Professional Documents
Culture Documents
Trong nhiều bộ môn nghiên cứu văn hóa trên nhiều khía cạnh khác nhau như:
nhân học, xã hội học, triết học, v.v… Chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa
như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển.
Văn hóa học được xem là một bộ môn khoa học tương đối mới, một khoa học tích
hợp (Integral Science), bởi nó vừa nghiên cứu văn hóa nói chung, vừa nghiên cứu
các hiện tượng văn hóa riêng biệt.
Mục đích của văn hóa học chính là phát hiện ra và phân tích tính quy luật của
những biến đổi văn hóa xã hội.
Năm 1909, nhà khoa học và triết học người Đức Wilhelm Ostwald đã đặt ra thuật
ngữ “ Văn hóa học” ( tên tiếng anh: Culturology). Theo ông, đây là “…khoa học
về các hoạt động văn hóa, tức là hoạt động đặc biệt của con người”.
Nửa sau thế kỉ XX, người ta coi Leslie A. White (một nhà nhân học người Mỹ) là
người sáng lập ra văn hóa học dựa trên những công trình nghiên cứu trong các tác
phẩm
- Khoa học về văn hóa ( The Science of Culture, 1949)
- Sự tiến hóa của văn hóa ( The Evolution of Culture, 1959)
- Khái niệm văn hóa ( The Concept of Culture, 1973)
Ông nêu ra hệ thống, phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa
học. Những yếu tố này đã giúp cho văn hóa học trở thành bộ môn khoa học hoàn
chỉnh. Nhưng vào thời điểm đó, tình hình chính trị, hòa bình thế giới đang trong
giai đoạn căng thẳng vì vậy, ý niệm về văn hóa học trở nên quá mới mẻ và được ít
người biết tới.
Sau năm 1990, thế giới được ổn định, khoa học kĩ thuật bắt đầu phát triển, tiến
trình toàn cầu hóa bắt đầu tác động mạnh mẽ lên đời sống của con người, người ta
mới chú ý đến vai trò và tác động của văn hóa học.
3. Đối tượng của văn hóa học
● Văn hóa học là một môn khoa học chuyên nghiên cứu về văn hóa. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau về văn hóa học. Song, các nhà nghiên cứu đều
chỉ ra rằng : Đối tượng của văn hóa học chính là văn hóa.
● Cũng như văn hóa học, văn hóa cũng có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng
ta có thể phân chia thành các định nghĩa chính như sau:
a. Các định nghĩa về miêu tả:
Các định nghĩa này tập trung vào việc liệt kê tất cả những gì mà khái niệm văn
hóa bao hàm. Chẳng hạn E.B.Tylor đã định nghĩa như sau: “Văn hóa hay văn
minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực, thói quen khác được
con người chiếm lĩnh với tư cách là một thành viên của xã hội”
=> Các kiểu định nghĩa này thường rõ ràng, cụ thể nhưng tính khái quát không cao.
b. Các định nghĩa lịch sử:
Các định nghĩa này nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống. Các
định nghĩa này dựa trên những giả định về tính ổn định và bất biến dẫu trong thời
kì hội nhập và cải biến.
=> Có thể nói tất cả những gì có trong lịch sử là văn hóa, văn hóa là lịch sử
1
tục, tập quán, y dược cổ truyền, lễ hội,bí quyết và quy trình
công nghệ của các nghề truyền thống…
Kết luận:
Như vậy, qua việc hệ thống hoá sơ bộ 7 loại định nghĩa đã nêu trên, chúng ta thấy
được tính chất để ngỏ của khái niệm “văn hoá”. Sở dĩ có khái niệm để ngỏ, bởi văn
hoá là hiện tượng bao trùm tất thảy các mặt của đời sống con người, khiến bất kỳ
định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể thâu tóm được phương diện nào đó của văn
hoá. Bởi vậy, cần coi các định nghĩa như những trừu tượng, và cần sử dụng những
trừu tượng ấy theo cách bổ sung lẫn nhau. Khi đó, chúng ta có thể tái hiện văn hoá
như 1 chỉnh thể.
Qua đó, quay lại khái niệm đã được nêu ra ở đầu: “Văn hoá học nghiên cứu văn
hoá như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển”. Như vậy, với tư cách là 1 chỉnh
thể, văn hoá mang những đặc trưng cố hữu sau:
Văn hoá là cái phân biệt con người với con vật, văn hoá là đặc trưng riêng của xã
hội loài người.
Văn hoá không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền), mà phải học tập, giao
tiếp.
Văn hoá là cách ứng xử đã được mẫu thức hoá.
Hết.