lực lượng chủ yếu
của cách mạng. Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, chịu ảnh hưởng từ những hoạt
động của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng TN, TN, SV nước ta bắt đầu ý
thức được trách nhiệm, bổn phận của mình đối với dân tộc và bắt đầu đứng
lên đấu tranh. Tiêu biểu là các phong trào đấu tranh đòi ân xá cho cụ Phan Bội
Châu, phong trào để tang cụ Phan Châu Trinh. Theo Hồ Chí Minh, đây là tín
hiệu đáng mừng cho cách mạng Việt Nam, chứng tỏ TN đã thức tỉnh, hồi
sinh. Người phấn khởi viết: “Đâu đâu học sinh cũng đều bãi khóa. Nữ sinh
cũng tham gia phong trào” [11, tr.231].

29
Những tháng năm hoạt động ở hải ngoại, Hồ Chí Minh vẫn thường
xuyên theo dõi tình hình cách mạng trong nước và xem phong trào TN như
ngòi nổ của các phong trào cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ VIII (5/1941) do Người chủ trì đã quyết định thành lập Mặt trận dân
tộc thống nhất mang tên Việt Nam độc lập đồng minh trong đó có TN cứu
quốc. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân thành lập, phần lớn các đội viên là đoàn viên và đảng viên trẻ tuổi có
tinh thần kiên quyết, hăng hái nhất được chọn lọc trong hàng ngũ những du
kích Cao - Bắc - Lạng. Hồ Chí Minh lạc quan tiên đoán: “Tuy lúc đầu quy mô
của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải
phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam” [12,
tr.508]. Không phụ lòng tin yêu của lãnh tụ, TN cả nước nhất tề đứng lên theo
lời hiệu triệu của Đảng và là lực lượng tiên phong trong công cuộc cướp
chính quyền từ tay phát xít Nhật, giành độc lập cho dân tộc, đem lại quyền
làm chủ cho nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, tiềm năng của TN là vô cùng to lớn. Để hiện thực
hóa tiềm năng đó thì trước hết cần phải tập hợp TN trong một tổ chức cách
mạng. Người cho rằng: “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái
đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”
[16, tr.162]. Tổ chức cách mạng của TN là Đoàn TN Cộng sản. Nhiệm vụ chủ
yếu của tổ chức Đoàn là đoàn kết, tập hợp TN, giác ngộ TN đi theo Đảng làm
cách mạng. Mối quan hệ giữa Đảng với tổ chức Đoàn cũng được Hồ Chí
Minh bàn đến. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người viết: “Đường
chính trị, thì thanh niên theo Đảng chỉ huy, nhưng việc làm thì thanh niên độc
lập” [11, tr.295]. Nghĩa là Đoàn TN do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Theo Hồ
Chí Minh, Đoàn TN Cộng sản vừa là tổ chức gần gũi Đảng, vừa là người phụ
tá đắc lực cho Đảng. Được tổ chức Đoàn dìu dắt, giúp đỡ, TN không ngừng

30
rèn luyện phấn đấu vươn lên xứng đáng là lực lượng kế thừa sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Đoàn viên TN luôn là lực lượng tích cực, tiên phong gương
mẫu trong việc thực hiện những chủ trương và chính sách của cách mạng.
Đoàn TN là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ của Đảng những người trẻ, khỏe.
Điều đó làm cho Đảng ngày càng đông và càng mạnh. Với ý nghĩa trên, Hồ
Chí Minh cho rằng: “Đoàn TN là cánh tay và đội hậu bị của Đảng” [20, tr.65].
Tóm lại, TN trong tư tưởng Hồ Chí Minh có một vị trí, vai trò vô cùng
to lớn trong tiến trình lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng. TN là bộ phận
quan trọng của dân tộc, là lực lượng nòng cốt trong cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vận mệnh của dân tộc, tương lai của đất
nước tùy thuộc vào phẩm chất và bản lĩnh của TN. TN là lực lượng to lớn, là
đội quân xung kích trên mọi mặt trận, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của
Đảng. TN còn là lực lượng kế thừa và tiếp bước các thế hệ cha anh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của việc giáo dục đạo
đức, lối sống cho thanh niên
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của giáo dục là đào tạo ra những công dân
hữu ích cho xã hội, góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước. Giáo dục không chỉ có nhiệm vụ trang bị kiến thức, năng lực
chuyên môn mà còn hình thành nhân cách cho người học. Vì vậy phải giáo
dục toàn diện trên tất cả các mặt: trí, đức, thể, mỹ, trong đó đặc biệt chú trọng
đến việc giáo dục đạo đức.
Hồ Chí Minh từng phê bình ngành giáo dục vì quá tập trung việc “dạy
chữ” mà lơi lỏng việc “dạy người”. Người nói: “Tôi xem chương trình giáo
dục cho đến hết lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có mười dòng” [23,
tr.105]. Trong nỗ lực tìm kiếm giải pháp để khắc phục hạn chế trên, Hồ Chí
Minh đề xuất ý kiến: “Đạo đức học phải là một ngành khoa học xã hội và

31
những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa, phải
trở thành một môn học không thể thiếu được trong trường đại học và phổ
thông” [7, tr.121].
Xuất phát từ một chân lý đơn giản nhưng cực kỳ sâu sắc: Muốn làm cách
mạng thì phải có đạo đức cách mạng nên Hồ Chí Minh luôn đặt vấn đề giáo
dục đạo đức, lối sống lên hàng đầu. Ngay từ năm 1925, bài đầu tiên mà Người
giảng cho các hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng TN là bài giảng về đạo
đức - “Tư cách người cách mạng”. Trong đó, Người tóm tắt 23 điều ngắn gọn,
chia làm 3 phần: đối với mình, với người và với việc. Trong Di chúc để lại
cho chúng ta trước khi trở về cõi vĩnh hằng, Hồ Chí Minh đã căn dặn lại Đảng
ta là giữ gìn đạo đức cách mạng và chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho
đoàn viên và TN nói chung. Như vậy, từ bài giảng đầu tiên cho đến lời dạy
cuối cùng, trong gần suốt nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã thường xuyên dành cho
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống vị trí ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ
sự nghiệp của Người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân dân
nói chung và cho TN nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì:
1.2.2.1. Giáo dục đạo đức, lối sống nhằm hoàn thiện nhân cách.
Với Hồ Chí Minh, nhân cách là một thể thống nhất của đức và tài. Một
nhân cách được xem là hoàn thiện khi có đủ đức lẫn tài, “hồng” và “chuyên”,
trong đó đạo đức là gốc. Thống nhất với các nhà kinh điển, Hồ Chí Minh
quan niệm: nhân cách, bản tính con người không phải là bẩm sinh, tự nhiên
vốn có mà được hình thành, phát triển trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá
nhân với gia đình và xã hội. Như vậy, nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội
của con người. Trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách, Hồ Chí Minh xem giáo dục là yếu tố giữ vai trò chủ đạo. Người
viết: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” [12,

32
tr.383]. Vai trò chủ đạo của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, giáo dục đạo đức góp phần to lớn trong việc chuyển các quan
niệm đạo đức từ tự phát sang tự giác, không ngừng nâng cao trình độ nhận
thức các giá trị đạo đức cho mỗi người.
Thứ hai, giáo dục đạo đức góp phần tích cực trong việc truyền lại cho thế
hệ đang trưởng thành những giá trị đạo đức mà các thế hệ trước tạo ra. Trên
cơ sở đó giúp họ nhận ra chân giá trị của các giá trị đạo đức, nhận thấy giá trị
và ý nghĩa cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn sâu sắc.
Thứ ba, gáo dục đạo đức còn góp phần tạo ra những giá trị đạo đức mới,
xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo đức mới, quan niệm sống tích cực
cho mỗi đối tượng giáo dục.
Thứ tư, giáo dục đạo đức góp phần hình thành thái độ, niềm tin, tình cảm
đạo đức cho mọi người. Đây chính là sức mạnh tinh thần giúp cho con người
vươn tới chân, thiện, mỹ.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là để hình thành và phát triển nhân cách
cho con người. Do đó, giáo dục phải bao gồm cả dạy người lẫn dạy chữ, trong
đó dạy người là mục tiêu cao nhất. Từ nhận thức đó Hồ Chí Minh cho rằng:
“Muốn xây dựng CNXH phải có những con người xã hội chủ nghĩa, tức là
phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa... Đạo đức xã hội chủ nghĩa
là cần kiệm xây dựng nước nhà” [19, tr.679]. Đánh giá cao vai trò TN, đồng
thời Hồ Chí Minh còn nhìn nhận TN như là một chủ thể đang trong quá trình
phát triển hoàn thiện nhân cách. Do đó, rất cần có sự định hướng của giáo
dục. Để khắc phục, một mặt Hồ Chí Minh yêu cầu TN phải ra sức tu dưỡng,
rèn luyện trên mọi phương diện, mặt khác Người đòi hỏi gia đình, nhà trường
và toàn xã hội cần thấy rõ trách nhiệm của mình, phải thật sự quan tâm đến

33
công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức, lối sống cho TN để họ trở
thành những công dân hữu ích của xã hội.
1.2.2.2. Giáo dục đạo đức, lối sống nhằm chống tàn dư đạo đức, lối sống
cũ tiêu cực
TN là bộ phận quan trọng của dân tộc, là rường cột, là tương lai của
nước nhà. Vì thế, trong lịch sử TN luôn là đối tượng tác động chủ yếu của các
thế lực phản cách mạng. Chúng tìm mọi cách từ lừa phỉnh đến mua chuộc, dụ
dỗ nhằm lôi kéo TN đi vào con đường phản động. Chiêu thức, thủ đoạn của
chúng vừa đa dạng vừa tinh vi, hiểm độc. Thời Pháp thuộc, TN Việt Nam bị
chính quyền thực dân đầu độc bằng một nền giáo dục đồi bại còn nguy hiểm
hơn cả sự dốt nát. Nền giáo dục đó làm cho TN từng bước quên đi cội nguồn
dân tộc, đánh mất bản thân mình. Ngoài ra, chúng còn du nhập và ra sức cổ
súy cho lối sống phương Tây trong TN. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong xã hội
cũ, có nhiều nọc độc nó làm hại thanh niên. Nhất là văn hóa độc ác của Mỹ,
nó dùng mọi cách như sách báo, phim ảnh … để làm cho thanh niên hư hỏng,
trụy lạc. Thậm chí một số thanh niên hóa ra lưu manh, trộm cắp, cờ bạc …”
[16, tr.455]. Từ nhận thức đó mà Người cho rằng thắng lợi của sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH không thể
tách rời với cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ “những cái xấu xa do chế độ cũ để
lại trong xã hội và trong mỗi con người” [20, tr.558]. Quyết tâm giành lại TN
từ tay bọn thực dân đế quốc, Hồ Chí Minh ra sức thức tỉnh TN. Thông qua
giáo dục đạo đức cách mạng và định hướng lối sống, Người giúp TN nhận rõ
tương lai của họ gắn chặt tương lai của dân tộc “Dân tộc bị nô lệ thì thanh
niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên mới được tự do” [16,
tr.398] và TN “Muốn tiền đồ mình vẻ vang, nhất định vẻ vang, thì phải làm
cho tiền đồ của Tổ quốc, của dân tộc vẻ vang, phải gắn tiền đồ của mình với
tiền đồ dân tộc, tiền đồ giai cấp, không thể tách riêng được” [17, tr.381].

34
Người còn dạy TN sống là phải có lý tưởng cao đẹp và phải phấn đấu đến
cùng cho lý tưởng đó. “Làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, làm cho CNXH và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên Tổ quốc
ta và trên thế giới” [20, tr.93].
1.2.2.3. Giáo dục đạo đức, lối sống nhằm hình thành đạo đức, lối sống
mới XHCN
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống coi trọng đạo đức. Truyền thống
đạo đức dân tộc đã thôi thúc người TN Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước nhằm giải phóng đồng bào mình. Hồ Chí Minh đến với học thuyết
Mác-Lênin bằng con thuyền đạo đức của dân tộc. Nguyễn Ái Quốc tin theo
Lênin “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa
hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị” [10, tr.295].
Đối với Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là một học thuyết
cách mạng mà còn là một học thuyết đạo đức mang tính nhân đạo sâu sắc và
triệt để nhất. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh được trang bị thế
giới quan và phương pháp luận khoa học. Đó là cơ sở giúp Người nhận rõ hơn
vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu
đổi ra cái tốt. Đây là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng rất lâu dài, đầy
khó khăn, thử thách. Muốn hoàn thành sự nghiệp ấy, thì bản thân người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng. Bởi vì người có đạo đức sẽ
thu phục được lòng người, sẽ tập hợp quanh mình một lực lượng to lớn, sẽ
làm cho sức mạnh của mình tăng lên gấp bội. Người dạy cán bộ: “Muốn cho
dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin phải thanh khiết” [14, tr.55]. Ở
lúc khác, Người lại cho rằng: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải
phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự

35
mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn
làm nổi việc gì?” [14, tr.252-253]. Trong tiến trình cách mạng, sức mạnh đạo
đức còn được Hồ Chí Minh khai thác để cảm hóa những người lầm đường, lạc
lối, kéo họ về phía cách mạng. Người nói: “Đối với đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tinh thần nhân ái mà cảm hóa họ” [13, tr.246].
Với Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống.
Nó là kết quả của quá trình giáo dục và rèn luyện. Vì thế muốn phát huy vai
trò to lớn của TN trong tiến trình cách mạng thì trước hết cần phải giáo dục
đạo đức, lối sống cho họ. Chỉ dựa trên nền tảng đạo đức cách mạng, TN mới
đủ sức vượt qua những thăng trầm, khó khăn của hoàn cảnh để kiên trì phấn
đấu đến cùng cho lý tưởng cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ mà cách mạng và
Đảng giao phó. Người nói: Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng,
của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần
ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần thì sẵn sàng hy
sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc [18, tr.284]. Nhận rõ tầm quan
trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, trước lúc đi xa Người
vẫn không quên căn dặn Đảng ta cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách
mạng cho TN nhằm đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Tóm lại, giáo dục đạo đức, lối sống cho TN chính là để giúp họ trở thành
những công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người chủ xứng
đáng của nước nhà và là người cách mạng chân chính. Đây là một trong
những nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; là công việc gốc của Đảng và
Chính phủ, của Đoàn TN, của gia đình, nhà trường và toàn xã hội.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và phương pháp giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN.

36
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức, lối sống
cho TN.
1.3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức
Một là, Giáo dục các phẩm chất đạo đức cách mạng
Khi nói tới giáo dục đạo đức cách mạng, vấn đề quan trọng hàng đầu
được Hồ Chí Minh quan tâm là làm cho TN nhận thức được rằng đạo đức
cách mạng là “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước.
Tận hiếu với dân” [16, tr.480].
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, trung với nước trước hết là trung thành
với nhân dân, với lợi ích của nhân dân. Người dạy TN “Việc gì lợi cho dân, ta
phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [13, tr.56-57].
Mặt khác, TN phải hiểu thật sâu sắc rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là một
đội ngũ tiên tiến nhất và tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân “Những
chính sách và nghị quyết của Đảng đều vì lợi ích của nhân dân” [18, tr.288].
Do đó, trung với dân cũng có nghĩa là trung với Đảng, với sự nghiệp cách
mạng của Đảng. Như vậy, trung với nước thì TN phải luôn đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng
mình cho độc lập dân tộc và CNXH. Hiếu với dân, TN phải biết yêu mến
nhân dân, quý trọng nhân dân, phải chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân. Có như vậy TN mới được dân tin, dân mến, dân yêu. Đây là cơ sở
để TN đoàn kết với dân nhằm tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN, Hồ Chí Minh còn chú trọng đến
việc giáo dục những phẩm chất cao quý như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư. Tuy mỗi đức tính đều có nội dung riêng nhưng lại liên quan mật thiết
với nhau tạo nên bản chất “người” của một con người. Cần, kiệm, liêm, chính
sẽ dẫn tới chí công vô tư và ngược lại đã chí công vô tư một lòng, một dạ vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

37
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là biểu hiện sinh động của phẩm chất
trung với nước, hiếu với dân. Giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là
giáo dục tình thương yêu con người.
Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm. Người dạy
TN yêu thương con người trước hết là tôn trọng nhân phẩm của con người;
phải giáo dục, cải tạo con người nhằm làm cho phần tốt trong mỗi con người
nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi. Tình thương yêu đó không
chỉ giới hạn trong phạm vi dân tộc mà vươn tới tầm nhân loại.
Đạo đức cách mạng là đạo đức mới - đạo đức của giai cấp vô sản. Vì thế
giáo dục đạo đức cách mạng cho TN còn là giáo dục tinh thần đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau giữa nhân dân Việt Nam với tất cả các dân tộc tiến bộ trên thế
giới vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội “quyết tâm giúp đỡ loài người ngày
càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn giữ vững tinh thần chí
công vô tư” [16, tr.568].
Hai là, Giáo dục lòng yêu nước, thương nòi và tinh thần tự hào dân tộc.
Ngoài tri thức đạo đức thì tình cảm đạo đức cũng là nội dung quan trọng
trong giáo dục đạo đức. Điều này giải thích tại sao trong giáo dục đạo đức cho
TN, ngoài các giá trị đạo đức, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú trọng đến việc
bồi dưỡng tình cảm đạo đức. Lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc không
chỉ là “tình cảm và tư tưởng lớn nhất” [6, tr.115] mà còn là cội nguồn của sức
mạnh dân tộc Việt Nam. Yêu nước là phẩm chất đạo đức hàng đầu trong quan
hệ của mỗi công dân Việt Nam với Tổ quốc.
Người khẳng định nhiệm vụ “cốt nhất” của nhà trường là “Phải dạy cho
học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có ý chí tự lập, tự cường,
quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ” [14, tr.102]. Huấn
thị tại Đại hội SV lần thứ II (1958), Người dạy TN phải có sáu cái yêu: Tổ
quốc, nhân dân, xã hội chủ nghĩa, lao động, khoa học và kỹ thuật. Trong đó

38
yêu Tổ quốc, yêu nhân dân được Người đặt lên hàng đầu. Theo Hồ Chí Minh,
cách tốt nhất để bồi dưỡng lòng yêu nước, thương nòi cho TN là giáo dục
truyền thống dân tộc và truyền thống cách mạng. Thông qua giáo dục truyền
thống làm cho TN thấy được giá trị lớn lao, ý nghĩa đích thực của cuộc sống
hòa bình, tự do, độc lập. Những giá trị ấy trở thành tình cảm, động lực thôi
thúc TN vượt qua mọi khó khăn, hy sinh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ
quyền quốc gia, vươn lên trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm
no, hạnh phúc.
Ba là, Giáo dục lý tưởng cách mạng, niềm tin đối với sự nghiệp cách
mạng do Đảng lãnh đạo.
Lý tưởng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Lý
tưởng cách mạng mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục cho TN là phấn đấu
cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH toàn thắng trên đất nước ta và trên
thế giới. Theo Hồ Chí Minh, có giác ngộ lý tưởng mới giúp TN hiểu lý tưởng
đó cao đẹp như thế nào, thấy rõ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện lý
tưởng. Với nghĩa đó, giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo dục cho TN
lý tưởng sống và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Song song với việc giáo dục lý tưởng, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu phải
bồi dưỡng chí khí cách mạng cho TN. Đó chính là ý chí, nghị lực, khí phách,
khí tiết của người cách mạng, là tính kiên trì, nhẫn nại, vượt khó. Không có
chí khí cách mạng thì TN không thể vượt qua bao khó khăn gian khổ, hy sinh
mất mát trên con đường cách mạng để thực hiện lý tưởng. Như vậy thì cũng
không thể trở thành một người trung với nước, hiếu với dân được.
Bốn là, Giáo dục thái độ tận tụy phục vụ, cống hiến cho Tổ quốc, nhân
dân
Với Hồ Chí Minh, cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ cho nhân dân là nét
đẹp của đạo đức cách mạng. Người dạy TN: “Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang.

39
Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân
dân” [17, tr.276]. Muốn hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân
thì TN cần phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân. Vì chủ nghĩa cá nhân
là “chỉ biết mình béo, mặc thiên hạ gầy”, chỉ muốn “mọi người vì mình” mà
không biết “mình vì mọi người”. Thật xúc động biết bao khi đọc lại những
tâm sự lúc cuối đời của Người: “Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có
điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa” [20, tr.512]. Cuộc đời vì nước, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mãi mãi là gương sáng cho các thế hệ TN hôm nay và mai sau học tập
noi theo.
1.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục lối sống
Một là, Yêu lao động, sống giản dị, trung thực, dũng cảm
TN là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội. Từ nhận thức trên, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục TN tình yêu đối với lao động.
Người dạy: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh
phúc của chúng ta” [19, tr.313] và “Bất cứ làm nghề gì, có ích cho nước nhà,
cho nhân dân, cho giai cấp, đều là vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm
chủ tịch, đều phải lao động cả, làm gì ích nước lợi dân là vẻ vang” [17,
tr.296]. Yêu lao động, TN phải biết quý trọng thành quả lao động; phải biết
bảo vệ của công, chi tiêu hợp lý, không hoang phí, xa xỉ; phải hăng hái thi đua
sản xuất thực hành tiết kiệm; phải tự giác giữ vững kỷ luật lao động; lao động
phải có kế hoạch, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả. Yêu lao động trong tư
tưởng Hồ Chí Minh còn là biểu hiện cụ thể của đạo đức cách mạng, của phẩm
chất “trung với nước, hiếu với dân”.
Ngoài yêu lao động, TN cần phải rèn luyện lối sống giản dị, trung thực,
dũng cảm. Theo Hồ Chí Minh, sống giản dị thì “cách ăn mặc phải sạch sẽ,
đơn giản, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, lòe loẹt” [14, tr.99]. Người dạy TN

40
trong lúc nước ta còn nghèo, nhân dân ta còn thiếu thốn mà cá nhân chỉ muốn
riêng hưởng ăn ngon, mặc đẹp là không có đạo đức. Người còn dạy TN phải
sống trung thực. Sống trung thực là luôn luôn tôn trọng sự thật, chân lý, yêu lẽ
phải, ghét sự giả dối. Rèn luyện lối sống trung thực TN phải bắt đầu từ chính
bản thân. Nếu không trung thực với bản thân thì không thể trung thực với mọi
người. Trung thực phải đi liền với dũng cảm. Có dũng cảm thì TN mới can
đảm thừa nhận những sai lầm, thiếu sót của bản thân, mới có quyết tâm sửa
chữa. Có can đảm, có dũng khí TN mới đấu tranh chống lại những biểu hiện
sai trái ở ngoài xã hội để bảo vệ lẽ phải, sự thật công lý.
Hai là, Sống có hoài bão, nghị lực, chí tiến thủ
Con người sống thì phải có ước mơ, hoài bão. Hoài bão là mục tiêu cao
đẹp nhất mà con người hướng tới và ra sức thực hiện. Người thường xuyên
nhắc nhở TN sống là phải có ước mơ, hoài bão, có lý tưởng cao đẹp. Thông
qua cuộc đời vì nước, vì dân, Hồ Chí Minh đã giáo dục TN hướng tới lẽ sống
cao đẹp. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [13, tr.161]. Con
đường hiện thực hóa hoài bão, mục tiêu, lý tưởng có lắm gian nan, trở ngại
đòi hỏi mỗi người phải có ý chí, nghị lực phi thường để vượt qua mọi thử
thách của hoàn cảnh. Do đó, TN cần phải rèn luyện các đức tính kiên trì, bền
bỉ, nhẫn nại, không ngại khó. Năng lực cũng là một điều kiện không thể thiếu
trong việc thực hiện hoài bão. Muốn có năng lực, TN phải có chí tiến thủ, tinh
thần cầu tiến, ham học hỏi. Học ở mọi nơi, mọi lúc, mọi người. Phải khiêm
tốn học hỏi, coi việc học là việc làm suốt đời. Mặt khác, TN còn phải chống
lại thói kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại…

41
Ba là, Giáo dục tình bạn, tình yêu trong sáng
Tình bạn, tình yêu trong sáng là một biểu hiện của lối sống khiêm
nhường, bao dung, nhân ái, thủy chung mà Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục
cho TN. Đó là một tình bạn, tình yêu thủy chung, son sắt và bền. Để có được
tình bạn, tình yêu trong sáng, Người dạy TN phải biết thương yêu giúp đỡ,
phải kính trọng nhau như anh em một nhà. Yêu thương phải bắt đầu từ việc
tôn trọng giá trị của nhau, quan tâm giúp đỡ chân tình để vượt qua mọi khó
khăn trong cuộc sống; phải biết cảm thông, độ lượng đối với những lỗi lầm
của nhau; thật tâm khuyên bảo giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm; phải
trung thực, quan tâm lẫn nhau, chu đáo từ việc lớn đến việc nhỏ, từ lời nói
đến việc làm. Tình bạn là cơ sở của tình yêu bền chặt, trong sáng. Trong tình
bạn cũng như trong tình yêu, Người dạy TN phải đúng mực, đi đúng giới hạn
“quyết chớ phóng túng, lôi thôi”.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục đạo đức, lối
sống cho thanh niên.
1.3.2.1. Kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là trách nhiệm
chung của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Phát biểu tại buổi lễ khai mạc
Trường Đại học nhân dân Việt Nam, Người nêu rõ: “Trường đại học, gia đình
và đoàn thể TN phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục TN” [16, tr.456]. Hồ
Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của giáo dục gia đình. Thực hiện tốt chức
năng giáo dục, gia đình góp phần đào tạo ra các công dân hữu ích cho xã hội.
Ngoài mối quan hệ với những người thân trong gia đình, TN còn có những
mối quan hệ với xã hội như: với thầy cô, bạn bè, đồng bào, đồng chí …
Thông qua các mối quan hệ đó, TN tiếp tục nhận được sự giáo dục từ nhà
trường, từ xã hội. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải kết hợp tốt 3 môi
trường: gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục TN. Cùng với gia đình,

42
nhà trường, xã hội phải thật sự quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất để TN
phát triển một cách hài hòa trên tất cả các mặt: trí, đức, thể, mỹ. Giáo dục TN
là sự nghiệp của quần chúng, là trách nhiệm của toàn xã hội, mà trước hết
thuộc về các cấp ủy Đảng, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể. Hồ Chí
Minh phê phán những cán bộ, những tổ chức đoàn thể cứ mải mê với những
công việc mang tính sự vụ hơn là để tâm tới việc xây dựng con người, hoặc
những tư tưởng ỷ lại vào nhà trường mà không thấy rõ vai trò, trách nhiệm
của mình trong việc giáo dục TN.
Theo Hồ Chí Minh, để công tác giáo dục TN đạt hiệu quả cao còn phải
biết kết hợp chặt chẽ giữa học tập ở thầy, ở sách vở, ở bạn bè, ở nhân dân với
rèn luyện trong lao động, trong công tác, trong chiến đấu. Chỉ có hoạt động
trong thực tiễn, TN tự thể nghiệm mình, dần dần hình thành được những
phẩm chất đạo đức cần thiết. Vì vậy mà Hồ Chí Minh cho rằng quá trình giáo
dục đạo đức cho TN là quá trình tổ chức hướng dẫn họ hoạt động trong thực
tiễn và xem đây là một phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất.
1.3.2.2. Giáo dục bằng hành động nêu gương đồng thời phát huy ý thức
tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục TN không chỉ đóng khung trong những bài
diễn văn tuyên truyền khô khan, kém hiệu quả mà cần phải biết sáng tạo các
hình thức giáo dục phong phú, đa dạng. Nêu gương người tốt việc tốt trong
TN để giáo dục lẫn nhau là một phương pháp vừa sinh động vừa có sức thuyết
phục cao. Người cho rằng: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu
tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài
diễn văn tuyên truyền” [10, tr.263]. Đặc điểm của TN là luôn khát khao vươn
tới cái đẹp, cái cao thượng, có tâm lý ngưỡng mộ và học tập noi theo những
thần tượng trong xã hội. Chính vì thế mà Hồ Chí Minh cho rằng giáo dục

43
bằng phương pháp nêu gương là cách tốt nhất để xây dựng con người mới,
cuộc sống mới.
Nhận thức “Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt,
thầy xấu thì ảnh hưởng xấu” [18, tr.492] nên trong giáo dục Hồ Chí Minh đòi
hỏi các thế hệ đi trước như: ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô giáo, cấp trên …
phải là những người gương mẫu trong đạo đức, lối sống. Nêu gương trong
giáo dục còn đòi hỏi những người tham gia công tác giáo dục luôn phải thống
nhất giữa lời nói với việc làm. Người dạy: “Nếu miệng thì tuyên truyền bảo
người ta siêng làm, mà tự mình thì ăn trưa, ngủ trễ; bảo người ta tiết kiệm, mà
tự mình thì xa xỉ, lung tung, thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích” [14,
tr.108].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục là sự thống nhất biện chứng giữa
hai quá trình: giáo dục và tự giáo dục. Chính vì thế, người thường khuyên TN
phải luôn luôn “tự cải tạo để tiến bộ mãi”. Tự cải tạo là quá trình TN nhìn
nhận lại bản thân, tự đánh giá ưu và khuyết điểm của mình để sửa chữa và
phấn đấu. Nhưng “Muốn cải tạo mình, cũng phải trường kỳ và gian khổ, chứ
không phải là dễ đâu” [16, tr.59]. Không chỉ tự rèn đức, TN còn phải biết tự
luyện tài. TN phải có tinh thần cầu tiến, ham học hỏi, phải nỗ lực học tập mà
trước hết bằng việc tự học. Muốn tự học thành công thì phải kiên trì, bền bỉ,
phải có kế hoạch sắp xếp thời gian khoa học và có phương pháp học tập phù
hợp đúng đắn.
1.3.2.3. Kiên trì tu dưỡng rèn luyện; xây đi đôi với chống
Theo Hồ Chí Minh, “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng
như ngọc càng mài, càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [18, tr.293]. Để
có được đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh TN phải có dũng khí dám
thừa nhận và kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu của bản thân,

44
đồng thời không ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách mạng. Người dạy TN:
“Theo con đường ác thì dễ dàng, nhưng lăn xuống hố, theo con đường thiện
thì khó nhọc, nhưng vẻ vang. Quyết tâm là làm được việc” [16, tr.62-63].
Trong quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện mỗi cá nhân cần phải biết dựa vào
dư luận xã hội, sự góp ý của quần chúng để bản thân ngày càng hoàn thiện
hơn.
Với Hồ Chí Minh, giáo dục hình thành đạo đức, lối sống cho TN còn
phải kết hợp chặt chẽ giữa xây với chống. Xây là xây dựng, đề ra những
chuẩn mực, giá trị mới, tiến bộ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội để định
hướng cho mọi người. Chống là tiêu trừ cái sai, cái ác, cái xấu là biểu hiện
của tàn dư đạo đức, lối sống cũ còn rơi rớt và những tiêu cực mới phát sinh.
Xây gắn liền với chống nhưng phải hướng vào xây và lấy xây làm chính.
1.3.2.4. Tập hợp thanh niên trong các tổ chức, đoàn thể
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục TN còn phải biết dựa vào sức mạnh của tổ
chức, sức mạnh của tập thể. Người chủ trương đưa TN vào trong các tổ chức
đoàn thể xã hội như: Đoàn TN, Hội TN; Hội SV, Hội phụ nữ … Thông qua
hoạt động của các tổ chức này để giáo dục TN. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai
trò của Đoàn TN trong việc tập hợp, giáo dục, giác ngộ và rèn luyện thế hệ trẻ
“Đoàn Thanh niên Lao động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ
chức và giáo dục thế hệ thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối
trung thành với sự nghiệp xây dựng CNXH và chủ nghĩa cộng sản” [19,
tr.21].
Muốn tập hợp rộng rãi, thu hút đông đảo TN thì mỗi đoàn viên phải
gương mẫu, giữ vững đạo đức cách mạng, khiêm tốn, cần cù, hăng hái, dũng
cảm. Phải tránh tư tưởng kiêu ngạo, công thần, tự tư tự lợi, xung phong trong
mọi công việc để lôi cuốn TN. Tổ chức Đoàn các cấp phải quan tâm đến đời
sống, công tác và học tập của TN, “Phải nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và

45
phương pháp thích hợp để đoàn kết và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi
và vững chắc” [17, tr.263]. Nội dung giáo dục TN của các tổ chức Đoàn, Hội
là định hướng chính trị và định hướng lối sống cho TN. Thông qua các
phong trào cách mạng, các cuộc vận động, tổ chức Đoàn, Hội phải lôi kéo TN
tích cực tham gia các hoạt động chính trị xã hội, từng bước giác ngộ lý tưởng
cách mạng cho TN, giúp TN không bị sa ngã về phía các thế lực thù địch.
Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là
một hệ thống các quan điểm của Người về vai trò của TN và tầm quan trọng
của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; về nội dung và phương pháp
giáo dục nhằm giúp TN hình thành những phẩm chất đạo đức mới, lối sống
mới đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN sẽ góp phần quyết định đối với quá trình xây dựng đạo
đức, lối sống cho TN nước ta nhằm tạo ra động lực và sức mạnh to lớn thúc
đẩy sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

46
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ
VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố tác động đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho thanh niên ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng
2.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Xu hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ta nói chung và thành
phố Hải Phòng nói riêng vừa là động lực, vừa là đòi hỏi của sự phát triển của
khoa học-công nghệ, văn hóa-giáo dục… Đây là cơ hội thuận lợi cho sự phát
triển của TN. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, TN cũng chịu những khó khăn,
thách thức không nhỏ như: Sự bùng nổ dân số làm tăng sự cạnh tranh trong
giáo dục, đào tạo là nguyên nhân của hiện tượng tiêu cực trong học tập của
HS, SV; Sự phát triển của khoa học - công nghệ kéo theo những tác động tiêu
cực của Internet và các phương tiện thông tin hiện đại; Kinh tế thị trường dẫn
đến nguy cơ thất nghiệp cao, ảnh hưởng đến tâm lý và mục tiêu học tập, phấn
đấu của TN; Việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm thay đổi nhịp
sống, con người bị cuốn hút vào công việc, vào các hoạt động xã hội. Điều đó
có ảnh hưởng đáng kể đến các mối quan hệ gia đình, làm giảm sự quan tâm
của bố mẹ đối với việc chăm sóc, giáo dục con cái. Đó cũng là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến đạo đức, lối sống của TN; Chính sách mở cửa,
hội nhập, đa dạng hóa, đa phương hóa, hợp tác và liên kết quốc tế trong bối
cảnh toàn cầu hóa cũng là yếu tố vừa ảnh hưởng tích cực, vừa ảnh hưởng tiêu
cực đến đạo đức, lối sống của TN.
2.1.2. Đặc điểm của TN
Đây là giai đoạn các em đang phát triển mạnh về thể chất, tinh thần và
tình cảm, dễ bị kích động, lôi kéo... Có nhu cầu giao tiếp rất lớn đặc biệt là sự

47
giao tiếp với bạn bè, từ đó mà hình thành lên các nhóm bạn cùng sở thích, nếu
không được giáo dục dễ bị sai lệch.
2.1.3. Vai trò của gia đình
Gia đình chính là môi trường hình thành nhân cách, bởi từ gia đình con
người có những định hướng giá trị đầu tiên về cuộc sống. Đây cũng là nơi gắn
bó suốt cuộc đời nên môi trường gia đình có ảnh hưởng lớn đến tâm lý, tình
cảm, nếp sống của mỗi người. Tuy nhiên, do điều kiện học tập, phần lớn SV
đều sống xa gia đình nên sự quan tâm, uốn nắn, giáo dục các hành vi của SV
từ gia đình còn chưa thực sự sát sao. Hiện nay nhiều cha mẹ do nhận thức
lệch lạc, không có tri thức về giáo dục con cái nên hoặc là quan tâm, nuông
chiều thái quá trong việc nuôi dạy; hoặc lại sử dụng quyền uy và vũ lực của
cha mẹ một cách cực đoan; tấm gương phản diện của cha mẹ, người thân...đã
tác động không nhỏ đến sự hình thành và phát triển nhân cách cho TN. 55%
SV trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics đến từ các tỉnh, thành trong cả
nước và 72% SV học xa nhà, phải ở trọ nên các em thiếu sự quản lý, giáo dục
thường xuyên của gia đình. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình
thành nhân cách, đạo đức và lối sống của SV nhà trường.
2.1.4. Vai trò của Nhà trường
Trường học, bên cạnh nhiệm vụ trọng tâm là giảng dạy kiến thức cho
HS,SV còn có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục đạo đức và định
hướng lối sống tích cực cho HS, SV. Để có được môi trường giáo dục thân
thiện, trong sạch, các chủ thể giáo dục bao gồm Ban giám hiệu, Cấp uỷ chi
bộ, các tổ chức chính trị-xã hội như Công đoàn, Đoàn TN, Hội Sinh viên, đội
ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách…phải có sự nhất quán và
đồng thuận từ chủ trương đến hành động. Ban giám hiệu, cấp uỷ chi bộ, Công
đoàn, Đoàn TN phải đề ra mục tiêu, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo và đội ngũ
giáo viên, cán bộ quản lý phải tham mưu đề xuất những giải pháp hiệu quả,

48
thiết thực để làm tốt các mặt công tác của nhà trường, trong đó trọng tâm là
công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS,SV. Bản thân mỗi thầy, cô giáo
luôn là tấm gương gần gũi nhất, chân thực nhất về đạo đức, phong cách sống
để HS, SV học tập noi theo. Bên cạnh đó, Đoàn TN là nơi tập hợp, đoàn kết
TN và các phong trào của Đoàn TN tạo môi trường sinh hoạt lành mạnh cho
TN. Qua đó, TN được giao lưu học hỏi, được phát huy khả năng sở trường,
được nuôi dưỡng hoài bão ước mơ, được tham gia các hoạt động tình nguyện
vì cộng đồng…được trưởng thành và phát triển.
2.1.5. Vai trò của tổ chức kinh tế, chính trị- xã hội ở địa phương
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đề cao vai trò, vị trí của TN; luôn xác
định TN là lực lượng xung kích của cách mạng, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng, công tác TN là vấn đề sống còn
của dân tộc. Vì vậy, công tác giáo dục TN ở thành phố Hải Phòng nói riêng và
ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics nói riêng luôn nhận được sự quan
tâm của Thành uỷ, UBND thành phố Hải Phòng và Quận Hải An, Thành
Đoàn Hải Phòng, Hội Liên hiệp thanh niên Thành phố, Hội sinh viên Thành
phố, Liên đoàn lao động Thành phố và các tổ chức doanh nghiệp… Nhờ sự
quan tâm, động viên về tinh thần và sự hỗ trợ về vật chất của các tổ chức kinh
tế, chính trị-xã hội mà TN thành phố Hải Phòng cũng như TN trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics có nhiều sân chơi, có nhiều cơ hội để TN được
tham gia, được trải nghiệm, được thể hiện bản thân.
2.2. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên ở Trường
Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện nay: thực trạng và
những vấn đề đặt ra
2.2.1. Một vài nét khái quát về Nhà trường
2.2.1.1. Một số đặc điểm chủ yếu

49
Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics-Thành phố Hải Phòng là cơ sở
giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ký Quyết định số
2445QĐ/BGD&ĐT-TCCB ngày 29/5/2003, trực thuộc sự quản lý và điều
hành của Tổng Công ty Cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam. Trường đào
tạo đa cấp, đa ngành từ Trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng-Đại học và sau
Đại học. Qua 10 năm xây dựng và phát triển, nhà trường đã đào tạo được hơn
12.000 SV. Tỷ lệ HS,SV tốt nghiệp hàng năm đạt trung bình 85%. Tỷ lệ SV
có việc làm sau khi ra trường đạt 92% trong đó nhiều SV được tham gia giữ
những vị trí then chốt quan trọng trong các cơ quan, doanh nghiệp. Điều đó
thể hiện uy tín và chất lượng đào tạo không ngừng nâng cao của nhà trường.
Hiện nay, trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics có 3.450 TN đang
theo học ở các hệ đào tạo Trung cấp, Cao đẳng với các hình thức chính quy,
nghề, liên thông, liên kết đào tạo. Đặc điểm của TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics là đa số các em xuất thân từ gia đình nông dân, sống ở nông
thôn. Thống kê tỷ lệ SV nhập học trong 05 năm từ 2008-2013 cho thấy 55%
SV của trường đến từ các xã, huyện ngoại thành của thành phố Hải Phòng
(tập trung đông nhất ở huyện Thủy Nguyên, huyện Kiến Thụy, huyện Tiên
Lãng, huyện Vĩnh Bảo). Học sinh nội thành chiếm 31%, còn lại 14% là học
sinh đến từ các tỉnh khác (tập trung nhiều ở tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương,
Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Bắc Giang, Hưng Yên)…[24,tr.
1-3] Do đặc điểm từ nông thôn lên thành phố học tập nên các em có lối sống
giản dị, chân thật; thái độ lễ phép với thầy cô giáo và khiêm tốn, ham học hỏi;
cần cù, chịu khó và có tinh thần phấn đấu trong học tập để thực hiện hoài bão
ước mơ của bản thân. Đây là ưu điểm của TN trường Cao đẳng Công nghệ
Viettronics đồng thời là điều kiện thuận lợi để công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho TN nhà trường đạt hiệu quả cao.

50
Tuy nhiên, cũng do đặc điểm này mà TN nhà trường có một số hạn chế
so với TN các trường Đại học, Cao đẳng khác trên địa bàn thành phố. Đó là
hạn chế về trình độ nhận thức, vốn hiểu biết chính trị-xã hội không nhiều, khả
năng giao tiếp và một số kỹ năng còn yếu, thiếu linh hoạt và nhạy bén với cái
mới, còn nhút nhát và thiếu tự tin. Nguyên nhân là do các em không có điều
kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin hiện đại như TN thành phố hoặc phải
phụ giúp gia đình làm kinh tế nông nghiệp nên không có thời gian và điều
kiện để học tập, nghiên cứu. Mặc khác, công tác thông tin tuyên truyền tới các
vùng nông thôn, vùng xâu vùng xa ngày nay tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng
thực tế vẫn không kịp thời như ở thành thị. Điều đó ảnh hưởng ít nhiều đến
nhận thức và kỹ năng của TN.
2.2.1.2. Tình hình đạo đức, lối sống của thanh niên trường: ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân.
* Ưu điểm: Về đạo đức, lối sống, TN trường Cao đẳng Công nghệ
Viettronics có những ưu điểm nổi bật, đó là:
Thứ nhất, TN Trường có lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và tinh thần
đoàn kết.
Trên cơ sở nhận thức rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và
cả dân tộc, TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng luôn quan
tâm đến Đảng, tin vào mục tiêu và đường lối đúng đắn sáng suốt của Đảng.
Theo kết quả khảo sát điều tra của Đoàn Thanh niên trường vào tháng 6 năm
2013 thì có đến 60,5% TN trường có nguyện vọng trở thành Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam. Số TN còn lại (39,5%) cho biết lý do không có nguyện
vọng vào Đảng là do: tiêu chuẩn Đảng viên cao, bận lo học và lý do khác.
Việc TN cho rằng tiêu chuẩn Đảng viên cao, nhìn ở một góc độ khác cho thấy
các em đã có sự quan tâm, tìm hiểu và nắm được tiêu chuẩn trở thành Đảng

51
viên. Đây là một tín hiệu đáng mừng vì TN không hoàn toàn thờ ơ với các
vấn đề chính trị của đất nước.
Lòng yêu nước và tự hào dân tộc của TN trường Cao đẳng Công nghệ
Viettronics Hải Phòng còn biểu hiện ở sự quan tâm đến tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội của đất nước, địa phương và tình hình hoạt động của nhà
trường. Có 42,5 % TN được hỏi cho rằng các em thường xuyên theo dõi thời
sự trong nước và thời sự quốc tế qua các phương tiện như tivi, máy tính, điện
thoại kết nối internet, nghe đài... 88% TN thường xuyên truy cập qua website
của trường để tìm hiểu, nắm bắt thông tin về chương trình đào tạo, kế hoạch
hoạt động, các sự kiện khác của trường; 85% TN thường xuyên theo dõi
thông tin của trường thông qua hệ thống bảng tin, loa phát thanh, các văn bản
thông báo khác.
Lòng yêu nước và tự hào dân tộc còn được biểu hiện bằng chính những
hoạt động học tập của TN nhằm góp phần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH. Khi được hỏi “Mục đích học tập của em là gì?” thì có 70,3% TN
cho rằng để tìm kiếm một việc làm có thu nhập cao; 34,3% cho rằng có bằng
cấp để dễ tiến thân; 39,7% cho rằng để có khả năng cống hiến được nhiều
hơn; 61% cho rằng để thích nghi theo kịp với sự phát triển của xã hội; 47,7%
cho rằng để làm hài lòng bố mẹ, người thân và lý do khác là 11,3%. Nhìn
chung, động cơ học tập của TN Trường là lành mạnh và luôn gắn với nhu cầu
mưu sinh lập nghiệp.
Trong công tác tình nguyện vì cộng đồng, TN trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics Hải Phòng luôn hăng hái tham gia các hoạt động xã hội do
các tổ chức Đoàn, Hội phát động như: hiến máu nhân đạo, mùa hè xanh, các
ngày thứ bảy tình nguyện, tiếp sức mùa thi…Con số 38,5% TN Trường Cao
đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng tham gia phong trào tình nguyện là
khá ấn tượng, trong đó có 82% TN cho rằng việc tham gia phong trào xuất

52
phát từ nguyện vọng muốn đóng góp công sức cho cộng đồng và xem đây là
môi trường rèn luyện tốt nhất.
Thứ hai, TN Trường có ý thức chủ động, tích cực trong học tập, trong
nghiên cứu khoa học vì ngày mai lập nghiệp.
Ngày nay, khoa học công nghệ đang thực sự trở thành một lực lượng sản
xuất trực tiếp và nòng cốt, là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nhận thức rõ điều này, TN Trường rất tích cực học tập, trau dồi kiến thức
chuyên môn: 72,4% TN Trường được điều tra cho rằng có học thêm tin học,
ngoại ngữ. Trong 5 năm qua (2008-2013), đã có hơn 700 lượt TN tham gia
nghiên cứu khoa học với 152 đề tài. Hàng năm, nhà trường luôn tổ chức các
cuộc thi ý tưởng sáng tạo và thi Robocon với sự tham gia sôi nổi của hàng
trăm SV.
Thứ ba, TN Trường năng động, nhạy cảm trước cái mới, biết hướng mọi
hoạt động về một tương lai tốt đẹp, tính tích cực xã hội ngày càng cao.
Qua điều tra cho thấy phần đông TN trường đã ý thức được những phẩm
chất cần có ở người lao động Việt Nam hiện nay. Đó là giỏi chuyên môn
(92%), thái độ trung thực, thẳng thắn (100%); có lương tâm và trách nhiệm
(84,6%); thông minh, tháo vát (88%); tiết kiệm và quý trọng thời gian (61%);
có chí tiến thủ, khiêm tốn (79,2%); quan hệ xã hội rộng (43%), bản lĩnh chính
trị vững vàng, tin vào Đảng và CNXH (57,3%); năng động, thích ứng nhanh
với cơ chế mới (90,5%).
Phần lớn TN có những nhận thức đúng trong tình bạn và tình yêu. Qua
khảo sát 100 TN trường cho thấy có 82,7% TN cho rằng tình bạn trong sáng,
chân chính nhất thiết phải được xây dựng trên cơ sở hiểu biết, cảm thông,
giúp đỡ nhau một cách vô tư không vụ lợi. 92% TN không đồng ý với quan
niệm yêu hiện đại là sống thoải mái không cần hôn nhân. 75% không đồng
tình với việc sống thử mà một số TN đang vấp phải.

53
Trong cuộc sống, TN Trường đã biết quan tâm đến cộng đồng, tích cực
và tự giác tham gia các hoạt động xã hội. Trong 5 năm (2008-2013), Trường
có hơn 4.000 lượt TN tình nguyện tham gia hiến máu nhân đạo, hơn 7.000
lượt TN tham gia chiến dịch tình nguyện “Mùa hè xanh” và phong trào “Ngày
thứ 7 tình nguyện”, vận động quyên góp được hơn 120 triệu VNĐ và quần áo,
sách vở, lương thực ủng hộ đồng bào bị lũ lụt...[25, tr.4-5] Điều này thể hiện
TN Trường đang hướng tới xây dựng cho bản thân một lối sống cao đẹp, tiến
bộ.
* Nguyên nhân: Các biểu hiện tích cực trong đạo đức, lối sống của TN
trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics thời gian qua là kết quả của những
nguyên nhân sau:
Một là, do gia đình, nhà trường và xã hội đã bước đầu ý thức được vai
trò và trách nhiệm của mình trong việc giáo dục con cái, học trò và công dân
của mình.
Hai là, Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics là một trường công lập
có chất lượng và tốc độ phát triển nhanh. Với tinh thần “Dám nghĩ-Dám làm”
và phương châm “Học thật, thi thật để làm việc thật”; với mô hình đào tạo thí
điểm 2+1 (2 năm thực tế ở doanh nghiệp + 1 năm học lý thuyết) đã ngày càng
thu hút TN về học tập, tạo cho TN môi trường văn hoá, xã hội thuận lợi cho
việc rèn luyện phát triển nhân cách.
Ba là, do sự quan tâm, đầu tư của cấp uỷ Đảng, Ban Giám hiệu, Đoàn thể
đối với đời sống và tâm tư nguyện vọng của TN nên TN có điều kiện tốt để
học tập, rèn luyện và phát triển.
Bốn là, Thành phố Hải Phòng là một thành phố công nghiệp hiện đại với
nền kinh tế thị trường phát triển mạnh. Để có việc làm với thu nhập ổn định
trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như ở Thành phố buộc TN phải
không ngừng nỗ lực học tập, ra sức rèn luyện và vươn lên trong cuộc sống.

54
Năm là, do sự tự giáo dục và tự rèn luyện của bản thân TN ít nhiều có sự
chuyển biến tích cực, một bộ phận TN đã có ý thức tự giác cao và biết nghiêm
khắc với bản thân mình.
* Hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm kể trên, TN Trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics còn những hạn chế trong đạo đức, lối sống. Đó là, một bộ
phận TN Trường có động cơ, thái độ học tập không đúng, chưa có ý thức tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức. Không ít TN có những biểu hiện lệch lạc trong
việc lựa chọn ngành nghề theo học. Một số TN cho rằng việc lựa chọn trường
và ngành học là do cha mẹ, người thân quyết định. Một số khác lại chọn
những ngành mà sau khi ra trường dễ có việc làm, thu nhập cao. Một số khác
lại chọn những ngành theo trào lưu, để học cho vui. Trả lời câu hỏi “Mục đích
học tập của bạn là gì?” có 70,3% TN Trường lựa chọn đáp án là để tìm kiếm
việc làm có thu nhập cao trong khi chỉ có 39,7% cho rằng để cống hiến nhiều
hơn cho xã hội. Việc TN quan tâm đến lợi ích cá nhân mình không phải là sai.
Nhưng điều đáng nói ở đây là các em chưa ý thức được mối quan hệ giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này trái với
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học để làm người, để phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân.
Khi điều tra về những hạn chế của TN trong học tập, tác giả nhận thấy
nổi lên một số vấn đề sau:
Thứ nhất, một bộ phận không nhỏ TN trường có tinh thần thái độ học tập
chưa đúng. Rõ nét nhất là hiện tượng đi muộn về sớm, trốn tiết hoặc nghỉ
không có lý do trở nên khá phổ biến trong TN. Thời gian dành cho việc tự học
và tự nghiên cứu còn quá thấp. Như vậy, bên cạnh số đông TN ra sức nỗ lực
học tập vì tiền đồ của bản thân, của dân tộc thì vẫn có một bộ phận không nhỏ
TN học tập có tính chất đối phó, lười nhác, không tận dụng thời gian để học
hành, trau dồi tri thức.

55
Thứ hai, một điều đáng quan tâm là số TN có những biểu hiện thiếu tôn
trọng thầy cô giáo có chiều hướng gia tăng. Một bộ phận TN cho rằng quan
hệ thầy-trò chẳng qua chỉ là quá trình truyền đạt và tiếp nhận kiến thức trên
lớp.
Thứ ba, còn một bộ phận TN chưa có ý chí phấn đấu, thờ ơ với các vấn
đề chính trị và, các hoạt động xã hội. Thực tế cho thấy vẫn còn nhiều TN
Trường sống khép mình, xa rời tập thể, ngại tham gia các hoạt động xã hội,
đoàn thể, thờ ơ với các diễn biến chính trị, xã hội của đất nước, lý tưởng cách
mạng mờ nhạt. Số TN này trong quan hệ với bạn bè và những người xung
quanh thường theo xu hướng bàng quan, không quan tâm, không hòa nhập với
tập thể, trốn tránh trách nhiệm chung, chỉ tham gia những hoạt động gì có lợi
cho bản thân mình. Theo kết quả điều tra của Đoàn thanh niên tháng 6 năm
2013, có 1.004/3450 TN không tham gia các hoạt động do Đoàn, Hội tổ chức,
chiếm tỷ lệ 29,1%. Tìm hiểu lý do TN không tham gia hoạt động Đoàn, Hội
thì 80,5% tỷ lệ TN được điều tra nghiêng về các lý do là bận lo học hoặc lo
làm thêm kiếm tiền không có thời gian, không thích tham gia…Số TN không
tham gia phong trào tình nguyện chiếm một tỷ lệ khá cao, đến 49,4%. Điều
này cho thấy một bộ phận đáng kể TN chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa cao đẹp
của phong trào tình nguyện. [25, 4-5]
Một bộ phận TN hầu như không quan tâm đến việc sinh hoạt chính trị.
Họ lơ là với các nghị quyết, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước, thờ ơ với công cuộc đổi mới của đất nước, mơ hồ về lý tưởng cách
mạng. Sự mơ hồ về lý tưởng cách mạng còn thể hiện ở tỷ lệ 32,9% TN không
có nguyện vọng phấn đấu vào Đảng. Chính sự nhận thức nông cạn, hời hợt
đối với những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước cũng như
thế giới làm cho TN dễ hoang mang dao động trước các luận điểm xuyên tạc
của kẻ thù, không xác định đúng lý tưởng cần phấn đấu. Sự lệch lạc này sẽ

56
làm cho một bộ phận TN trở nên thụ động, không phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của tuổi trẻ cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, ít
nhiều gây ảnh hưởng không tốt tới sự phấn đấu của đội ngũ TN.
Thứ tư, không ít TN chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, xa rời đạo
đức truyền thống dân tộc, tiếp thu lối sống, văn hóa phương Tây không chọn
lọc, có hành vi vi phạm pháp luật sa vào các tệ nạn xã hội. Một bộ phận TN
có biểu hiện suy giảm về đạo đức, lệch lạc về lối sống. Tình trạng TN ăn chơi
đua đòi chạy theo lối sống thực dụng, coi trọng giá trị vật chất, xem nhẹ giá
trị tinh thần, bị đồng tiền tha hóa ngày càng rõ.
Bên cạnh đó còn có một bộ phận TN thiếu ý thức trong việc chấp hành
luật lệ giao thông. Không ít TN có xu hướng xa rời những giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Các em tiếp nhận những sản phẩm văn hóa
không lành mạnh được du nhập vào bên ngoài, nhất là sách báo, phim ảnh
khiêu dâm, đồi trụy.
Trong tình bạn, tình yêu vẫn còn một bộ phận không nhỏ TN có quan
niệm chưa đúng, có xu hướng thực dụng, phóng túng và thiếu trách nhiệm với
nhau. Do Trường Cao đẳng công nghệ Viettronics chưa có ký túc xá nên
100% TN là ngoại trú, nhiều TN thuê nhà trọ sống chung với người yêu như
vợ chồng. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tỷ lệ nạo
phá thai tăng cao ở nữ TN. Điều này gióng lên hồi chuông báo động về lối
sống buông thả, không lành mạnh của một bộ phận TN.
Ngoài ra, tệ nạn mê tín dị đoan cũng đang xâm nhập vào giảng đường.
Khảo sát 100 TN Trường cho thấy 42,5% TN thừa nhận có tham gia bói toán.
Nhiều TN có xu hướng xa rời các loại hình nghệ thuật truyền thống hoặc loại
hình có giá trị giáo dục lịch sử, truyền thống.

57
* Nguyên nhân: Sự xuống cấp trong đạo đức, lối sống của một bộ phận
TN Trường là từ nhiều nguyên nhân, khái quát lại có nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân khách quan: Tàn dư của đạo đức, lối sống cũ như chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ vụ lợi mà thực dân, đế quốc đã du nhập vào Thành phố
trong thời gian chiếm đóng nay có dịp hồi phục phát triển trở lại trong nền
kinh tế thị trường; Thành phố Hải Phòng là thành phố lớn đồng thời là trọng
điểm hàng đầu của chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà các thế lực thù địch
đang ra sức thực hiện ở Việt Nam. Chúng luôn có ý đồ, âm mưu tác động lôi
kéo TN, SV-đội ngũ trí thức tương lai; Những tác động tiêu cực từ mặt trái
của kinh tế thị trườngvà toàn cầu hoá làm xuất hiện ngày càng nhiều tội pạm
và những tệ nạn xã hội, hiện tượng băng hoại về đạo đức làm đảo lộn các
thang giá trị xã hội; Điều kiện vật chất phục vụ cho nhu cầu ăn, ở, học tập, vui
chơi giải trí cho TN Trường còn thiếu, do Trường chưa có ký túc xá nên việc
SV ở trọ khiến các em rất dễ bị lôi kéo, tiếp xúc với tệ nạn xã hội và gây khó
khăn cho công tác quản lý SV của Trường...
Nguyên nhân chủ quan: Do đặc thù về tâm lứa tuổi, tâm lý, sinh lý, năng
lực...đang trong quá trình hoàn thiện nên TN còn bồng bột, nông nổi, bản lĩnh
không vững vàng. Do sự thiếu chủ động, tự giác trong tu dưỡng, rèn luyện
nên một bộ phận TN không biết kiềm chế trước những cám dỗ của cuộc sống.
Tóm lại, tình hình diễn biến về mặt đạo đức, lối sống của TN Trường
Cao đẳng Công nghệ Viettronics là sự đan xen giữa hai mặt tích cực và tiêu
cực. Trong đó mặt tích cực chiếm ưu thế đáng được trân trọng và phát huy.
Tuy nhiên, những biểu hiện tiêu cực có trong TN là nguy cơ tiềm ẩn từng
bước làm suy thoái nhân cách một bộ phận TN cần được nghiên cứu nhận
diện đầy đủ để kịp thời ngăn ngừa, uốn nắn, khắc phục.

58
2.2.2. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên ở nhà
trường hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
2.2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân
* Ưu điểm:
Một là, Nhà trường luôn triển khai nghiêm túc, đầy đủ các đợt sinh hoạt
chính trị, các phong trào thi đua học tập và rèn luyện trong SV theo kế hoạch
của Bộ Giáo dục và đào tạo, của Thành phố và kế hoạch riêng của Nhà
trường. Ban giám hiệu và Cấp uỷ chi bộ đã chỉ đạo các phòng ban chức năng,
tổ chức Đoàn TN và đội ngũ giáo viên quan tâm, làm tốt công tác giáo dục
đạo đức lối sống cho TN. Nhà trường thường xuyên tổ chức các buỏi toạ đàm,
đối thoại giữa lãnh đạo Trường với SV để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của
SV; hàng năm Trường đều tiến hành khảo sát lấy ý kiến của SV về chất lượng
giảng dạy, thái độ, tác phong làm việc của đội ngũ giáo viên để qua đó kịp
thời điều chỉnh, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên, SV.
Hai là, Đoàn Thanh niên đã phát huy tốt vai trò chủ động, tích cực của
TN, đặc biệt là đội TN tình nguyện luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ
của Thành phố, Nhà trường giao phó. Các phong trào của Đoàn TN được tổ
chức sôi nổi, hình thức phong phú, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của TN
và điều kiện của nhà trường nên đã tạo được môi trường rèn luyện lành mạnh,
được đoàn viên, TN nhiệt tình hưởng ứng và tham gia. Qua các phong trào,
Đoàn TN đã phát hiện và bồi dưỡng nhiều nhân tố xuất sắc, nhiều TN điển
hình để giới thiệu với chi bộ trong công tác phát triển đảng viên.
Ba là, Chi bộ nhà trường luôn quan tâm làm tốt công tác phát triển đảng
trong SV, tạo được niềm tin và động lực cho SV phấn đấu trong học tập.
Bốn là, đội ngũ CB,GV, NV nhà trường được quán triệt tinh thần “rèn
thầy trước-luyện trò sau” nên mỗi người luôn có ý thức tự học tập nâng cao

59
trình độ, giữ gìn lối sống trong sách, không tiêu cực; gần gũi với SV và là tấm
gương sáng để SV noi theo.
Năm là, Phòng Đào tạo và công tác SV của trường luôn phát huy tốt vai
trò quản lý về mặt hành chính đối với SV. Phòng luôn chủ động tham mưu, đề
xuất các biện pháp để nâng cao chất lượng quản lý SV. Do đó, ý thức nề nếp
của SV nhà trường ngày càng ổn định và tiến bộ.
Sáu là, các Khoa luôn có sự quan tâm, giải đáp kịp thời mọi thắc mắc
chính đáng của SV; đồng thời có sự liên hệ thường xuyên, kịp thời với gia
đình SV ngay khi SV có biểu hiện lơ là trong học tập.
Bảy là, Hệ thống website và trung tâm mạng của trường luôn mở 24/24
để phụ huynh có thể truy cập để tra cứu các thông tin, tình hình của SV về kết
quả học tập, mức học phí, thời gian thực hành, kế hoạch ngoại khóa...
* Nguyên nhân:
Thứ nhất, Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics là một trường công
lập mới xây dựng và phát triển so với các trường Đại học, Cao đẳng trên địa
bàn thành phố Hải Phòng nên Trường luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ về
nhiều mặt của Bộ Công thương và Bộ GD&ĐT, Tổng Công ty Cổ phần điện
tử & tin học Việt Nam, các cơ quan tổ chức kinh tế chính trị-xã hội của Thành
phố Hải Phòng, Quận Hải An.
Thứ hai, do phương châm của Trường là phấn đấu trở thành một trường
Đạ học hàng đầu trong cả nước về đào tạo công nghệ thông tin và thực hành
điện tử kỹ thuật nên Ban giám hiệu, các phòng ban, Khoa, đội ngũ giáo viên
và cán bộ, nhân viên Trường đều không ngừng tự nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đoàn kết khắc phục khó khăn và luôn sáng tạo, đổi mới trong
công tác giáo dục.
Thứ ba, do tác động của nền kinh tế thị trường với yêu cầu ngày càng
cao về chất lượng lao động và sự cạnh tranh, đào thải khốc liệt nên bản thân

60
các TN đã tự ý thức về việc học tập, rèn luyện của mình; đa số TN đã có lập
trường vững vàng trước những cám dỗ của đời sống xã hội.
2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
* Hạn chế:
Một là, công tác tuyên truyền giáo dục về chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống tới TN chưa được thực hiện thường xuyên, chỉ tập trung vào những ngày
lễ lớn hoặc các đợt kỉ niệm của thành phố, nhà trường. Do vậy chưa có sự tác
động sâu sắc và TN chưa có ý thức tự giác tìm hiểu và tích cực trong rèn
luyện.
Hai là, thời gian qua, do công tác hoàn thiện nhân sự bộ máy cấp ủy
Đảng và Ban chấp hành Đoàn TN nên việc chỉ đạo của Cấp ủy, của Đoàn
thanh niên có lúc bị gián đoạn và thiếu tính kế thừa, ảnh hưởng đến chất
lượng của nhiều mặt công tác trong đó có công tác giáo dục đạo đức, lối sống.
Ba là, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN chưa có chiều sâu,
mới chỉ tập trung ở các hoạt động bề nổi mang tính chất phong trào. Nhà
trường chưa xây dựng được hệ thống các văn bản pháp quy quy định về công
tác HS,SV và việc lưu trữ văn bản còn nhiều bất cập dẫn đến việc áp dụng
còn bị động, thiếu minh chứng khoa học.
Bốn là, công tác tư vấn hỗ trợ SV về việc làm, nhà trọ còn hạn chế. Việc
kiểm soát đời sống của SV ở các khu nhà trọ còn lỏng, chưa nắm bắt được
tình hình đời sống của SV ngoại trú; việc nắm bắt tâm tư, diễn biễn tư tưởng
của SV còn chậm và thiếu chính xác.
Năm là, trong giao tiếp với SV, một số ít thầy cô giáo và cán bộ quản lý
còn có biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, chưa tạo điều kiện tối đa cho
SV trong quá trình liên hệ công tác và học tập dẫn đến một bộ phận SV ngại
lên các phòng, Khoa để gặp thầy cô trao đổi, SV tự ti và không dám phản ánh

61
ý kiến với Trường, do đó Trường không kịp thời giải quyết và giúp đõ SV
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong học tập và đời sống.
* Nguyên nhân:
Thứ nhất, do các điều kiện vật chất phục vụ cho nhu cầu ăn, ở, học tập,
vui chơi giải trí cho TN của Trường còn thiếu. Đặc biệt, tuy thành lập 10 năm
nhưng trường chưa có địa điểm để xây dựng ký túc xá cho SV nên các em
phải ở ngoại trú. Đây là nơi SV dễ tụ tập, tiếp xúc với nhiều thành phần phức
tạp, tiếp xúc với các tệ nạn xã hội và nhiều cám dỗ của cuộc sống. Điều này
gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý SV của trường.
Thứ hai, do trường thuộc Tổng Công ty Cổ phần điện tử và tin học VN,
hoạt động theo cơ chế tự thu-tự chi nên việc dao động trong công tác tuyển
sinh hàng năm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn kinh phí hoạt động. Do vậy,
việc tổ chức hoạt động phong trào và các công tác khác gặp nhiều khó khăn
về tài chính.
Thứ ba, do đội ngũ cán bộ quản lý SV của Trường còn thiếu và yếu về
kinh nghiệm. Mặt khác, nhân sự phòng Đào tạo và công tác HSSV thường
xuyên luân chuyển, thay đổi nên công tác quản lý SV gặp nhiều khó khăn,
thiếu tính kế thừa về mặt phương pháp.
Thứ tư, tuy thành lập được 10 năm nhưng đến nay Trường chưa thành
lập được Hội sinh viên nên công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV gặp
nhiều hạn chế.
2.2.3. Tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho thanh niên ở nhà trường hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân.
* Ưu điểm
2.2.3.1. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN

62
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống
cho TN và vai trò quan trọng của công tác chính trị trong quản lý giáo dục SV
ở các trường Đại học, Cao đẳng; Chi bộ, Ban Giám hiệu trường đã chỉ đạo các
phòng ban chức năng, các tổ chức đoàn thể tập trung làm tốt công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống cho TN.
Trong thời gian 5 năm (2008-2013), Chi ủy, Ban Giám hiệu trường và
Đoàn thanh niên đã ban hành nhiều văn bản như công văn số 16 CV/ VTC-
CU ngày 08/5/2008 của Chi ủy chi bộ về việc tăng cường công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng đối với CBGV, HSSV nhà trường theo
tư tưởng Hồ Chí Minh; Công văn số 82 CV/VTC-CU ngày 25/01/2011 của
Chi ủy chi bộ về việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
thực hành tiết kiệm chống lãng phí; Thông báo số 43 TB/VTC-ĐTN ngày
15/12/2008 của Đoàn Thanh niên về việc phát động Cuộc thi “HSSV viết nhật
ký làm theo lời Bác”; Thông báo số 113 TB/VTC-ĐT&CTHSSV Ngày
05/01/2013 về việc tăng cường quản lý nề nếp SV ngoại trú; Kế hoạch tổ
chức các Hội thi tìm hiểu kiến thức Chủ nghĩa Mác-Lênin hằng năm…vv...
Nhà trường đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN tập trung vào những nội dung sau:
Thứ nhất, Giáo dục cho TN các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền
thống cách mạng của Đảng ta và các phẩm chất đạo đức cách mạng.
Thực hiện Kế hoạch của Bộ Giáo dục & đào tạo, hàng năm, Nhà trường
triển khai “Tuần sinh hoạt công dân” đầu khóa và cuối khóa tới 100% SV để
kịp thời phổ biến, hướng dẫn SV thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nắm được kế hoạch đào tạo và
nâng cao ý thức chấp hành nội quy, quy định của trường.
Trong việc triển khai thực hiện các kế hoạch, chương trình hành động
của Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Thành Đoàn Hải

63
Phòng, Đoàn Thanh niên trường Cao đẳng Công nghệ Viettrronics đã có
những sáng tạo trong hình thức giáo dục đạo đức, lối sống cho TN. Thông qua
các phong trào “Học vì ngày mai lập thân lập nghiệp”, “Tuần học tốt”, “Học
nghiêm túc, thi trung thực... đã giáo dục cho TN động cơ học tập đúng đắn,
tính trung thực, tự giác, sáng tạo trong học tập và nghiên cứu khoa học, xây
dựng tinh thần đoàn kết tương trợ trong TN. Đoàn thanh niên trường thường
xuyên tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết Đại hội Đoàn các
cấp, tuyên tuyền phổ biến Luật thanh niên, tổ chức lớp học 6 bài học Lý luận
chính trị dành cho đoàn viên, tuyên truyền phổ biến nội dung Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6 về phát triển khoa học và công nghệ; Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về việc tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH tới
100% ĐVTN. Hàng năm, công tác tuyên truyền, giáo dục được Đoàn trường
triển khai thực hiện gắn với việc tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày
lễ lớn và các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, thành phố: ngày Quốc
kháng 2/9, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày truyền thống học sinh sinh
viên 9/1, ngày thành lập Đoàn 26/3, ngày sinh nhật Bác 19/5, ngày giải phóng
Hải Phòng 13/5…Đoàn trường đã tổ chức được 80 đợt tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho hơn 10.000 lượt TN.
Hưởng ứng cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, Chi bộ và Trường đã tổ chức nhiều buổi học tập chuyên đề nội
dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và phát động tuần học tập, sinh hoạt
chính trị tại các Khoa, các lớp. Qua các đợt học tập sinh hoạt chính trị, SV
được tìm hiểu về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách
mạng và lịch sử phát triển vẻ vang của Đảng, cuộc đời và sự nghiệp vĩ đại của
Bác Hồ. Cuối các đợt học tập, SV viết bài thu hoạch thể hiện nhận thức, tình

64
cảm và thái độ của mình đối với quê hương đất nước, qua đó giúp SV nâng
cao ý thức trách nhiệm với chính bản thân mình, với gia đình và xã hội.
Trường đã thực hiện cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các phòng, ban,
Khoa, Đoàn Thanh niên với đội ngũ quản sinh, các giáo viên chủ nhiệm, ban
cán sự các lớp và gia đình SV trong việc quản lý, giám sát, đôn đốc, nhắc nhở
SV thực hiện quy định của nhà trường trong học tập và rèn luyện; nắm bắt kịp
thời diễn biến bất thường về tình cảm, tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của SV,
đặc biệt là những SV cá biệt để cùng bàn bạc đề xuất các biện pháp xử lý kịp
thời.
Nhận thức được vị trí của các môn lý luận chính trị cũng như vai trò của
đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin, Đường lối cách
mạng của Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường luôn chú trọng xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cả về chuyên môn nghiệp vụ cũng như
phẩm chất, lối sống, lương tâm của nhà giáo. Hàng năm, Trường mời các
chuyên gia về tập huấn hoặc cử các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy các
môn lý luận chính trị tham gia các đợt tập huấn của Bộ Giáo dục & đào tạo.
Đây là yêu cầu và cũng là cơ hội tốt để các giáo viên có môi trường giao lưu
học hỏi, nâng cao trình độ và kiến thức chuyên môn.
Triển khai cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức,
tự học và sáng tạo”, TN Trường không chỉ được tham gia những tiết học sinh
động được minh họa bằng hình ảnh và phim tư liệu lịch sử mà còn được nhà
trường, khoa tổ chức đi tham quan thực tế. Hàng năm, vào các ngày lễ lớn của
đất nước và địa phương, nhà trường luôn tổ chức các hoạt động tuyên truyền,
các chương trình kỉ niệm, các cuộc thi tìm hiểu dưới hình thức sân khấu hóa,
liên hoan văn nghệ chào mừng... qua đó đã khơi dậy cho TN tình yêu quê
hương đất nước, lòng tự hào dân tộc và khát vọng sống có ích cho cộng đồng,
cho đất nước. cũng góp phần to lớn trong việc giáo dục TN lòng yêu nước,

65
tinh thần tự hào dân tộc, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào đường lối, chủ trương của Đảng.
Thứ hai, Giáo dục cho TN sống có hoài bão, nghị lực và có niềm tin đối
với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Thực hiện Kế hoạch của Trường về việc tăng cường giáo dục đạo đức,
lối sống mới cho TN; Đoàn thanh niên thường xuyên tổ chức các Diễn đàn,
các buổi tọa đàm với các chủ đề liên quan đến đời sống thanh niên, phù hợp
với sở thích và nguyện vọng của TN. Đoàn Thanh niên trường đã triển khai
chương trình “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, phát động cuộc thi viết
“Ước mơ của tôi”, xây dựng Qũy học bổng VTC và tích cực vận động xã hội
hóa, thu hút các nguồn tài trợ để hỗ trợ những SV thuộc các hộ nghèo, gia
đình chính sách, SV có hoàn cảnh khó khăn.
Làm tốt công tác SV, Trường luôn có cơ chế chính sách động viên khen
thưởng kịp thời và tặng nhiều suất học bổng cho những tấm gương SV tiêu
biểu đạt thành tích cao trong học tập, rèn luyện. Trung bình hàng năm, nhà
trường dành 500 triệu VNĐ để hỗ trợ học bổng cho SV đạt loại xuất sắc, giỏi
và khá trong toàn trường. Ngoài ra, Trường còn hỗ trợ SV với hình thức tặng
các khóa học tin học, ngoại ngữ, kĩ năng mềm...và tổ chức cho SV tham quan
thực tế, học tập kinh nghiệm tại những công ty lớn uy tín trong và ngoài thành
phố. Đối với SV năm cuối, Trường có nhiều hoạt động giúp tư vấn, định
hướng nghề nghiệp và trang bị cho SV các kĩ năng cần thiết như kĩ năng
chuẩn bị hồ sơ và trả lời phỏng vấn xin việc, kĩ năng làm việc nhóm và tổ
chức sự kiện...Trong 5 năm (2008-2013), Trường đã tổ chức 10 chương trình
“Phỏng vấn thử, thành công thật” thu hút sự tham gia tuyển dụng của nhiều
tập đoàn, công ty lớn trên địa bàn thành phố. Chương trình thể hiện sự sáng
tạo của nhà trường và được SV ủng hộ. Trung bình tại mỗi chương trình có từ

66
50-100 SV đáp ứng được nhu cầu công việc do doanh nghiệp đề ra và được kí
cam kết tuyển dụng SV ngay sau khi SV ra trường.
Chi bộ Trường luôn chú trọng công tác phát triển đảng trong SV. Hàng
quý, Trường đều giới thiệu những SV xuất sắc tham gia các lớp học nhận thức
về Đảng do Đảng bộ Quận Hải An tổ chức. Sau khi tham gia các lớp học lý
luận chính trị, SV được giác ngộ về nhận thức, tư tưởng và được thử thách,
rèn luyện trong môi trường học tập, hoạt động thực tiễn. Nhà trường luôn tạo
điều kiện thuận lợi để SV được học tập tốt, được phát huy khả năng, sở
trường, được thực hiện hoài bão, ước mơ của mình. Trong 5 năm (2008-
2013), chi bộ trường đã giới thiệu 185 SV là đoàn viên ưu tú tham gia các lớp
học nhận thức về Đảng và tổ chức kết nạp 25 SV vào Đảng Cộng sản Việt
Nam. Sau khi được kết nạp Đảng, lực lượng đảng viên là TN, SV đã nhanh
chóng phát huy được vai trò là lực lượng xung kích nòng cốt của mình, tạo
được uy tín trong SV và luôn đi đầu trong mọi hoạt động. Đây chính là những
tấm gương gần gũi, thiết thực để TN trong trường học tập, phấn đấu noi theo.
Những cơ chế, chính sách đó thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Nhà
trường đối với SV và tạo cho SV sự phấn khởi, niềm tin vào đường lối lãnh
đạo của Đảng, định hướng và tương lai phát triển của nhà trường; là động lực
để SV tiếp tục phấn đấu thực hiện ước mơ hoài bão của mình.
Thứ ba, Giáo dục cho TN lối sống giản dị, xây dựng tình bạn, tình yêu
trong sáng.
Nắm bắt nhu cầu của SV muốn được giao lưu, vui chơi giải trí để mở
rộng hiểu biết và phát triển các quan hệ xã hội; nhằm nâng cao đời sống tinh
thần của SV, Trường thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn
nghệ-thể thao với các đơn vị kết nghĩa như Lữ đoàn thông tin hải quân 602,
Phòng cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an Hải Phòng và tham gia các
chương trình trong khối trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn thành phố

67
dưới các hình thức như mời các ban nhạc, nhóm nhạc SV của các trường Đại
học, Cao đẳng tới biểu diễn giao lưu tại trường; tổ chức hoặc tham gia các
Hội thảo, Diễn đàn, các chương trình phối hợp với các trường, Hội trại thanh
niên, Các cuộc thi trí tuệ và thi tìm hiểu kiến thức với SV trường khác.
Hàng năm, Trường phối hợp với Hội Kế hoạch hóa gia đình Thành phố,
Sở y tế Thành phố, Trung tâm chăm sóc sức khỏe vị thành niên Thành phố,
Thành đoàn Hải Phòng...tổ chức các chương trình tuyên truyền phổ biến kiến
thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản và giới tính, các Diễn đàn với các nội
dung liên quan đến TN như vấn đề tình bạn-tình yêu, vấn đề sống thử trước
hôn nhân, vấn đề việc làm sau khi ra trường, tri thức-hành trang cần thiết cho
TN. Các Câu lạc bộ của Đoàn thanh niên như Câu lạc bộ Bí thư chi đoàn, Câu
lạc bộ văn nghệ-thể thao, Câu lạc bộ tiếng Anh...có nhiều hoạt động ngoại
khóa, nhiều chương trình giao lưu tập thể thu hút đông đảo SV tham gia. Đây
là môi trường để SV rèn luyện sự tự tin của mình, giúp gắn kết SV trên cơ sở
xây dựng lối sống giản dị, lành mạnh, tình bạn trong sáng và hướng tới xây
dựng những tình yêu SV đẹp, bền vững.
Ban phát thanh của Đoàn Thanh niên ngoài việc cung cấp những thông
tin hoạt động của nhà trường và văn nghệ giải trí tới SV, còn làm tốt vai trò là
nhịp cầu nối giữa SV các lớp, các Khoa trong trường. Chương trình “Qùa tặng
âm nhạc” phát định kỳ thứ 6 hàng tuần luôn là chương trình được SV yêu
thích và chờ đón, góp phần giáo dục cho SV lối sống lành mạnh, với những
tình bạn trong sáng vô tư.
2.2.3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN.
Thứ nhất, tăng cường sự kết hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội
trong việc giáo dục SV, gắn giáo dục trong nhà trường với giáo dục trong
thực tiễn.

68
Trong công tác quản lý SV, nhà trường tạo cho mỗi SV một địa chỉ
gmail theo tên miền của trường để thuận tiện trong việc phổ biến thông tin và
cập nhật ý kiến phản hồi của SV về các chương trình, chính sách, chế độ của
nhà trường. Đồng thời trường có hệ thống liên kết quản lý SV thông qua cổng
thông tin đào tạo với account riêng của từng SV, nhờ đó phụ huynh SV có thể
truy cập để biết thông tin, tình hình hoạt động của nhà trường, nắm bắt thông
tin kết quả học tập, rèn luyện của SV. Khi SV có biểu hiện lơ là trong học tập,
thường xuyên nghỉ học không lí do, vi phạm nội quy quy định của trường bị
xử lý kỷ luật...thì nhà trường kịp thời liên hệ thông báo với gia đình của SV
để tìm hiểu nguyên nhân, qua đó phối hợp với gia đình SV cùng có hướng
khắc phục xử lý giúp SV tiếp tục học tập tốt hơn.
Thứ hai, phát huy ý thức tự rèn luyện của SV đi đôi với việc nêu gương;
xây đi đôi với chống
Trường đã thành lập Đội cờ đỏ giúp việc cho Phòng Đào tạo & Công tác
SV trong việc theo dõi nề nếp chuyên cần của SV. Các CLB đội nhóm sở
thích, đội phát thanh của Trường, đội tình nguyện đều do các SV giữ vai trò
chủ đạo. Qua đây đã phát huy được sự chủ động, sáng tạo của SV và tăng sức
thu hút SV toàn trường tham gia vào các phong trào hoạt động chung.
Việc phát huy ý thức tự giác của SV còn thể hiện ở việc các SV tự đánh
giá điểm rèn luyện của bản thân, sau đó tập thể lớp nhận xét kết quả tự đánh
giá của SV trước khi đưa ra đánh giá, bình xét tại Hội đồng thi đua khen
thưởng-kỉ luật sinh viên của Khoa và Trường. Kết thúc mỗi kì học, Trường
luôn tổ chức các Chương trình biểu dương khen thưởng SV đạt thành tích cao
trong học tập và rèn luyện, là tấm gương tốt để nhân rộng trong toàn trường.
Với những SV vi phạm kỉ luật, Trường luôn xử lý nghiêm minh và công
bằng và ra Thông báo chuyển xuống các lớp, các Khoa, gửi về gia đình SV và
địa phương nơi cư trú để có tác dụng răn đe, phối hợp cùng giải quyết. Với

69
những hiện tượng tiêu cực như đánh bạc, trộm cắp, bán hàng đa cấp, tham gia
các tổ chức không chính thống...Trường luôn kịp thời phát hiện và tuyên
truyền rộng rãi trên hệ thống thông tin của Trường như website, bảng tin hoạt
động, loa phát thanh để SV toàn trường biết và đề cao cảnh giác.
Thứ ba, tập hợp TN trong tổ chức Đoàn để phát huy vai trò tích cực,
sáng tạo của TN.
Tuy Trường chưa có Hội Sinh viên nhưng trong những năm qua, tổ chức
Đoàn Thanh niên đã phát huy vai trò là cánh tay phải đắc lực của Đảng, là nơi
tập hợp đoàn kết TN cùng học tập và rèn luyện. Mỗi nhiệm kỳ, Trường
thường lựa chọn và giới thiệu vào Ban chấp hành 60% ủy viên là SV. Các
chương trình, kế hoạch hoạt động của Đoàn thường giao cho SV xây dựng các
ý tưởng và chủ động triển khai để thu hút đông đảo SV tham gia hưởng ứng.
Thông qua các hoạt động tình nguyện, các phong trào văn nghệ-thể thao, SV
đã rèn luyện được sự tự tin trong giao tiếp, khả năng thuyết trình, khả năng
làm việc nhóm và làm việc độc lập, khả năng thu hút khán giả, khả năng tổ
chức sự kiện. Từ những TN e rè, nhút nhát, thông qua môi trường hoạt động
Đoàn, các em đã trở thành những TN năng động, tràn đầy nhiệt huyết và hoài
bão.
* Hạn chế và nguyên nhân
- Hạn chế: Thực tế quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng công nghệ Viettrronics đã
bộc lộ những hạn chế nhất định. Đó là:
Thứ nhất, công tác thanh niên chưa có chiều sâu, chỉ mạnh về các hoạt
động bề nổi; công tác bồi dưỡng cán bộ nguồn còn chậm và mang tính chủ
quan.
Thứ hai, đội ngũ cán bộ đoàn còn thiếu và yếu về kĩ năng nghiệp vụ
nên chưa triển khai hiệu quả các chương trình hoạt động

70
Thứ ba, công tác giáo dục, tuyên truyền lý tưởng sống, tư tưởng chính
trị cho đoàn viên còn nặng về hình thức
Thứ tư, chưa có sự nhất quán trong mối quan hệ cấp ủy Đảng chỉ đạo-
Ban giám hiệu quản lý-Đoàn thanh niên thực hiện nên còn tình trạng trồng
chéo
Thứ năm,việc nắm bắt diễn biến tư tưởng và dư luận xã hội trong SV
chưa kịp thời
- Nguyên nhân
Thứ nhất, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường
cũng như của xu thế toàn cầu hóa, và đặc biệt, do không nghiêm túc trong rèn
luyện, phấn đấu nên một bộ phận thanh, thiếu niên ở nước ta nói chung cũng
như SV trường Cao đẳng công nghệ Viettronics nói riêng đang có những biểu
hiện tiêu cực đáng lo ngại như sống không có lý tưởng, không có bản lĩnh và
lập trường nên dễ bị kẻ xấu và cái xấu cám dỗ, lôi kéo chạy theo lối sống
buông thả, thực dụng, cơ hội, coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị tinh thần.
Một bộ phận TN còn chưa tự giác, chưa chủ động trong học tập và tu dưỡng
đạo đức.
Thứ hai, do hạn chế về điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường nên
công tác thanh niên gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là công tác tuyên truyền giáo
dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống và công tác tổ chức hoạt động phong
trào. Hiện nay, nhà trường chưa có ký túc xá dành cho SV ngoại thành nên đa
số các em phải thuê nhà trọ. Việc nhiều SV sống tập trung ở những khu nhà
trọ dễ dẫn đến hiện tượng tụ tập chơi cờ bạc, sống thử như vợ chồng, nhậu
nhẹt và sa vào các tệ nạn xã hội khác, làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
học tập, sức khoẻ và đạo đức lối sống của các em. Công tác theo dõi quản lý
nề nếp, an ninh trật tự đối với SV ở trọ gặp nhiều bất cập. Mặt khác, những
điều kiện phục vụ cho việc tổ chức hoạt động phong trào và học tập như

71
phòng thí nghiệm, hội trường, sân khấu, sân thể thao ngoài trời, hệ thống âm
thanh ánh sáng…còn thiếu, không đáp ứng yêu cầu thực tế nên Đoàn TN nhà
trường gặp nhiều hạn chế trong việc tổ chức các phong trào có uy mô lớn.
Thứ ba, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng còn chưa được phát
huy. Những năm qua, do trường Cao đẳng công nghệ Viettronics đang trong
qúa trình hoàn thiện về cơ cấu tổ chức nên bộ máy lãnh đạo của cấp uỷ chi bộ
còn thiếu ổn định, thiếu kinh nghiệm. Nhân sự cấp uỷ viên phụ trách công tác
đoàn thường xuyên thay đổi, chưa có nhiều kinh nghiệm và thời gian gắn bó
với công tác đoàn nên việc chỉ đạo không sát với thực tế, chưa đáp ứng được
nhu cầu nguyện vọng của đoàn viên TN nhà trường.
Thứ tư, Trường không có cán bộ đoàn chuyên trách. Một bộ phận cán
bộ đoàn là uỷ viên Ban chấp hành Đoàn trường và Ban Chấp hành còn thờ ơ,
thiếu trách nhiệm với công tác được giao. Nguyên nhân do cán bộ Đoàn hết
tuổi, thiếu nhiệt huyết, kiêm nhiệm nên họ không có nhiều thời gian cho thanh
niên
Thứ Năm, Trường chưa thành lập được Hội Sinh viên nên chưa phát
huy được sức mạnh tổng thể của đoàn viên, TN.
2.3. Những vấn đề đặt ra
Từ thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN và thực trạng
công tác vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho
TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics hiện nay cho thấy cần tập trung
giải quyết các vấn đề sau:
2.3.1. Những vấn đề trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho
thanh niên nhà trường
Một là, Đảng ủy, Ban Giám hiệu và các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội
như Đoàn TN, Hội sinh viên trong nhà trường cần nhận thức đúng về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; từ

72
đó tăng cường công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng đối với SV, chỉ đạo các
Khoa, các lớp, đội ngũ cán bộ giảng viên-nhân viên nhà trường và SV thực
hiện tốt các nội dung giáo dục gắn với đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Hai là, cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho TN.
Ba là, cần hiểu rõ giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là một quá trình lâu
dài; phải bền bỉ, kiên trì và có hình thức, phương pháp giáo dục phù hợp với
TN.
Bốn là, cần khơi dậy và phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của SV
để SV nâng cao tính chủ động, tích cực trong tự giáo dục đạo đức, lối sống.
Năm là, Nhà trường cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất, mở rộng
quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động và sự phát triển của SV.
Sáu là, nhân cách của những người làm công tác giáo dục có ảnh hưởng
nhất định đến quá trình tu dưỡng, rèn luyện của SV. Vì thế, muốn nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho SV thì bản thân đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để trở thành
những tấm gương sáng cho SV học tập, noi theo.
2.3.2. Những vấn đề trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên nhà trường
Một là, Trường cần đẩy mạnh việc tuyên truyền về tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh tới các cán bộ giáo viên, SV toàn trường và triển khai có hiệu
quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Cấp uỷ chi bộ, Ban giám hiệu cần ra những nghị quyết chuyên đề, những kế
hoạch cụ thể và giao nhiệm vụ cho các đơn vị để việc học tập và làm theo tấm
gương Bác Hồ thực sự trở thành một phong trào sâu rộng, thường xuyên.

73
Hai là, quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN cần phải sáng tạo, linh hoạt về hình thức và phương pháp để
phù hợp với điều kiện thực tế của Trường, của cán bộ giáo viên và SV nhà
trường. Không thể vận dụng cứng nhắc, dập khuôn tư tưởng Hồ Chí Minh khi
điều kiện thực tế không đáp ứng được sẽ dẫn đến phản tác dụng, đi ngược lại
tư tưởng của Người.
Ba là, Cấp uỷ chi bộ, Ban giám hiệu, Đoàn TN cần tổ chức nhiều hơn
nữa các lớp học tập chuyên đề tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ
cán bộ quản lý, giáo viên, cán bộ lớp và cán bộ Đoàn để nâng cao nhận thức,
góp phần xây dựng một đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên chất lượng
cho nhà trường.
Bốn là, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống cho
TN cần gắn liền với việc thường xuyên cập nhật thông tin về đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của Thành phố để phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương và đất nước.

74
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO THANH NIÊN Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG CÔNG NGHỆ VIETTRONICS HẢI PHÒNG HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức,
lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh; cần thực hiện các giải pháp sau:
3.1. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống
cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.1.1. Đổi mới nội dung giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Nội dung giáo dục đạo đức có một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra
hiệu quả giáo dục. Nội dung giáo dục đạo đức cho TN cần gắn liền với giáo
dục ý thức chính trị, trước hết là giáo dục cho TN về lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, về độc lập dân tộc. Những bài học này giúp cho TN có cách hiểu đúng
và niềm tin vào con đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, từ
đó có thái độ tích cực trong xác định lập trường, thế giới quan, cố gắng phấn
đấu vì sự nghiệp chung của nước nhà, đồng thời không bị dao động trước
những tư tưởng phản nghịch, chống phá. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức cho
TN cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ với giáo dục ý thức pháp luật. Đạo đức và
pháp luật đều có chức năng điều chỉnh hành vi của con người. Mặc dù giữa
hai lĩnh vực có những điểm khác nhau nhất định nhưng chúng có sự bổ sung,
tương trợ nhau. Sống và làm việc theo pháp luật, sống có đạo đức là tiêu chí
của mọi xã hội. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây
dựng con người mới ở nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để đào tạo TN thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng”
vừa “chuyên” cần tập trung vào những nội dung sau:

75
3.1.1.1. Giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc
Trong điều kiện ngày nay sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó, điều
quan trọng nhất là phải phát huy tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân
dân Việt Nam. Vì vậy, giáo dục lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc cho
SV-đội ngũ trí thức tương lai của đất nước có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Đây là quá trình khơi dậy lòng nhiệt tình cách mạng tiềm ẩn trong mỗi
một nhân cách TN; giúp các em thấy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân
đối với Tổ quốc và dân tộc mà nỗ lực học tập, ra sức tu dưỡng rèn luyện để
góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại hạnh phúc ấm no cho nhân
dân.
3.1.1.2. Giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa và niềm tin vững chắc vào sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
Để khắc phục tình trạng “suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng” trong một
bộ phận TN hiện nay thì việc giáo dục lý tưởng, bồi dưỡng niềm tin, xây dựng
ước mơ hoài bão cho tuổi trẻ nói chung và SV nói riêng là công tác vừa cấp
bách, vừa lâu dài. Là lớp người trẻ tuổi, SV là những người có nhiều ước mơ
hoài bão, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Thế nhưng do đặc điểm
tuổi đời còn ít, vốn sống chưa nhiều, kinh nghiệm chính trị-xã hội còn hạn chế
nên SV đôi khi tỏ ra thiếu chín chắn trong suy nghĩ và hành động, dễ ngộ
nhận giữa hiện tượng và bản chất, đúng-sai, thật-giả, khó xác định hoặc lựa
chọn cho mình lý tưởng sống đúng đắn phù hợp. Vì thế giáo dục để định
hướng lý tưởng cho SV là điều rất cần thiết.
3.1.1.3. Giáo dục các phẩm chất đạo đức: dũng cảm, trung thực, khiêm
tốn, sáng tạo, tự lập
Dũng cảm là phẩm chất đạo đức tốt đẹp trong truyền thống của dân tội
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy TN. Trong điều kiện nền kinh tế thị

76
trường định hướng XHCN, lòng dũng cảm là tinh thần dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Đó còn là thái độ dám đấu tranh và chiến thắng mọi kẻ
thù. Ngoài các thế lực đang ra sức chống phá, cản trở công cuộc đổi mới của
đất nước thì kẻ thù của TN hiện nay còn là sự cám dỗ ngọt ngào của danh
vọng, tiền tài, những thú vui vật chất xa hoa, tệ nạn xã hội, phim ảnh đồi
trụy...đòi hỏi TN phải nêu cao cảnh giác, sáng suốt để nhận diện kẻ thù của
mình. Thực hành dũng cảm, TN phải đoàn kết đấu tranh chống lại những biểu
hiện suy thoái đạo đức trong đời sống xã hội; phải thường xuyên tu dưỡng,
rèn luyện để không sa vào tệ nạn xã hội hoặc lối sống cá nhân ích kỷ, thực
dụng. Mặt khác, TN cần nêu cao tinh thần vượt khó trong học tập, hăng hái
trong nghiên cứu khoa học, đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực sai trái của
bạn bè trong quá trình học tập, thi cử.
Trung thực là thật thà ngay thẳng, không lừa người và không tự dối
mình, không bội tín, không giấu khuyết điểm sai lầm của nhau. Trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, niềm tin vào tính trung thực của con người đang
bị xói mòn trước những biểu hiện vi phạm đạo đức trong sản xuất kinh doanh,
cả trong giáo dục đào tạo. TN cần phải rèn luyện tính trung thực, trước hết là
rèn luyện thói quen trung thực với chính bản thân, trung thực trong mọi hoạt
động và mọi mối quan hệ. Lòng trung thực đòi hỏi TN biết xa lánh, phê phán
đối với thói kiêu ngạo, phô trương xu nịnh giả dối.
Khiêm tốn là nhún nhường, không khoe khoang, tự cao, tự đại, tự phụ
cho mình là tài giỏi; là không ngừng học hỏi và học tập, làm việc suốt đời.
Đức khiêm tốn là động lực giúp TN vươn lên trong học tập và cuộc sống.
Sáng tạo là một phẩm chất cần có của người lao động mới hiện nay. Sáng
tạo là sự kết hợp giữa tri thức và đạo đức trong đó yếu tố đạo đức có ảnh
hưởng rất lớn đến sức sáng tạo của con người. Là những trí thức tương lai,

77
TN phải tiên phong đi đầu trong mọi hoạt động sáng tạo mà trước hết là trong
học tập và nghiên cứu khoa học.
Tính tự lập là một phẩm chất của con người mới mà TN cần rèn luyện.
Tính tự lập đòi hỏi mỗi người phải xác định hướng đi riêng, con đường riêng
và chủ động giải quyết khó khăn để vươn lên trong cuộc sống. Ngày nay, TN
phải rèn luyện tính tự lập để vững vàng trước những yêu cầu mới của sự phát
triển.
3.1.1.4. Giáo dục tinh thần yêu lao động, lối sống giản dị, tiết kiệm
Với SV, học tập, nghiên cứu là một hình thức lao động; nhà trường cần
phải giáo dục SV tinh thần yêu lao động, đó là sự hiếu học và say mê nghiên
cứu khoa học. Ngoài ra, cần phải giáo dục SV có lối sống giản dị tiết kiệm.
Sống giản dị, tiết kiệm là một biểu hiện cụ thể của lòng yêu lao động, biết quý
trọng thành quả lao động. Đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, người lao
động cần có lối sống công nghiệp, trong đó có yếu tố tôn trọng và giữ vững
kỷ luật lao động. Cần bồi dưỡng cho SV ý thức quý trọng thời gian, làm việc
có kế hoạch, khắc phục thói tuỳ tiện.
3.1.1.5. Giáo dục tinh thần đoàn kết, thương yêu giúp đỡ mọi người; sự
chân thành và thuỷ chung trong tình bạn, tình yêu
Tổ chức Đoàn TN và đội ngũ giáo viên, thông qua công tác tuyên truyền
giáo dục, cần bồi dưỡng cho TN lối sống phải biết yêu thương, quan tâm, quý
trọng con người; lên án thái độ thờ ơ vô cảm trước những khổ đau của con
người và đấu tranh chống lại các hành vi chà đạp lên phẩm giá của con người.
Thông qua các hoạt động, phong trào tập thể để giáo dục cho TN có tinh thần
đoàn kết, gắn bó, sự quan tâm chia sẻ với bạn bè, đồng chí. Đó là động lực để
TN vượt qua mọi khó khăn, vươn lên và thành công trong cuộc sống.
Tình bạn, tình yêu là một phần quan trọng trong cuộc sống của TN. Nhà
trường, tổ chức Đoàn TN thông qua mô hình các CLB, hội, nhóm cần giáo

78
dục cho SV có quan niệm đúng đắn về tình bạn, tình yêu để giúp các em khắc
phục những sai lệch trong tình cảm, xây dựng tình bạn và tình yêu chân chính
để tiếp thêm sức mạnh, nâng bước cho các em trên con đường phấn đấu học
tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.
3.1.2. Đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh
niên.
3.1.2.1. Phối hợp và tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng với
phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường
Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự xuống cấp về đạo đức, lối sống
của một bộ phận TN trong thời gian qua là do các lực lượng giáo dục lẫn bản
thân đối tượng được giáo dục (HS, SV) chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò
của đạo đức, lối sống; quá chú trọng việc “dạy chữ”, “luyện tài” mà xem nhẹ
việc “dạy người”, “rèn đức”. Vì thế, để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
đạo đức, lối sống cho SV, Chi ủy, Ban giám hiệu, Phòng đào tạo và công tác
SV, Đoàn TN Cộng sản Hồ Chí Minh, đội ngũ giáo viên…cần nhận thức rõ
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống trong nhà trường là vấn
đề quan trọng hàng đầu. Muốn vậy, cần phải đẩy mạnh việc tuyên truyền và
quán triệt một cách sâu, rộng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh tới toàn thể cán
bộ giáo viên, nhân viên, SV nhà trường; đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận
động học tập và theo tấm gương đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
lồng ghép tuyên truyền các nội dung giáo dục đạo đức lối sống mới để SV
được nâng cao nhận thức một cách toàn diện và khoa học.
3.1.2.2. Phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên.
Trong lĩnh vực giáo dục đạo đức, các giải pháp của gia đình, nhà trường
và xã hội dẫu có làm thật tốt cũng không thể thay thế yếu tố tự giáo dục, rèn
luyện của bản thân TN. Do đó, cùng với giáo dục thì cần phải biết khích lệ,
phát huy ý thức tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện của TN. TN cần rèn luyện

79
thái độ nghiêm khắc với chính bản thân, chống tự kiêu, tự mãn; rèn luyện đức
tự tin để có nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Trong quan hệ với mọi người,
TN cần có thái độ, hành vi ứng xử đúng mực, khiêm nhường; phải có lòng
nhân ái, đức bao dung, vị tha, biết quan tâm và giúp đỡ người khác; bỏ thói đố
kỵ, thói xem khinh người khác cũng như thái độ thờ ơ, bàng quan trước nỗi
đau, sự bất hạnh của con người. Ngoài ra, TN còn phải rèn luyện tính kiên trì,
nhẫn nại, trung thực học tập; say mê, sáng tạo trong nghiên cứu khoa học;
không ngừng trau dồi đạo đức, tác phong, thực hành lối sống văn minh, tiến
bộ.
Để việc tu dưỡng, rèn luyện của SV có kết quả, ngoài nỗ lực của bản
thân SV thì cần có sự quan tâm, định hướng giáo dục và hỗ trợ kịp thời từ
phía gia đình, nhà trường và xã hội. Là những tổ chức đại biểu cho lợi ích của
SV, Đoàn TN có nhiệm vụ chủ yếu là tham gia vào việc giáo dục lý tưởng,
niềm tin cách mạng, tuyên truyền tư tưởng chính trị, định hướng và vận động
SV thực hiện lối sống lành mạnh, văn minh. Thiết nghĩ, để nâng cao hiệu quả
của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; ngoài việc tiếp tục củng cố
và phát huy các thành tựu đã đạt được thì Đoàn và Hội cần chú ý thực hiện
những giải pháp có tính định hướng như sau:
Trước hết, cần tăng cường công tác tập hợp TN. Tập hợp đối tượng cần
được giáo dục là điều kiện đầu tiên cần phải có trong công tác giáo dục.
Không tập hợp được TN thì Đoàn không thể triển khai các hoạt động giáo dục
của mình. Ngoài việc đổi mới nội dung, hình thức hoạt động cho thiết thực,
phù hợp thì tổ chức Đoàn cần quan tâm nắm bắt và hỗ trợ kịp thời những nhu
cầu chính đáng của TN như: giới thiệu chỗ ở trọ, chỗ thực tập tốt nghiệp, việc
làm, vận động xã hội hoá giáo dục để hỗ trợ học bổng cho SV vượt khó học
giỏi, tạo sân chơi lành mạnh bổ ích …

80
Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn vững mạnh làm trung tâm đoàn
kết, tập hợp, vận động, giáo dục TN. Các cán bộ Đoàn cần nâng cao phẩm
chất, năng lực hoạt động của mình, gắn bó mật thiết với TN; thường xuyên
nghiên cứu, nắm vững tình hình, dự báo diễn biến về tư tưởng, thái độ chính
trị, đạo đức, lối sống của TN và chủ động đề xuất các giải pháp khả thi để
giáo dục, rèn luyện, định hướng sự phát triển nhân cách cho TN.
Đoàn cần tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cho TN. Đoàn cần thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm công tác giáo dục
ở từng đơn vị cơ sở, phát hiện và đẩy mạnh việc nhân rộng các mô hình, hình
thức giáo dục có hiệu quả cao.
Nội dung, chương trình giáo dục phải đảm bảo tính khách quan, khoa
học, phù hợp với những yêu cầu xã hội đặt ra đối với TN. Chương trình, kế
hoạch phải thiết thực và mang tính khả thi cao, không nên đặt “những chương
trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được”
và “Một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn là một trăm
chương trình to tát mà làm không được” [14, tr.186]. Hình thức giáo dục cần
phong phú, đa dạng, hấp dẫn, sinh động và khi triển khai thực hiện phải đảm
bảo tính sâu rộng, đều khắp, thường xuyên liên tục, cần khắc phục hiện tượng
hình thức hoặc “đầu voi đuôi chuột” của phong trào.
Cần quán triệt các nguyên tắc: nói đi đôi với làm, nêu gương, xây đi đôi
với chống trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN. Bên cạnh việc
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cần phải hướng dẫn, tổ chức TN đấu tranh,
xã hội lên tiếng chống lại những tiêu cực nhằm góp phần lành mạnh hóa môi
trường xã hội.
Quá trình giáo dục trong gia đình, nhà trường và xã hội có những đặc
trưng riêng, ưu thế riêng. Sự thống nhất biện chứng giữa giáo dục của gia

81
đình, nhà trường và xã hội là yếu tố quyết định quá trình hình thành đạo đức,
lối sống cho TN.
3.1.2.3. Kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tiễn.
Trong giáo dục, Hồ Chí Minh đòi hỏi cả người dạy lẫn người học phải
quán triệt phương châm học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Xuất phát từ mục đích của nền giáo dục cách mạng là đào tạo ra những công
dân có các phẩm chất và năng lực cần thiết để “phụng sự Tổ quốc, phụng sự
nhân dân làm cho dân giàu nước mạnh” mà Hồ Chí Minh quan niệm giáo dục
không thể dừng lại ở việc truyền đạt tri thức mà phải tiến tới hình thành năng
lực thực hành cho người học. Nghĩa là người học phải có khả năng vận dụng
những tri thức đã tiếp thu vào thực tiễn cuộc sống. Theo Hồ Chí Minh, học là
để hành. Còn hành là điều kiện để củng cố, nâng cao kiến thức được tiếp thu,
rèn luyện kỹ năng và hình thành những phẩm chất cần có của người lao động
mới. Học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức gắn bó khăng khít với
nhau. “Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành
không trôi chảy” [15, tr.250]. Thực hiện phương châm học đi đôi với hành, lý
luận gắn liền với thực tiễn sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục; Ban Giám hiệu nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn, Đoàn TN tổ chức các hoạt động ngoại khóa như:
giao lưu dã ngoại, tham quan du lịch, các hoạt động xã hội từ thiện, mùa hè
xanh, đền ơn đáp nghĩa … Các hoạt động này giúp TN liên hệ thực tiễn, tránh
được sự nặng nề, thụ động của phương pháp giáo dục truyền thống. Trong
môi trường thực tiễn, thông qua hành vi của TN mà giáo viên có thể phát hiện
và kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và hành động
của TN. Hơn nữa, chính những hoạt động thực tiễn thiết thực sẽ tạo điều kiện

82
cho quá trình tự giáo dục của TN, giúp quá trình hình thành những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp ở TN nhanh hơn, phong phú và sâu sắc hơn.
3.1.2.4. Chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt
Thứ nhất, hàng năm Trung ương Hội sinh viên Việt Nam và Thành Hội
Hải Phòng đều có các hoạt động biểu dương, khen thưởng đối với các SV đạt
danh hiệu “Sinh viên 5 tốt” các cấp, “Thanh niên điển hình tiên tiến làm theo
lời Bác”. Các tấm gương SV được biểu dương khen thưởng là những SV có
sự gắn bó, gần gũi với các SV khác thông qua hoạt động học tập và rèn luyện
hàng ngày, do vậy có tầm ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến việc rèn luyện
đạo đưc, lối sống của các SV khác. Thiết nghĩ đây là một hình thức giáo dục
hiệu quả, cần được duy trì và phát huy rộng rãi hơn nữa.
Thứ hai, giáo dục thông qua nêu gương tốt, việc tốt của mọi người, đặc
biệt là sự gương mẫu của cha mẹ, thầy cô. Hồ Chí Minh quan niệm, giáo dục
đạo đức là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Trong xã hội, mỗi người vừa là
chủ thể vừa là đối tượng của giáo dục đạo đức. Do đó, ai cũng có thể và cần
phải nêu gương đạo đức. Việc nêu gương tốt, việc tốt của mọi người góp phần
xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tiến bộ tạo điều kiện thuận lợi cho
TN rèn luyện nhân cách. Tuy nhiên, cần thấy rằng nhân cách của những người
trực tiếp đảm nhận công tác giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đối với người được
giáo dục. Vì thế, ông bà, cha mẹ, thầy cô phải thật sự là các tấm gương sáng
về đạo đức, lối sống để TN noi theo. Nêu gương trong giáo dục đạo đức đòi
hỏi cán bộ, giáo viên phải tuân thủ nguyên tắc nói đi đôi với làm. Nguyên tắc
nói đi đôi với làm đòi hỏi người làm công tác giáo dục cũng phải được giáo
dục, không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình để trở thành tấm gương
sáng về mọi mặt cho TN noi theo.
Thứ ba, nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội: những lãnh tụ
hết lòng vì nước vì dân tài đức vẹn toàn, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà

83
giáo tiêu biểu, nhà văn tên tuổi, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, người tốt
việc tốt. Do vốn sống hạn chế, TN khó phân biệt đúng sai, thật giả, không thể
xác định đâu là những giá trị đích thực. Vì vậy, định hướng giá trị thông qua
việc nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện ở TN. Điều lưu ý là khi
giới thiệu chân dung của các lãnh tụ, nhà khoa học, nhà giáo, anh hùng lao
động… để TN học tập noi theo phải gắn liền với việc làm rõ những cống hiến
lớn lao của họ đối với Tổ quốc, với nhân dân, đạo đức nhân phẩm của họ, lối
sống của họ. Giáo dục đạo đức, lối sống thông qua việc nêu cao các hình
tượng mẫu mực trong xã hội là giúp cho TN xây dựng động cơ phấn đấu, rèn
luyện đúng đắn. Bên cạnh việc nêu cao những tấm gương sáng, gương tốt để
TN noi theo, thiết nghĩ hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn nhiều nếu chúng ta biết
kết hợp với việc chỉ ra và phê phán những gương mờ, gương xấu để TN biết
mà không mắc phải. Đặc biệt là cần lên án và có biện pháp ngăn chặn triệt để
những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên nhằm
củng cố niềm tin của TN vào lý tưởng đạo đức xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra,
cũng nên tổ chức cho TN giao lưu với những người một thời lầm lỡ nhưng lại
biết hoàn lương làm lại cuộc đời, có ý chí nghị lực phấn đấu vươn lên trong
cuộc sống. Chính tiếng nói của những người trong cuộc là lời cảnh tỉnh đối
với TN, giúp họ tránh đi vào vết xe đổ của người trước.
Thứ tư, giáo dục tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, lối sống cao
đẹp của chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời, sáng
chói về con người mới với đạo đức mẫu mực trong sáng, lối sống cao đẹp.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức của người cộng sản. Hồ
Chí Minh còn là hiện thân thân của lối sống mới. Đó là lối sống có lý tưởng,
có đạo đức. Không chỉ kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Hồ Chí Minh
còn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn minh, tiến tiến.

84
“Bản thân Người là tấm gương sáng, là hiện thân của nền đạo đức cách mạng
Việt Nam, mãi mãi là ngọn đèn pha chiếu rọi con đường rèn luyện, phấn đấu
để trở nên “tốt” hơn, đạt đến “chân thiện mỹ” của con người Việt Nam ngày
nay và mai sau” [5, tr.294]. Giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh là một giải
pháp quan trọng nhằm hình thành đạo đức, lối sống mới cho TN hiện nay.
Giáo dục nhằm giúp TN hiểu, ngẫm nghĩ về đạo lý làm người của Hồ Chí
Minh, để học tập tấm gương đẹp đẽ của Người. TN cần học tập, noi gương
Người ở tinh thần suốt đời kiên trì đấu tranh cho độc lập tự do, cho CNXH và
chủ nghĩa cộng sản; ở thái độ sống thắm thiết tình yêu thương với toàn thể
nhân dân lao động, lấy đó làm hạnh phúc cao nhất của mình; noi theo gương
chiến đấu, lao động và học tập của Người, đem hết tài năng và trí tuệ để cải
tạo xã hội, cải tạo thiên nhiên, làm cho Tổ quốc ta và trái đất ta ngày thêm
tươi đẹp. Giáo dục cần kết hợp nhiều hình thức như: giới thiệu chuyên đề,
xem phim tư liệu, giao lưu với các nhân chứng lịch sử đã từng sống, làm việc
cùng Người, phát động các cuộc thi tìm hiểu thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của
Hồ Chủ tịch, tham quan bảo tàng, lăng, đền thờ Hồ Chí Minh… Trọng tâm
của giáo dục là giúp TN nhận thức “Vì sao Hồ Chí Minh trở thành tấm gương
tuyệt vời về con người mới?”. Những đức tính cao quý ở Người không phải là
bẩm sinh mà là kết quả của việc không ngừng học tập, đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ hằng ngày. Hiểu rõ con đường hình thành và phát triển nhân cách của
Hồ Chí Minh, TN ra sức phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện để bản thân ngày càng
hoàn thiện.
3.1.2.5. Lựa chọn phương hướng giáo dục phù hợp với thanh niên.
Trong giảng dạy môn các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đa phần giảng viên sử dụng phương pháp diễn thuyết là chủ yếu. Các
phương pháp khác không được sử dụng và nếu có chỉ ở một mức độ nhất
định. Phương pháp chung vẫn là thầy truyền thụ và trò ghi chép tiếp thu, ghi

85
nhớ một cách máy móc. Các hình thức thảo luận, đối thoại, tranh luận ở
nhóm, ở lớp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng lực độc
lập tư duy của SV chưa được đa số giảng viên quan tâm thực hiện đã biến
buổi giảng thành giờ truyền phát thông tin một cách xuôi chiều. Thêm vào đó,
việc giảng viên đơn thuần trình bày lý luận mà ít liên hệ thực tiễn càng làm
cho giờ học trở nên khô khan, nhàm chán. Từ thực tế đó, tôi cho rằng để nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN
Trường Cao đẳng Công nghệ Viettrronics Hải Phòng cần phải đổi mới về
phương pháp, đa dạng về phương tiện giáo dục đạo đức, lối sống sao cho hấp
dẫn, lôi cuốn, sinh động.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII
(1997) cũng đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục, khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh, nhất là SV đại học” [3, tr.41]. Thực chất của đổi mới phương
pháp là sự thay đổi cách thức giảng dạy, chuyển từ cách dạy nặng về truyền
ðạt tri thức sang dạy cho người học cách thu nhận tri thức. Nghĩa là dạy cách
học.
Đổi mới phương pháp trong giáo dục đạo đức, giáo viên cần phải tăng
cường kết hợp, sử dụng một cách hợp lý các phương pháp, hình thức, phương
tiện nhằm làm cho người học vừa có được những kiến thức cần thiết, vừa rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng
dạy đòi hỏi giáo viên cần tăng cường sử dụng các trang thiết bị phục vụ trợ
giảng. Đó là các phương tiện tranh ảnh, hệ thống nghe nhìn, hệ thống Hiclass
II …Việc kết hợp giữa dạy lý thuyết với sử dụng các phương tiện hiện đại làm
cho buổi học thêm sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn, từ đó làm tăng hiệu quả dạy

86
và học. Hình thức giáo dục đạo đức cũng phải hết sức đa dạng. Giáo dục đạo
đức, lối sống cho TN không chỉ bó hẹp ở việc lên lớp, giảng bài, thảo luận mà
cần mở rộng, kết hợp nhiều hình thức khác như: thuyết trình, tọa đàm, nghiên
cứu thực tế, giao lưu với những gương điển hình tiên tiến trong nhà trường
lẫn ngoài xã hội, tham quan du lịch, du khảo, các hoạt động “về nguồn”, các
hoạt động xã hội, hội thi Olympic các môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh cấp khoa, trường, Thành phố … Đây là những giờ học ngoại
khóa rất cần thiết và đầy bổ ích vừa giúp TN, SV có thêm những hiểu biết về
quy tắc chuẩn mực đạo đức vừa là dịp để SV trải nghiệm trong thực tiễn tiến
tới hình thành tình cảm và niềm tin đạo đức .
Cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục TN. Cần kết hợp chặt chẽ giữa việc đẩy mạnh tuyên truyền với giáo dục
đạo đức, lối sống cho TN thông qua tổ chức giáo dục lao động, các hoạt động
chính trị - xã hội, các hoạt động mang tính tập thể. Trong giáo dục cần phát
huy vai trò của dư luận xã hội trong việc điều tiết hành vi, giáo dục luân
thường đạo lý, định hướng chuẩn mực đạo đức đúng đắn cho TN. Phải tạo dư
luận xã hội rộng rãi ủng hộ cái hay, cái tốt, cái đẹp, phản đối với cái dở, cái
xấu, cái ác…
3.2. Tích cực hoá hoạt động của các chủ thể giáo dục theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
3.2.1. Nhà trường quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động
văn hóa xã hội của thanh niên.
Với Hồ Chí Minh, giáo dục là một khoa học và hình thức giáo dục thì rất
phong phú, đa dạng. Một mặt, Hồ Chí Minh nhắc nhở các lực lượng giáo dục
cần quan tâm đến nhu cầu vui chơi giải trí của TN. Mặt khác, Người yêu cầu
phải biết gắn kết vui chơi với giáo dục. Nghĩa là phải có sự định hướng của
giáo dục trong sinh hoạt vui chơi, giải trí của TN. Hồ Chí Minh cho rằng:

87
“Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sinh hoạt của TN… Trong vui
chơi, cũng có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có tính
chất tập thể và quần chúng” [21, tr.128]. Là bộ phận được tuyển chọn từ tầng
lớp TN, ngoài nhu cầu học tập nâng cao trình độ đáp ứng được yêu cầu của xã
hội, SV còn có những nhu cầu khác như: giao lưu gặp gỡ, kết bạn, vui chơi
giải trí … Vận dụng phương châm “gắn giáo dục với vui chơi” của Chủ tịch
Hồ Chí Minh vào công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN, SV hiện nay,
Nhà trường cần nhanh chóng có chính sách và sự đầu tư thích đáng để xây
dựng ký túc xá, thư viện hiện đại, nhà thể thao đa năng, nhà văn hoá, phòng
sinh hoạt CLB chuyên biệt, hệ thống phòng thực hành hiện đại, sân
chơi…Đây là những cơ sở vật chất cần thiết để tổ chức các hoạt động giao
lưu, vui chơi giải trí, nghiên cứu khoa học và các hoạt động xã hội khác cho
TN.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng, lối sống mới không phải từ trên
trời sa xuống mà được hình thành thông qua con đường giáo dục và tự giáo
dục, tự rèn luyện của mỗi người. Đó là một quá trình lâu dài có nhiều khó
khăn, phức tạp bởi. Chính vì thế, việc giáo dục đạo đức, lối sống cần phải
được tiến hành thường xuyên, liên tục, không được xem nhẹ hoặc xao nhãng.
Giáo dục hình thành đạo đức, lối sống mới cho TN ở nhà trường đòi hỏi Đảng
bộ, Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo và Công tác SV, Công đoàn, Đoàn thanh
niên và Hội sinh viên nhà trường phải tận tâm, tận lực, kiên trì, bền bỉ, không
ngừng tìm tòi các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục. Cụ thể là:
- Tăng cường công tác quản lý nền nếp trong học tập, sinh hoạt của SV
và duy trì kỷ luật, kỷ cương trong nhà trường. Cần khắc phục hiện tượng đi
muộn về sớm, bỏ học, bỏ tiết của SV bằng việc buộc SV phải thực hiện
nghiêm túc nội quy, quy chế; phải học lại các môn đã vắng trên 20% số tiết

88
theo quy định; kiên quyết xử lý các hiện tượng vi phạm quy chế thi cử. Nhà
trường cần phối hợp chặt chẽ với công an, chính quyền địa phương để quản lý
tình hình học tập, sinh hoạt của SV ngoại trú. Trong việc đánh giá kết quả rèn
luyện của SV ngoại trú, nhà trường cần dựa trên nhận xét, đánh giá của chính
quyền địa phương.
- Tiếp tục phát huy vai trò, hiệu quả của website trường. Nhà trường phải
thường xuyên cập nhật thông tin tình hình hoạt động của trường; thông tin về
thi đua khen thưởng-kỷ luật HSSV; thông báo kết quả học tập, rèn luyện của
SV để SV và phụ huynh SV khi truy cập có thể nắm rõ. Trường cần mở một
số hộp thư điện tử và số điện thoại “nóng” để tiếp nhận những ý kiến phản
hồi, ý kiến xây dựng của SV và phụ huynh SV về các mặt, các lĩnh vực hoạt
động của nhà trường; từ đó để có những điều chỉnh phù hợp.
- Cần chú trọng cả việc “dạy chữ” lẫn “dạy người”. Nhiệm vụ của nhà
trường không chỉ dạy học, trang bị cho SV những tri thức khoa học mà còn
rèn luyện SV về đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hóa, đào tạo SV trở thành
những con người toàn diện về đức, trí, thể, mỹ. Kết hợp giữa học chính khóa
với hoạt động ngoại khóa, lồng ghép việc giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức
pháp luật trong các môn học, khuyến khích, biểu dương SV làm việc tốt hoặc
có nghĩa cử cao đẹp.
- Phối hợp các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội, các Khoa chức năng
trong trường hoặc liên kết phối hợp với các tổ chức, đơn vị bên ngoài trường
để tổ chức các cuộc hội thảo khoa học về nâng cao chất lượng giảng dạy môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các cuộc thi tìm hiểu kiến thức
pháp luật, văn hóa xã hội của SV...để nâng cao ý thức tự giác nghiên cứu, học
tập chính trị của SV.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên vừa có năng lực vừa có phẩm chất trong
sáng, mẫu mực, yêu nghề, yêu thương học trò và tâm huyết với sự nghiệp

89
giáo dục đào tạo. Kiên quyết xử lý buộc thôi việc hoặc đình chỉ công tác
giảng dạy đối với những giáo viên suy thoái đạo đức nghề nghiệp để làm lành
mạnh môi trường giáo dục. Trong hành vi của thầy, cô giáo cũng đều phải
định hướng cho sự phát triển nhân cách của SV, phải là tấm gương sáng cho
SV noi theo. Chi ủy, Ban Giám hiệu nhà trường cần quan tâm, tạo điều kiện
và có những hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động của Đoàn TN như: tổ chức hội
thi, hội diễn văn nghệ, thi đấu thể dục, thể thao, các cuộc thi tìm hiểu truyền
thống cách mạng, các hoạt động xã hội nhân đạo, từ thiện …
3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên và Hội sinh viên
trong công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.
Trong những năm qua, công tác giáo dục của Đoàn TN nhà trường được
triển khai khá đồng bộ, có chuyển biến tích cực, từng bước đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ TN mới và tham gia tích cực vào sự nghiệp phát
triển chung của nhà trường. Tuy nhiên công tác giáo dục của Đoàn TN còn
thiếu hấp dẫn, không theo kịp với đòi hỏi của TN, chưa thu hút được đông
đảo TN tham gia. Vì vậy để góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục
của Đoàn TN, đáp ứng yêu cầu xây dựng TN trong giai đoạn mới thì trọng
tâm của công tác giáo dục của Đoàn TN trong giai đoạn hiện nay là:
Thứ nhất, phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục và tự giáo dục; giữa nâng
cao nhận thức, giác ngộ chính trị với hành động cụ thể trong học tập, lao
động, công tác và rèn luyện của ĐV, TN.
Thứ hai, phải đổi mới nội dung và phương thức giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử của Đảng và
dân tộc, lý tưởng cách mạng cho đoàn viên TN.
Thứ ba, phải đổi mới các hình thức tuyên truyền như Cuộc thi tìm hiểu,
Hội thi dưới hình thức sân khấu hóa, tham quan thực tế, Hội thảo khoa học,

90
tọa đàm trao đổi, Diễn đàn, thành lập các CLB học tập… Thông qua các hoạt
động nhằm định hướng giá trị mới cho TN theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, phải chủ động hơn trong công tác chính trị, tư tưởng; nắm bắt và
dự báo tình hình tư tưởng ĐV, TN; kịp thời đấu tranh, tuyên truyền làm rõ các
âm mưu, luận điệu sai trái, giúp TN hiểu và tích cực đấu tranh với âm mưu
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ năm, phải gần gũi, quan tâm, thường xuyên nắm tình hình định
hướng và kiểm tra việc thực hiện công tác thanh niên ở các cấp đoàn cơ sở
như Liên chi đoàn Khoa, chi đoàn; Các cơ sở Đoàn cần nắm bắt một cách
nhanh chóng, chính xác tình hình tư tưởng và dư luận trong ĐV, TN để kịp
thời định hướng và tham mưu xử lý các vấn đề có hiệu quả.
Thứ sáu, đội ngũ đảng viên trong độ tuổi đoàn cần nêu cao tinh thần
xung kích, là tấm gương sáng để ĐV, TN noi theo. Đoàn trường cần phát
hiện, bồi dưỡng các điển hình tiên tiến để tôn vinh và nhân rộng nhằm tạo ra
sức lan tỏa mạnh mẽ trong ĐV, TN. Qua đó sẽ có tác dụng giáo dục ĐV, TN
phấn đấu trong học tập và rèn luyện.
Thứ bảy, cần hiểu rõ giáo dục đạo đức, lối sống là một quá trình lâu dài,
phải bền bỉ, kiên trì và nhẫn nại.
Thứ tám, thành lập Hội Sinh viên Trường
3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
Tăng cường sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là hết sức cần thiết và quan trọng. Việc
phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội đối với việc chăm sóc giáo dục
trẻ đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa. Sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục trên, trước là để đảm
bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng như hoạt động giáo dục cùng một
hướng, một mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh kích

91
thích, thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời mâu
thuẫn, vô hiệu hóa lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ, hoang mang,
dao động trong việc lựa chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách.
Sự phối hợp gia đình, nhà trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức.
Vấn đề cơ bản hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy tinh
thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu
giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành những người công dân hữu ích cho đất nước.
* Về phía gia đình:
Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng giáo dục, gia đình có vai trò
và tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Để
việc giáo dục gia đình có hiệu quả tốt, các bậc cha mẹ cần quan tâm xây dựng
một gia đình đầy đủ toàn vẹn, trong đó mọi thành viên có nghĩa vụ và trách
nhiệm với nhau. Xây dựng một phong cách sinh hoạt có nề nếp, đặc biệt
người lớn phải giữ uy tín vai trò gương mẫu của mình trong gia đình và ngoài
xã hội. Gia đình cần thường xuyên liên hệ chặt chẽ với nhà trường, đoàn thể
để nắm được tình hình học tập, đạo đức của con em mình để có sự phối hợp
chặt chẽ. Gia đình cần xây dựng truyền thống “tôn sư trọng đạo”, bảo vệ uy
tín thầy cô giáo, tránh các hành vi coi thường thầy cô giáo trước mặt con
cái…
* Về phía nhà trường:
Giáo dục nhà trường trong mọi thời đại có chức năng cơ bản là truyền
thụ tri thức văn hóa, mở mang trí tuệ cho học sinh. Để thống nhất và tập hợp
được sức mạnh của toàn xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ, nhà trường một
mặt phải làm tốt việc giảng dạy giáo dục của toàn thể cán bộ giáo viên trong
nhà trường. Mặt khác, phải phối hợp chặt chẽ với gia đình, với các tổ chức xã
hội để đưa nội dung, mục tiêu giáo dục trong nhà trường vào các tổ chức xã
hội trong địa phương như đoàn thanh niên , hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,
câu lạc bộ những người cao tuổi…nhằm thống nhất định hướng tác động đối

92
với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Phát huy vai trò
nhà trường là trung tâm văn hóa giáo dục của địa phương, tổ chức việc phổ
biến các tri thức khoa học kỹ thuật, văn hóa xã hội…đặc biệt là những kiến
thức, biện pháp giáo dục trong điều kiện xã hội phát triển theo cơ chế thị
trường đang rất phức tạp cho các bậc cha mẹ, giúp họ hiểu được đặc điểm
trong đời sống, tâm sinh lý của trẻ hiện nay. Nhà trường phối hợp với địa
phương tổ chức cho học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động văn hóa xã
hội như: xóa đói giảm nghèo, dân số kế hoạch hóa gia đình, đền ơn đáp nghĩa,
xây dựng gia đình văn hóa mới…nhằm góp phần cải tạo môi trường gia đình
và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giúp địa phương theo dõi tiến trình, đánh giá
kết quả của việc giáo dục thanh thiếu niên, phân tích các nguyên nhân, đề
xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và sự phối hợp chặt chẽ giữa các
môi trường giáo dục
* Về phía xã hội:
Các tổ chức kinh tế-xã hội cần hợp tác, hỗ trợ nhà trường trong việc
triển khai các chương trình học tập như tham gia đồng hành cùng các sự kiện
lớn của nhà trường, tài trợ và tặng các suất học bổng bằng tiền mặt hoặc hiện
vật để kịp thời biểu dương những SV đạt kết quả cao. Đồng thời, các tập
đoàn, doanh nghiệp cần có cơ chế đãi ngộ thu hút SV giỏi sau khi tốt nghiệp
ra trường để hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám” như hiện nay. Chính
quyền, đoàn thể địa phương có sự phối hợp với nhà trường trong việc bảo
đảm an ninh khu vực, nhất là những địa bàn có nhiều SV ở trọ. Đối với gia
đình, chính quyền địa phương cần hỗ trợ kịp thời và khách quan đối với
những gia đình thuộc diện gia đình chính sách, hỗ trợ những SV nghèo vượt
khó học giỏi. Đồng thời, để tạo môi trường lành mạnh cho TN giao lưu, học
hỏi, các tổ chức đoàn thể địa phương nên tổ chức nhiều chương trình văn hóa
văn nghệ thể thao, phong trào tình nguyện vì cộng đồng để thu hút TN địa
phương và TN đang học tập, tạm trú trên địa bàn tham gia.

93
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN là một hệ
thống các quan điểm của Người về vai trò của TN và tầm quan trọng của công
tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; về nội dung và phương châm, phương
pháp giáo dục nhằm giúp TN hình thành những phẩm chất đạo đức mới, lối
sống mới đáp ứng được các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Trong giai
đoạn cách mạng hiện nay, tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị chỉ đạo thực
tiễn. Là nguồn dự trữ đáng kể để bổ sung và làm tăng nhanh lực lượng lao
động trí óc, nguồn lực trí tuệ, TN luôn chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược
phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Kế thừa và phát huy truyền
thống cách mạng của các thế hệ đi trước, đại bộ phận TN Việt Nam trong đó
có TN trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng tin tưởng vào
đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, sống có ước mơ, có hoài bão, chấp nhận
dấn thân, tình nguyện vì cộng đồng. Số đông SV đã biết gắn tiền đồ bản thân
với tiền đồ dân tộc, thi đua rèn đức, luyện tài vì ngày mai lập thân, lập nghiệp.
Khắc phục mọi trở ngại, thiếu thốn, TN ra sức học tập, tích cực nghiên
cứu khoa học, không ngừng trau dồi đạo đức tác phong, giữ gìn nhân cách.
Thực hiện lối sống đẹp, đông đảo TN hăng hái tham gia các hoạt động tình
nguyện vì Tổ quốc vì cộng đồng. Các tấm gương tiêu biểu xuất sắc trong học
tập và rèn luyện xuất hiện ngày càng nhiều. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một
bộ phận TN có lối sống thực dụng, thờ ơ trước những vấn đề chính trị - xã hội
của đất nước, thiếu ý chí vươn lên trong học tập và cuộc sống, thiếu tích cực,
chủ động trong hoạt động đoàn thể. Cá biệt có một số SV sa chân vào các tệ
nạn xã hội và vi phạm pháp luật. Những hạn chế, bất cập trong công tác giáo
dục đạo đức, lối sống là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự xuống cấp về đạo
đức, lối sống của một bộ phận SV hiện nay.

94
Đổi mới công tác giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống cho TN
nhằm đào tạo ra một đội ngũ trí thức trẻ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã trở thành một
nhiệm vụ hàng đầu của các trường đại học, cao đẳng giai đoạn hiện nay, trong
đó có trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng. Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống cho TN ở trường Cao đẳng Công
nghệ Viettronics Hải Phòng; công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho TN cần
tập trung thực hiện những giải pháp có tính định hướng như sau:
+ Về nhận thức: nhận thức đúng vị trí vai trò của đạo đức, lối sống; nâng
cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, lối sống trong nhà
trườn; cần hiểu rõ giáo dục đạo đức, lối sống là một quá trình lâu dài, phải
bền bỉ, kiên trì, nhẫn nại; phát huy ý thức tự giáo dục, tự rèn luyện của TN.
+ Về hoạt động thực tiễn: tăng cường và phối hợp chặt chẽ giữa gia đình,
nhà trường, xã hội trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho TN; kết hợp chặt
chẽ học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn; Nhà trường cần đầu tư
cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện vật chất thuận lợi cho các hoạt động văn hóa xã
hội của TN; giáo dục thông qua nêu gương người tốt việc tốt chính trong đội
ngũ TN; giáo dục thông qua nêu gương tốt, việc tốt của mọi người, đặc biệt là
sự gương mẫu của cha mẹ, thầy cô; nêu cao các hình tượng mẫu mực trong xã
hội: những lãnh tụ hết lòng vì nước vì dân tài đức vẹn toàn, các nhà khoa học
lỗi lạc, các nhà giáo tiêu biểu, nhà văn tên tuổi, anh hùng lao động, chiến sĩ
thi đua, người tốt việc tốt; giáo dục tấm gương sáng về đạo đức cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cần đổi mới về phương pháp, đa dạng về phương
tiện giáo dục đạo đức, lối sống sao cho hấp dẫn, lôi cuốn, sinh động; kết hợp
nhiều hình thức giáo dục… Đào tạo những TN có nhân cách phát triển toàn
diện, có đạo đức trong sáng và lối sống cao đẹp, có trình độ văn hóa chuyên
môn, kỹ thuật cao, có hoài bão lập thân lập nghiệp vì hạnh phúc của bản thân,

95
vì sự nghiệp chung của đất nước, của dân tộc là công việc vừa cấp bách, vừa
lâu dài đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vị trí
trung tâm.
Đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức, lối sống
cho TN ở trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng” mới chỉ là kết
quả bước đầu. Kết quả này sẽ làm tiền đề, nền tảng để tôi tiếp tục đi sâu mở
rộng nghiên cứu vấn đề nhằm góp phần làm cho công tác giáo dục đạo đức lối
sống cho TN đạt kết quả cao; các thế hệ TN sẽ trở thành đội ngũ trí thức trẻ
vừa “hồng” vừa “chuyên”, xứng đáng kế thừa sự nghiệp xây dựng CNXH như
mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban
chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Võ Nguyễn Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam (xuất bản lần thứ 3), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
6. Trần Văn Giàu (1993), Gía trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam,, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
7. Trần Hậu Kiêm-Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức
học và giáo dục đạo đức cho sinh viên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
8. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
9. V.I.Lênin (2004), Bàn về thanh niên, Nxb Thanh niên.
10. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
11. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
12. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
13. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
14. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

97
15. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
16. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
17. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
19. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
20. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
21. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
22. Nhà xuất bản Thanh niên (2004), Hồ Chí Minh về giáo dục thanh
niên
23. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
24. Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng, Phòng Đào tạo
và Công tác học sinh- sinh viên, “Báo cáo tổng kết năm học 2011-2012”,
tr.1-3
25. Trường Cao đẳng Công nghệ Viettronics Hải Phòng, Ban Chấp hành
Đoàn Thanh niên, “Báo cáo tổng kết công tác đoàn và phong trào thanh niên
nhiệm kỳ 2008-2013”, tr.4-5
26. Báo Thanh niên, số 130 (3791) ra ngày 10 tháng 5 năm 2006.
27. Báo Thanh niên, số 207 (3868) ra ngày 26 tháng 7 năm 2006.

98
28. Hoàng Chí Bảo (1997), “Văn hóa và sự phát triển nhân cách của
thanh niên”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (1), tr.3-5.
29. Doãn Thị Chín, Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, 2004.
30. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc, Mấy vấn đề về đạo đức
trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
31. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
32. Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò Thanh niên trong
cách mạng Việt Nam, Nxb Thanh niên, 2004 (in lần thứ hai).
33. Trần Quy Nhơn, Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau, Nxb Giáo dục, 2004
34. Trần Sỹ Phán, Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
35. Nguyễn Đình Quế, Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc xây dựng
đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, 2000.
36 Lê Thị Hoài Thanh, Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện
đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Triết học, 2002.
37. Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2005 (Chương XIII: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh).
38. Lê Thị Thủy, Vai trò của đạo đức với sự hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, 2001.

99
39. Lâm Quốc Tuấn - Trần Văn Toàn (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục đạo đức vừa “hồng” vừa “chuyên” cho thanh niên trí thức”, Tạp
chí Lý luận chính trị, (10).
40. Văn Tùng, Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1999…
41. Nguyễn Thị Kính, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc rèn luyện
và tu dưỡng đạo đức cho sinh viên ngành y, dược hiện nay, Luận văn Thạc sĩ,
2010.
42. Hoàng Trung, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục,
rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Triết học số 5, 1998.
43. dangcongsan.vn/cpv
44. tutuonghochiminh.vn
45. dantri.com.vn

100

You might also like