You are on page 1of 20

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LUẬT

---------***--------

TIỂU LUẬN MÔN VĂN HÓA ĐẠI CƯƠNG

ĐỀ TÀI: VĂN HÓA CHÍNH LÀ PHỔ RỘNG LỚN NHẤT CỦA


PHÁP LUẬT VÀ PHÁP LUẬT ĐƯỢC XÂY DỰNG DỰA TRÊN
NHỮNG KINH NGHIỆM VĂN HÓA
      
Sinh viên thực hiện : Đặng Như Mai
Lớp hành chính : Anh 1 – Luật Kinh doanh quốc tế
Lớp tín chỉ : NGOH102.CLC.1
Khóa : 60
Chuyên ngành : Luật Kinh doanh quốc tế
Mã sinh viên : 2112650037
GV hướng dẫn : GV Nguyễn Tú Mai
GV Trần Thị Thanh Thủy

Hà Nội, tháng 6 năm 2022


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................................

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................

2.1. Mục đích nghiên cứu.........................................................................................

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu........................................................................................

NỘI DUNG...................................................................................................................

1. Cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật.................................

1.1. Khái niệm..........................................................................................................

1.1.1. Văn hóa........................................................................................................

1.1.2. Pháp luật......................................................................................................

1.1.3. Văn hóa pháp luật........................................................................................

1.2. Những dấu ấn dân chủ sơ kỳ trong mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật
.................................................................................................................................

2. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và pháp luật ở Việt Nam......................

2.1. Quan điểm “Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp
luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa”......................................

2.1.1. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật.......................................

2.1.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa................

2.2. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và pháp luật vào giải
quyết vấn đề xã hội.................................................................................................

KẾT LUẬN................................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật là lĩnh vực thể hiện rõ nét nhất mức độ dân chủ hóa trong một thể
chế nhà nước. Văn hóa tư pháp tồn tại như một thành tố của văn hóa tổ chức và
quản lý cộng đồng. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, luật pháp đã bắt đầu xuất
hiện từ trước thời Bắc thuộc. Đặc biệt, Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê (thế kỷ thứ
XV) được coi là một dấu son trong nền cổ luật Việt Nam. Các chế định về pháp
luật trong Bộ luật này vừa mang đậm cốt cách Á Đông, vừa chứa đựng những tư
tưởng tiến bộ gây ấn tượng cho nhiều học giả phương Tây, ví dụ như chế định
bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị hại, hay chế định hôn
sản công nhận quyền lợi bình đẳng của người phụ nữ,... Hệ thống pháp luật
đương đại của Việt Nam được hình thành từ năm 1946, nhưng vì nhiều lý do mà
đã phát triển không liên tục. Hiện nay, trong bối cảnh xã hội đang đổi mới, xây
dựng pháp luật là một yêu cầu cấp bách. Trong công cuộc cải cách này, nếu hệ
thống pháp luật hoàn thiện là điều kiện cần, thì những chuẩn mực về văn hóa là
điều kiện đủ để đảm bảo sự thành công của quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Trong thực tế, hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn thiếu sót và chưa
đồng bộ. Ý thức pháp luật của công dân vẫn mang nặng dấu ấn của văn hóa tiểu
nông. Tổ chức lao động tư pháp chưa hợp lý, trình độ và kỹ năng nghề nghiệp
của những người tiến hành hoạt động tố tụng còn yếu,... Những nguyên nhân này
làm cho hệ thống pháp luật của Việt Nam hoạt động kém hiệu quả, và văn hóa
chưa phát huy được vai trò hạt nhân góp phần đảm bảo tính tôn nghiệm của pháp
luật, tính hiệu lực và hiệu quả giáo dục. Với mong muốn tìm hiểu mối quan hệ
biện chứng giữa văn hóa và pháp luật vào giải quyết vấn đề xã hội, tôi tìm kiếm
nhận định “Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và pháp luật được
xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa” làm nền tảng và cơ sở lý luận
cho mối quan hệ ấy.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm phác họa tầm quan trọng của văn hóa và pháp
luật trong quá trình phát triển, xây dựng Việt Nam, đặc biệt trong quá trình đổi
mới đất nước hiện nay. Từ việc đánh giá tầm quan trọng của hai lĩnh vực trên cho
thấy được mối quan hệ biện chứng và sự tác động qua lại giữa văn hóa và pháp
luật.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, trình bày về khái niệm của những vấn đề mang tính cốt lõi của đề
tài.
2
Thứ hai, nghiên cứu đặc trưng truyền thống trong mối quan hệ giữa văn hóa
và pháp luật trong lịch sử, xem đây là cơ sở lý luận cho vấn đề cần phân tích.
Thứ ba, phân tích quan điểm “Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp
luật và pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa”.
Thứ tư, nghiên cứu và trình bày sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa
văn hóa và pháp luật vào giải quyết vấn đề xã hội hiện nay.

3
NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật
1.1. Khái niệm
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, gắn liền với lịch sử nhân loại.
Văn hóa thể hiện trình độ phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại. Thuật ngữ
“văn hóa” xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Ở phương Đông,
từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ thời cổ đại. Trong công trình Chu Dịch
ở Trung Quốc đã có những từ “văn” và “hóa”. Trong quẻ Bị của Chu Dịch viết:
“quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ”1, nghĩa là xem dáng vẻ của mỗi con
người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ. Khổng Tử (551 – 479 tr. CN) đã đề cập đến
“văn”, “văn đức” “lễ nghĩa” với ý nghĩa đối lập với vũ lực trong lời dạy học trò
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Theo Khổng Tử, đạo trị nước nên dùng
văn đức để làm cho xã hội yên bình.
Nói văn hoá là nói đến con người, là nói đến việc con người không ngừng
sáng tạo để tồn tại, phát triển, là cách thức con người thực tại hóa năng lực bản
chất của mình. Nói cách khác, văn hoá là kết quả của quá trình con người nhận
thức, ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính bản thân
mình. Văn hoá thể hiện trong các sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần và trong
con người. Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình”2. Mỗi dân tộc đều hình thành, phát triển trong điều kiện tự nhiên
và lịch sử – xã hội đặc thù, nền văn hoá của mỗi dân tộc bao giờ cũng có những
nét riêng (bản sắc). Khái quát nhận thức của nhân loại về văn hoá, Federico
Mayor - nguyên Tổng giám đốc UNESCO, đưa ra quan niệm về văn hoá: “Văn
hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và các cộng
đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã
hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố
xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”3.
Hồ Chí Minh không những là anh hùng giải phóng dân tộc, Người còn là nhà
văn hóa lớn của dân tộc. Người rất quan tâm đến vấn đề văn hóa - đạo đức, trong
bản thảo tập Nhật ký trong tù, Người đã ghi lại ý nghĩa của văn hóa, thể hiện
cách nhìn nhận về văn hóa. Hồ Chí Minh (2004) cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
1
Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr.16.
2
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.25.
3
Trần Văn Bính (2006), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.15.

4
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
tồn”4. Bên cạnh khái niệm về văn hóa theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh còn đề cập
đến văn hóa theo những nghĩa hẹp, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, là
những thành tựu con người đạt được trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống tinh
thần: tư tưởng, đạo đức, khoa học, tín ngưỡng, tôn giáo và pháp luật... Như vậy,
văn hóa được hiệu thuộc kiến trúc thượng tầng, là một bộ phận của kiến trúc
thượng tầng.
1.1.2. Pháp luật
Theo quan điểm Marx, pháp luật là một hiện tượng lịch sử, hình thành và phát
triển gắn liền với nhà nước, do nhà nước ban hành và bảo đảm được thực hiện.
Pháp luật là công cụ của giai cấp thống trị, nhằm duy trì và bảo vệ lợi ích của họ.
Nhà nước và pháp luật là sản phẩm của sự phát triển xã hội đến một trình độ nhất
định. Có nhiều định nghĩa khác nhau về pháp luật. Song nội hàm khái niệm pháp
luật được hiểu một cách phổ biến là “tổng hợp các quy tắc xử sự có tính bắt
buộc do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế” 5.
Như vậy, có thể hiểu rằng, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước
ban hành (hoặc thừa nhận) và bảo đảm được thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo ra trật tự và ổn định xã hội.
1.1.3. Văn hóa pháp luật
Từ cách tiếp cận văn hóa như một tổng thể những yếu tố đặc trưng cho bản
sắc của mỗi một dân tộc, thì văn hóa pháp luật có thể được xem như là một trong
những mảng màu góp phần làm nên bức tranh đa sắc diện ấy. Văn hóa pháp luật
là một khái niệm rộng bao hàm ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và trình độ
vận dụng vũ khí pháp luật của con người. Văn hóa pháp luật được xác định một
cách trực tiếp các yếu tố chứa đựng văn hóa rộng hẹp khác nhau: “Văn hóa pháp
luật là hệ thống các yếu tố, giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động
của pháp luật, được thể hiện trong ý thức, tư tưởng và hành vi của con người” 6;
“Văn hóa pháp luật được hình thành từ 3 yếu tố: Ý thức pháp luật, hệ thống
pháp luật và các phương tiện pháp luật; trình độ, khả năng sử dụng pháp luật để
thực hiện các hành vi hợp pháp”7; hay: “Văn hóa pháp luật là hệ thống các yếu

4
Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 3, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.431.
5
Nhiều tác giả (2002), Từ điển Hán – Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.1071.
6
Học viện Hành chính quốc gia (2015), “Văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài khoa học cấp
nhà nước, mã số KX03.13/11-15.
7
Trần Hoàng, Trần Việt Hoa (2005), Văn hóa ứng xử nơi công sở, NXB. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

5
tố, giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của pháp luật được thể
hiện trong ý thức, tư tưởng và hành vi của con người”8.
Trong cấu trúc của hệ thống văn hóa, đó là một bộ phận cấu thành của văn
hóa tổ chức cộng đồng. Trong một xã hội có nhà nước và pháp luật, pháp luật và
luân lý luôn song hành tồn tại. Chúng có cùng một mục đích là tìm sự hài hòa
trong các mối quan hệ giữa con người với con người, nhằm đề ra cho con người
những quy tắc xử sự sao cho trật tự xã hội được duy trì. Luân ý hướng về sự hoàn
thiện con người, trong khi pháp luật hướng tới việc tổ chức đời sống trong xã hội.
Các giá trị luân lý của một xã hội được hình thành trên nền tảng văn hóa của
xã hội đó. Luân lý bắt nguồn từ ý thức cá nhân hay tập thể, từ sự đúc kết kinh
nghiệm trong cuộc sống, pháp luật phát sinh từ ý chí của con người. Luân lý đạo
đức có chuẩn mực lý tưởng, trong khi pháp luật có những chuẩn mực thực tế.
Tính chất lý tưởng của luân lý đạo đức có tác động tích cực cho sự vận hành của
hệ thống pháp luật. Một xã hội có tổ chức không thể chỉ có luân lý, hay pháp
luật, mà phải có cả hai. Trong lịch sử hình thành và phát triển của một nền pháp
luật, văn hóa và pháp chế là hai vấn đề không thể tách rời nhau. Văn hóa nói
chung, văn hóa pháp luật nói riêng nằm trong mối liên hệ mật thiết với nhau.
Trong mối quan hệ hữu cơ đó, có thể xem văn hóa là cái chung, văn hóa pháp
luật là cái riêng mà trong nó luôn chứa đựng những dấu ấn của các cơ tầng văn
hóa đan xen với các giá trị văn minh.

1.2. Những dấu ấn dân chủ sơ kỳ trong mối quan hệ giữa văn hóa và
pháp luật
Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm viết: “Đối với một
nền văn hóa gốc nông nghiệp điển hình như Việt Nam thì tổ chức nông thôn lại
là lĩnh vực quan trọng nhất. Nó chi phối cả truyền thống tổ chức quốc gia lẫn tổ
chức đô thị, cả diện mạo xã hội lẫn tính cách con người” 9. Làng xã là đơn vị cơ
bản tạo thành khuôn khổ xã hội ở nông thôn Việt Nam thời phong kiến. Nếu chủ
quyền quốc gia được cấu thành bằng các quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp, thì ở làng xã cũng có những thiết chế tương tự thông qua hoạt động quyền
lực của những chức sắc trong hội đồng kỳ mục, lý tưởng và tiền chỉ, thứ chỉ.
Hội đồng kỳ mục có vai trò quyết định trong việc đề ra những quy tắc lệ làng.
Lý trưởng là người đứng đầu bộ phận hành pháp của một làng, có trách nhiệm
điều hành các cá nhân trong cộng đồng tuân thủ cả phép nước lẫn lệ làng. Các
bậc tiền chỉ, thử chỉ là những người phụ trách công việc xét xử phạm vi làng xã.
Về phương diện pháp luật, theo một nghĩa nào đó, xã nào cũng có một pháp đình
riêng. Những tranh chấp trong nội bộ dân làng do lý trường hoặc tiên chỉ xét xử
8
Phạm Duy Nghĩa (2008), “Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia
Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24, tr.1-8.
9
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.179.

6
trước tiên. Họ có quyền không những chỉ căn cứ vào pháp luật của triều đình, mà
còn căn cứ vào lệ làng và lẽ công bằng để phán xét vụ việc.
Thời nhà Nguyễn, tiên chỉ còn có quyền đưa ra ngân hình (phạt tiền) hoặc
đánh đòn bằng roi. Đối với các án tụng phải xét xử theo luật triều đình, vai trò
của làng xã, trong nhiều trường hợp, vẫn được nhấn mạnh gần như một cấp xét
xử đầu tiên, Hương ước làng Mộ Trạch (Hải Hưng) năm Canh Tỵ thứ 3 (1665)
còn ghi rõ: “Nếu một dân làng nào muốn thưa kiện, thì người đó trước hết phải
nộp đơn cho xã trường, để xã trường là người đầu tiên được biết việc đó và là
người đầu tiên xét đơn. Cấm không được vượt qua thứ bậc đó. Người vi phạm sẽ
bị làng phạt vạ một con trâu và 6 vò rượu”10.
Trong đó, tính tự trị của làng xã mang nhiều dấu ấn dân chủ sơ kỳ. Luật pháp
được ban hành thống nhất, nhưng lại được thực thi bằng những cách thức và hiệu
quả rất khác nhau ở những địa phương khác nhau, đặc biệt là trong các quan hệ
dân sự: “Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Phần lớn
các tranh chấp trong dân chúng được giải quyết trong nội bộ gia đình, họ tộc hay
làng xã. Thời phong kiến, sự thiếu hụt những quy định pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ trực tiếp giữa những người dân trong làng xã, và tình trạng nhà nước
không quản lý đến từng công dân là một trong những môi trường nuôi dưỡng cho
xã hội làng xã phát triển.
Với một nền tảng xã hội mang nặng tư tưởng của Nho giáo, gia đình, xã hội
mang tính tôn ty trật tự khắt khe, bản thân nhà nước cũng phải phù hợp với
khuôn mẫu xã hội và gia đình. Việc tuân thủ những quy định của tập quán luôn
luôn gần gũi hơn thái độ phục tùng pháp luật: “Phép vua thua lệ làng”. Lệ làng
đóng một vai trò đặc biệt quan trọng khẳng định tính tự trị của làng xã Việt Nam.
Lệ làng như một công cụ để hình thành nên một xã hội làng xã. Những quy định
thành văn và bất thành văn của lệ làng không những có giá trị điều chỉnh mối
quan hệ giữa các thành viên trong làng, mà còn chi phối cả cách ứng xử của cộng
đồng với luật pháp và các quan lại nhà nước cấp trên.
Ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, Toàn quyền Đông Dương - Piere Pasquier đã
từng nhận định: “Xã họp thành một khối, hoàn bị đến nỗi người ta không thể sửa
đổi một điểm nhỏ nào... Chúng ta không có lợi ích gì mà đả phá trực tiếp hoặc
gián tiếp một cơ quan hiện là một lợi khí màu nhiệm, miễn ta nên để nó nguyên
vẹn và tôn trọng những hình thức của nó”11.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, rất nhiều trong số đó có những luật tục
riêng. Do đó, khi áp dụng những quy định pháp luật và các chuẩn mực về văn
hóa chung tại các cộng đồng này, thì sự hài hòa giữa các giá trị pháp lý và các
10
Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb. Giao thông vận tải,
tr.444.
11
Nguyễn Đăng Dung (2003), “Một xã hội làng xã”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Hà Nội, số 11/2003,
tr.23.

7
chuẩn mực đạo đức của cộng đồng là điều mà các nhà làm luật luôn phải tính
đến. Thời nhà Nguyễn, theo bộ Luật Gia Long, thẩm phán được quyền áp dụng
điều khoản tương tự nếu thấy luật thiếu sót về một trường hợp tranh chấp nào đó.
Việc xét xử không chỉ căn cứ vào luật của triều đình, mà còn tùy thuộc vào
phong tục tập quán của địa phương. Ở miền Nam trước năm 1975, trước sự đấu
tranh gay gắt của các dân tộc vùng Tây Nguyên, chính quyền Sài Gòn phải ban
hành Sắc luật 6/65 ngày 22/7/1965 về việc Tổ chức các Tòa án Phong tục
Thượng. Theo đó, người dân có quyền lựa chọn được xét xử theo phong tục hay
theo luật thực định khi có tranh chấp.
Trong pháp luật hiện hành, vấn đề dân tộc trong văn hóa tư pháp cũng đã
được quan tâm, Điều 134 Hiến pháp quy định: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói và chữ viết của dân tộc mình trước Tòa án”. Theo Luật hôn nhân gia đình:
“Đối với dân tộc thiểu số, chính phủ căn cứ Luật này và tình hình cụ thể mà có
những quy định thích hợp”. Tóm lại, văn hóa truyền thống trong điều hành xã
hội ở nước ta tồn tại song song trên thực tế một dạng thức kép giữa những
nguyên tắc quản lý xã hội được ghi thành văn bản với những nguyên tắc không
thành văn nhưng được quy ước và công nhận. Nghĩa là các chuẩn mực về hoạt
động và hành vi của con người không phải chỉ được quy định trong pháp luật mà
còn trong những thông lệ, thông tục, tập quán, quy ước... Trong nhiều trường
hợp, luật pháp không đóng vai trò chủ yếu. Hiện tượng này không hẳn thể hiện
tính yếu ớt của pháp luật trong việc điều hành xã hội, mà là khẳng định vai trò tự
quản của các cộng đồng địa phương. Trong thực tế, các quy định pháp luật của
chính quyền trung ương chỉ được đề cao và vận dụng khi phù hợp với những
thông lệ của chính địa phương đó.

8
2. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và pháp luật ở Việt Nam
2.1. Quan điểm “Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và
pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa”
2.1.1. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật
Xã hội nào cũng cần pháp luật như một công cụ điều chỉnh hành vi của con
người trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, nhưng trên thực tế, con người
chịu sự điều chỉnh của văn hóa nhiều hơn là pháp luật vì con người luôn hành
động theo tập quán, theo thói quen… Hơn nữa, ngay cả trong trường hợp pháp
luật được sử dụng để áp đặt hành vi của con người thì con người vẫn hành động
theo thói quen, theo những kinh nghiệm văn hóa của mình, và do đó, họ vi phạm
pháp luật.
Nguồn gốc nông nghiệp lúa nước và triết lý âm dương ảnh hưởng rất sâu đậm
đến tính cách của người Việt. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, hài hòa là
yếu tố quan trọng xác định sự cân bằng của vũ trụ. Đó là sự hài hòa của con
người với thiên nhiên, giữa con người với con người. Mỗi cá nhân cần phải
hướng tới lợi ích của cộng đồng mà quên đi bản thân. Tổ chức cộng đồng được
hình thành theo nguyên tắc trọng tình, rất linh hoạt và hòa hiếu trong các quan hệ
xã hội.
Sống giữa môi trường thiên nhiên và xã hội đó, người Việt Nam mang bản
tính mềm dẻo, sống tình cảm và bao dung. Với lối sống trọng tình nghĩa, người
nông dân Việt Nam luôn cho rằng “Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”,
thậm chí có khi đã phải “Đưa nhau đến trước cửa quan” nhưng vẫn mong muốn
“Bên ngoài là lý bên trong là tình”. Với một thiết chế xã hội mà pháp luật không
mạnh, người dân thường tuân theo những quy ước của cộng đồng mình. Họ
thường sống theo chuẩn mực luân lý xã hội, chứ không phải là theo chuẩn mực
của pháp luật. Khi có xung đột thì tìm cách hòa giải cho em thấm, chứ không
thích đến cửa quan, do tâm lý: “Vô phúc đáo tụng đình”.
Hơn nữa, trong tâm lý của người Việt, những công cụ pháp lý như pháp luật,
xét xử... luôn gắn với một ý niệm về sự trừng phạt đối với những việc làm sai
trái. Công lý trong hoạt động tư pháp chủ yếu dùng để răn đe, bảo vệ trật tự xã
hội và lợi ích cộng đồng, chứ không phải để bảo vệ lợi ích cá nhân. Thậm chí,
nhiều người quan niệm: những kẻ phải ra đứng trước tòa án để “bị” xét xử nếu
không là tội phạm thì cũng phải là phường “trốn chúa, lộn chồng”. Trong bối
cảnh đó, tuyệt đại đa số công dân rất ngắn ngại khi có việc phải kiện tụng tại tòa
án. Họ chỉ thụ động ra “hầu tòa” khi có vấn đề rắc rối với pháp luật, chứ hầu như
hiếm khi chủ động sử dụng quyền tư pháp của mình để giải quyết tranh chấp cá
nhân.
Làng xã Việt Nam là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội rất đa dạng của
các mối liên hệ nghề nghiệp, tuổi tác, tín ngưỡng, tôn giáo, dòng tộc... Song giữa

9
những mối quan hệ chồng chéo ấy, thì mối liên kết họ hàng vẫn là quan trọng
nhất và bền vững nhất. Cộng đồng làng xã trước hết là sự tập hợp của những
dòng họ. Sự liên kết dựa trên cơ sở huyết thống cũng là một trong những nguyên
nhân khiến cho các cơ sở pháp lý nhiều khi không được coi là nền tảng để giải
quyết tranh chấp. Thay vào đó là những giá trị tình cảm, luân lý luôn được đề cao
trong tâm thức của cộng đồng.
Tinh thần pháp luật nổi trội trong văn hóa dân gian Việt Nam thể hiện thái độ
khoan dung, độ lượng, khuyến người ta sống lương thiện, ăn ở hiền lành, thuận
hòa, tôn trọng pháp luật để tránh việc kiện tụng. Các biện pháp ôn hòa, thuyết
phục luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc đảm bảo trật tự xã hội và giải quyết
tranh chấp trong nhân dân. Cho đến nay những dấu ấn của một nền văn hóa nông
thôn, tính cách con người nông dân vẫn in đậm trong nếp nghĩ lối sống của cộng
đồng và từng cá nhân.
Ngày nay, mặc dù pháp luật trở thành công cụ để điều chỉnh và duy trì sự ổn
định của xã hội. Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, Hiến pháp 1992 và
mới nhất là Hiến pháp 2013 ra đời đã đáp ứng được những yêu cầu chung của đất
nước. Song, cần phải khẳng định rằng, những giá trị và ảnh hưởng của văn hóa
luôn tác động và chi phối đến quá trình nhận thức, hành động của con người
trong xã hội.
Ở một trình độ cao của văn hóa, giá trị không phải ở tự bản thân các quyền,
cũng không phải trật tự hay đạo luật, mà chính là con người cụ thể. Bất kỳ đạo
luật nào cũng đều do con người xây dựng, phê chuẩn, giải thích và áp dụng. Nội
dung văn hóa của đạo luật là ở mức độ định hướng của nó vào bảo vệ lợi ích của
các cá nhân - thành viên của xã hội, và do đó cả lợi ích của xã hội bình thường,
trong đó mức độ tự do của cá nhân được khẳng định và bảo đảm bằng đạo luật.
Do đó, con người – chủ thể của văn hóa chính là đối tượng xây dựng pháp luật.
Và, dựa vào bản tính mềm dẻo, hòa hiếu của người Việt Nam bao đời nay luôn
lấy văn hóa làm chuẩn mực để tác động đến pháp luật; cùng với đó, con người –
chủ nhân của nền văn hóa. Tất cả những yếu tố đó đã quyết định và khẳng định
việc văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật.
2.1.2. Pháp luật được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm văn hóa
Bản chất của cuộc sống là sự đa dạng, do đó, một hệ thống pháp luật chỉ có
giá trị khi nó mang trong mình tính đa dạng của cuộc sống. Nếu tự do không phải
là tinh thần của pháp luật thì pháp luật không thể chứa đựng trong nó tính đa
dạng của cuộc sống. Điều đó cũng đồng nghĩa rằng, một hệ thống pháp luật sẽ trở
nên không tương thích với cuộc sống khi nó không phải là kết quả của sự thỏa
thuận mà là kết quả của việc áp đặt chủ quan của một người hay một nhóm
người. Văn hóa chính là phổ rộng lớn nhất của pháp luật và không một hệ
thống pháp luật nào ngoài văn hóa có đủ năng lực điều chỉnh tất cả các tình
huống của cuộc sống.
10
Kinh nghiệm văn hóa là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng pháp luật. Nếu
pháp luật được xây dựng trên những kinh nghiệm văn hóa, tức là thừa nhận cuộc
sống chứ không áp đặt lên cuộc sống, thì tốc độ thâm nhập của pháp luật vào
trong cuộc sống sẽ nhanh hơn, khi đó việc tuân thủ pháp luật trở thành thói quen
có chất lượng văn hóa của con người. Kinh nghiệm về việc xây dựng pháp luật ở
các quốc gia phát triển chỉ ra rằng, pháp luật càng gần với tập quán cũng như thói
quen của con người, càng có chất lượng văn hóa bao nhiêu thì pháp luật càng dễ
được chấp nhận bấy nhiêu.
Trong lịch sử Việt Nam, Nhà nước phong kiến Việt Nam được tổ chức theo
phương pháp nhân trị. Theo đó, pháp luật trong xã hội đáng lý ra không cần phải
có, hoặc giả thử có cần chỉ là trường hợp bất đắc dĩ. Mọi vấn đề trong xã hội
được khuyến khích giải quyết theo đường hướng “Tu thân tích đức để giáo hóa
con người”. Quan niệm này nổi bật địa vị rất quan trọng của luân lý đạo đức
trong địa hạt pháp luật của phương Đông nói chung, và Việt Nam nói riêng.
“Động lực chính yếu để duy trì trật tự xã hội không phải bằng pháp luật như ở
phương Tây, mà là sự rèn luyện nhân phẩm” 12. Phẩm hạnh và đạo đức là những
tiêu chuẩn chuẩn còn quan trọng hơn kiến thức ở nhà cầm quyền. Những bộ luật
thời trước chỉ được áp dụng trong chừng mực mà chúng đáp ứng được nhận thức
về công lý của cộng đồng. Các điều luật sẽ không đi vào thực tế và còn có thể bị
chối bỏ khi chúng không phù hợp với đạo lý truyền thống. Các mối quan hệ xã
hội chỉ chấp nhận sự điều chỉnh của những đạo luật không trái với nền tảng luân
lý của nó.
Các triều đại phong kiến Việt Nam hầu hết đều chú trọng việc tuyển dụng
quan chức với tiêu chuẩn “người nào có đức nhân từ, khoan hậu, sáng suốt,
thành thực”. Người làm quan không phải chỉ là người thực thi phép nước, là
công bộc của dân, mà còn là: “Dân chi phụ mẫu” nên phải thanh liềm và giữ đức
độ: “Chớ dung kẻ gian, chớ oan người ngay”. Theo chỉ dụ của vua Lê Thánh
Tông năm 1935: “gần nay, ít kẻ biết giữ phép công, tuân theo pháp luật... xử
kiện thì không giữ công bằng, chỉ nghĩ đến bè đảng và ăn hối lộ... phải sửa đổi,
phải công bằng xét xử việc hình ngục và kiện tụng... trau dồi đức tính thanh liêm,
trong sạch”13. Vua Lê Nhân Tông từng căn bảo các quan: “quan hình ngục thì
nên xét xử công bằng, cởi rõ oan uổng, cốt sao cho thấu được dân tình”14.
Trong cuộc sống hàng ngày, người dân tôn trọng đạo đức hơn là tôn trọng
pháp luật. Đối với giới cầm quyền, thì “luân thường đạo lý” được coi là quy tắc
quan trọng trong phép trị nước. Với nguyên tắc quản lý xã hội như vậy, nhà cầm
quyền ít khi phải dùng đến bạo lực tư pháp. Hành vi của con người gắn bó chặt
12
Vũ Văn Mẫu (1968), Dân luật lược giảng, quyển thứ nhất, Sài Gòn, tr.28.
13
Quốc Sử quán triều Nguyễn (1996), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
tr.6.
14
Quốc Sử quán triều Nguyễn (1996), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội,
tr.29.

11
chẽ với những giá trị đạo đức hơn là với những quy định của pháp luật. Những
đặc điểm trên là cơ sở lý giải cho hiện tượng: Trong truyền thống pháp luật Việt
Nam, các biện pháp ôn hòa, thuyết phục luôn đóng vai trò chủ đạo cho việc đảm
bảo trật tự xã hội chứ không phải là quyền lực và sự cường chế. Công lý luôn
luôn gắn liền với tư tưởng nhân đạo chứ không chỉ cứng nhắc trong khuôn khổ
pháp lý.
Tuy mang ảnh hưởng sâu đậm của những học thuyết tư tưởng Trung Hoa cổ
đại, nhưng nền cổ luật Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều nét đặc sắc không tìm thấy
trong nền cổ luật Trung Hoa. Đó là tính nhân bản trong pháp luật đời nhà Lý, sự
tôn trọng chế độ tư hữu và quyền của người phụ nữ trong Luật Hồng Đức đời nhà
Lê... Học thuyết Nhân trị của Khổng Tử có ảnh hưởng rất sâu đậm đến quan
niệm làm luật tại Việt Nam qua nhiều thế kỷ, nhất là thời kỳ tự chủ trước thế kỷ
thứ XIX. Việc cai trị đất nước được tổ chức theo mẫu hình gia tộc, có tôn ti trật
tự. Nhà có cha làm chủ, nước có vua là Thiên tử, quan là phụ mẫu của dân. Động
lực để duy trì trật tự xã hội không phải là pháp luật mà là sự rèn luyện bản thân
cho hợp đạo nhân.
Những giá trị nhân bản này rất đáng trân trọng, nhưng cũng có mặt trái là làm
cho người Việt Nam không có thói quen sống theo pháp luật. Sự khép kín của
làng xã làm cho con người sống phụ thuộc vào cộng đồng, ý thức cá nhân không
có điều kiện phát triển, dẫn đến thái độ “cha chung không ai khóc”, thờ ơ với
pháp luật. Cho đến nay, dấu ấn của một xã hội làng xã vẫn để lại những ảnh
hưởng không nhỏ đến trình độ văn hóa không chỉ của công dân mà ngay cả các
công chức nhà nước, không những chỉ ở các vùng nông thôn hẻo lánh, mà ngay
cả những đô thị lớn của Việt Nam. Những ảnh hưởng này được biểu hiện ở các
hành vi không tuân thủ pháp luật, thái độ dựa dẫm, ỷ lại, óc bè phái, sự cả nể...
trong hoạt động pháp luật.
Mặt khác, tuy những dấu ấn dân chủ vẫn khá là đậm nét trong việc tổ chức
quản lý và điều hành xã hội ở Việt Nam, nhưng đó chỉ là những dấu ấn dân chủ
sơ kỳ. Điểm còn thiếu hụt trong tinh thần pháp luật của Việt Nam là những ý
thức dân chủ thời hiện đại. Đó là những quan niệm về tính thượng tôn của pháp
luật, về mối quan hệ bình đẳng giữa nhà nước và công dân, về lễ công bằng của
hoạt động phán xử... làm nền tảng cho một xã hội công dân, và một nhà nước
pháp quyền.
Chính vì thế, pháp luật ra đời chính là việc dựa trên những kinh nghiệm văn
hóa, kinh nghiệm này có thể ẩn chứa những giá trị tích cực để hướng con người
tới những giá trị tốt đẹp. Song, những kinh nghiệm văn hóa có thể là những tư
duy cổ hủ, lạc hậu thậm chí trái ngược với những quy phạm pháp luật. Để khắc
phục những vấn đề đó, pháp luật hình thành luôn phải dựa trên những kinh
nghiệm văn hóa để từ đó có phương hướng, nội dung phù hợp với thực tiễn.

12
Bên cạnh đó, con người – chủ thể của văn hóa, là người sáng tạo ra văn hóa.
Văn hóa ăn sâu, thâm nhập, trở thành nếp sống của mỗi cá nhân. Chính vì thế,
pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh hành vi của xã hội và giáo dục, răn đe những
hành vi tiêu cực của con người, việc pháp luật xây dựng trên kinh nghiệm văn
hóa dưới cái nhìn nhằm chấn chỉnh lại những hành vi, hành động của người chủ
văn hóa. Và, nếu pháp luật không được xây dựng dựa trên những kinh nghiệm
văn hóa thì nó sẽ chia rẽ con người thông qua việc chia rẽ hành vi của con người.

2.2. Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và pháp luật vào
giải quyết vấn đề xã hội
Mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và pháp luật vào giải quyết vấn đề xã
hội được Đảng và Chính phủ ta lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận chủ
yếu. Theo đó, văn hóa và pháp luật có mối quan hệ chứng minh, hữu cơ; văn
hóa, một mặt, có ảnh hưởng lớn đến pháp luật. Văn hóa là hoạt động hết sức
quan trọng cho sự phát triển của xã hội. Pháp luật được toàn dân xây dựng và
thực hiện nhằm mục đích thể hiện ý chí và khát vọng của mình, bảo đảm cho sự
công bằng, bình đẳng, tự do, nhân văn của xã hội. Văn hóa và pháp luật đều vì
con người, vì sự phát triển của xã hội, đều hướng tới các chân giá trị - thiện - mỹ.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), Quốc hội không có điều
kiện ban hành các đạo luật để quản lý đất nước, chủ yếu vẫn phải điều hành bằng
Sắc lệnh của Chủ tịch nước, nhưng tinh thần dân chủ, các quyền, đoàn kết, nhân
văn Hiến pháp năm 1946 khơi dậy, phát huy cao độ sức mạnh văn hóa, con người
Việt Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp nên chiến thắng của dân tộc khi có sức
mạnh về chất - kỹ thuật nghiêng về kẻ thù. Có thể thấy, sức mạnh của văn hóa có
thể chứa đựng và thay thế nhiệm vụ cho pháp luật.
Dựa trên kinh nghiệm văn hóa về con người, trong đó quyền con người là vấn
đề quan trọng trong quá trình xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi mà
quyền con người bị thực dân phong kiến tước đoạt, đe dọa. Bằng kinh nghiệm
văn hóa, xã hội mới đã xây dựng quyền con người dựa trên Hiến pháp. Trong
Hiến pháp 2013, quyền con người được đề cập: “Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”15.
Về văn hóa, Hiến pháp và các cơ quan pháp luật đã thiết lập các chế độ quan
trọng nhất, cơ bản, quyền con người, quyền xây dựng và thụ hưởng văn hóa của
tất cả công chúng Việt Nam; phục vụ bảo vệ mục tiêu và phát triển văn hóa Việt
Nam ở trong và ngoài nước; bảo đảm cho người dân được bình đẳng trong sáng
tạo và thụ hưởng các văn hóa trị giá, được trưng bày, thể hiện những khát vọng
15
Nguyễn Xuân Thu (2014), “Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013”, Cổng thông tin điện tử Bộ
Quốc phòng, ngày 18/9/2014, https://tth.vn/fyFLYE, truy cập ngày 25/6/2022.

13
của cá nhân đáng giá; được tôn trọng, thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử,
hay sự đa dạng hóa văn bản của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Từ bản Hiến
pháp ban đầu (năm 1946) đến nay, các cốt lõi nội dung, cơ bản về văn bản hóa
đều được kế thừa, thể hiện nhất quán và xuyên suốt. Đặc biệt, trong năm 2013,
các nội dung về văn hóa được quy định toàn diện, phong phú, có nhiều điểm mới.
Xuất phát từ kinh nghiệm văn hóa để nhận thức tầm quan trọng của các vấn
đề trong xã hội, nhiều chính sách, quy định của pháp luật được ban hành, sửa đổi,
bổ sung, thể chế hóa dịch vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn
bản, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa, đặc
biệt là các di sản văn hóa và danh sách nhân văn hóa được Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh; gắn kết văn hóa với
phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa, quyền bảo vệ chủ sở hữu trí tuệ, góp
phần quảng cáo hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới; tăng
cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, hệ thống truyền thông giáo dục, xây
dựng mới người xây dựng; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí,
xuất bản, thông tin, truyền thông, tạo nên những sức mạnh và sức hấp dẫn mới
trong cuộc sống tinh thần xã hội.
Nhiều văn bản luật đã được định sẵn nội dung xây dựng văn bản hóa trong
chính trị, từng bước làm cho văn hóa trị giá thấm sâu vào đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực,
hiệu quả vào đời sống chính của đất nước. Trong đó, hoạt động của Quốc hội,
các cơ quan thuộc Quốc hội, đại biểu Quốc hội được thay đổi mới theo hướng đề
cao văn hóa chính phù hợp với đặc điểm của cơ quan tổ chức mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thiết kế, đặt nền móng, nhất là đường ngắn, phong cách làm việc
của dân chủ, đoàn kết, trách nhiệm, hiệu quả, dựa trên các quyền nguyên tắc, là
tổ chức quốc gia, nhân dân phục vụ.
Hội nhập quốc tế là xu thế chung của thời đại, trong quá trình ấy, Việt Nam
phê chuẩn hoặc tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người, trong
đó có các quyền về văn hóa, có hệ thống hợp tác với nhiều quốc gia, vùng lãnh
thổ trên lĩnh vực văn hóa. Quốc hội luôn nỗ lực thực hiện các quy định, cam kết
quốc tế, nội luật hóa vào hệ thống pháp luật Việt Nam, thúc đẩy, bảo vệ các
quyền của con người, trong đó có các quyền về phù hợp văn hóa với các nguyên
tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và các tiêu chuẩn trong các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên; tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu, hợp tác, quảng bá
văn hóa, giới thiệu về đất nước và con người Việt Nam ra thế giới.
Hoạt động của Quốc hội trong thời gian qua đã góp phần quan trọng tạo ra
các hoạt động chuyển đổi tích cực, hình thành nền tảng pháp lý vững chắc cho sự
nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào những hạn chế, khuyết

14
điểm và cả những khó khăn, thử thách. Một số quy định của pháp luật không đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của người thực hiện và sự thay đổi nghiệp vụ mới.
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới và các vấn đề xã hội nói chung, lĩnh vực
văn hóa không có sự điều chỉnh của pháp luật. Một số nội dung về các quyền con
người, các quyền và cơ bản nghĩa vụ của công dân, nhất là về văn bản hóa, chưa
được chế độ hóa đầy đủ, kịp thời. Một số luật mới ban hành nhưng chưa kịp thay
đổi.
Thứ hai, mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế và chính sách kinh tế trong quá
trình phát triển văn hóa còn chậm, không bảo đảm cho sự phát triển lành mạnh
trên thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, phát huy “sức mạnh phần
mềm” của đất nước trong quốc tế nhập khẩu cũng như bảo đảm lợi nhuận văn
hóa cho nhân dân.
Thứ ba, đầu tư cho văn hóa phát triển và con người không tương thích, đầu tư
đầy đủ chưa nhận thức được cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Nguồn lực đầu
tư xây dựng đồng bộ hóa thiết bị, cách thụ hưởng văn bản giữa các vùng, miền
chậm được thu hồi.
Thứ tư, dưới tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
hiện nay, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức bị xuống cấp nghiêm trọng. Một bộ phận
cán bộ, đảng viên “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những
biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ,
cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham
nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc” 16; nguy hại hơn, “tình trạng suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” 17, “tham những
lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với
những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội”18… Những hạn chế
trên về mặt văn hóa chính là cơ sở để Đảng và Chính phủ ta tiếp tục đề ra chính
sách pháp luật phù hợp và kịp thời.
Đại hội XIII của Đảng ra đời mục tiêu đến năm 2030 nước ta là nước đang
phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở
thành nước phát triển, thu nhập cao. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng được xác
định một trong những định hướng phát triển toàn diện, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh,
động lực phát triển đất nước và Tổ quốc bảo vệ. Khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam
16
Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.22.
17
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, tr.44.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.93.

15
trong sự xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế trở thành một trong
những nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược trong giai đoạn hiện nay19.
Bên cạnh đó, từ kinh nghiệm văn hóa bằng việc xác lập vai trò giáo dục, Đại
hội XIII đã bàn về công tác giáo dục con người Việt Nam thời kỳ mới, Văn kiện
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội của các tầng
lớp nhân dân, nhất là thanh niên... nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người
Việt Nam”20; đồng thời, chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, tư duy sáng tạo,
kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số và
các giá trị cốt lõi; gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo
dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam.

19
Vương Đình Huệ (2022), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối, chủ trương Đảng,
Quốc hội nêu cao vai trò, trách nhiệm quản lý công việc xây dựng văn bản, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước nhanh chóng và vững chắc”, Tạp chí Cộng sản, ngày 1/1/2022,
https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/van-dung-
tu-tuong-ho-chi-minh-thuc-hien-duong-loi-chu-truong-cua-dang-quoc-hoi-neu-cao-vai-tro-trach-nhiem-
cham-lo-cong-tac-xay-dung-van-hoa-con-nguoi, truy cập ngày 24/6/2022.
20
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.143.

16
KẾT LUẬN
Văn hóa Việt Nam được kết nối từ lịch sử ngàn năm xây dựng nước, giữ nước
của dân tộc. Văn hóa tạo nên sức mạnh đoàn kết, lòng yêu nước, tinh thần tự lực,
tự cường, tương thân, tương ái, làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam văn hiến, anh
hùng. Văn hóa pháp luật của mỗi dân tộc luôn chứa đựng những giá trị truyền
thống mang tính lịch sử, đồng thời tuân theo những quy luật biến đổi không
ngừng của xã hội loài người. Cuộc sống luôn thấm đượm những quy tắc ứng xử
truyền thống. Luật pháp là một bộ phận cực kỳ quan trọng, nhưng xã hội không
thể chỉ được điều chỉnh bằng luật pháp. Những quy tắc truyền thống có thể trở
thành nguồn của pháp luật một khi chúng phù hợp với xu thế phát triển của xã
hội, được pháp điển hóa và tỏ rõ hiệu lực của nó trong đời sống.
Các chuẩn mực tư pháp vừa có thể được quy định trong luật pháp thành văn,
nhưng cũng có thể vừa tồn tại ngay trong truyền thống và thói quen của cộng
đồng. Pháp luật không thể làm tốt vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nếu
nó không có tính xác định rõ ràng, tính phổ cập và tính công lý (ở nghĩa mà cộng
đồng xã hội hiểu về công lý trong pháp luật). Trong lịch sử Việt Nam, nhà nước
nhân trị đã từng tồn tại suốt một thời gian dài và đã phát huy tác dụng tốt trong
việc tổ chức, quản lý xã hội. Tổ tiên chúng ta nhờ những lựa chọn sáng suốt -
Bắc thuộc và chống Bắc thuộc; Pháp thuộc và chống Pháp thuộc – mà đã chắt lọc
được những thành tựu đáng quý trong việc tổ chức nhà nước, tổ chức hoạt động
tư pháp.
Hiện nay, Việt Nam đang chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền. Việc
xây dựng một lối sống theo tinh thần thượng tôn pháp luật không có nghĩa là
hoàn toàn tuyệt đối hóa sự ngự trị của pháp luật trong đời sống xã hội. Quá trình
hiện đại hóa vẫn phải tính đến những tập quán, thói quen cũng như các chuẩn
mực đạo đức đã, đang tồn tại và được cộng đồng chấp nhận. Bên cạnh đó, cũng
có những dấu ấn cũng từ cội nguồn văn hóa như thói quen tùy tiện, thái độ coi
thường pháp luật... cần phải được loại trừ.
Trong hoạt động pháp luật ở nước ta hiện nay, hiện tượng kỷ cương pháp
nước không nghiệm được coi là một biểu hiện của văn hóa pháp luật thấp. Điều
này ảnh hưởng nhiều mặt đến môi trường văn hóa xã hội nói chung. Khi pháp
luật là công cụ được mọi chủ thể trong xã hội tin tưởng, nó sẽ phát huy tác dụng
tích cực. Nhưng một khi pháp luật không còn là công cụ của công lý, thì công
bằng và trật tự xã hội không thể tồn tại bền vững. Đây là giai đoạn mà nền văn
hóa pháp luật Việt Nam đang có nhu cầu được định hình với sự kết hợp những
yếu tố truyền thống và hội nhập. Trong quá trình định hình đó, tư duy phân tích,
khoa học và biện chứng cần được bổ sung cho lối tư duy tổng hợp. Ý thức về vai
trò cá nhân cần phải được kết hợp hài hòa với ý thức cộng đồng truyền thống. Ý
thức dân chủ sơ khai cần phải được nâng lên thành ý thức dân chủ hiện đại.

17
Tóm lại, văn hóa và pháp luật có mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại,
phụ thuộc lẫn nhau. Trong quá trình đổi mới hiện nay, dựa trên những thể chế
văn hóa để xây dựng pháp luật là điều quan trọng cần phải tích cực vận dụng,
đồng thời, vừa kết hợp giải quyết vấn đề văn hóa trên cơ sở pháp luật để văn hóa
pháp luật đi vào cuộc sống nây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 3, NXb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Học viện Hành chính quốc gia (2015), “Văn hóa công vụ ở Việt Nam hiện
nay”, Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số KX03.13/11-15.
6. Nguyễn Đăng Dung (2001), Một số vấn đề về hiến pháp và bộ máy nhà
nước, Nxb. Giao thông vận tải.
7. Nguyễn Đăng Dung (2003), “Một xã hội làng xã”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, Hà Nội, số 11/2003.
8. Nguyễn Xuân Thu (2014), “Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013”,
Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng, ngày 18/9/2014,.
9. Nhiều tác giả (2002), Từ điển Hán – Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
10. Phạm Duy Nghĩa (2008), “Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật”, Tạp chí
khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24.
11. Quốc Sử quán triều Nguyễn (1996), Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
12. Trần Hoàng, Trần Việt Hoa (2005), Văn hóa ứng xử nơi công sở, NXB.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
13. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
15. Trần Văn Bính (2006), Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Vũ Văn Mẫu (1968), Dân luật lược giảng, quyển thứ nhất, Sài Gòn.
17. Vương Đình Huệ (2022), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện
đường lối, chủ trương Đảng, Quốc hội nêu cao vai trò, trách nhiệm quản lý công
việc xây dựng văn bản, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
nhanh chóng và vững chắc”, Tạp chí Cộng sản, ngày 1/1/2022.

19

You might also like