You are on page 1of 42

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH


KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
“ PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ,
VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM NÀY ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC
DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ”

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Phượng


Lớp học phần: LLCT120314_22_1_15CLC
Thực hiện: Nhóm 5A
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KỲ I NĂM HỌC 2022-2023

Nhóm 5A

Tên đề tài: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của văn hóa trong
đời sống xã hội. Ý nghĩa của quan điểm này đối việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

STT HỌ VÀ TÊN MÃ SỐ SINH TỈ LỆ HOÀN SĐT


VIÊN THÀNH
1 Trần Quốc Kiệt 21145187 100% 0765501829
2 Nguyễn Trung Hiếu 21145132 100% 0352769845
3 Bùi Đoàn Anh Huy 21119074 100% 0394945505
4 Bùi Trần Hải Đăng 21145111 100% 0868981505
5 Lê Hải Thịnh 21142184 100% 0392457113

Ghi chú:

- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.

- Trưởng nhóm: Trần Quốc Kiệt SĐT: 0765501829

Nhận xét của giáo viên

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

Ngày 28 tháng 11 năm 2022


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1

2. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................2

3. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................2

5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3

6. Kết cấu tiểu luận............................................................................................3

B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ


TRÍ, VAI TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI..............4

1.1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các
lĩnh vực khác.................................................................................................4

1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa:....................................4

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các
lĩnh vực khác.............................................................................................6

1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò và vị trí của văn hoá.. 7

1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng...............7

1.2.2. Văn hóa là một mặt trận..................................................................8

1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân.........................................10

1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới......................11

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VỀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ


MINH ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM, TIÊN
TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY................................................................................................................13

2.1 Tổng quan về bối cảnh văn hoá trong nước..........................................13

2.2. Khái quát về nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc............14

2.3. Thực trạng về nền văn hoá VN là văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc................................................................................................................17

2.3.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến bản săc văn hoá dân tộc..................17

2.3.2 Sự lãnh đạo của Đảng trên cương lĩnh phát huy nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến và đâm đà bản sắc dân tộc................................................25

2.4.Ý nghĩa đối với việc xây dựng nền văn hoá đâm đà bản sắc dân tộc....27

2.5. Giải pháp, vai trò, trách nhiêm của viêc bảo vệ nền văn hoá tiên tiến và
đâm đà bản săc dân tộc................................................................................28

2.5.1. Vai trò............................................................................................28

2.5.2. Giải pháp để phát huy và giữ gìn nền văn hoá tiên tiến và đâm đà
bản săc dân tộc........................................................................................29

2.5.3. Trách nhiêm của toàn dân trong việc giữ gìn và phát huy nền văn
hoá tiên tiến và đâm đà bản săc dân tộc..................................................30

C. KẾT LUẬN................................................................................................32

PHỤ LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa thế giới đồng thời Người cũng là
một nhà văn hoá kiệt xuất, là người anh hùng giải phóng dân tộc, sở dĩ nói như thế bởi
vì sự nghiệp mà Người đã cống hiến cho dân tộc, cho nhân loại là vô cùng lớn lao, cao
cả. Người đã dành cả cuộc đời mình để học hỏi những cái hay từ nhiều nơi trên thế
giới và rồi trở về nơi chôn nhau cắt rốn, dựa trên những bài học, những kinh nghiêm
mà Người đã tích luỹ được tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự
do cho Tổ quốc, cho quyền làm người của cả dân tộc, đưa đất nước ta trở thành đất
nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, Hồ Chủ tịch đã giành lại vị trí xứng
đáng cho nền văn hóa Việt Nam trong nền văn hóa thế giới.

Trong khi vấn đề toàn cầu hóa kinh tế đang kéo theo những thay đổi lớn lao của
thế giới và làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống của con người thì các vấn đề về
văn hóa và chính trị toàn cầu như: Chủ nghĩa nhân đạo, hòa bình, hợp tác và cùng phát
triển cũng nổi lên trở thành trọng điểm cho các cuộc đàm phán quốc tế.

Đầu thế kỷ XXI, đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công cuộc đổi mới ở
nước ta, cùng với đó là sự phát triển kinh tế, các vấn đề về con người, văn hóa cũng
như mối quan hệ trong nền tảng của xã hội được quan tâm ngày một nhiều hơn. Một
trong những biểu hiện cụ thể đó là chủ trương phát triển xã hội đã ghi nhận được sự
đổi mới trong tư duy lý luận của Đảng về vai trò của con người và văn hóa. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII đã xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy vậy, những biến động sâu sắc trong phạm vi toàn cầu cùng với những diễn
biến và thâm nhập vô cùng phức tạp của đời sống xã hội đã tạo ra nhiều thách thức
mới cho văn hóa. Đây là lúc đòi hỏi người Việt Nam chúng ta phải có tinh thần dân tộc
vững vàng để vượt qua những cú sốc về văn hóa. Bởi vì các yếu tố con người là sức
mạnh nội sinh của văn hóa, là nguồn lực chủ yếu, cũng như cơ bản nhất để thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện và có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.

1
Thực tiễn cho thấy văn hóa Việt Nam đề cao vai trò của văn hoá trong sự phát
triển bền vững vì sự tiến bộ của xã hội. Chính vì lẽ đó nên nhóm chúng em đã quyết
định chọn đề tài cho bài tiểu luận là: “Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí,
vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội. Ý nghĩa của quan điểm này đối việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện
nay.” Cho bài tiểu luận cuối kì môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.

2. Đối tượng nghiên cứu


Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của văn hoá trong đời sống
xã hội

Những chủ trương và quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam, ý nghĩa vận dụng quan
điểm Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của văn hoá trong việc xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay

3. Mục tiêu nghiên cứu


 Về kiến thức:

Mục tiêu nghiên cứu là hướng tới việc làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí vai
trò của văn hoá trong đời sống xã hội. Ý nghĩa của quan điểm này đối việc xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

 Về kỹ năng:
o Nâng cao tính làm việc nhóm, thành thục kỹ năng trình bày văn bản, trình
chiếu, báo cáo
o Học hỏi thêm kỹ năng giải quyết tình huống
o Vận dụng kiến thức được học để giải quyết vấn đề
 Về thái độ:
o Nghiêm túc thực hiện, kiên trì, siêng năng, năng động
o Có tinh thần học hỏi

4. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Làm rõ vị trí, vai trò, của văn hoá trong đời sống xã hội

2
- Làm sáng tỏ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí vai trò của văn hoá trong
chủ trương đường lối của Đảng dựa trên nền tảng liên minh công nông trí.

- Làm rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn
hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu


Vận dụng, kết hợp chặt chẽ các phương pháp như: phương pháp logic, phương
pháp lịch sử; phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, ….Có thể tìm hiểu
thêm về một số bài viết,diễn đàn,sách truyện để tìm ra dữ liệu chính xác.

6. Kết cấu tiểu luận:


Gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo

Về nội dung gồm hai chương:

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA VĂN HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.

CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VỀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM, TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN
SẮC DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

3
B. NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI
TRÒ CỦA VĂN HOÁ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
1.1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa:

Văn hóa là một lĩnh vực rất rộng, vô cùng phong phú và đa dạng, thấm sâu trong
toàn xã hội và đời sống con người, vì thế có rất nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau
về văn hóa. Riêng phần mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu định nghĩa giản dị mà sâu
sắc về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (1). Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải đem văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,
tự cường, tự chủ”. Người nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn
vấn đề cùng phải chủ ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hóa”(2). Tư tưởng của Người một mặt nhấn mạnh vai trò quan trọng của văn hóa,
ngang với các lĩnh vực trọng yếu khác, mặt khác phê phán quan niệm coi nhẹ công tác
văn hóa, không thấy vai trò nền tảng, vai trò sáng tạo, dẫn dắt của văn hóa.

Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:

 Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
 Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
 Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
 Xây dựng chính trị: dân quyền.

1()
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.458
2()
Hồ Chí Minh: (1997). Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.11
4
 Xây dựng kinh tế
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hóa được hiểu theo cả ba nghĩa rộng,
hẹp và rất hẹp.
- Theo nghĩa rộng: văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài
người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (3). Định nghĩa về văn hóa
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khắc phục được những quan niệm phiến diện về văn hóa
trong lịch sử và hiện tại.
- Theo nghĩa hẹp: văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: “Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”.
- Theo nghĩa rất hẹp: văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của con người, thể
hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải đi học “văn hóa”, “xóa mù chữ”, coi
dốt là một thứ giặc nguy hại của dân tộc, sự phát triển đất nước.

Người nêu quan điểm “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, “Văn hóa, nghệ
thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và
chính trị”, cần đoàn kết tập hợp đội ngũ trí thức, những nhà văn hóa và toàn quân, toàn
dân phấn đấu cho sự nghiệp “phò chính, trừ tà”, góp phần quan trọng vào việc nhân
đạo hóa con người, cổ vũ con người vươn tới chân, thiện, mỹ. Văn hóa phải “gắn liền
với lao động, sản xuất, văn hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông”. Người đề
ra chủ trương diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, khơi dậy phong trào bình dân
học vụ, bổ túc văn hóa để dồn sức xóa nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Văn hóa phải thấu hiểu và đi sâu
vào đời sống, “bày tỏ được cái tinh thần anh dũng và kiên quyết của quân và dân ta,
đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Để
phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về
nội dung và dân tộc về hình thức”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân tộc bị áp bức, thì
văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng” .

3()
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2002, t.3, tr.431
5
Suốt hơn 90 năm qua, tư tưởng chiến lược của Người đã được quán triệt sâu sắc và
thực hiện có hiệu quả. Trong suốt quá trình đó, cùng với biến đổi, phát triển của thực
tiễn và của tư duy, các quan điểm, đường lối về văn hóa của Đảng được kế thừa, bổ
sung và phát triển. Trải qua các giai đoạn cách mạng và các kỳ Đại hội, trên cơ sở chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Đảng ta không ngừng kế thừa
và phát triển các chủ trương, đường lối, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để tiếp tục
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam từng bước trở thành nền tảng tinh thần
của xã hội, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc.

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh
vực khác
- Quan hệ giữa văn hóa với chính trị: Hồ Chí Minh cho rằng trong đời sống xã
hội có bốn vấn đề phải được coi là quan trọng ngang nhau và có sự tác động qua lại lẫn
nhau, đó là chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng chính trị có được
giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho
văn hóa phát triển. Người nói: “dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô
lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được”. Để văn hóa phát
triển tự do phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam thời thuộc địa, tiến hành
cách mạng chính trị thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành
chính quyền, xóa ách nô lệ, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Từ đó, giải
phóng văn hóa mở đường cho văn hóa phát triển. Tuy vậy, văn hóa không thể đứng
ngoài mà phải ở trongchính trị, tức là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị.
- Trong quan hệ với kinh tế: Hồ Chí Minh giải thích văn hóa là một kiến trúc
thượng tầng, kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa.
Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, văn hóa không hoàn toàn
phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế. Tóm lại, sự phát
triển của chinh trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển; ngược lại, mỗi bước
phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.
- Quan hệ văn hoá với xã hội: theo Hồ Chí Minh xã hội thế nào thì văn hóa thế
ấy. Văn học nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú , nhưng chế độ nô lệ của

6
kẻ áp bức, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được. Phải làm
cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính
trị, giải phóng xã hội, đưa Đảng CSVN lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được
văn hóa.
Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại:
 Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu
của con người Việt Nam.
 Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Theo Người, mục
đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn
hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.

1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò và vị trí của văn hoá.
1.2.1. Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng
Văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và cũng
là động lực để thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Văn hóa trong lịch sử góp phần
hình thành tính cách của mỗi con người, và hơn hết là xây dựng nên bản sắc của một
dân tộc. Ở thời điểm hiện tại, văn hóa là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh của
một quốc gia trên trường quốc tế.

Văn hóa là mục tiêu - nhìn một cách tổng quát là khát vọng của nhân dân về các
giá trị chân, thiện, mỹ. Đó là một xã hội mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân luôn luôn được quan tâm và không ngừng nâng cao, con người có điều kiện phát
triển toàn diện.

Văn hóa là động lực. Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Tất cả đều quy
tụ ở con người và có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, nếu tiếp cận
các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể nhận thức ở
các phương chủ yếu diện sau.

Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm lạc quan
cách mạng. Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho
quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Văn hóa giáo

7
dục là diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật phát triển của xã
hội; đào tạo con người mới, cán bộ mới, nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
cách mạng. Văn hóa đạo đức lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho
con người, hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Văn hóa pháp luật bảo đảm
dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.

Nhắc tới văn hóa, không thể không nhắc tới văn hóa tinh thần. Do những điều kiện
tự nhiên và lịch sử, trong trái tim mỗi con người Việt Nam dần hình thành một tinh
thần yêu nước nồng nàn, chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất
nước, sự cần cù, chăm chỉ và sáng tạo trong lao động sản xuất, cũng như một tấm lòng
nhân văn, khoan dung và cởi mở.

Văn hóa là “vũ khí tinh thần” của cả dân tộc, được hun đúc và lưu truyền qua
nhiều thế hệ, “rực lửa cháy” cùng với ý chí quật khởi, kiên cường ở từng giai đoạn của
lịch sử. Từ “Nam quốc sơn hà” của thời Lý, “Hịch tướng sĩ” của thời Trần, “Bình ngô
đại cáo” của thời Lê, cho tới “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Lời kêu gọi toàn
quốc chống Mỹ cứu nước” của Hồ Chủ tịch, như một lời hiệu triệu tinh thần yêu nước
của cả dân tộc, góp phần vào từng thắng lợi của đất nước trước bất kể giặc ngoại xâm
nào. Văn hóa nói chung và văn hóa tinh thần nói riêng đóng một vai trò hết sức ý
nghĩa trong tạo dựng sức mạnh của mỗi quốc gia.

1.2.2. Văn hóa là một mặt trận


Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa là một mặt trận, tức khẳng định vai trò, vị trí của
văn hóa trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa cũng có tầm quan trọng như
mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị.

Hồ Chí Minh coi mặt trận văn hóa như cuộc chiến khổng lồ giữa chính và tà, giữa
cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đó rất quyết liệt, rất lâu dài, song cũng rất
vẻ vang. Trong cuộc chiến đó người nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
đấu tranh. Trước khi giành lấy chính quyền văn nghệ có nhiệm vụ thức tỉnh quần
chúng, tập hợp lực lượng, cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách mạng. Sau khi có chính
quyền, văn nghệ phải tham gia vào công cuộc bảo vệ và xây dựng chế độ mới, xây

8
dựng con người mới. Mặt trận văn nghệ lúc này còn gay go hơn, quyết liệt hơn, bởi
thắng đế quốc thực dân đã khó, thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó hơn nhiều.

Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó, Hồ Chí Minh yêu cầu “chiến sĩ nghệ thuật cần
phải có lập trường vững vàng, tư tưởng đúng…Đặt lợi ích của kháng chiến, của tổ
quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải ngòi bút là vũ khí sắc bén trong sự
nghiệp “phò chính trừ tà”. Phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi sâu vào quần chúng, để
phê bình nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu, và
ca tụng chân thật những người tốt việc tốt để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay
và giáo dục con cháu đời sau. Đó chính là “chất thép” của văn nghệ theo tinh thần
“kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến.

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Đảng ta và Bác Hồ luôn xác
định: văn hóa là một mặt trận quan trọng, “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” (4);
văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định: văn hóa là
một mặt trận quan trọng; văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng.
Trong thời kỳ Đổi mới, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm kế thừa, phát triển tư duy lý
luận về văn hóa và chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam, coi văn hóa là nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và thực hiện khát vọng
xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng. Nội
dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống. Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa, anh chị em nghệ sỹ là
chiến sĩ có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; Chiến sĩ nghệ thuật phải
bám sát cuộc sống thực tiễn, đi vào quần chúng, phê bình nghiêm khắc những thói
xấu; phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng và thời đại vẻ vang.

Việc xây dựng văn hóa trong chính trị được triển khai gắn với việc đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng văn hóa trong
kinh tế bước đầu có chuyển biến tốt hơn cả về nhận thức và hành động, thể hiện ở văn
4()
Hồ Chí Minh (1997) Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.11
9
hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, văn hóa kinh doanh. Một số ngành công
nghiệp văn hóa của nước ta có bước đổi mới, phát triển như điện ảnh, âm nhạc, nghệ
thuật biểu diễn, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ, thời trang, du lịch văn hóa...

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, góp phần quảng bá hình ảnh
đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới, thúc đẩy hội nhập, giao lưu quốc tế
về văn hóa. Góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trước yêu cầu mới

1.2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân


Mục tiêu của văn hóa là phục vụ quần chúng. Do vậy, mọi hoạt động văn hóa phải
trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng
của quần chúng.

Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III (ngày 1/12/1962) Hồ Chí Minh nói với
văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời
đại vẻ vang của chúng ta”. Tác phẩm xứng đáng với thời đại phải là những tác phẩm
vừa hay, vừa chân thật. Người nói: “quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội
dung chân thật và phong phú, có hình thức sáng tạo và vui tươi. Khi chưa xem thì
muốn xem, xem rồi thì bổ ích”. Đó là một tác phẩm hay. Một tác phẩm hay là tác
phẩm diễn đạt vừa đủ điều muốn nói, ai đọc cũng hiểu được và khi đọc xong phải suy
ngẫm. Tác phẩm đó phải kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc, mang hơi thở của thời đại,
phản ánh chân thật những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán cái dở, cái xấu, cái
sai, hướng nhân dân đến cái chân, cái thiện, cái mĩ.

Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên
nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong rất nhiều bài nói và bài viết, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc
Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử.

Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,

10
“nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân” (5). Vì vậy, văn hóa cũng phải
thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì nhân dân phục vụ và phát huy sứ mạng của toàn
dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn
và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi tầng lớp Nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã hội, các
đoàn thể, tôn giáo, nhà trường và gia đình… tham gia tích cực, thường xuyên, liên tục,
bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện được những nhiệm vụ đã đề ra.

Bác chỉ ra rằng, văn hoá phải trở về với sinh hoạt thực tại của con người; phải
miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn. Muốn vậy phải có cách viết hợp trình độ đại
đa số đồng bào. Khi cầm bút viết phải tự đặt ra: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài
liệu đâu mà viết? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ...
Nói cũng vậy: “Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn, thì quần chúng
thích hơn”(6).

1.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hóa, do vậy văn hóa
phải phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Vì nhân
dân cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu đáng giá và họ là những
người đánh giá chính xác các sản phẩm nghệ thuật. Đối với chúng ta việc xây dựng
nền văn hóa có tính văn minh gắn liền với nhân dân luôn được quan tâm một cách đặc
biệt. Vì vậy, có người luôn nhắc nhở những người làm công tác văn hóa phải quan tâm
hơn đến đối tượng phục vụ là nhân dân. Văn hóa phục vụ nhân dân là phải diễn tả cho
hay cho đúng, cho thật, cho hùng hồn. Viết là phải thiết thực, tránh lối viết rối rắm mà
ham dùng chữ và nói cũng không ngoại lệ, nói ít nhưng nói cho thấm, nói chắc chắn
thì quần chúng ủng hộ hơn. Tóm lại “từ trong quần chúng ra. Về sau trong quần
chúng”(7).

Ngay từ những ngày đầu tiên hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh, trong khi lên án
nền giáo dục đầy tính thực dụng, chính sách ngu dân của Pháp ở Việt Nam cực kỳ
thâm độc, đã quan tâm tới việc xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, vững chắc hơn,

5()
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, t.7, tr.434.
6()
Hồ Chí Minh toàn tập (1995), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 11, tr.329-332, 350.
7()
Hồ Chí Minh - Toàn tập (2011), Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội tr. 248, 505, 239, 266.
11
lâu dài trên tất cả mọi lĩnh lực và trong đó có cuộc cách mạng tạo nên lĩnh vực văn
hóa. Tháng 8 năm 1943, Hồ Chí Minh đã có dự định xây dựng một nền văn hóa mới
gồm 5 điểm lớn: “Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. Xây dựng luân lý: biết
hi sinh chính mình, làm lợi cho quần chúng nhân dân. Xây dựng xã hội: mọi điều có
liên quan đến quyền lợi của nhân dân trong xã hội. Xây dựng chính trị: dân quyền.
Xây dựng kinh tế”.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, trong khi đang tiến hành đẩy mạnh cuộc
kháng chiến trường kì, gian khổ, chống Pháp. Hồ Chí Minh đã khẳng định lại quan
điểm của Đảng ta từ năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam về phương châm
xây dựng nền văn hóa mới. Đó là một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học và
đại chúng và Người cũng đã xác định rõ vai trò của văn hóa, kết hợp chặt chẽ văn hóa
với kháng chiến “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, kết hợp văn hóa
với kiến quốc.

Trong nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới, người luôn lưu ý đến ba nội dung với
ý nghĩa là tính chất của nền văn hóa mới: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Trong thời kỳ
nhân dân miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, người đã chủ trương xây dựng nền
văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất độc đáo dân tộc. Quan điểm của
Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam có sự vận dụng sáng tạo, trí óc
và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Người quan tâm từ sớm và rất sớm, khi đang tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc. Người đã chủ trương xây dựng nền văn hóa toàn
diện, bao gồm văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt người nhấn mạnh về những
nét đặc sắc trong đạo đức của nền văn hóa phương Đông.

Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, đó
là là một nền văn hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc, bảo đảm tính
khoa học, tiến bộ và nhân văn.

12
CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA VỀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM, TIÊN TIẾN, ĐẬM
ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
2.1 Tổng quan về bối cảnh văn hoá trong nước

Bối cảnh lịch sử trong nước vào những năm đầu thế kỷ XXI, sau gần ba mươi năm
đổi mới nổi lên một số đặc điểm lớn tác động trực tiếp tới việc phát huy vai trò của văn
hoá trong sự phát triển.

Trong quá trình đổi mới, đất nước đã thu được những thành tựu quan trọng trên tất
cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, quan hệ quốc tế,
tạo cho nước ta những tiềm năng, thế mạnh, vị thế mới để bước vào thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều dễ nhận thấy nhất là cơ sở vật chất - kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường. Đất nước ta còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên,
nguồn lực lao động. Tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình,
sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều kiện cho
chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực - nguồn vốn,
công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, phân công lao động, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức
nhằm không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.

Tuy nhiên, đất nước đang phải đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức, thể hiện rõ
nhất, tập trung nhất ở bốn nguy cơ: Nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong
khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ “diễn biến
hoà bình”; nguy cơ tham nhũng, quan liêu.
Cách mạng trên lĩnh vực văn hoá là một quá trình đổi mới sâu sắc bao gồm bảo vệ,
chấn hưng, kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội công
bằng dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người cách mạng trên
lĩnh vực văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá là phải chống lại tư tưởng, văn hoá phản
tiến bộ, lai căng trái với truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao
quý của loài người, trái với tư tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là làm

13
cho văn hoá phát huy được vai trò nền tảng tinh thần xã hội của mình. Để làm được
những điều đó, sự lãnh đạo của Đảng ta đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
2.2. Khái quát về nền văn hoá tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc
 Nền văn hoá tiên tiến
Nghị quyết hội nghị Trung Ương 5 khoá VII đã nêu rõ tiên tiến là yêu nước và tiến
bộ mà nội dung cốt lỏi là lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội theo Chủ
Nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu chung đó là vì con người,vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong các mối
quan hệ hài hoà giữa cá nhân với cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội. Tiên tiến không
chỉ đề cập về mặt nội dung tư tưởng mà còn đề cập cả về mặt hình thức biểu hiện, và
các phương tiện chuyển tải nội dung.
Theo đó, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa đã được chắt lọc trên nền văn hóa
truyền thống, loại bỏ đi những phong tục cỗ hủ, lạc hậu, những hủ tục mang tính phản
khoa học, nền văn hóa tiên tiến chỉ để lại những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
đầy tính nhân văn để biểu trưng cho toàn dân tộc. Cũng như tiếp thu nền văn hóa
phương Tây hay các nước văn hóa phương Đông khác nhau, những sự tân tiến nhưng
có sự chọn lọc chỉ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp và phù hợp với truyền thống, đạo
đức con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.
Như vậy, nền văn hóa tiên tiến có thể được cụ thể hoá bằng những khiá cạnh cơ
bản sau:
- Tiên tiến về trình độ học vấn, về dân trình độ khoa học và công nghệ;
- Tiên tiến về tư tưởng, đạo đức, tinh thần, tình cảm lối sống;
- Tiên tiến còn là sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống cả về hình thức vàn
nội dung.
 Nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc
Bản sắc văn hóa của một dân tộc là những đặc trưng về văn hóa, về đời sống tinh
thần của dân tộc ấy, chỉ dân tộc ấy mới, là những nét đặc biệt , độc đáo về tinh thần về
văn hóa, về cách sống và sực sáng tạo để phân biệt với dân tộc này với dântộc khác.
Mất bản sắc văn hóa dân tộc tức là dân tộc đã bị đồng hoá chỉ còn lại cáivỏ vật chất.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc
truyền từ đời này sang đời khác, là tổng hợp các giá trị tinh thần của dân tộc. Nghị
14
quyết Trung ương V đã nêu rõ :”Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của những cộng đồng của các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết , ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình-làng xã-tổ quốc,lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản
sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc
đáo”
Qua đó ta thấy rằng bản sắc văn hóa là tổng hợp các giá trị tinh thần của dântộc.
Thể hiện :
-Lòng yêu nước, quê hương, tinh thần bất khuất chiến đấu cho độc lập tự do.
-Tinh thần nhân nghĩa, nhân ái, sống có tình nghĩa, thuỷ chung trong gia đình,
với làng xóm, với cộng đồng, yêu thương quý trọng con người.
-Tinh thần tôn trọng lẽ phải yêu quý cái đẹp, cái hay.-Sự tế nhị trong tâm hồn
trong phong cách giao tiếp
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng Trung ương (khóa VIII) tháng 7 năm
1998, đã ra Nghị quyết chuyên đề về: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, xác định những quan điểm cơ bản:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Quan điểm chỉ rõ vai trò to lớn của văn hóa
trong tiến trình lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. văn hóa không phải là kết quả
thụ động, yếu tố đứng bên ngoài, bên cạnh hoặc đi sau kinh tế, phụ thuộc hoàn toàn
vào trình độ phát triển kinh tế mà văn hóa vừa là mục tiêu, vừa động lực thúc đẩy kinh
tế. “Văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng
gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi sinh hoạt và quan hệ
con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp”.
Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ, trong đó, cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc
và CNXH theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả
vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người
trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc
15
dân tộc bao gồm những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là, lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – Tổ quốc; lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong
ứng xử, tính giản dị trong cuộc sống; dũng cảm, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Đây là tư tưởng tiến bộ và nhân văn, phù hợp với thực
tiễn của cộng đồng 54 dân tộc đang sinh sống ở Việt Nam và xu thế chung của cộng
đồng quốc tế đang hướng tới xây dựng một công ước quốc tế về đa dạng văn hóa hiện
nay.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Quan điểm xác định trách nhiệm
của mọi người dân Việt Nam đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa
nước nhà; công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đồng thời là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân, giữ vai trò quan trọng, là
lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Năm là, văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Quan
điểm chỉ rõ: Cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa hiện nay đang
diễn ra hết sức nóng bỏng, quyết liệt, phức tạp. Văn hóa là một lĩnh vực hết sức nhạy
cảm và khác với các hoạt động kinh tế. Tuy không trực tiếp tạo ra của cải vật chất,
nhưng các hoạt động văn hóa luôn mang ý nghĩa chính trị – xã hội, có tác động sâu sắc
đối với đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán cộng đồng. Vì vậy, cần phải tiến
hành một cách kiên trì, thận trọng, tránh nóng vội, chủ quan, duy ý chí; phát huy tinh
thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân trong xây dựng và phát
triển văn hóa; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động của xã hội, vào từng con

16
người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, cũng như mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người trong xã hội.
Ví dụ về nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: Hằng năm, nước ta diễn ra
rất nhiều các lễ hội khác nhau, nhằm thể hiện nét đẹp truyền thống từ xa xưa và giữ gìn
bản sắc dân tộc. Một số lễ hội điển hình như:
- 10/3 âm lịch diễn ra ngày giỗ tổ Hùng Vương
- 20/1 âm lịch diễn ra lễ hội Đền Qủa Sơn (Nghệ An)
- Lễ hội chùa Hương đầu năm mới
- 8/4 âm lịch diễn ra lễ hội Thánh Gióng
- ....

2.3. Thực trạng về nền văn hoá VN là văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
2.3.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến bản săc văn hoá dân tộc
 Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế:
Theo tác giả Bùi Thanh Quất, “Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền,
các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng
thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô
toàn cầu. Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở
cộng đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng
người khác trên quy mô toàn thế giới”(8).
Không một dân tộc, một quốc gia nào có thể phát triển trong trạng thái biệt lập,
khép kín, giải quyết các các vấn đề của mình một cách độc lập, nằm ngoài xu thế của
thế giới. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đòi hỏi chúng ta phải
chủ động và tích cực hội nhập. Do quá trình liên kết toàn cầu hóa đã hình thành một
thị trường thống nhất, sự lưu thông tự do hàng hóa và phổ biến thông tin trên thế giới.
Theo đó, đã làm liên thông các nền văn hóa với nhau, các cộng đồng dân cư di chuyển
từ nơi này sang nơi khác dẫn tới hiện tượng giao lưu văn hóa một cách đa chiều. Việc
giao lưu văn hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác nhận và đánh giá lại các giá trị
truyền thống một cách chân thực, khách quan, đồng thời cũng sẽ thúc đẩy việc tiếp
nhận những giá trị mới làm phong phú và tăng cường sức sống cho hệ giá trị của xã

8()
Bùi Thanh Quất. Tạp chí Cộng sản, 2003. – Số 27. tr.11-14.
17
hội. Đây cũng là cơ hội để có thể học hỏi những cái huy, cái đẹp nhằm góp phần phát
triển đất nước một cách nhanh chóng và có hiệu quả, nhưng cũng là thách thức lớn lao
đối với nước ta trên nhiều mặt, trong đó văn hóa chiếm một vị trí vô cùng quan trọng.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tác động đến văn hóa theo nhiều chiều hướng
khác nhau, nhưng khái quát lại sự tác động diễn ra theo hai hướng cơ bản là tích cực
và tiêu cực.
o Về mặt tích cực, toàn cầu hóa góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa
học của xã hội, thể hiện ở việc phổ biến các giá trị văn hóa công nghệ, văn hóa
thông tin cùng các hoạt động và loại hình văn hóa mới phục vụ cho việc nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân, giúp các quốc gia đạt mục tiêu phát triển văn
hóa nhanh hơn. Những nước tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế sớm và có chiều sâu sẽ có nhiều cơ hội, tranh thủ được nguồn vốn, khoa học -
công nghệ, thị trường, phân công lao động quốc tế. Qua đó, chúng ta có thể tiếp
cận, cập nhật các nguồn thông tin, tri thức khổng lồ của thế giới từ đó sẽ làm cho
trình độ dân trí của người Việt Nam được nâng lên, đặc biệt là người lao động sẽ
có tư duy sắc bén, năng động và linh hoạt trong mọi tình huống, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
cũng sẽ tăng nhanh, tích lũy và tạo dựng được một cơ sở vật chất hiện đại, lớn
mạnh, mở ra nhiều cơ hội giao lưu văn hóa trên thế giới. Thật vậy, giao lưu rộng
rãi về văn hóa đã giúp cho chúng ta có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi, hiểu biết
ngày càng sâu sắc hơn nữa về các nền văn hóa ở các nước trên thế giới, tiếp thu
một cách có chọn lọccác tinh hoa trên thế giới để bổ sung và làm phong phú thêm
cho các giá trị truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời, qua đó cũng giới thiệu với
các nước trên thế giới về những nét đẹp, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của
con người Việt Nam điển hình phải kể đến hình ảnh người phụ nữ Việt Nam
duyên dáng cùng tà áo dài thướt tha toát lên vẻ đẹp truyền thống, mang đậm bản
sắc văn hoá dân tộc
o Về mặt tiêu cực: Chính quá trình toàn cầu hóa có thể kéo theo những rủi
ro điển hình như cơ hội và lợi ích kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia.
Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế nước ta đang có tiềm lực nhỏ bé sẽ có thể
gặp nhiều bất lợi. Theo đó, khiến các quốc gia đang tiếp nhận nhiều nguồn lực từ
18
bên ngoài trở nên phụ thuộc nhiều về kinh tế, từ đó dẫn đến phụ thuộc nhiều hơn
về chính trị và văn hóa, ở nước ta các thể chế về văn hóa chưa phát triển, các “rào
chắn” ngăn cản các tác động tiêu cực về văn hóa còn chưa hiệu quả và đồng bộ.
Vì vậy, toàn cầu hóa có thể dẫn đến nguy cơ du nhập ồ ạt các luồng văn hóa từ
bên ngoài như: sách, báo, phim ảnh,... có chứa nội dung không lành mạnh, kích
động bạo lực nhập lậu vào nước ta. Theo đó, đã gây ra những tác động xấu đến
đạo đức, lối sống, tư tưởng phản động đi ngược lại các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, làm cho các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã
vốn có vị trí quan trọng trong hệ giá trị văn hóa truyền thống của người Việt Nam
đang có nguy cơ xuống dốc, tha hóa và mai một. Lấy ví dụ từ thực tế ta có thể
thấy rằng, ở khá nhiều vùng miền cả thành thị hay là nông thôn, một bộ phận nhỏ
người dân có lối sống ích kỷ hẹp kiểu “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những lối sống
tình nghĩa như “Lá lành đùm lá rách”, “tắt lửa tối đèn có nhau” đều sẽ bị ảnh
hưởng và phai nhạc dần. Thay vào đó, là lối sống xa lạ trái với thuần phong mỹ
tục của dân tộc đã xuất hiện. Một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ hiện nay có tâm
lý sống buông thả, quay lưng lại với giá trị đạo đức truyền thống văn hóa của dân
tộc.
 Sự tác động của cuộc cách mạng 4.0:

Cuộc cách mạng này đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong lịch sử loài người
nhờ những đột phá về công nghệ bằng trí tuệ nhân tạo, người máy, công nghệ in 3D,
công nghệ nanô, công nghệ điện toán đám mây, công nghệ vật liệu mới, các thiết bị di
động, khả năng kết nối bằng máy tính, những tính năng xử lý thông tin tăng lên gấp
nhiều lần so với trước và đã mở ra thời kì của kỹ nguyên số, internet xuất hiện. Nếu
như cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 3 với đặc trưng là sử dụng hiệu quả
nguồn năng lượng truyền thống đã xóa đi ranh giới giữa các quốc gia, dân tộc ở lĩnh
vực kinh tế và tri thức khoa học thì cuộc cách mạng 4.0 đã chứng minh tri thức khoa
học, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo có sức mạnh mang tính vật chất to lớn cho phép cải tạo
thế giới ở trình độ cao. Tạo cho con người có thể nhìn thế giới một cách rộng hơn học
hỏi nhiều hơn, cũng như tìm hiểu được nhiều nền văn hoá trên thế giới thông qua lăng
kính mà cuộc cách mạng công nghiệp mở ra

19
o Về mặt tích cực: Nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, hệ thống
internet đã kết nối mở rộng tầm giao lưu văn hóa, giao tiếp giữa những người ở
các vùng miền trong một đất nước, các quốc gia, lãnh thổ khác nhau, ranh giới
giữa các dân tộc ngày một xích lại gần hơn. Vì vậy, đổi mới tính sáng tạo từ con
người, đồng thời ứng dụng tính đổi mới sáng tạo vào đời sống cần được nâng
cao. Cùng với đó, cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đòi hỏi mỗi quốc gia
cần phải xây dựng một hệ thống đổi mới sáng tạo nhằm mục đích chuyển đổi nền
công nghiệp hiện hành lên một vị thế khác mang tầm giá trị, xây dựng một nền
văn hóa năng động, sáng tạo và hiệu quả.
o Về mặt tiêu cực: văn hóa thường mang trong mình tính dân tộc, tính bản
địa rất sâu sắc thì hiện nay với sự tác động ảnh hưởng của cách mạng công
nghiệp 4.0 bản chất đó đã có nguy cơ bị phai nhạt. Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư đã tạo ra những sản phẩm mới mang tính hấp dẫn, lôi cuốn người dùng
nhưng bên cạnh đó cũng làm nảy sinh các hiện tượng, các trào lưu tôn sùng
“hàng ngoại”, không chỉ về sản phẩm vật chất mà còn ở lĩnh vực văn hóa tinh
thần, phong cách, lối sống, giao tiếp, ứng xử. Những nét đẹp trong giao tiếp,
quan hệ xóm giềng “tình làng, nghĩa xóm”, dần bị mai một, mất đi. Những giá trị
văn hóa, chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ
đang có nguy cơ bị mai một. Cùng với đó, là các thói quen trong nhận thức của
con người cũng đang thay đổi từng ngày. Những mối quan hệ ảo, giao tiếp rộng
rãi nhưng lại hạn chế chiều sâu có xu hướng ngày một tăng lên.
 Sự tác động của tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về mặt quy mô sản lượng quốc gia tính bình
quân trên đầu người (PCI) hay sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản lượng quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định. Sự tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc vào bốn nhân tố đó là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Ở
mỗi quốc gia khác nhau, các nhân tố này có sự khác nhau và có sự phối hợp khác nhau
để đạt hiệu quả tương ứng. Công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta trong những năm
qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn hóa. Sự tác động của phát triển
kinh tế đến văn hóa cũng diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau

20
o Về mặt tích cực: sự tác động phát triển kinh tế đến văn hóa đầu tiên phải
kể đến đó là đã xây dựng một lối sống tích cực, tiến bộ cho con người Việt Nam
với những giá trị bền vững, tinh hoa tốt đẹp ngàn đời của dân tộc vẫn được kế
thừa và tiếp tục phát huy như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn,
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường, coi trọng đạo lý, thủy chung… Các hoạt
động từ thiện, chia sẻ giúp đỡ những người gặp khó khăn hoạn nạn, tương thân,
tương ái, lá lành đùm lá rách, các hoạt động của sinh viên tình nguyện như hoạt
động “Mùa hè xanh”, đã được nhân rộng, nở rộ ở nhiều nơi trên cả nước. Sự phát
triển của nền kinh tế thị trường với những tác động như tính minh bạch, công
khai, dân chủ đã điều chỉnh các hành vi và suy nghĩ của con người nhằm nâng
cao ý thức, tổ chức, kỷ luật và trách nhiệm trong mọi hoạt động của đời sống xã
hội, trong công việc cũng như trong sinh hoạt.
o Về mặt tiêu cực: Mặt trái của nền kinh tế thị trường, thói vụ lợi và lối
sống thực dụng đã làm tha hóa con người dẫn đến tình trạng một số người coi
đỉnh cao của đời sống chính là địa vị và tiền bạc, một số cá nhân đã bất chấp mọi
thủ đoạn nhằm đạt được mục tiêu lệch lạc đó. Các hiện tượng xuống cấp về mặt
đạo đức, tha hóa con người, các bất cập của nghành giáo dục và y tế như việc
chạy theo bằng cấp, chạy theo thành tích ngày càng nhiều và đang diễn ra ở nhiều
nơi trong cả nước. Các quan hệ từ lâu đã có truyền thống tốt đẹp thì nay dưới tác
động của nền kinh tế thị trường cũng bị ảnh hưởng. Ở một số nơi trên cả nước
các giá trị văn hóa tốt đẹp cuả dân tộc đã bị mờ nhạt, đã bị thương mại hóa như
quan hệ thầy trò, quan hệ thầy thuốc và bệnh nhân. Những hình ảnh “cô giáo như
mẹ hiền”, “lương y như từ mẫu”, “nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… có phần bị phai
nhạt. Chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
 Sự ảnh hưởng của các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn
hóa đến giá trị văn hóa truyền thống:

Trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp
của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”, Nghị quyết Đại hội VII, Hiến

21
pháp 1992, Điều 30 đã quy định: “ Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa
Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy những giá trịcủa nền văn
hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước
thống nhất quản lý sựnghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản
động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã
đề ra một số quan điểm về văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội; Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân
tộc, dân chủ và khoa học; Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đại hội Đảng lần thứ XII khẳng định: “Huy
động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo
tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”. Đồng thời Văn kiện Đại
hội đã XII cũng nhấn mạnh: “Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện
có kết quả mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học”

Những quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về văn hóa trong
thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước đã có ảnh hưởng tác động rất lớn trong việc giữ
gìn, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa truyền thống và sức mạnh tinh thần thời đại của
con người Việt Nam, ngăn chặn tình trạng xuống cấp, lạm dụng, lợi dụng các di tích
lịch sử, di sản văn hóa dân tộc. Đồng thời, nó cũng tác động mạnh mẽ trong công cuộc
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nhìn chung lại, trong những năm 1986-2005, nền văn hoá Việt Nam đạt được
những mặt tích cực như sau:

22
o Văn hoá góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, tham gia tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
o Tính chủ động sáng tạo của nhân dân được phát huy, tính dân chủ trên
các lĩnh vực xã hội được mở rộng.
o Phát huy đuược tính tích cực tự giác của nhân dân tham gia vào các hoạt
động văn hoá, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn ho” để tạo nên sự chuyển biến, đây cũng là bước đầu và là tiền đề quan trọng
trong văn hoá Việt Nam tiếp tục phát triển đúng hướng và vững chắc
o Văn hoá đã trở thành một nội dung quan trọng trong các hoạt động của
cấp uỷ Đảng và chính quyền.từng bước gắn bó chặt chẽ với nhiệm vụ kinh tế xã
hội
o Di sản văn hoá dân tộc được giữ gìn và phát huy nhằm phục vụ đời sống
tinh thần của nhân dân
o Nhiều giá trị văn hoá và sản phẩm văn hoá mới đuược hình thành, góp
phần nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân
o Hoạt động văn học nghẹ thuật, thông tin báo chí được mở rộng, có nhiều
thành tựu đóng vai trò tích cực trong sự nghiệp dổi mới
o Đời sống văn hoá của nhân dân ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng gặp
khó khăn như miền núi , hải đảo, các vùng biên giới đều được cải thiện.
o Giao lưu quốc tế về văn hoá được mở rộng, việc quảng bá hình ảnh dân
tộc và văn hoá Việt Nam ra thế giới được nhiều sự ché ý. Việc thể chế hoá các
nghị định của Dảng được coi trọng , tạo hành lang pháp lý phù hợp và thông
thoáng cho nhân dân và đội ngũ tri thức, các văn nghệ sĩ hoạt động và sáng tạo
văn hoá

Bên cạnh những mặt tích cực đó, nền văn hoá Việt Nam cũng còn những mặt tiêu
cực như là:

o Những thành tựu và tiến bộ đạt được trên lĩnh vực văn hóa chưa tương
xứng và vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời
sống xãhội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống.
23
o Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp,
có một sốmặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà
nước, niềm tin của nhân dân.
o Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng
trưởng kinh tế,thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ
xây dựng Đảng
o Việc xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt.
o Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của
các sản phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai căng.
o Thiếu những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ
thuật cao.
o Có biểu hiện lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các
khuynh hướng trong lý luận - phê bình và sáng tác, trước những tác động ngày
càng phức tạp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa.
o Xu hướng “thương mại hóa”, chạy theo thị hiếu thấp kém của một bộ
phận báo chí,xuất bản, văn học, nghệ thuật chưa được ngăn chặn một cách có
hiệu quả.
o Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các
chính sáchtrên lĩnh vực văn hóa còn chậm
o Đời sống văn hóa còn nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu ở nhiều vùng nông
thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng
căn cứ cáchmạng trước đây chưa được khắc phục có hiệu quả.
o Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, các miền,
khu vực,tầng lớp xã hội tiếp tục gia tăng.

Nguyên nhân của những hạn chế trên bao gồm:

Về khách quan:

24
o Sự sụp đổ chế độ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu làm
cho một số người hoang mang, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
o Sự tác động mạnh mẽ của những mặt trái do quá trình toàn cầu hóa kinh tế và
sự xâm nhập tràn lan những sản phẩm văn hóa dẫn đến những tư tưởng phức tạp trong
đời sống văn hóa, xã hội.
o Những tiền đề vật chất để xây dựng nền văn hóa còn yếu kém, mức sống của
nhân dân còn thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
o Các thế lực thù địch quốc tế luôn thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối
với cách mạng nước ta.

Về chủ quan:

o Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy đảng các cấp về vai trò đặc
biệt quan trọng của văn hóa chưa thật đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương
hướng,nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa chưa được quán triệt và tổ chức thực
hiện nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên
quyết.
o Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, trong bộ máy nhà nước chưa được
triển khai tích cực, có nơi còn xem nhẹ, không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được tấm
gương văn hóa cho quần chúng.
o Chậm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương lớn của Đảng về văn hóa. Chưa
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng lực của những người làm công
tác văn hóa.
o Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn
hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
o Một số bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa,thông tin, báo chí, xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong
định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, tạo ra
một số sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thậm chí sai trái.

25
2.3.2 Sự lãnh đạo của Đảng trên cương lĩnh phát huy nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến và đâm đà bản sắc dân tộc
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định mục đích của cuộc cách mạng là giải
phóng dân tộc, giải phóng gia cấp, giải phóng con người gắn với xây dựng một nền
văn hoá của dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc làm hồi sinh các giá trị văn hoá,
thúc đẩy văn hoá dân tộc phát triển. Đó là văn hoá yêu nước, một nền văn hoá tiến bộ
và giàu giá trị nhân văn, văn hoá vì con người. Sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền
với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá.

Quan điểm của Đảng đã tạo ra một bớc đột phá lớn về lĩnh vực văn hoá gắn liền
với Đại hội VI (1986) - Đại hội mở ra thời kỳ đổi mới. Đảng ta đã khẳng định vị trí
quan trọng của văn hoá trong việc xây dựng nhân cách, xây dựng lối sống cho con
người. Yếu tố tinh thần của văn hoá một lần nữa được nhấn mạnh, hạt nhân của văn
hoá tinh thần chính là rèn luyện đạo đức cách mạng, Đảng đã cụ thể hoá quan điểm ấy
bằng các Nghị quyết và chỉ thị mang tính định hướng cho quá trình phát huy hơn nữa
vai trò của văn hoá đối với sự phát triển đất nước.

Tại hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII diễn ra từ
ngày 6/7 đến 16/7/1998, đã ra Nghị quyết xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết ra đời trở thành văn bản mang tính
pháp lý, Nghị quyết tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá phát triển một cách sâu rộng,
mang lại hiệu quả cao trên các mặt của đời sống xã hội, đóng góp vai trò nhiều hơn
nữa cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phát triển. Văn hoá đã
trở thành một trong những nhân tố quyết định để nâng cao chất lượng của cuộc sống,
để xây dựng đất nước theo hướng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác,
văn hoá trở thành nhân tố không thể thiếu trong mục tiêu phát triển đất nước bền vững
và toàn diện.

Lần đầu tiên tại Đại hội X vai trò của văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội đã
trở thành một mục tiêu riêng, “độc lập” với giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vì văn hoá có chức năng định hình cho các
giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội mà vai trò cốt lõi là hệ tư tưởng. Vai trò này
của văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ phát huy hiệu quả hơn nữa trong
26
nhận thức cũng như trong hành động của các tổ chức, cá nhân vì mục tiêu tiến bộ của
xã hội.

Trong Đại hội XI đã nhận định rằng vai trò của văn hoá được cô đọng lại cụ thể
hơn, tập trung vào các nội dung cụ thể. Văn hoá góp phần củng cố và tiếp tục xây
dựng một môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú và đa dạng; tiếp tục đinh hướng
việc đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong lễ cưới, lễ tang, lễ hội...; cổ vũ cho
việc triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục cho
thế hệ trẻ.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, truyền thống yêu nước và đại đoàn
kết dân tộc đóng vai trò nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.Vì vậy, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu, truyền thống lịch sử
tốt đẹp của dân tộc, bổ sung vào đó những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là
yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng nền văn hóa hiện nay.

Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến và đâm đà bản sắc dân tộc là một
yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn vừa phát huy được bản sắc
và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát triển
không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới.

Nhìn chung lại nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, không chấp nhận
triệt để nền văn hóa truyền thống dân tộc mà phủ nhận hoàn toàn nền văn hóa tiên tiến
phương Tây, mà cũng không chấp nhận hoàn toàn nền văn hóatiên tiến phương Tây
mà phủ nhận nền văn hóa truyền thống, mà đó là sự chọn lựa giữa hai nền văn hóa đó
có cái gì đẹp thì chấp nhận một cách hài hòa giữa văn hóa cũ và văn hóa mới.

2.4.Ý nghĩa đối với việc xây dựng nền văn hoá đâm đà bản sắc dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 25 năm đổi mới, lĩnh vực văn hóa đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng. Tư tưởng, đạo đức và lối sống của sinh viên,
thanh nhiên đã có những chuyển biến tích cực. Nhiều giá trị mới về văn hóa, chuẩn
mực đạo đức được khẳng định và nhân rộng trong môi trường học tập. Phong trào

27
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và Cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", các phong trào thi đua yêu nước ngày càng
được mở rộng và từng bước đi vào thực chất trong đời sống xã hội. Công cuộc bảo tồn
và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc đã đạt được nhiều tiến bộ.

Nhiều di sản văn hoá vật thể, phi vật thể được bảo vệ và phát huy giá trị công tác
xã hội hoá đã thu hút được đông đảo các tổ chức học sinh sinh viên và cá nhân tham
gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá, góp phần tích cực gìn giữ bản sắc văn
hóa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc,
dần loại bỏ những sự lỗi thời, lạc hậu được phát huy. Đại đoàn kết dân tộc được mở
rộng, tạo sức mạnh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Môi trường văn hóa được cải thiện và có một số mặt tiến bộ; chú trọng xây dựng
môi trường học tập văn minh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, từng bước tiếp thu tinh
hoa văn hóa thế giới. Vai trò của sinh viên và giới trẻ được nâng lên trong đời sống xã
hội. Thông qua các hoạt động thực tiễn phong phú, niềm tin của thanh niên, sinh viên
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa và sự phát triển đi lên của
đất nước được củng cố. Thái độ, tinh thần trách nhiệm của sinh viên thanh niên, được
nâng lên, quan tâm và có trách nhiệm hơn đến những vấn đề của đất nước, của Đảng,
của Đoàn, của Hội. Văn hóa “kính thầy yêu bạn” được nâng cao, hiện tượng sinh viên
thanh niên đánh nhau đã giảm thiểu. Ý thức tự lập, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm trong thanh niên ngày càng mạnh mẽ, hiện tượng bảo sao làm vậy, hoặc tự biến
mình thành người thừa hành bị động ngày càng ít đi.

Tính thực tế trong tư duy trong học tập cũng như các hoạt động xã hội của thanh
niên ngày càng phát triển. Ngày nay, thanh niên sinh viên suy nghĩ nhiều hơn tới vấn
đề làm sao học tập, làm việc cho có hiệu quả.

2.5. Giải pháp, vai trò, trách nhiêm của viêc bảo vệ nền văn hoá tiên tiến và đâm
đà bản săc dân tộc.
2.5.1. Vai trò
Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã
hội loài người. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, định hướng cho sự phát triển

28
bền vững của xã hội. Văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và mọi
hành vi của con người, điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người. Trong suốt
chặng đường hơn 83 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến
vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay, Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của văn hóa và
thường xuyên quan tâm lãnh đạo, phát huy sức mạnh văn hóa đối với sự phát triển bền
vững của đất nước.

Ý thức sâu sắc về sức mạnh văn hóa đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc thoát
khỏi ách áp bức thống trị của thực dân Pháp xâm lược, ngay từ tháng 2 năm 1943,
Đảng ta đã ban hành “Đề cương văn hóa Việt Nam". Đây là bản Cương lĩnh văn hoá
đầu tiên của Đảng ta, đặt nền tảng lý luận cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa kháng
chiến, kiến quốc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và soi đường cho sự
phát triển nền văn hóa Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua.

Đảng ta xác định: "Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa",
vì vậy, "phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã
hội" và "Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong"; đồng thời, đề ra ba
nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới: Dân tộc, đại chúng, khoa học. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, ba nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới đã trở thành ngọn cờ cổ
vũ, động viên, tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ vào Hội Văn hoá cứu
quốc và soi đường cho các hoạt động của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, tạo thành sức
mạnh tinh thần to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

2.5.2. Giải pháp để phát huy và giữ gìn nền văn hoá tiên tiến và đâm đà bản
săc dân tộc.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gin và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, trước mắt chủng ta
cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau: Tăng cường sự lãnh đạo của
29
Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển
biển cơ bản và bước phát triển mạnh mẽ trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Chúng ta nhất định phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào "Toàn dân đoàn kết, xây
dựng đời sống văn hoa" gắn chặt với cuộc vận động chính trị sâu rộng trong toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối
sống, làm chuyển biến mạnh mẽ công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lỗi sống trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp và thanh niên.

Chủng ta phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ trung tâm xây
dựng kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, bảo đảm hoạt động văn hoá tiến
hành đồng bộ với hoạt động kinh tế, hình thành nền tảng tinh thần vững chắc cho xã
hội. Sớm xây dựng và thực hiện chiến lược tuyển chọn, đào tạo, phát triển các tài năng
văn hoá, nghệ thuật, tăng cường và đối mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước đối với văn hóa. Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ,
đảng viên, cần nâng cao nhận thức và trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa, song
song với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội ...; nêu cao tinh thần gương mẫu về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng theo phương
châm "nói đi đôi với làm", đã nói là làm để cho các quyết định lẫn này được quán triệt
trong từng cán bộ, đảng viên, nhất và cán bộ chủ chốt, và mọi tầng lớp nhân dân. Các
cấp, các ngành cần có ngay các chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể để đưa
những nội dung đó thầm sâu vào từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị, từng cộng
đồng, từng gia đình, từng con người, tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, xây dựng
con người mới và môi trường văn hoá mới phong phủ, lành mạnh, phát huy những
truyền thống văn hoả tốt đẹp của dân tộc ta.

2.5.3. Trách nhiêm của toàn dân trong việc giữ gìn và phát huy nền văn hoá tiên
tiến và đâm đà bản săc dân tộc.
Mỗi sinh viên, học sinh, người dân, mỗi cá nhân cũng như tổ chức cũng có thể góp
phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bằng cách xây dựng lối
sống mới-lối sống có văn hoá. Chú ý đến tất cả các thành tố cơ bản của lỗi sống như
mức sống, chất lượng sống, nếp sống, phong cách sống và lý tưởng sống.
30
Điều đó có nghĩa là chúng ta xây dựng lối sống mới không thể với một điều kiện
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần tối thiểu quá nghèo khổ không thể thoả mãn
được. Ngược lại chỉ có lối sống tốt, lối sống đẹp khi các điều kiện về mức sống và chất
lượng sống ngày càng được nâng cao. tất nhiên chúng ta không tuyệt đổi hóa mức
sống vì rằng trên thực tế cũng lắm kẻ giàu có là bắt chính, quan hệ ứng xử thiếu tình
người thì cũng không thể coi họ là người có lối sống đẹp. Trong lối sống thành tổ nếp
sống có vai trò rất quan trọng. Nếp sống là mặt ổn định của lối sống, là chiều sâu của
lối sống. Nếp sống phản ánh những khuôn mẫu ứng xử bao hàm các thành tố liên quan
chặt chẽ với nhau biểu hiện trong thói quen, trong tập quán, tục lệ và phong tục của
cộng đồng xã hội. Ngoài ra lý tưởng sống cũng là một thành tố quan trọng của lỗi
sống, nói lên ý thức sống, khát vọng sống của con người. Cho nên cần phải xây dựng
lý tưởng sống để mọi người vươn tới những giá trị chân thiện mỹ, bồi dưỡng lý tưởng
cho thế hệ trẻ... Đồng thời khắc phục những thói quen tiêu cực, sống thực dụng, sống
ích kỷ, chỉ vun vén cá nhân sống vì tiền, sống gấp chỉ biết hưởng thụ, chây lười lao
động.

Chủ trương xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là chủ trương lớn của đảng ta đã
được khẳng định qua các kỳ Đại Hội. Đảng ta coi đó là nhiệm vụ quan trọng và có ý
nghĩa lau dài do đó việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở phải được quán
triệt đối với tất cả các tổ chức chính trị xã hội, đối với mọi tầng lớp nhân dân. Hiện nay
các dạng hoạt động văn hóa được duy trì khá phổ biến cơ sở là: thông tin tuyển tryền
cổ động, văn nghệ quần chúng, thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa, bảo tồn bảo tàng,
nhà tuyển thống, thể dục thể thao, xây dựng nếp sống văn minh, Gia đình văn hóa,
hoạt động từ thiện, cứu trợ nhân đạo... Toàn bộ các dạng hoạt động nêu trên chỉ có thể
thực hiện tốt thông qua các thiết chế văn hóa ở cơ sở. Vì thế xây dụng đời sống văn
hóa ở cơ sở không chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn nhu cầu văn hóa ở sở tại mà còn phải
thông qua hoạt động giao lưu, gắn liền với việc củng cố và hoàn thiện các thiết chế văn
hóa.

31
C. KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh - người cha của dân tộc là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhận
loại có đóng góp lớn vào tiến trình phát huy vai trò của văn hoá đối với phát triển xã
hội. Sự nghiệp của Người gắn liền với việc nền văn hoá mà trong đó các giá trị của nó
được biểu đạt và tác động một cách mạnh mẽ đến những gì tốt đẹp nhất mà con người
toàn nhân loại và các dân tộc trên thế giới khát khao vươn tới. Quá trình Đảng lãnh
đạo xây dựng và phát triển văn hóa đã mang lại nhiều thành tựu cho sự phát triển bền
vững của đất nước. Đảng cũng thu nhận được một số kinh nghiệm quý báu. Những
thành tựu và kinh nghiệm trong quá phát huy vai trò của văn hoá đối với sự phát triển
xã hội đã tạo tiền đề để chấn hưng nền văn hóa dân tộc trong thế kỷ mới.

Nền văn hóa tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc không thể tách khỏi quan hệ với
thế giới. Bởi xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra là yếu tố tất yếu, xu thế đó là khách
quan, mang tính thời đại, trước hết trong lĩnh vực kinh tế, trong xu thế toàn cầu hóa
hiện nay, không một quốc gia có thể đứng biệt lập mà có thể tồn tại và phát triển.Mặt
khác, lại phải dựa trên nền tảng văn hoá của dân tộc mình để tìm ra con đường phát
triển kinh tế phù hợp với con người và xã hội Việt Nam. Ở đây, không phải văn hoá
dân tộc cổ truyền nói chung mà là văn hoá dân tộc tiên tiến, hiện đại đậmđà bản sắc
dân tộc giữ vị trí trung tâm, đóng vai trò then chốt điều tiết xã hội .

Những nhân tố ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền thống ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay như toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc cách mạng 4.0, sự tác động
của tăng trưởng kinh tế, các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời
kỳ đổi mới. Các nhân tố này đã tác động ảnh hưởng đến các giá trị văn hóa truyền
thống ở nước ta góp phần nâng cao trình độ tư duy khoa học, phổ biến các giá trị văn
hóa công nghệ, văn hóa thông tin cùng các hoạt động và các loại hình văn hóa mới,
làm thay đổi toàn diện cách sống, làm việc và quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội,
theo đó đã làm thay đổi trực tiếp đến giá trị văn hóa truyền thống. Đồng thời, xây dựng
một lối sống tích cực, tiến bộ cho con người Việt Nam với những giá trị bền vững và
tinh hoa tốt đẹp, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa của người Việt Nam, giữ gìn, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của nước ta làm cho các giá trị văn hóa truyền
thống ngày càng phong phú và giàu đẹp hơn. Nhưng bên cạnh đó, toàn cầu hóa, hội
32
nhập quốc tế, cuộc cách mạng 4.0, sự tăng trưởng kinh tế vẫn còn để lại một số hạn
chế nhất định. Vì thế, nếu chúng ta biết tận dụng cơ hội, đẩy mạnh phát huy những ảnh
hưởng tích cực, hạn chế những tiêu cực vì thách thức và cơ hội, tích cực và tiêu cực
không tự chuyển hóa cho nhau mà đòi hỏi chúng ta phải chủ động nắm bắt cơ hội thì
chúng ta sẽ thành công trong xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.

Nhìn chung hiện nay, hội nhập đang trở thành một xu thế khách quan. Dân tộc
Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác không thể nằm ngoài quĩ đạo đó. Hội nhập
là con đường tất yếu, là lẽ sống còn của cả dân tộc. Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập
như thế nào, chúng ta với tư thế chủ động, hội nhập trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ
lực để vượt lên chính mình, nghĩa là, thông qua quá trình hội nhập, chúng ta có thể
nhận thức đầy đủ hơn, có ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc
mình. Đồng thời trong quá trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của những
truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Một khi đã nhận
thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết hợp hài hoà các giá trị truyền thống với
các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa,
loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học hỏi với bên ngoài thì sẽ vượt
qua được những thử thách, sẽkhơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền
thống. Với tinh thần và bản lĩnh của người Việt Nam, chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiệu quảhợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa”, kết hợp sức mạnh dân tộc với những ưu thế của thời đại để phát triển đất
nước và từng bước khẳng định vị thế bản lĩnh của dân tộc mình trước cộng đồng

33
PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN

Nội dung hoàn thành Sinh viên hoàn thành Mức độ hoàn thành

PHẦN 1. PHẦN MỞ ĐẦU

Nội dung 1:
- Lí do chọn đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu
- Nhiệm vụ nghiên cứu Trần Quốc Kiệt Tốt

- Phương pháp nghiên cứu


- Kết cấu tiểu luận
- In tiểu luận
PHẦN 2. NỘI DUNG

Nội dung 2:
1.1.Một số nhận thức chung về
văn hóa và quan hệ giữa văn
hóa với các lĩnh vực khác
1.2.Quan điểm của chủ tịch Hồ Bùi Trần Hải Đăng Tốt
Chí Minh về vai trò và vị trí
của văn hoá.
Nội dung 3:
1.3.Quan điểm Hồ Chí Minh Bùi Đoàn Anh Huy Tốt
về xây dựng nền văn hóa mới
Nội dung 4: Tất cả thành viên trong Tốt
Chỉnh sửa, góp ý nhóm
PHẦN 3. KIẾN THỨC VẬN DỤNG

Nội dung 5:
2.1.Tổng quan về bối cảnh văn Bùi Đoàn Anh Huy Tốt
hoá trong nước
Nội dung 6:
2.2. Khái quát về nền văn hoá
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân
tộc Lê Hải Thịnh Tốt
2.3. Thực trạng về nền văn hoá
VN là văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc
Nội dung 7:
2.4.Ý nghĩa đối với việc xây
dựng nền văn hoá đâm đà bản
sắc dân tộc. Nguyễn Trung Hiếu Tốt
2.5. Giải pháp, vai trò, trách
nhiêm của viêc bảo vệ nền văn
hoá tiên tiến và đâm đà bản săc
dân tộc.
PHẦN 4. KẾT LUẬN

Nội dung 8: Trần Quốc Kiệt Tốt


Kết Luận
TỔNG HỢP BÀI TIỂU Tất cả thành viên trong Tốt
LUẬN, CHỈNH SỬA HOÀN nhóm
THIỆN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Tài liệu dành cho sinh viên hệ đại học không
chuyên ngành lý luận chính trị), trang 112

[2] Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh chương trình mới, trang 67-71

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 54

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Hà Nội

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội

[7] Bùi Thanh Quất (2003) Toàn cầu hóa – một cách tiếp cận mới, Tạp chí Cộng sản,
Số 27. - tr.11-14.

[8] Minh, V.Đ. & Vịnh, N.T. (28/6/2018), Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới. Truy cập ngày 20/11/2022.

Đường dẫn: https://tuyengiaohungyen.vn/bai-viet/quan-diem-cua-dang-ve-xay-dung-


va-phat-trien-van-hoa-trong-thoi-ky-doi-moi.aspx

[9] Viện Khoa học xã hội Việt Nam – Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (2005), “Toàn
cầu hóa, chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều”, Nhà xuất bản Thế giới.

[10] Giàu, T.V. (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.50.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI,
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hà Nội

[12] Tăng trưởng kinh tế trong vòng 10 năm qua của Việt Nam (16/02/2020). Truy cập
ngày 26/11/2022.
Đường dẫn: https://www.vietnamplus.vn/infographics-tang-truong-gdp-trong-10-nam-
qua-cua-viet-nam/622996.vnp

[13] Cúc, N. (2017), Các cơ sở giáo dục đào tạo ở Việt Nam trước thách thức của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 10, tr. 50-54.

[14] Nguyễn Thị Thúy Cường (2022), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị
văn hóa truyền thống ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, Số 02 Trang 109-117

You might also like