You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM


KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT


MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG


TIỂU LUẬN

NHẬN THỨC VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN


NỀN VĂN HOÁ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

GVHD: Ths. Lê Quang Chung


SVTH MSSV
Nguyễn Mi Lan Anh 20125144
Trần Hà Nhân Hoà 20132143
Hoàng Đức Tài 19131119
Lê Nguyễn Nhật Tân 20132101
Võ Lâm Hoài Thanh 20132094
Đinh Dương Châu Thảo 20132232
Lớp thứ 6 - Tiết 5-6
Mã lớp: LLCT220514_22_1_42

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022


ĐIỂM SỐ

TIÊU CHÍ NỘI DUNG TRÌNH BÀY TỔNG

ĐIỂM

NHẬN XÉT
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................

Ký tên

Ths. Lê Quang Chung


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ

THỨ
HỌ TÊN NHIỆM VỤ KẾT QUẢ KÝ TÊN
TỰ

1 Nguyễn Mi Lan Anh

2 Trần Hà Nhân Hoà

3 Hoàng Đức Tài

4 Lê Nguyễn Nhật Tân

5 Võ Lâm Hoài Thanh

6 Đinh Dương Châu Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trải qua hơn 79 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện đầu tiên
“Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn
và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn hoá. Việc đưa ra các
chiến lược phát triển kinh tế là rất quan trọng tuy nhiên bên cạnh chiến lược phát triển
kinh tế, chúng ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù
hợp với phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng cửa nền
văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú,
giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của đất nước mình. Văn hóa vốn
bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa cho sự phát triển mạnh
mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn cầu hóa như một tất yếu. Có
thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một dân tộc, nếu không giữ được bản
sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm chí không còn dân tộc đó nữa. Vì
thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn
dân và toàn xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta
đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát
huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ việc nhận
thấy văn hóa là một trong những yếu tố được chú trọng nhất trong thời kỳ đổi mới của
đất nước và là tiền đề cho sự phát triển văn hóa hiện nay, nhóm chúng tôi quyết định
chọn đề tài: “Nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam thời kỳ đổi mới” để làm rõ các lý luận chính trị liên quan đến vấn đề này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ được khái niệm, đặc trưng của văn hóa và nhận thức của Đảng Cộng
Sản Việt Nam về xây dựng và phátchứ triển văn hóa trong thời kì đổi mới.
- Trình bày được quá trình thực hiện xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng
thông qua các kì đại hội.
- Trình bày được những thành tựu cũng như các hạn chế của Đảng trong quá
trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam thời kì đổi mới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đã nêu trên, nhóm nghiên cứu cần thực hiện được
một số các mục tiêu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu, làm rõ các khái niệm cơ bản về văn hóa cũng như các đặc trưng
và chức năng của văn hóa trên các phương diện của đời sống con người.
- Tìm hiểu, trình bày quá trình Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng và phát triển
nền văn hóa thông qua các kì đại hội (từ đại hội VI đến đại hội VII và từ đại hội IX
đến XIII)
- Trình bày những thành tựu và hạn chế của Đảng trong quá trình thực hiện các
chính sách xây dựng và phát triển văn hóa trong các kì đại hội này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó chính là Văn hóa
trong sự nhận thức của Đảng và nhà nước ta qua các kì Đại hội và bên cạnh đó là nhận
thức của Đảng Cộng Sản ta về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà trong
thời kì đổi mới thông qua đó nhận thức được những thành tựu và hạn chế trong công
tác xây dựng và phát triển Văn hóa nước nhà.
Phạm vi nghiên cứu: Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu thông qua các văn kiện
của Đảng ta qua các kì Đại hội từ đại hội VI đến Đại hội XIII về vấn đề đó là xây dựng
và phát triển Văn hóa nước ta trong thời kì trước đổi mới và sau đổi mới qua đó ta sẽ
có cái nhìn cụ thể hơn về quá trình xây dựng và phát triển Văn hóa nước nhà.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa dựa
vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử nhằm làm nổi bật lên
được nhận thức của Đảng Cộng Sản ta về xây dựng, phát triển nền văn hoá của Việt
Nam ta thời kỳ đổi mới.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận
Tổng quan đánh giá được tình hình xây dựng và phát triển Văn hoá của nước ta
trong thời kì đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Nhà nước.
Phân tích được những ảnh hưởng của Văn hoá đến với đời sống nhân dân Việt
Nam.
Qua đó thấy được những mặt hạn chế cần khắc phục và những thành tựu cần
phát huy trong quá trình xây dựng và phát triển Văn hoá nước nhà.
6. Kết cấu của tiểu luận
Nội dung bài tiểu luận của chúng tôi gồm có 3 phần chính với kết cấu theo 3
chương như sau:
Chương 1. Khái niệm, đặc trưng và chức năng của văn hoá.
Chương 2. Nhận thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và phát triển
văn hoá trong thời kì đổi mới.
Chương 3. Đánh giá quá trình xây dựng và phát triển văn hoá thời kì đổi mới.
Chương 1
KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
1.1. Khái niệm của văn hóa
Hai từ “văn hoá” có rất nhiều nghĩa, cho đến hiện tại vẫn chưa có định nghĩa
chính xác về hai từ “văn hóa” này. Trong tiếng Việt theo nghĩa thông dụng thì văn hoá
dùng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa)… Trong khi theo
nghĩa rộng thì văn hóa hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến
tín ngưỡng, phong lục, lối sống, lao động…
Tuy nhiên ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định
nghĩa khác nhau về “văn hoá”. Trước hết để định nghĩa một khái niệm thì ta cần xác
định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêng biệt và tiêu biểu, cần
và đủ để phân biệt khái niệm (sự vật) ấy với khái niệm (sự vật) khác. Sau khi phân tích
các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay (coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống,
như giá trị, như hoạt động, như kí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã
hội…), có thể xác định được các đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra
một định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động, thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Theo UNESCO năm 1994: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và
sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động sáng
tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch sử của mỗi
cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính nhân văn phổ biến,
đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc riêng của từng dân tộc.
Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào định nghĩa có tính khái quát này, trong hoạt động
quản lý nhà nước về văn hóa, chúng ta dễ bị hiểu một cách sai lạc: Quản lý văn hóa là
quản lý các hoạt động sáng tạo và thu hẹp hơn nữa là quản lý sáng tác văn học nghệ
thuật. Thực tế không phải như vậy. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh thì văn hoá được
Bác hiểu theo ba nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, Bác viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”. Định nghĩa về văn hóa của Bác đã khắc phục được những quan niệm phiến
diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, giúp chúng ta hiểu văn hoá cụ thể và đầy đủ
hơn.
Theo nghĩa hẹp, Bác viết: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề
cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng”. (theo Báo Cứu quốc 8/1945).
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là chỉ học thức (trình độ văn hoá) của con
người, thể hiện ở việc Bác yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”,…
Với những định nghĩa đã nêu thì văn hóa chính là một hệ thống các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích lũy trong hoạt động thực tiễn qua quá
trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản thân. Văn hóa là của con
người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con người. Văn hóa được con người giữ
gìn, sử dụng để phục vụ đời sống con người và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
(làm gạch đầu dòng)
1.2. Đặc trưng của văn hóa
1.2.1. Tính hệ thống
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Cần phải phân biệt rạch ròi giữa tính
hệ thống với tính tập hợp. Tính hệ thống của văn hóa có “xương sống” là mối liên hệ
mật thiết giữa các thành tố với nhau, các thành tố có thể bao gồm hàng loạt các sự
kiện, nó kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình phát triển.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa có thể thực hiện được các chức năng của xã
hội. Lý do là bởi văn hóa bao trùm lên tất cả các hoạt động, các lĩnh vực. Từ đó có thể
làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp và trang bị cho xã hội những phương tiện cần
thiết để ứng biến với môi trường tự nhiên.
Nói cách khác, văn hóa xây lên nền tảng vững chắc cho sự phát triển tiến bộ
của xã hội. Có lẽ chính vì thế mà người ta thường gắn văn hóa với loại từ “nền” để tạo
thành cụm từ thông dụng “nền văn hóa”.
1.2.2. Tính giá trị
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa khi được hiểu
theo khía cạnh của một tính từ sẽ mang nghĩa là tốt đẹp, là có giá trị. Người có văn hóa
cũng chính là một người có giá trị. Do đó mà văn hóa trở thành thước đo chuẩn mực
cho con người và xã hội.
Văn hóa tự chính bản thân nó cũng mang trong mình những giá trị riêng bao
gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Xét về mặt ý nghĩa thì văn hóa có thể chia
thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ. Đứng trên góc độ thời gian lại
có thể chia văn hóa thành giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời… Với mỗi góc độ khác
nhau gắn với một sự vật, hiện tượng, sự kiện khác nhau ta lại có thể có cái nhìn khác
nhau. Từ những cái nhìn này, ta có thể đánh giá văn hóa dưới những góc độ khách
quan quan khác nhau.
1.2.3. Tính nhân sinh
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép phân
biệt văn hóa như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo) với các giá
trị tự nhiên (thiên tạo). Chính vì là một thực thể có tính nhân sinh nên văn hóa chịu tác
động của cả vật chất lẫn tinh thần của con người.
Đồng thời, vì có tính nhân sinh nên văn hóa vô tình trở thành sợi dây liên kết
giữa người với người, vật với vật và cả vật với người. Đó chính là ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc nhất mà văn hóa hàm chứa.
1.2.4. Tính lịch sử
Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của
một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng,
chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa tính bề dày
một chiều sâu, nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và
phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hóa.
Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được tích lũy, được gìn giữ và không
ngừng tái tạo, chắt lọc những tinh hoa, không ngừng sản sinh và phát triển để hoàn
thiện dưới dạng ngôn ngữ, phong tục,…
1.3. Chức năng của văn hóa
Nhìn nhận một cách khái quát văn hóa có những chức năng chủ yếu sau:
Chức năng giáo dục: Chức năng bao trùm nhất của văn hóa là chức năng giáo
dục. Nói cách khác, chức năng tập trung của văn hóa là bồi dưỡng con người, hướng lí
tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào "điều hay lẽ phải, điều khôn, lẽ thiệt",
theo những khuôn mẫu, chuẩn mực mà xã hội quy định. Bằng chức năng giáo dục, văn
hóa tạo cho lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi dân tộc một sự phát triển liên tục. Mặt
khác, chức năng giáo dục của văn hóa phải được thực hiện thông qua các chức năng:
Chức năng nhận thức: Chức năng này tồn tại trong mọi hoạt động văn hóa. Nói
cách khác, chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của mọi hoạt động văn hóa,
thiếu nó, không thể nói tới chức năng nào khác.
Chức năng thẩm mĩ: Đây là một chức năng rất quan trọng của văn hóa, nhưng
cũng là chức năng hay bị bỏ quên, bị coi nhẹ, khi xem xét, điều hành, quản lí văn hóa.
Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng tới cái đẹp.
Con người nhào nạn hiện thực theo quy luật của cái đẹp như Các Mác từng khẳng
định, cho nên văn hóa nghệ thuật phải có chức năng này. Xét cho cùng, văn hóa là sự
sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp.
Chức năng giải trí: Chức năng này cũng không tách rời chức năng giáo dục và
không đi ra ngoài mục tiêu hoàn thiện con người. Bởi lẽ, trong cuộc sống, con người,
ngoài hoạt động lao động, còn có nhu cầu giải tỏa tinh thần, tâm lí, sự mệt mỏi cơ bắp
v.v... Họ tìm đến với các hoạt động văn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, v.v  nói khác
đi là tìm sự giải trí. Trong một chừng mực nhất định, sự giải trí ấy là bổ ích, cần thiết.
Chẳng hạn, sau một vòng quay mùa vụ của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, đi hội,
xem hội, mở hội làng là nhu cầu của người nông dân, không chỉ đơn thuần là sự giải
tỏa tâm linh mà còn là sự giải trí.
Nhận biết được các chức năng của văn hóa, chính là khẳng định rõ ràng hơn
mục tiêu cao cả của văn hóa là vì con người, vì sự hoàn thiện và phát triển của con
người.
Chương 2
NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1. Nhận thức của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá từ đại hội VI
đến đại hội VII
Nhìn lại hơn 92 năm qua, từ khi Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930 cho đến nay,
những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, phát triển văn hóa, con người đã từng
bước được bổ sung, hoàn thiện một cách khoa học, cách mạng, nhân văn. Hệ thống các
quan điểm này được nhân dân đồng tình, ủng hộ, bởi tất cả đều hướng đến mục tiêu vì
hạnh phúc của nhân dân.
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước ta trăn
trở tìm con đường đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) khẳng định rõ quan điểm này. Từ đổi mới tư
duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới văn
hóa. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được
Đảng quan tâm sâu sắc hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) xác định “nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là một
trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu
công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt
để nhằm đưa đất nước đi vào thế ổn định và phát triển. Sau một thời gian khủng hoảng
kinh tế - xã hội và sau những biến động phức tạp của tình hình chính trị quốc tế, hai kỳ
đại hội trên ưu tiên tập trung xác định đường lối phát triển kinh tế, ổn định xã hội; văn
hóa mặc dù được quan tâm phát triển, nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm.
Tại Hội Trung ương 4 khóa VII (năm 1993), Đảng đã nhìn nhận vai trò quan
trọng của văn hóa, coi “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Đại
hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới (1986-1990), khẳng định
đường lối đổi mới là đúng đắn và bước đi phù hợp với thực tiễn. Thành công lớn của
Đại hội VII là đã đề ra: Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó bao gồm cả văn hóa,
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-
xã hội 10 năm (1990-2000).
Như vậy, đến Cương lĩnh chính trị (1991) nhận thức về xây dựng, phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm
vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định rõ hơn.
Quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ
sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII “Về
một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, lần đầu đưa khái niệm:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”. Nghị quyết khẳng định: “Nền
văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Về phương hướng, nhiệm vụ công tác tư tưởng 5 năm tới (1991 - 1996), nhiệm
kỳ Đại hội VII khẳng định: Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng công tác tư tưởng lý
luận, tập trung vào các nội dung: “Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá
Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại... Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật vì sự
hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào
dân tộc, ý chí tự lực, tự cường…”
2.2. Nhận thức của Đảng về xây dựng và phát triển văn hoá từ đại hội VIII
đến đại hội XIII.
Ngày 16/7/1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) đã ban hành
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết ra đời đã nhanh chóng được cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp trong toàn tỉnh triển khai thực hiện và trở thành nội dung sinh
hoạt chính trị sâu rộng của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội IX của
Đảng (4-2001), yêu cầu “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn
hóa..., làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”. Để thúc đẩy sự phát triển
của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16-6-
2008, về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
Nghị quyết chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh
mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng
tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật
nước nhà”.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng
và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt
chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và
XI của Đảng, đặc biệt, được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định:
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn
diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến
bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Tuy xác định “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội” nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ, hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá
thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị
“hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần.
Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung
ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về “Xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của
đất nước” đã cho thấy, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng
trong nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người, trong xác
định phương hướng, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn
hóa, con người; cho thấy hệ thống quan điểm sau đã kế thừa được các quan điểm cơ
bản của Đảng về văn hóa ở các thời kỳ trước đó, đồng thời đã tiếp thu những tinh hoa
lý luận về văn hóa, văn nghệ của thế giới theo tinh thần đổi mới của Đảng.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định “Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây
dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Cuối nhiệm kỳ khóa XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-
2020, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đã xác định các nội dung, định hướng
lớn: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên
của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững
chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.     
Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Kết luận số 76-KL/TW tiếp tục được khẳng
định, nâng cao trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tập trung nghiên cứu, xác
định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con
người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan
tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng
cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý
thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”. Nghị quyết
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn
hóa”.
Nhìn lại các chặng đường đã qua để thấy những tìm tòi, sáng tạo lý luận về văn
hóa của Đảng gắn liền với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chương 3
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA THỜI KÌ
ĐỔI MỚI
3.1. Thành tựu
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng đường
gần 25 năm cùng với những thành tựu quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, đối
ngoại, thì vấn đề phát triển văn hoá ở nước ta cũng đạt được những thành tựu đáng kể.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính
sách đổi mới đúng đắn trên nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực văn hoá, chỉ đạo hoạch
định các chính sách văn hoá nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Toàn bộ tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã liên tục được
khẳng định ở những kì Đại hội tiếp theo. Qua đó đã có các chương trình hành động
nhằm đạt được mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc cũng đã được triển khai như các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”, “Người
tốt, việc tốt”... Trong đó, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
là quan trọng nhất. Phong trào này được Trung ương khởi xướng và phát động từ năm
2000 với mục đích tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giúp người dân nâng cao
chất lượng cuộc sống. Bao gồm 05 nội dung (đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo;
thực hiện nếp sống văn minh, kỷ cương pháp luật; xây dựng môi trường văn hóa; xây
dựng và tổ chức hoạt động các thiết chế văn hóa thể thao; xây dựng tư tưởng chính trị
lành mạnh). Phong trào đã góp phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần lành mạnh.
Bên cạnh các phong trào được khởi xướng thì các cơ sở vật chất, kỹ thuật của
nền văn hóa mới đã bước đầu tạo dựng; quá trình đổi mới tư duy về văn hóa và xây
dựng con người, nguồn nhân lực có bước phát triển rõ rệt; môi trường văn hóa chuyển
biến theo hướng tích cực; hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa được mở rộng. Giáo
dục và đào tạo có bước phát triển mới. Khoa học và công nghệ có bước phát triển,
phục vụ thiết thực hơn nhiệm vụ phát triển văn hoá. Văn hóa phát triển, việc xây dựng
đời sống văn hóa và nếp sống văn minh có tiến bộ ở tất cả các tỉnh thành.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì Đảng và Nhà nước ta cũng gặp một
số hạn chế, bất cập trong việc xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kì đổi mới ở
nước ta có thể kể đến như việc:
Thứ nhất: Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức.
Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém.
Mặc dù phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã góp
phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh, tiến bộ
và giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, thực tế cho thấy kết quả thực hiện
phong trào vẫn còn những hạn chế. Không ngẫu nhiên mà tại Đại hội X, Ban chấp
hành TW khóa IX thừa nhận: “Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng
đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn
nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý
đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập”
Thứ hai: Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng
kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI ngoài việc nhận định phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” báo cũng nhấn mạnh “Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh
tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn
hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã
hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo
đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”
Thứ ba: Những tiến bộ và thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa chưa
tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng. Đạo đức và lối sống diễn biến phức
tạp ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân.
Thứ tư: Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh
thần ở nhiều vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa … chưa được khắc phục có
hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền tiếp tục
mở rộng.
Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW khóa XI cũng nhận định:
“so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác
động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối
sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn
nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng
xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa
còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ
nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng…”
KẾT LUẬN
Sau khi đất nước thống nhất và độc lập. Đảng và nhà nước ta đã đi trên con
đường để phát triển nền văn hóa của nước nhà. Vì văn hóa vốn là nền tảng cũng như
để thúc đẩy những lĩnh vực nhằm cho đất nước được phát triển toàn diện. Đặc biệt là
trong thời kỳ đổi mới như hiện nay. Sau khi xác định được đề tài, nhóm tìm ra đối
tượng nghiên cứu cũng như phạm vi nghiên cứu của đề tài thì nhóm bắt đầu đi về cơ
sở luận và phương pháp nghiên cứu đề tài cho phù hợp. Sau khi hoàn tất, nhóm tiến
hành nghiên cứu cũng như phân tích về đề tài “Nhận thức xây dựng, phát triển nền văn
hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới”, nhóm đã hiểu rõ hơn về khái niệm
cũng như đặc trưng và chức năng của văn hóa, hiểu sâu hơn về chức năng của văn hóa
trong thời kỳ đổi mới, phát triển đất nước như hiện nay. Bên cạnh đó, nhóm cũng dần
nhìn rõ hơn nhận thức của Đảng về việc xây dựng và phát triển văn hóa trong các thời
kỳ. Nhận thức sự khác nhau, những đổi mới tư duy qua các nhiệm kỳ đại hội. Nhận ra
sự khác biệt trong lối tư duy cũng như những mong muốn của Đảng ta trong các văn
bản đại hội về vấn đề này. Nhóm cũng nhìn ra những khó khăn và thách thức mà Đảng
và nhà nước ta đang gặp phải trong việc phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới này.
Nhưng vượt qua những điều đó, Đảng và nhà nước vẫn vượt qua những thách thức và
khó khăn đó để đạt được những thành tựu trong quá tình xây dựng và phát triển văn
hóa thời kỳ đổi mới. Dù vẫn còn nhiều hạn chế nhưng xét theo tình hình hiện tại, nhóm
tin rằng Đảng và và nhà nước có thể khắc phục được và có thêm những bước tiến
trong công cuộc này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 998 – 999
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 126 - 127
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 143, 146
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
của Đảng: Hồ Chí Minh  - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2016, t. 3, tr. 321
Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản số 966, tháng 5-
2021, tr. 5 - 6, 7

You might also like