You are on page 1of 112

Bài 1.

DẪN LUẬN VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ HỌC

1. ĐỊNH NGHĨA/ KHÁI NIỆM VĂN HOÁ     


 
Văn hoá là sản phẩm của hoạt động người, là sự sáng tạo của con người từ
cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống . Văn hoá bao
trùm lên lên tất cả các mặt của đời sống con người, khiến bất kỳ định nghĩa
nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung của nó. Do đó cần coi
các định nghĩa ấy là những bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hoá như
một chỉnh thể.
 
    Với tư cách một chỉnh thể, văn hoá mang trong mình những đặc trưng bất
biến sau:

    - Văn hoá là cái phân biệt con người với động vật, văn hoá là đặc trưng
riêng có của xã hội loài người.

    - Văn hoá không phải là sản phẩm của sự kế thừa về mặt sinh học, mà phải
qua giáo dục, nhận thức, giao tiếp trao truyền.

    - Văn hoá là cách ứng xử đã được hình mẫu thành những khuân mẫu ứng
xử.

 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HOÁ       

Sự kết tinh của các mặt của cuộc sống được thể hiện qua các thành tố của văn
hoá. Sự phân chia văn hoá thành nhiều thành tố hay hai, ba thành tố của hệ
thống/ chỉnh thể văn hoá cũng không đi ra ngoài cách phân chia phổ biến
(phù hợp với quan điểm của UNESCO về văn hoá và di sản văn hoá), phân
văn hoá thành hai thành tố: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Những
thành tố văn hoá mà giáo trình nêu cũng thuộc về hai bộ phận văn hoá vật
chất và văn hoá tinh thần.
 
3. CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ
 
 
    Văn hoá là sản phẩm của sự nhân hoá thế giới tự nhiên của con người để
tạo ra cái "tự nhiên" thứ hai, tức là tạo ra văn hoá. Văn hoá được được xem là
một thiên nhiên thứ hai / hệ sinh thái văn hoá phải có của con người. Nó cùng
với hệ sinh thái tự nhiên làm nên môi trường sống của con người. Do đó văn
hoá mang những chức năng xã hội bao trùm nhất, cơ bản nhất là chức năng
giáo dục.
 
 
    Là sản phẩm của hoạt động người, Văn hoá không phải là một thực thể tồn
tại tự nó, và tồn tại bên ngoài con người, mà là toàn bộ những sản phẩm,
hành động bao chứa vốn kinh nghiệm xã hội, tạo thành "môi trường văn
hoá", nuôi dưỡng đời sống con người. Hoạt động văn hoá vì thế diễn ra liên
tục. Muốn cho hoạt động này khỏi bị đức đoạn thì mỗi thế hệ người phải
thường xuyên làm công việc giáo hoá đối với thế hệ tương lai. Chức năng
giáo dục của văn hoá thể hiện ra như sự kế thừa lịch sử, đảm bảo tính liên tục
của lịc sử.
   
 
    Bác sĩ Sing người Ấn Độ đã kể về trường hợp phát hiện cô Kamala bị chó
sói nuôi từ nhỏ. Khi rời hang sói, Kamala đã 12 tuổi. Ban ngày, cô thường
ngũ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Bình
thường cô đi hai chân, khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi rất nhanh.Trong bốn
năm học nói, Kamala chỉ nhớ được hai từ. Cô không thể trở lại làm người,
và chỉ sống đến năm 18 tuổi.
 
 
    Sự kiện trên đây cho thấy vai trò / sự tác động của văn hoá đối với con
người cực kỳ quan trọng. Nó chứng tỏ đứa trẻ khi mới sinh ra chưa phải là
người, vì không tiếp nhận được một sản phẩm văn hoá xã hội nào của loài
người truyền cho cả. Đúng như nhà xã hội học người Mỹ R.E. Pacco đã nói:
"người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo
dục".
 
 
    Môi trường xã hội loài người / môi trường văn hoá, đối với mỗi đứa trẻ
mới ra đời chính là cái tập thể bao quanh chúng. Lúc đầu là gia đình, gia tộc,
làng xóm tiếp đến là trường học và các nhó xã hội khác, đã nối tiếp nhau thực
hiện công việc giáo dục- xã hội hoá một cá nhân. Đó là viêc giáo dục, dạy dỗ
nhằm trao truyền cho những đứa trẻ những kỷ năng và tri thức, những chuẩn
mực và tập dần cho trẻ cách ứng xử phù hợp với những khuôn mẫu của cộng
đồng mà đứa trẻ là thành viên. Công việc này diễn ra liên tục để mỗi cá nhân
có trong mình những yếu tố chung của đời sống tập thể, biết tự kiểm soát
hành vi của mình để có thể ứng xử hài hoà (theo những điều đã được) trước
từng trường hợp cụ thể của đời sống.
 

 4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ HỌC  

4.1. Văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật.
    Đây là những khái niệm gắn liền với văn hoá học. Quan hệ giữa các khái
niệm có cả những nét tương đồng và khác biệt.
 
    - Quan hệ giữa văn hoá và văn minh: Văn hoá (văn: vẻ đẹp, hoá: biến cải)
và Văn minh (văn: cái đẹp, minh: ánh sáng) là những khái niệm gần gũi, có
quan hệ mật thiết, không đối lập nhau, song cũng không hoàn đồng nhất. Cả
hai khái niệm cùng được dùng để chỉ sức mạnh sáng tạo của con người.
Người ta phân biệt nội hàm hai khái niệm này tuỳ theo văn cảnh: Thuật ngữ
văn hoá và văn minh thường sử dụng với một nội dung giống nhau khi nó
được đặc trong quan hệ dẫn đến các yếu  tố khác như: kinh tế, chính trị, xã
hội; song khi vấn đề được bàn đến trong khoá học văn hoá, thì sự phân biệt
văn hoá văn minh là cần thiết.
 
    Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của nền văn hoá.Việc xác
định "cao" hay "thấp" được dựa vào hai tiêu chí cơ bản là: tính duy lý và tính
phổ biến của nền văn hoá ấy.
 
    + Tính duy lý thể hiện ở mức độ hiện thực hoá các sức mạnh vật chất, sức
mạnh sáng tạo của con người, được biểu đạc qua hệ thống hoạt động sản xuất
xã hội, gồm sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần (hệ thống các chuẩn mực,
các tri thức).
 
    + Tính phổ biến thể hiện ở chỗ các thành viên trong cộng đồng văn hoá đó
đều hoạt động dựa trên hệ thống chuẩn mực, giá trị mà cộng đồng ấy xây
dựng nên, tạo nên tính đồng nhất văn hoá trong mỗi thành viên; mặt khác
những hệ thống chuẩn mực, giá trị ấy có ảnh hưởng mạnh  đến các nền văn
hoá khác.
 
    Chính vì có hai thuộc tính trên nên văn minh còn được dùng để chỉ tình
trạng tiến bộ chung các cộng đồng người ở mọi cấp độ, từ địa phương, nhà
nước, khu vực cho đến nhân loại.
 
    Ở cấp độ phổ quát toàn  nhân loại, văn minh được hiểu là sự tổng hoà
những thành quả vật chất và tinh thần của loài người trong qúa trình cải tạo
thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội và mức độ khai hoá của con người.
khi loài người tách mình ra khỏi thế giới động vật thị cũng là bước khởi đầu
của văn minh. Theo tinh thần đó, khái niệm văn minh bao gồm bốn nội dung
cơ bản:  Nhà nước, chữ viết, đô thị và trình độ kỹ thuật.
 
    - Văn hiến, văn vật: Đây là những thuật ngữ đặc trưng của văn hoá phương
đông. Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người hiền tài
chuyển tải. Văn vật dùng để chỉ truyền thống  văn hoá lâu đời và tốt đẹp được
thể hiện thông qua một đội ngũ nhân tài và hiện vật trong lịch sử.
 
 
    4.2. Văn hoá tộc người
 
    Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt
văn hoá vật chất và tinh thần, cá sắc thái  tâm lý và tình cảm, phong tục và lễ
nghi... khiến người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác .
 
    Văn hoá tộc người với các yếu tố cơ bản trên làm nên tính đặc trưng và đặc
thù của tộc người, là nền tảng nẩy sinh và phát triển ý thức tộc người, thực
hiện chức năng cố kết tộc người. Một dân tộc bị mất văn hoá riêng thì ý thức
tộc người cũng sẽ bị mai một. Văn hoá tộc người làm nên tính đa dạng của
một nền văn hoá dân tộc (quốc gia).
 
    4.3 Văn hoá vùng
    Văn hoá vùng là một thực thể văn hoá bao chứa những sắc  thái văn hoá 
chung (thể hiện qua nếp sống và lối sống của cư dân như sản xuất, nghi lễ,
tín ngưỡng, hội hè, qua các hoạt động văn hoá nghệ thuật, qua phong tục và
phong cách sống...) từ đó có thể phân biệt với các vùng văn hoá khác.
    Những đặc trưng chung ấy hình thành trong quá trình lich sử lâu dài, tạo
nên tương đồng văn hoá / tính đồng nhất của các cộng đồng người cùng sống
trên vùng lãnh thổ.
    4.4. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá
    Thực tế cho thấy, xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hoá hiện
tồn đều là hiện thân như kết quả của quá trình giao lưu, tiếp xúc. Giao lưu và
tiếp xúc là phương thức tồn tại  của mọi nền văn hoá trên hành tinh này.
 
    Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được hiểu là hiện tượng xảy ra khi những
nhóm người có văn hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến
đổi mô thức văn hoá của một hoặc cả hai bên.
 
    Trong giao lưu có thể sảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hoá
này thâm nhập vào nền văn hoá kia, trường hợp này là tiếp thu thụ động;
hoặc một số yếu tố của nền văn hoá kia được nền văn hoá này vay mượn,
trường hợp này gọi là tiếp thu chủ động. Trên cơ sở của yếu tố nội sinh và
ngoại sinh mà chủ nhân nền văn hoá ấy sẻ điều chỉnh, cải biên cho phù hợp,
dẫn đến sự giao thao văn hoá. Từ góc độ này thì nội dung của một nền văn
hóa cụ thể được phân xuất thành: yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
 
    Việc phân chia như thế chỉ mang tính tương đối. Cùng với thời gian, yếu tố
ngoại sinh có thể biến thành yếu tố nội sinh, hoặc bị biến đổi một cách căn
bản để trở nên phù hợp hơn với nền văn hoá đã tiếp nhận nó. Việc tiếp thu
nho giáo, Phật giáo của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á là một minh
chứng về sự biến đổi đó.
    Dưới góc độ giao lưu tiếp xúc văn hoá, có thể nói văn hoá Việt Nam là kết
quả của các cuộc gặp gỡ văn hoá lớn trong khu vực.
    - Giao lưu văn hoá Ấn Độ: Giao lưu trực tiếp qua đường biển đông; giao
lưu gián tiếp qua văn hoá Bắc thuộc, qua văn hoá Chămpa ở Trung bộ và văn
hoá Óc Eo ở Nam bộ.

    - Giao lưu văn hoá với Trung Hoa: Chủ yếu bằng con đường cưỡng bức (bị
xâm lược, đô hộ và đồng hoá).

    - Giao lưu văn hoá phương tây: Trong lịch sử, sự giao lưu này chủ yếu
diễn ra  thông qua các kênh: buôn bán đường biển; sự đô hộ của thực dân
Pháp, kế đến là đế quốc Mỹ (miền Nam việt Nam). Ngày nay, giao lưu văn
hóa với phương Tây đã có thêm nhiều hình thức mới.
 

5. VĂN HOÁ VÀ CÁC BỘ MÔN VĂN HOÁ HỌC     


  
  Văn hoá là môn khoa học tích hợp(Integral Science), vừa nghiên cứu văn
hoá nói chung, vừa nghiên cứu hiện tượng văn hoá riêng biệt. Mục đích của
văn hoá học là phát hiện ra và phân tích tính qui luật của những biến đổi văn
hoá - xã hội. Đối tượng của văn hoá học chính là văn hoá.
    Văn hoá được xem xet từ nhiều góc độ, do vậy văn hoá học có thể được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều phân môn như:
    - Lịch sử văn hoá
    - Địa lý văn hoá
    - Văn hoá học đại cương
    - Cơ sở văn hoá.

Bài 2. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VIỆT NAM

   I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THUỘC LOẠI HÌNH VĂN HOÁ GỐC
NÔNG NGHIỆP         
Các nền văn hoá trên thế giới, bên cạnh những sắc thái riêng thì có không ít
những nét tương đồng, vì vậy có thể đối thoại với nhau. Những nét tương
đồng đó được lý giải thông qua ba chủ thuyết lớn
 
    - Thuyết khuếch tán văn hoá

    - Thuyết vùng văn hoá

    - Thuyết loại hình kinh tế - văn hoá


 
    Các chủ thuyết này không mâu thuẫn nhau, mà bổ sung cho nhau để đáp
ứng yêu cầu nhận biết về văn hoá của con người, trong đó thuyết loại hình
kinh tế - văn hoá có ý nghĩa cho việc tìm hiểu những nền văn hoá của các dân
tộc ở phương Đông và phương Tây từ góc độ khởi nguyên văn hoá. Loại hình
văn hoá được giải thích, phân chia từ góc độ này có cơ sở là căn cứ vào sự
khác biệt về môi trường sống. tức là can cứ vào địa bàn cư trú với điều
kiện khí hậu khác nhau giữa các vùng trên thế giới. Theo đó, khởi nguyên
ban đầu thế giới chỉ có các vùng: châu Âu, châu Á và châu Phi. Từ ba vùng
này đã sản sinh hai loại hình: loại hình văn hoá du mục và loại hình văn hoá
nông nghiệp.
 
   - Cư dân cư trú ở phía Tây - Bắc tức châu Âu (so với châu Phi ở phía Đông
Nam) và cư dân vùng Tây - Bắc châu Á là vùng khí hậu khô lạnh, là xứ sở
của những thảo nguyên mênh mông. Ở đây, nghề du mục chăn nuôi phát
triển, tạo ra lối sống du cư, vừa đi vừa ở, nay đây mai đó. Nơi này không
thuận tiện, họ có thể dễ dàng chuyển đi nơi khác. Cư dân sống không phụ
thuộc vào thiên nhiên. Đối tượng sản phẩm của nghề chăn nuôi là đàn gia
súc. Khi tách hộ, tách tộc thì dẫn đến việc tính toán phân chia gia súc. Cùng
với chăn nuôi là nhu cầu cần phải trao đổi hàng hoá, vì vậy, thương nghiệp đã
sớm xuất hiện. Thương nghiệp xuất hiện đòi hỏi phải có kho chứa hàng và
bãi trao đổi hàng hoá, dẫn đến sự hình thành đô thị. Đô thị xuất hiện kéo theo
các ngành nghề thủ công sớm ra đời. Việc xây dựng nhà cửa, kho bãi, đường
giao thông dẫn đến khoa học kỹ thuật sớm phát triển. Tóm lại, tất cả những
điều kiện của phương thức sinh tồn này dẫn đến kinh tế du mục. Văn hoá lại
được quy định bởi kinh tế, vì vậy loại hình văn hoá du mục là sản phẩm của
hình thái kinh tế này, với những đặc tính sau:
 
    + Dân du mục sống không phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không coi trọng
thiên nhiên bằng coi trọng sức mạnh con người; ít chú ý bảo vệ thiên nhiên.
Con người trong ứng xử thì độc tôn, trong tiếp nhận theo xu hướng chiếm
đoạt và trong đối phó thì cứng rắn.
 
    + Du mục ưa di chuyển, trọng động, hiếu chiến (khởi nguyên là từ chiếm
đoạt gia súc, chiếm đoạt thị trường).
 
    + Sự ra đời của thương nghiệp, đô thị, công nghiệp đòi hỏi phải tính toán,
hạch toán, nên tư duy phân tích sớm phát triển. Tư duy phân tích chú trọng
các thành tố, yếu tố, dẫn đến phát triển mạnh về cấp số nhân, kéo theo sự xuất
hiện trừu tượng hoá thoát khỏi những yếu tố ban đầu, dẫn đến siêu hình. Tư
duy phân tích gắn liền với siêu hình nên triết học siêu hình sớm nảy nở.
 
    + Thương nghiệp, công nghiệp thì phải hạch toán, dẫn đến rất coi trọng và
thiên về pháp, lý hơn tình cảm. Đó chính là cơ sở cho pháp luật sớm ra đời,
nghị trường sớm hình thành.
 
    Tất cả những đặc tính trên cũng là những đặc trưng của văn hoá phương
Tây sau này.

    - Cư dân ở vùng Đông Nam thế giới, nhất là vùng Đông Nam châu Á có
điều kiện khí hậu nắng, nóng, ẩm nhiều, lắm mưa, sông ngòi, ao hồ, bãi bồi
nhiều, đây là điều kiện thuận lợi cho nghề nông nghiệp cấy trồng. Kinh tế
nông nghiệp đã ra đời và phát triển, là nền tảng hình thành / tạo nên nền văn
hoá nông nghiệp. Văn hoá nông nghiệp có những đặc tính sau:
 
    + Nông nghiệp phải phụ thuộc, trông chờ nhiều vào thiên nhiên (mưa nắng
phải thì), dẫn đến lối sống hoà hợp cùng thiên nhiên, tôn trọng, không ganh
đua với thiên nhiên. Chẳng hạn như ở Việt Nam, người nông nghiệp tôn thờ
trời và những hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, trong suy
nghĩ thì ''ngẫm hay muôn sự tại trời''.
 
     + Làm nông nghiệp cấy trồng thì phải định cư lâu dài, phải trông chờ mùa
vụ, sản phẩm cây trái dài ngày hàng đời. Định cư nông nghiệp ưa ổn định, ưa
tĩnh và khao khát hoà bình ''trời yên biển lặng mới vui tấm lòng''.
 
    + Nông nghiệp cấy trồng thì phải dựa vào nhau để tạo sức mạnh làm thuỷ
lợi, chiến thắng thiên tai địch hoạ. Phải dựa vào nhau nên phải yêu thương
nhau, vì thế văn hoá nông nghiệp thiên về trọng tình cảm, tình nghĩa ''Một bồ
cái lý không bằng một tý cái tình''.
 
    + Yêu thương nhau thì ''chín bỏ làm mười', văn hoá nông nghiệp ít ưa hạch
toán, ít trọng lý, ít trọng pháp, dẫn đến lối ứng xử xuê xoa, đại khái.
 
    + Thành quả nông nghiệp là từ nhiều yếu tố hợp thành: Thời tiết, giống
má, kỹ thuật nên dẫn đến phát triển tư duy tổng hợp. Tổng hợp thì kéo theo
biện chứng - tư duy không phải là tập họp các yếu tố riêng lẻ, mà là mối quan
hệ qua lại giữa các yếu tố. Vì thế tư duy văn hoá nông nghiệp cấy trồng là
linh hoạt ''dĩ bất biến, ứng vạn biến'', chủ thể văn hoá có lối ứng xử là dung
hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo trong đối phó.
 
    + Văn hoá nông nghiệp trong cộng đồng, trọng tình nghĩa, tình cảm, khiến
nảy nở tâm lý hiếu hoà, cư xử khoan dung, khoan hoà, chấp nhận.
 
    Những đặc tính văn hoá trên đây cũng là những đặc tính của văn hoá nông
nghiệp Việt Nam, biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực:
 
   . Ứng xử với môi trường tụ nhiên

   . Kiểu tư duy

   . Nguyên tắc tổ chức cộng đồng

   . Lối sống

   . Các ứng xử với môi trường xã hội

    II. CON NGƯỜI VIỆT NAM - CHỦ/ KHÁCH THỂ CỦA VĂN HOÁ
VIỆT NAM  

- Văn hoá Việt Nam như nó đang tồn tại là một nền văn hoá của một quốc gia
đa tộc người, gồm 54 dân tộc, trong đó tộc người Việt (kinh) -  ''tộc người đa
số'', đóng vai trò là tộc người chủ thể. Đó là một cộng đồng người làm nông
nghiệp lúa nước được hình thành trong quá trình khai phá vùng châu thổ
Hồng, với đặc trưng nổi bật trong tính cách là sắc thái, triết lý nghĩa nghĩa
tình trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, làm nên lối ứng xử duy tình, duy
cảm, duy nghĩa, gắn chặt với quan niệm sống của cư dân nông nghiệp, đó
là phúc đức và phúc đức tại mẫu.

III. NHỮNG DỮ KIỆN CĂN BẢN VỀ ĐỊA LÝ, XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ


CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM             

1. Văn hoá chịu sự chi phối đáng kể của môi trường tự nhiên. Hoàn cảnh địa
lý/ môi trường tự nhiên Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: Nóng ẩm, mưa
nhiều và có gió mùa.

    Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, vùng bao gồm
miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều
bắt nguồn từ hai dãy núi này. Các hạ lưu của sông gồm Dương Tử, sông
Hồng, Mê Công, Chaophaya... đều là những vùng đồng bằng màu mỡ đầy
phù sa. Một đặc trưng của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữ bình nguyên
và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu nóng ẩm,
mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình thành và phát triển
nghề nông trồng lúa nước. Đặc biệt sông nước đã để lại dấu ấn quan trọng
làm nên một nét độc đáo trong văn hoá nông nghiệp lúa nước. Sông
nước và thực vật là hai đặc tính nổi trội trong văn hoá Việt Nam, làm nên nền
văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P. Gourou) hay văn minh
thôn dã. Văn hoá lúa nước tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) đã in dấu
ấn đậm nét trong trong đời sống hàng ngày của con nguời Việt Nam như: ăn,
ở và đi lại. Bữa ăn / bữa cơm hàng ngày của người Việt được mô hình hoá
là: cơm - rau - cá, thêm vào đó, người Việt không có thói quen ăn sữa và các
sản phẩm từ sữa động vật, cũng không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc
lấy thịt - chăn nuôi gắn với trồng trọt. Tính chất thực vật cũng thể hiện rõ nét
trong đời sống tâm linh qua tục thờ cây. Và môi trường sông nước được coi
là một yếu tố quan trọng khi xem xét về những vấn đề văn hoá và con người
Việt Nam. Yếu tố nước tạo nên sắc thái riêng biệt trước hết là trong tập quán
kỹ thuật canh tác (hình thành một hệ thống: Đê, ao, kênh, rạch...), cư trú (có
làng ven sông, làng trên sông, tới những đô thị ven sông, ven biển hay đô thị,
thành phố ngã ba, ngã tư sông...), ở (nhà sàn, nhà có mái hình thuyền, nhà -
ao; nhà thuyền...), ăn (cá sông, cá bể / biển, các loại nhuyễn thể...), đến tâm lý
ứng xử (linh hoạt, mềm mại như nước), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi
chải...), tín ngưỡng tôn giáo (thờ cá voi, thờ rắn, thờ Thuỷ thần...), phong tục
tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo, tuồng, rối nước, hò,
lý...) và truyền thống cố kết cộng đồng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu
tranh với bão tố thiên tai, với lũ lụt.
 
    Việt Nam ở bán đảo Đông Dương, là đầu cầu mở vào Đông Nam Á từ
hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Vị thế này tạo cho Việt Nam trở thành giao
điểm của các nền văn hoá văn minh, là cầu nối Đông Nam Á lục địa và Đông
Nam Á hải đảo.
 
    2. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lực và mở mang bờ
cõi về phía biển và phương Nam.
 
    3.  Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền: nhà - làng - nước. Đây là một thể
cộng đồng đồng tâm và đồng dạng: 
 
    - Nhà/ gia đình (hình thức mở rộng là Họ): Đại đa số là gia đình tiểu nông,
với cơ cấu kinh tế tự túc, tự cấp theo mô hình ''chồng cày, vợ cấy, con trâu đi
bừa''. 
 
    - Làng: Là một đơn vị cộng cư của cư dân nông nghiệp định cư trên một
vùng đất chung, một hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tự túc tự cấp. Đó
cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có nền sản xuất tiểu nông. Làng được
hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ.
Làng có sức sống mãnh liệt với cấu trúc động, không có làng bất biến. sự
biến đổi của làng do sự biến đổi chung của đất nước. Do những đặc thù của
tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung và miền Nam tuy gốc gác cũng là người
Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình thức cơ
cấu làng xã và quan hệ xã hội thay đổi nhiều, không còn những đặc điểm như
làng Bắc Bộ.
 
    Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những
đặc thù riêng của làng được thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền,
các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội như lệ làng, tín ngưỡng, lễ hội của
làng. Đặc trưng nổi bật của làng Việt Nam là ý thức cộng đồng làng, ý thức
tự quản - quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của làng và
tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín
ngưỡng, tôn giáo, kể cả giọng nói và cách ứng xử. Các đặc trưng trên có mối
liên hệ hữu cơ, tạo cho làng một vị trí đặc biệt làm nên những đặc trưng văn
hoá làng, văn hoá dân tộc.
 
    Làng là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, đồng thời là một môi
trường văn hoá. Ở đó, mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hoá được sinh thành
phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi thành viên.  
 
    - Nước: Là một cộng đồng siêu làng/dân tộc. Khi cộng đồng người đã tiến
tới trình độ dân tộc thì cộng đồng làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Con
người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu đã là con người vừa của làng, vừa
của nước ''sống ở làng sang ở nước''.
 
    Nhà - làng - nước của người Việt Nam vốn đã sớm có bản sắc của mình.
 
    4. Cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống: xã hội Việt Nam là xã hội nông
nghiệp, văn hoá Việt Nam là văn hoá nông nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình,
làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã
hội Việt Nam. Đặc trưng cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia
đình tiểu nông trong những làng xã tiểu nông.
 
    Những dữ kiện trên đây là cơ sở hình thành và củng cố những đặc điểm
của dân tộc Việt Nam, trong đó quan trọng và tiêu biểu là những đặc điểm
sau đây:
 
    1. Tính cố kết cộng đồng sâu sắc. Đặc điểm này giúp con người Việt Nam
vượt qua những khó khăn thử thách của thiên nhiên và kẻ thù xâm lược.
 
    + Cộng đồng gia đình: Một giọt máu đào hơn ao nước lã.

    + Cộng đồng làng xóm: Bán anh em xa mua láng giềng gần. 
    + Cộng đồng lãnh thổ/dân tộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn; hay: Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ
mùng mười tháng ba.
 
    2. Tinh thần tương thân tương ái cộng đồng, lối ứng xử nhân hậu với môi
trường tự nhiên.
 
    3. Tinh thần cởi mở, hỗn dung những tinh hoa văn hoá bên ngoài song vẫn
giữ cốt lõi và bản sắc văn hoá Việt Nam trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
 
    4. Văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Quốc
gia dân tộc Việt Nam hiện nay gồm 54 tộc người, trong đó tộc người Việt là
tộc người chủ thể. Nền văn hoá thống nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam
bao gồm văn hoá của 54 tộc người, với đặc trưng vừa có tính thống nhất, vừa
có tính đa dạng. Tiếp cận văn hoá Việt Nam cần phải tiếp cận và phản ánh
được tính thống nhất trong đa dạng ấy.
 
Bài 3. ĐẠI CƯƠNG VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM

   I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ            

Đây là thời kỳ hình thành nền tảng/cơ tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ
khi người nguyên thủy biết dùng đá để chế tác công cụ cách ngày nay vài
chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước - thời đại làm nên
hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của nền văn
minh sông Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn
Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương.
1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử. 
     Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình
thành nhà nước / quốc gia (từ buổi đầu thế kỷ I TCN - cuối thời đại đá mới),
trên đất nước Việt Nam đã có một quá trình phát triển văn hoá lâu dài. 
 
    - Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hoá
chung cho tất cả cư dân ở vùng Đông Nam Á. Đó là nền văn hoá lấy nghề
nông làm phương thức hoạt động, thích nghi với điều kiện tự nhiên thuộc khu
vực châu Á gió mùa - Nền văn hoá có đặc trưng là một phức thể văn hoá lúa
nước với ba yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Trong
đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo.
 
     Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rừng làm nương rẫy, trồng lúa
cạn. Ở thung lũng, đồng bằng, ở ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở
nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để
cày bừa. Ở ven các dòng sông, ở ven biển,
cư dân thạo nghề đi biển và đánh bắt hải
sản.
 
 
    Ở các vùng núi, cư dân nói chung còn ở
trình độ tổ chức sống bộ lạc, nhưng ở trung
du và đồng bằng, cư dân đã dần dần vươn
tới trình độ tổ chức liên minh bộ lạc, sống
thành vùng cư dân đông đúc, gồm nhiều làng xã lớn. Liên minh bộ lạc là một
bước quá độ để vươn lên trình độ tổ chức quốc gia.
 
    - Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hoá núi,
đồng bằng và biển, có đủ các sắc tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện
nay.
 
    Thông qua các ngành khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền
văn hoá trên đất nước Việt Nam thuộc thời kỳ tiền sử:
 
    + Văn hoá Núi Đọ - văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn
năm kéo dài cho đến một vạn năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá
này là từ điểm khảo cổ học ở núi Đọ, Thanh Hoá)
 
    + Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) - văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20
đến 15 nghìn năm trước công nguyên.
 
    + Văn hoá Hoà Bình (Hoà Bình) - văn hoá thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài
khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay. Đã có một nền nông nghiệp
sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình.
 
    + Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn) - văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài
khoảng từ 11.000 năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hoá
Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá
mới. Để đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến
sang giai đoạn nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai thác
sang kinh tế sản xuất, thực sự bước vào lĩnh vực sáng tạo văn hoá.
 
    Cư dân thời đại đá mới đã có những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa
vào những tri thức đó để thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Chẳng
hạn, người Hoà Bình cư trú trong các hang động đã nhận biết được những
hiện tượng có tính quy luật của gió mùa, do đó để tránh gió mùa, các hang
động của họ đã không có hang động nào quay về hướng chính Bắc, mà có tới
hơn 50% quay về hướng nam và hướng đông Nam. Thời kỳ này cũng để lại
những dấu vết nghệ thuật, như những hiện vật xương có vết khắc hình cá,
hình thú và người trên vách hang Đồng Nội. Trong sự nhận thức về thiên
nhiên của người Hòa Bình, còn thấy rõ những cảm nhận về những nhịp điệu
vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch một trên
các hòn đá cuội trong hang động. Dù chỉ là giả thuyết, những di vật tìm thấy
trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển mới
về tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian, vũ trụ còn được thể
hiện bằng những hoa văn, ký hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ vẽ
trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành loại nông lịch sơ khai.
Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ: niềm tin vào thế
giới bên kia; sự tôn thờ các sức mạnh tự nhiên. Những hiện tượng tự nhiên
như mưa, gió, đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối
với con người. Về tổ chức xã hội, vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, khi con người
đã chọn nghề nông và sống định cư, thì có thể tin rằng nhiều bộ lạc đã sống
thành hàng xóm.
 
2.Thời sơ sử.
 
    Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến
lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh
thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ
nhất Đông Nam Á :
 
    - Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang
của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với
nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao
so với trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu
tượng của văn hoá Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình
thànhvà phát triển của văn hoá Đông Sơn / văn minh sông Hồng ở miền Bắc
là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu
tiên của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá
đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về
nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn là một điển hình của nền văn hoá
nông nghiệp lúa nước.
 
    - Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người
Chăm và vương quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân
nông nghiệp trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và
phát triển các nghề thủ công.
 
    - Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá
Óc Eo ở Nam Bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo
gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ
VII ở châu thổ sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư
dân có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công.

Tóm lại, tiến trình văn hoá thời tiền sử và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành
nền tảng của văn hoá Việt Nam, với các đặc điểm cơ bản sau đây:
 
    - Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành
nên những nền tảng của văn hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt
cổ, là phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc
người về sau.
 
    - Những nền tảng văn hoá đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội
sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á
thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá - văn minh Trung Quốc và Ấn Độ ở
châu Á.
 
    - Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt
Nam là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là
ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba
trung tâm văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan
hệ qua lại với nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở
khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển thành ba nền
văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu
Lạc, Chăm Pa và Phù Nam.
 
    - Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung
Quốc, đất nước ta đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức
quốc gia dân tộc của người Việt đã sớm hình thành và làm nên một sức mạnh
đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa có khả năng thâu hoá
những nhân tố của mô hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng
nhà nước Đại Việt tự chủ sau này.
 
II. VĂN HOÁ VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ THỨ NHẤT SAU CÔNG
NGUYÊN           
   
Trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay
đã từng tồn tại ba nền văn hoá: văn hoá của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ, văn hoá Chăm Pa ở ven biển miền Trung, và văn hoá
Óc Eo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Ba nền văn hoá này có
những nét chung do có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, nhưng cũng lại
có những nét riêng do từng vùng có những đặc điểm và số phận lịch sử khác
nhau. Bài giảng trình bày đặc điểm văn hoá của cư dân châu thổ bắc Bộ với
tư cách đại diện, điển hình.
    1. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị
nước Nam Việt của Triệu Đà (đóng đô ở Phiên Ngung thuộc Quảng Đông,
Trung Quốc ngày nay) thôn tính. Năm 111 trước công nguyên, nước Nam
Việt bị thôn tính vào đế quốc Hán, nước Âu Lạc lúc ấy thuộc nước Nam Việt
cũng bị thôn tính theo. Từ đó, đất nước ta trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc,
tức là chịu sự đô hộ, áp đặt văn hoá của phong kiến phương Bắc và có sự
chống phong kiến phương Bắc đô hộ để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch
sử các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt thời kỳ Bắc thuộc là lịch sử
của một cuộc đấu tranh đề kháng dai dẳng, bền bỉ để bảo tồn giống nòi, bảo
vệ nền văn hoá dân tộc và giải phóng đât nước. Cuộc đấu tranh chống ách đô
hộ của phong kiến phương Bắc thành công nên mới tồn tại nền văn hoá Việt
Nam hiện nay.
 
    2. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung Quốc từ Hán đến
Đường, thông qua chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp nhau thi hành
chính sách cai trị tàn bạo, chính sách đồng hoá / Hán hoá đối với người Việt
và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn tính nước ta vào
đế quốc phong kiến phương Bắc. Đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hoá
lịch sử giai đoạn này là:
 
    - Tiếp xúc cưỡng bức văn hoá Việt - Hán.

    - Tiếp xúc văn hoá Việt Ấn.

    - Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hoá.
    3. Dấu ấn văn hoá thời kỳ Bắc thuộc áp đặt vào Việt Nam mà ngày nay vẫn
còn ảnh hưởng rõ nét là các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự
du nhập đạo Nho, đạo Giáo...
 
    - Nho giáo (còn được gọi là đạo Nho hay Khổng giáo) do Khổng Tử (551 -
479 trước CN) sáng lập. Nho giáo không phải là tôn giáo hiểu theo đúng
nghĩa, không phải là học thuyết triết học theo nghĩa chính xác, mà thực chất
là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức của giai cấp thống trị. Nho giáo
thiết lập trật tự xa hội, quan hệ giữ người với người trong xã hội và quan hệ
giữa con người với thế giới tụ nhiên (trời). Giai cấp thống trị coi Nho giáo là
công cụ để cai trị xã hội theo theo một trật tự nghiêm ngặt cho các mối quan
hệ trong xã hội. Tư tưởng này quy định phương châm ứng xử theo thứ bậc:
quân, sư, phụ, và con người trong xã hội phải giữ đạo Cương thường (trung
quân, ái quốc, tam tòng tứ đức, tam cương ngũ thường) để duy trì và củng cố
trật tự xã hội ấy.

Học thuyết về con người với thế giới tự nhiên đuợc thể hiện thông qua tư
tưởng 'Thiên mệnh', 'Thiên nhân cảm ứng'.
 
    - Đạo giáo là một thuật ngữ dùng để chỉ hai dòng triết học và tôn giáo ủa
Trung Quốc có bản chất khác nhau: một dòng là đạo Giáo triết học được gọi
là đạo Gia, một dòng là đạo giáo tôn giáo thường được gọi là đạo Giáo.

    Đạo Gia do Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, nên còn gọi là đạo
Lão - Trang. Đạo này đề cao tư duy trừu tượng, coi thường việc nghiên cứu
sự vật cụ thể, khuyên con người sống gần gũi tự nhiên, không làm gì trái với
lẽ tự nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, đạo Lão - Trang chủ yếu lưu hành trong
số người Hán thất thế.
 
    - Đạo giáo, một tôn giáo bản địa của Trung Quốc hỗn hợp rất nhiều tín
ngưỡng Saman giáo và các phương thuật của dân gian lẫn cung đình như:
đoán mộng, xem sao, bói rùa, cúng quỷ thần, đồng cốt, cầu tiên v.v...Đạo này
khi được truyền bá vào Việt Nam đã hoà nhập với tín ngưỡng đa thần của
người Việt, bổ sung những tín điều cần thiết cho tín nguỡng dân gian Việt
Nam.
    - Phật giáo: Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào nước ta cùng từ thời kỳ này,
khoảng thế kỷ đầu công nguyên. 
Đạo Phật (Buddha, tiếng Ấn là 'giác ngộ') phát sinh ở Ấn Độ vào thế kỷ VI
trước công nguyên, tại một bang Capilavatxtu gần biên giới Nê pan. Người
sáng lập là đức Thích ca Mâu ni (Cakya Mauni). đạo Phật là tiếng nói bất
bình của quần chúng nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp hà khắc, là
sự phản ứng mãnh liệt, chống lại quyền uy của đẳng cấp thống trị Bàlamôn.
Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, rằng tất cả chúng sinh đều có Phật
tính và đều có thể thành Phật, từ chỗ từ giác đến chỗ giác tha. Đạo Phật
khuyên mọi người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, tu nhân
tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Thuyết 'Nhân quả nghiệp báo' của đạo
Phật phù hợp với quan niệm 'ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão' trong tín
ngưỡng dân gian Việt Nam. Thuyết “Luân hồi” cũng phù hợp với quan niệm
dân gian cho rằng linh hồn tồn tại sau khi thể xác tiêu tan và tiếp tục đầu thai
để kiếp sau trở lại cuộc sống thực tại.
 
    4. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng những tư tưởng lớn như trên, trên cơ sở
văn minh nông nghiệp và xóm làng, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn
hoá Trung Quốc, Ấn Độ và vùng biển phương Nam.
 
    5. Song hành với việc chịu Bắc thuộc, việc chống Bắc thuộc để bảo vệ bản
sắc văn hoá dân tộc của dân tộc ta đạt được những kết quả mang tính quyết
định sự tồn tại của cả dân tộc VIệt Nam. bản sắc văn hoá dân tộc được bảo vệ
có thể kể ra ở một số mặt chính sau đây:
    - Tiếng nói.

    - Tín ngưỡng dân gian và lễ hội dân tộc.

    - Văn nghệ dân gian.  


    6. Như vậy, nhìn tổng thể có thể kết luận rằng, đã diễn ra hai khuynh
hướng đối lập của tiến trình văn hoá Việt Nam thời Bắc thuộc:
 
    - Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai.

    - Khuynh hướng Việt hoá nhằm gìn giữ và phát huy những tinh hoa văn
hoá cổ truyền từ đã có từ thời Văn Lang - Âu Lạc, mặt khác còn tiếp thu, hội
nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài để làm phong phú văn hoá Việt; sắp
xếp, cấu trúc lại nền tảng văn hoá Việt. Khuynh hướng này là chủ đạo.
 
    Đối lập lại chủ nghĩa 'bình thiên hạ' của kẻ thù, nhân dân ta đã phát huy
mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường.
Đối lập với bộ máu nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô hộ theo cơ
cấu quận huyện, nhân dân ta lo củng cố và giữ gìn cộng đồng xóm làng. Từ
làng, người Việt vươn ra giành lại nước. Đối lập với sức mạnh của một đế
chế lớn mạnh, nhân dân ta tạo lập nên một sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi
nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quần chúng rộng rãi,
mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc, và cuối
cùng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô Quyền lãnh đạo, cuộc đấu
tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
 

  III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP 

  Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn
hoá ở thiên niên kỷ đầu công nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau.
 
    Nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ
VIII, dường như chỉ còn ánh hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư
liệu và thư tịch nữa.
 
 
    Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của
mình như một nhà vương quốc. Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nền văn hoá Chăm Pa trở thành nền
văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc người Việt Nam.
 
    Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền văn hoá Đại
Việt.

    Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm
938 đến năm 1858. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc
gia.
 
    - Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự
chủ: nhà Ngô (939 - 967), nhà Đinh (967 - 981), nhà Tiền Lê (981 - 1010),
nhà Lý (1010 - 1225), nhà trần (1226 - 1400), nhà Hậu Lê (1427 - 1527), nhà
Mạc (1527 - 1592), Trịnh - Nguyễn (1592 -1788), Tây Sơn (1778 - 1802), tên
nước Đại Việt được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi
Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt Nam.
 
    - Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
Quốc: chống giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc
Thanh xâm lược. 
 
    - Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một
quá trình phát triển về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá
miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước
Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.
 
    - Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập:
    + Lần thứ nhất vào thời Lý Trần.

    + Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV.

    + Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII.


1. Đặc điểm văn hoá thời Lý - Trần 
    a. Hệ tư tưởng chủ đạo trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho,
Phật, Đạo, trong đó nổi trội là Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam
giáo đồng nguyên'.
 
    - Phật giáo tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của
khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển
cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật giáo thời này cũng đã tác động đến tư
tưởng, tâm lý , phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó ảnh hưởng to lớn đến
văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt trong
điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác hẳn các giai đoạn về sau.

    - Nho giáo trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập
trật tự trong xã hội. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu
được coi trọng. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm
1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Dần dần Nho giáo đã
có địa vị trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho giáo, đã
chính quy hoá chế độ thi cử. Năm 1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi,
dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử, tầng lớp
nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên
trong triều, lấn át tư tưởng Phật giáo.
 
     b. Nền văn hoá bác học bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội
ngũ trí thức Phật giáo và Nho giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư,
đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ văn tất nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng
Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang tính nhân văn và giá
trị văn hoá sâu sắc, như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô
(Lý Công Uẩn)...
 
    Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự - chữ Nôm. Chữ Nôm
được đưa vào sáng tác văn học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ
Nôm thời kỳ này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thử lâm
tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh
hoa yên tự phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ Nôm vừa chữ
Hán).

Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như
chèo, tuồng.
2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê
 
    a. Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần. 
 
    Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên
nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo
nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt.

    Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc
kháng chiến 10 năm chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc.
trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào thời kỳ
phục hưng lần thứ hai.
    b. Thành tựu văn hoá:
 
    - Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng
Đức / Lê triều hình luật. Bộ luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng
của việc xây dựng nhà nước pháp quyền thời phong kiến.
 
    - Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy
Nho giáo làm chuẩn mực, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu
hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn hiền tài, bổ nhiệm vào bộ máy nhà
nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ xướng danh, lễ
vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu,
gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa hầu hết qua
thi cử. Chính vì vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà
Hậu Lê.
 
 
    - Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và
phát triển. Với Quốc Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là
người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam.
 
    - Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập
thành toán pháp (Lương Thế Vinh), Đại thành toán pháp (Vũ Hữu).
 
 
    - Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định
về mặt nghệ thuật, được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế
Vinh) - tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền. Về nghệ thuật kiến
trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng. Sự tác động của
hệ thống tư tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình tượng con
rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của cư dân nông nghiệp thành biểu
tượng cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê,
nơi thờ thần làng cũng mang chức năng mới - Công sở của làng xã, nơi ban
bố chính lệnh của nhà nước.
 
3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858 
 
    a. Nét đặc trưng của lịch sử thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách
gay gắt, sự xung đột Lê Mạc, Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn
ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng khổ sở dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa
của nông dân.

Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà
Nguyễn của vua Gia Long, đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo
khá đa dạng.
 
    b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư
tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, giai cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ
Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống xã hội, nhất là ở thời nhà Nguyễn (từ
vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc dù vậy, Nho giáo
vẫn không có được vị thế như thế kỷ XV.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một
bộ phận trong đời sống tư tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo.
 
    c. Ki tô giáo vào Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ
quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ
được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 - 1651, Alếc
xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định
sự xuất hiện chính thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện của
chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới.
 
    d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật, trong đó có văn học chữ Nôm phát
triển mạnh. Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân
Hương, Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh
Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển mạnh. Kiến trúc đình làng thế
kỷ XVI - XVII phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được xác định
chắc chắn tại các làng quê.
 
    e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về phía
nam, dẫn đến sự hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài.
 
    Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt
chân đến, ở đây đã có một nền văn hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là
nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình cộng cư, người Chăm và người Việt
đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình. Do đó, văn hoá của người Việt ở
Đàng Trong, về cơ bản vẫn đảm bảo tính thống nhất.
    IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢC    

1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10
năm, từ 1858 đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị
chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp
đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực
thực dân Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước này, toàn
bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. 
 
2. Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng
thực dân Pháp, công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì
nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục đứng lên chống
Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ
độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc
bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành
công cuộc khai thác thuộc địa.
 
3. Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây
phương (Pháp), và đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở
các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ phu - những
người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử
khác nhau:
 
    - Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây.

    - Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy
chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa.

    - Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng
dân tộc.
 
 4. Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực:
 
    - Văn hoá vật chất: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát
triển của kiến trúc đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi
sinh phù hợp với lối sống đô thị có nguồn gốc phương Tây...

    - Văn hoá tinh thần: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của
văn học chữ quốc ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có
nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm nghệ thuật
mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân
tích tâm lý...). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển
của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà
thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương... Về sau các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo chế độ thực dân, cổ vũ nhân
dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng tám,
bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc
sảo xã hội của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam
Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)...

V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY   

1. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80
năm đất nước bị thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong vòng một
nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải
phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
 
2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này:

    - Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp,
giao lưu văn hoá theo sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các
văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ nghĩa Mác và vấn
đề văn hoá Việt Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng...
     - Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin.
 
    - Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao
lưu mạnh mẽ với văn hoá nhân loại.
Bài 4. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM
    Ngôn ngữ là sản phẩm tư duy đặc thù của dân tộc. Nước ta có 54 dân tộc
cũng là có 54 tiếng nói khác nhau, với cuộc sống tinh thần và tập quán xã
hội khác nhau. Theo ngôn ngữ văn hoá, các dân tộc được xếp vào 8 nhóm
văn hoá ngôn ngữ tộc người.

I. DÂN TỘC VÀ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI

1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt - Mường:


 
    Việt, Mường, Thổ, Chứt.
 
2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn - Khơ Mer
 
   Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Co, Chơ Ro, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié - Triêng,
Hrê, Kháng, Khơ Mer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Tà Ôi, Rơ Măm,
Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng.
 
3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày - Thái
 
    Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay,
Tày, Thái.
 
4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông - Dao
 
     Dao, Mông, Pà Thẻn.
 
5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai
 
    Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo.
 
6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo
 
    Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai.
 
7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán
 
   Hoa, Ngái, Sán Dìu.
 
8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng - Miến
 
     Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.

    Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử ngôn ngữ Việt Nam có một nền
tảng chung là ngôn ngữ Đông Nam Á, đồng thời có một lịch sử phát triển lâu
dài, và có nguồn đa nguồn. Lịch sử phát triển tiếng Việt trải qua ba giai đoạn.
Đó là:
    - Tiền Việt - Mường.

    - Việt - Mường chung.

    - Tiếng Việt độc lập.


    Sắc thái đặc thù của ngôn ngữ Việt Nam là sự giao thoa, tiếp xúc đan xen
giữa những yếu tố nội sinh với những bồi đắp ngoại sinh. Lịch sử đã trộn các
yếu tố ấy ở vùng lòng chảo Bắc Bộ và vùng vịnh cổ Hà Nội để tạo nên tiếng
Việt / kinh phong phú và thanh tao, được thể hiện trong văn hoá giao tiếp
cùng cách sử dụng ngôn từ của người Việt Nam.

  II. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI
VIỆT NAM     

  - Vừa cởi mở vừa rụt rè: 

    Đặc trưng này bắt nguồn từ văn hoá làng xã với hai đặc trưng cơ bản là
tính cộng đồng và tính tự trị, tôn ti. Làng xã người Việt là những không gian
văn hoá đóng kín, và ở đó, mỗi cá nhân đều cảm thấy thoải mái rong cộng
đồng quen thuộc, bởi ở cộng đồng này, họ hành xử theo những quy tắc đã có
sẵn. Tuy nhiên, khi đi ra ngoài cộng đồng quen thuộc đó, họ sẽ tở nên lúng
túng vì không định vị được chính xác vị thế của mình, do đó mà mất tự tin,
dẫn đến việc rụt rè, tự khép mình lại.
    - Ứng xử thiên về tình cảm: 

    Ảnh hưởng chủ yếu của văn hoá sông nước và tính cộng đồng làng xã.
    - Trọng danh dự: 

   Tuy nhiên trọng danh dự thái quá nên mắc bệnh sĩ diện. Đặc điểm này cũng
khiến cho người Việt rất sợ dư luận và thường sống dựa theo dư luận.
    - Cẩn trọng, giữ ý trong giao tiếp để giữ gìn sự hoà thuận: 

    Không biểu lộ cảm xúc, nguyện vọng hay nhu cầu trước mặt người khác.
Đặc điểm này nhiều khi dẫn đến thái độ vòng vo, cân nhắc thái quá trong
giao tiếp.
    - Thiếu tính quyết đoán:

     Đây là hệ quả của việc giữ gìn ý tứ và cân nhắc thái quá trong giao tiếp.
    - Hệ thống nghi thức lời nói phong phú với các đặc điểm như trọng tình,
khiêm cung, lịch sự, phù hợp với các quan hệ xã hội.

III. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ


VIỆT NAM        
   
Văn hoá ứng xử / giao tiếp của người Việt đã được kết tinh lại trong nghệ
thuật sử dụng ngôn từ. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt có những
đặc trưng cơ bản như sau:
 
    - Tính ước lệ cao: hay diễn đạt bằng các con số biểu trưng, ước lệ: ba thu,
nói ba phải, ba mặt một lời, chín tầng mây...
 
    - Tính cân xứng, so sánh và tương phản cao, tạo nên kiểu từ, câu đối
ứng: Trèo cao / ngã đau; Ăn vóc / học hay; Đời cha ăn mặn / đời con khát
nước...
 
    - Giàu tính nhịp điệu và tiết tấu - đậm chất thi ca.
 
     - Giàu chất biểu cảm - sản phẩm của nền văn hoá trọng tình. Chất biểu
cảm biểu hiện đậm ở mặt từ ngữ. Đó là một từ, bên cạnh yếu tố gốc có sắc
thái nghĩa trung hoà, thường có nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu
cảm. Ví dụ: màu xanh (trung tính), sẽ còn có: xanh rì, xanh rờn, xanh lè, xanh
rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè...; các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh
cũng rất phát triển ở tiếng Việt. Ví dụ: nhỏ (trung tính), sẽ còn có: nhỏ nhoi,
nhỏ nhen, nhỏ nhặt, nhỏ nhắn... Về ngữ pháp, tiếng Việt có một hệ thống hư
từ biểu cảm rõ rệt, đã góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu
cảm cho tiếng Việt, như: à, ư, nhỉ, nhé, chăng, chớ, hở, sao, chứ...
 
    - Linh hoạt và mềm dẻo, do ảnh hưởng từ văn hoá sông nước và văn hoá
giao tiếp. Đặc điểm này, trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp ngữ nghĩa hoạt
động linh hoạt và có khả năng khái quát cao; trong lời nói, tính linh hoạt bộc
lộ ở chỗ người Việt ưa dùng cấu trúc động từ - trong một câu có bao nhiêu
hành động thì có bấy nhiêu động từ. Điều này khác với ngôn ngữ phương Tây
- ưa thích dùng danh từ. Tính linh hoạt, năng động còn là nguyên nhân khiến
tiếng Việt thiên về dùng cấu trúc chủ động, kể cả những câu bị động cũng bị
'hoán đổi' theo cấu trúc chủ động.

Như vậy, có thể nói rằng, giao tiếp của người Việt đã phần nào minh chứng
cho nền văn hoá trọng tình và văn hoá sông nước Việt Nam.
 
Bài 5. NHÀ CỬA - KIẾN TRÚC
    Đối với người làm nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm, với các chức năng:
chức năng cư trú, chức năng xã hội và chức năng kinh tế. Người Việt khẳng
định: có an cư thì mới lạc nghiệp, và nhất dương cơ nhì âm phần là vậy.

I. NHÀ CỬA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG     

Quy mô, kết cấu và hình thức của ngôi nhà nhìn chung nhỏ bé, đơn sơ và
mang tính tôn ti. Nguyên nhân: do luật pháp nhà nước phong kiến quy định,
đồng thời còn là do môi trường tự nhiên của Việt Nam quy định.
 
1. Nhà của người Việt/ Kinh 
 
    Nhà của người Việt / kinh xây dựng trên những miền có địa hình và khí
hậu khác nhau sẽ có những khác biệt để thích ứng với môi trường sống. Nhà
cửa vùng đồng bằng miền Bắc chau chuốt, trang nhã nhưng không kém phần
vững chắc và duyên dáng hơn các vùng khác. Ngôi nhà gắn bó với thiên
nhiên, tạo cảm giá gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên.
 
    Nhà cửa của người Việt ở những nơi đầu sóng ngọn gió, hàng năm phải
chịu sự chà sát của bão gió liên tục, như các tỉnh từ Quảng Ninh xuống Thái
Bình, thì căn nhà phải thu mình gọn, bám chặt vào đất, nên ngôi nhà đã giảm
đi sự trang trí thanh thoát trang nhã mà chỉ giữ lại những gì thật cần thiết,
đảm bảo tránh gió bão từ miền đông vào. Ngôi
nhà vùng này đặc biệt chú ý đến sự gia cố phần
khung và mái nhà để trụ được trước gió
bão. Toàn bộ ngôi nhà tạo sự vững chắc về
chiều ngang nên nó như lùn xuống, ì ra chắc
nịch. Còn nhà ở miền trung, nơi rất gần biển thì
các tiêu chuẩn phải đạt tới là giản dị, chắc chắn.
Nhà ở vùng Nam Bộ, một vùng đất trẻ / mới,
đất rộng người thưa, sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, vật liệu
xây nhà là những thứ có sẵn trong vùng như cây tràm, cây đước, lá buông, lá
dừa, vừa có khả năng chịu mặn vừa linh hoạt. Nhìn chung nhà cửa có vẻ tạm
bợ so với các vùng miền khác.
 
    Tóm lại, nhà cửa của cư dân Việt từ truyền thống cho đến hiện đại, từ đồng
bằng cho đến ven biển, từ Bắc vào Nam có sự phát triển với những sắc thái
riêng song vẫn nằm trong phạm trù dân gian với ý thức thích ứng tốt nhất với
môi trường tự nhiên, nên cũng cho nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng
một nền kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Nhà của các dân tộc khác.
 
    Ngoài tộc Việt, Việt Nam còn có 53 dân tộc anh em sinh sống trên vùng
lãnh thổ Việt Nam, trong số đó, nhiều dân tộc đã đạt được trình độ kỹ thuật
trong việc xây dựng nhà cửa, góp phần làm nên bản sắc của tộc người.
 
    Nhà cửa của các dân tộc ít người nhìn chung có xu hướng vươn cao và xoè
rộng nhằm thích ứng với môi trường rừng núi nhiều khí ẩm, thú dữ. Do đó
ngôi nhà ở thích hợp là nhà sàn - căn nhà có khả năng khai thác được nhiều
thuận lợi cũng như khắc phục được nhiều khó khăn do môi trường tự nhiên
tác động.
 
    2.1. Nhà dân tộc Mường
    Nhà người Mường truyền thống là nhà sàn, với khung nhà làm bằng gỗ
hoặc tre, mái lợp cỏ tranh hoặc lợp nứa hay lá cọ. Vách nhà được thưng bằng
ván gỗ hoặc bằng phên nứa đan lại. Khung nhà được giữ chắc do có lắp một
cái cựa gà (nét đặc biệt của nhà sàn Mường) nhằm khoá kèo kẹp chặt chiếc
đòn tay ở phía trên đầu cột cái vào quá giang.
 
    Trong nhà chia làm hai nửa theo chiều ngang, phần nhà ngoài, nơi giành
cho nam giới, nơi tiếp khách và cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thuộc nửa bên
trái; phần nhà trong - nửa bên phải có bếp giành cho nữ. Dọc theo nhà thì
phía trước gọi là bên dưới, phía sau gọi là bên trên - nơi có bàn thờ. Các sinh
hoạt trong nhà đều diễn ra trên sàn. Dưới gầm sàn là chuồng gia súc và để các
công cụ sản xuất. Nhà có hàng rào và cửa ngõ. Ngày nay, người Mường có
xu hướng chuyển từ nhà sàn sang nhà trệt. Còn những ngôi nhà sàn truyền
thống cũng rời chuồng gia súc ra khỏi gầm sàn.
 
    2.2. Nhà dân tộc Thái
    Nhà sàn Thái là một công trình kiến trúc mang nét đẹp rất riêng của người
Thái.
Hướng nhà thường là hướng của cả bản. Đó là hướng của cộng đồng nguời
sống, gắn với nguyện vọng về cuộc sống no đủ, bình an, đoàn kết của cộng
đồng ngươì Thái. Nhà sàn Thái có hai loại, gắn với hai nhóm tộc người là
Thái trắng và Thái đen. Người Thái trắng có nhà sàn ’khai điêng’, người Thái
đen có nhà sàn ’phăng đin’. Hai kiểu nhà này có những đặc điểm chung là:
nhà có bốn mái. Ngoài mái trên và mái dưới ở phía trước và phía sau có hình
chữ nhật, còn lại hai mái ở hai đầu hồi che cho gian đầu và thân sàn. Bốn mái
gặp nhau ở các kèo góc tạo ra một đầu hồi, gọi là hang con mèo (hông meo)
làm chỗ cho hồn người chết bay lên trời.
 
    Nhà sàn truyền thống có mái nhà giống như mai con rùa hoặc chiếc thuyền
úp. Trên mái nhà, ở hai đầu hồi có ’khau cút’ vút cao, vừa mang dấu ấn dân
tộc, vừa cho biết vị trí xã hội của chủ nhà, đồng thời cũng là nẹp giữ cho đầu
hôid khỏi bị tốc.

Nhìn trên đại thể, nhà sàn Thái có hình con rùa đứng rụt cổ, các chân rướn
thẳng, phù hợp với truyền thuyết của người Thái rằng rùa đã lấy thân mình
làm mẫu cho người học làm nhà. Sự trang trí các bộ phận của nhà như mái
nhà, thân nhà, cầu thang, đều mang hơi thở và dấu ấn cảnh quan núi rừng và
trình độ nghệ thuật của người Thái, xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật dân
gian.
 
    2.3. Nhà dân tộc Chàm (Chăm)
    Theo tập quán, làng Chàm được lập trên vùng đất có núi ở phía nam, sông
ở phía bắc, có gờ cao phía tây và thoải dần về phía đông. Người Chàm dựng
nhà trong một khuôn viên hình chữ nhật, gắn bó với cộng đồng làng. Trong
mỗi khuôn viên của gia đình Chàm có đủ bốn ngôi nhà: nhà tục (Thang dơ),
nhà cặp đôi (thang mơ- dâu), nhà bếp (thang gìn) và nhà kho (thang tôn). Một
số gia đình còn có thêm nhà ngang (thang cần) và nhà lớn (thang pì - nài).
 
    Nhà tục là ngôi nhà truyền thống được xây dựng trước tiên trong khuôn
viên, gồm ba gian dựng gần góc đông bắc, hướng nhà là hồi phía trước và
phải có cửa sinh nhìn về phía tây và của tử hướng nam để khi nhà có tang thì
rước xác người chết ra bằng cửa này. Thước để dựng nhà là chiều dài từ khuỷ
đến mút ngón tay giữa của ông chủ ngôi nhà. Gỗ làm nhà tục không xẻ, các
cấu kiện lắp ghép bằng cách buộc dây rừng. Nhà tục sẽ được nhường cho con
gái đầu khi có chồng.
 
    Nhà bếp ở góc tây bắc, kiểu thức theo nhà tục nhưng quy mô nhỏ hơn, cửa
nhà bếp nhìn thẳng vào cửa sinh nhà tục.

Nhà kho dựng ở phía tây khuôn viên, bé nhỏ như cái chòi nhưng sàn rất cao
để chứa lương thực và đồ dùng vặt.
 
    Nếu có nhà ngang thì nhà ngang dựng trước nhà tục nhưng xoay ngang
thước thợ với nhà tục, rộng hai gian một chái để chứa đồ vặt và xay thóc giã
gạo. Riêng nhà lớn thì chỉ những gia đình khá giả mới có, có cửa trước nhìn
về hướng nam, hướng cửa tử, nên chỉ người già mới được ở. Kiểu dáng nhà
ngang giống nhà của người Việt.
 
    Nhìn chung, những kiểu nhà truyền thống của người Chàm có quy định
nghiêm ngặt nhưng đơn giản và kỹ thuật còn nguyên thuỷ. Trái lại, những toà
tháp Chàm từ nhiều thế kỷ trước để lại lại được xây dựng ở trình độ kỹ thuật
và mỹ thuật cao.
 
    Mỗi khu tháp Chàm là một đài kỷ niệm tôn giáo hoặc vua chúa anh hùng
của vương quốc được xây dựng trên đồi cao, mở cửa về hướng đông - hướng
của sự sống mà cúng là hướng của thần thánh theo quan niệm của người
Chàm. Mỗi khu tháp là một quần thể kiến trúc, điêu khắc, trong đó có một
cây tháp chính to, cao hơn cả xây ở giữa, xung quanh có nhiều kiến trúc phụ.
Các tháp xây trên mặt bằng gần như vuông, ba phía có cửa giả, chỉ phía đông
có cửa ra vào, tường tháp dày, lòng tháp rỗng lên cao thu lại rồi bít kín. Vật
thờ trong tháp có thể là tượng thần, chân dung quốc vương hoặc linga bằng
đá. Vật liệu xây tháp là gạch, trong và ngoài đều chín đỏ thẫm, không thấy
mạch kết dính nhưng kết dính rất chặt. Trang trí mặt ngoài tháp là phù điêu
bằng đá, hoặc được chạm trực tiếp trên mặt gạch thành những tác phẩm nghệ
thuật quyến rũ và đậm màu sắc Chàm.
 
    2.4. Nhà dài dân tộc Ê Đê
    Cơ sở dẫn đến sự ra đời của các ngôi nhà dài là các gia đình lớn mẫu hệ.
    Ngôi nhà dài Ê Đê là nhà sàn, khung tre gỗ, mái lợp nhọn lợp tranh. Bộ
khung nhà dài chỉ có cột, dầm, quá giang, xà dọc, mà không có kèo. Ngôi nhà
dài Ê Đê có hình dạng giống nhà hình thuyền trên các trống đồng Đông Sơn,
khiến có nhà nghiên cứu đã liên hệ và đưa ra giả thuyết về mối liên hệ của tổ
tiên người Ê Đê xa xưa với biển, với cư dân vùng Nam Đảo.
 
    Không gian trong ngôi nhà dài được chia làm hai phần- phần nhà ngoài
(gah) ở phía bắc và phần nhà trong (ôk) ở phía nam. Chức năng phần nhà
ngoài: tiếp khách, tiến hành các nghi lễ phong tục, tổ chức các sinh hoạt công
cộng của đại gia đình mẫu hệ, có khi còn là chỗ ăn ở của những người đàn
ông chưa vợ. Ngoài ra ở nhà ngoài còn bày những ’ghế khách’, ’ghế trống’
giành cho nhạc công; chiêng, trống, những vò rượu cần, những vũ khí, những
xương đầu thú săn được hay gia súc làm lễ hiến sinh. Mỗi cột trong ngôi nhà
gắn với một phương và một đối tượng. Đó là các cột: cột chủ (phía đông), cột
trống (phía tây); trong bộ vì có cột khách (cột phía đông) và cột chiêng (cột
phía tây). Trang trí chạm khắc phần nhà ngoài rất đẹp, thể hiện dấu ấn mẫu
hệ rõ nét.
 
    Phần nhà trong được ngăn ra thành từng phòng nhỏ dành cho các cặp vợ
chồng. Bếp nấu ăn chung được làm trước cửa buồng ngủ chủ gia đình. Các
cặp vợ chồng ăn riêng thì có bếp nhỏ trước buồng mình. Phía sau nhà dài là
kho lúa.
 
    2.5. Nhà rông Tây Nguyên
    Nhà rông là ngôi nhà chung của cả buôn làng, có giá trị nghệ thuật cao về
kiến trúc, là một biểu tượng của mỗi buôn làng Tây Nguyên.

Quy mô nhà Rông to lớn với kiểu thức độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên. Vật
liệu làm nhà là vật liệu được kiếm tại chỗ, tạo nên bộ khung gỗ, vách ván, và
mái tranh như nhà dân.

Giữa các ngôi nhà đơn sơ của dân làng, nhà rông nổi bật lên sừng sững với
bộ mái vươn cao dựng đứng như lưỡi rìu
sắc bén lật ngược chọc lên trời.
Hai mái đầu hồi hình tam giác cân nhọn vút,
góc ở đỉnh rất hẹp; hai mặt trước và sau gần
giống hình thang cân; cạnh bên cong lõm,
bờ nóc hơi vồng lên ở giữa. Cạnh mái chạy
bốn xung quanh nhà rông được cắt xén rất
bằng, mặt mái lợp tranh mịn, mượt óng, ngà
vàng, phần trên cùng của mái cài thành
những băng hoạ tiết trang trí to chắc. trên bờ nóc cũng có trang trí. Trước nhà
rông là một sàn gỗ không mái tạo thành một tiền sảnh rộng, hai bên mặt trước
sàn có hai trụ gỗ chấn hai bên cầu thang. Cầu thang là cả một đoạn thân cây
gỗ đẽo bảy bậc, lên tận cùng được vuốt uốn cong trang nhã.
 
    Nhà rông chỉ ba gian nhưng do các cột đều lẩn ra giáp vách nên tạo thành
một không gian thông thống. Trong nhà, nhiều bếp lửa xếp thành hàng và
luôn luôn đượm khói; có các khu vực để chiêng, trống, có nơi để treo vũ khí
và những bộ xương, da thú rừng; trên phên vách giắt các loại lông chim đẹp
và sừng thú quý - sản phẩm săn bắn của dân làng.
Cùng tính chất như nhà rông là nhà gươi của dân tộc Cơ Tu.
    2.6. Nhà mả (mồ) Tây Nguyên
    Làm nhà mả /mồ của một số dân tộc Tây Nguyên, tiêu biểu là người Ba
Na, người Gia Rai, và người Ê Đê là một việc làm lớn, quan trọng.
 
    Cơ sở dẫn đến việc làm nhà mồ là từ niềm tin của các dân tộc rằngngưòi
chết sẽ vĩnh viễn đi về thế giới của mình ở rất xa, không còn liên qua gì đến
người sống nữa. Nhưng khi còn sống, họ đã gắn bó mật thiết với gia đình và
cộng đồng, nên khi mới chết, người sống lưu luyến và thương tiếc họ, cho họ
tạm trú trong nhà mả ở nghĩa địa phía tây của làng một thời gian để chăm sóc
người chết một lần cuối. Sau thời gian đó, đồng bào làm lễ ’bỏ mả’ để trả
người chết về với tự nhiên, không còn cúng theo nghi lễ thờ phụng tổ tiên.
 
    Nhà mả chỉ có một gian. Mỗi nhà mả là một tổng thể kiến trúc - điêu khắc
- trang trí, bố trí trên một mặt bằng rộng chừng 50m2, theo hướng đông - tây
- hướng quy định cho người chết. Người ta tin rằng với nhà mả đẹp và đầy đủ
tiện nghi, người chết sẽ an tâm và vui vẻ ra đi mà không trở lại quấy rầy
người sống. Tổng thể nhà mả thể hiện tình cảm nhân đạo của cộng đồng, gia
đình giành cho người chết.
 

II. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA KIẾN TRÚC DÂN GIAN TRUYỀN
THỐNG   
1. Khai thác vật tư tại chỗ, sơ chế đơn giản mà hiệu quả cao
    Nhà cửa của người Việt Nam dù nhà tranh hay nhà ngói thì vật liệu xây
dựng đều là vật liệu sẵn có trong thiên nhiên. Kiến trúc nhà linh hoạt, chú
trọng nhất là bộ khung nhà sau đó là mái che, nên vật liệu làm những bộ phận
này đều phải qua sơ chế để tăng độ bền của ngôi nhà.

Ngôi nhà không cần đến sự tham gia của kim loại. Khi cần đóng đinh cho
một vài bộ phận, người ta dùng tre già vót nhọn giống đinh sắt; khi cần tháo
dễ dàng và không bị han rỉ.
2. Khai thác và chế ngự thiên nhiên
    Khai thác vật liệu làm nhà từ trong thiên nhiên, sơ chế theo kỹ thuật và
kinh nghiệm, đó cũng là bước chế ngự thiên nhiên. Chế ngự thiên nhiên còn
thể hiện ở chỗ phải thích ứng với khí hậu của thiên nhiên - vừa khai thác tối
ưu mặt thuận lợi cũng như hạn chế được nhiều mặt thiệt hại từ thiên nhiên.
điều này trước hết thể hiện ở cấu trúc ngôi nhà. Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt
Nam về mặt cấu trúc là nhà cao, cửa rộng. Ngoài ra còn phải tuân theo những
quy định mang tính kiêng cữ.
 
    Một số kiêng cữ phổ biến như xem tuổi chủ nhà, chọn đất và hướng nhà
(Lấy vợ hiền hoà / Làm nhà hướng nam)..., những kiêng cữ khi chọn vật liệu,
những lễ thức từ lúc khởi công cho đến khi vào nhà, tuy mang màu sắc tín
ngưỡng nhưng thể óc thẩm mỹ và nguyện vọng về cuộc sống bình an, no đủ
của người Việt Nam trong ngôi nhà.
 
3. Cách thức kiến trúc
    Được thể hiện bằng cây thước tầm. Đó là một thân tra bổ đôi, dài hơn
chiều cao của cột cái, trong lòng máng vạch những ký hiệu cho phép xác định
kích thước của các bộ phận ngôi nhà. Thước tầm được cấu tạo dùng chung
cho mọi nhà nhưng thước nhà nào chỉ nhà ấy dùng, bởi kích thước được tính
bằng đốt ngón gốc ngón tay út của chủ nhà. Do đó, thuóc tầm còn là vật xác
định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Chính vì vậy, nó được gìn giữ cho
đến hết đời ngôi nhà.
 
4. Kiến trúc là cả một tổng thể
    Ngôi nhà của người Việt Nam có sự cân đối giữa kiến trúc với môi trường
xung quanh. Một kiến trúc đầy đủ, lý tưởng phải là ''nhà trên ao dưới'', ''nhà
trước vườn sau'', ''nhà có bụi chuối đằng sau, rặng cau đằng trước'', ''có sự gắn
bó nhà ngói cây mít''. Nhà có địa trạch ăn mạch với địa thế để cuộc sống yên
vui. Tuỳ vào thổ cư rộng hay hẹp mà thiên nhiên xung quanh nhà được sắp
xếp hợp lý ''thuận mắt'', vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị thẩm mỹ. làm
cho ngôi nhà trở thành một bộ phận nổi bật của thiên nhiên, tất cả gắn bó với
nhau để phục vụ con người ở mức cao nhất.
 
    Ngôi nhà của người Việt được bố trí theo chiều ngang, xung quanh thông
thoáng, người trong nhà luôn thấy gần gũi với ngoại cảnh. Và không thể thiếu
trong mỗi gia đình là bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang trọng nhất và
thiêng liêng nhất, mà mọi hoạt động đều lấy đó làm trung tâm.

Ngôi nhà của người Việt còn mang ý nghĩa xã hội, phản ánh một quan niệm
thẩm mỹ trong nếp sống nông thôn và xã hội nông nghiệp.
BÀI 6. TÍN NGƯỠNG
 
    Dân tộc nào cũng có tín ngưỡng. Lịch sử tín ngưỡng gắn chặt với lịch sử
xuất hiện, hình thành và phát triển các dân tộc. Bản thân tín ngưỡng phát
triển từ đa thần sang độc thần. Quá trình này gắn với lịch sử phát triển của
xã hội loài người từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội văn minh.
 
    - Đa thần tin vào vạn vật hữu linh. Nhìn chung, tín ngưỡng đa thần hướng
niềm tin vào đối tượng thiên nhiên, không gắn với chính kiến xã hội.
 
    - Độc thần nghĩa là chỉ tin vào một thần. Hiện tượng này được gọi là tôn
giáo. Cùng với xã hội loài người bước vào thời kỳ văn minh, nhân loại hiện
nay có ba tôn giáo lớn, tranh giành ảnh hưởng đến nhân loại và cạnh tranh sự
độc tôn với nhau. Đó là Phật giáo - xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ
VI trước công nguyên. Cùng với thời gian và lịch sử, từ Ấn Độ, Phật giáo
truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và một số nước ở Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam; Kitô giáo - xuất hiện ở Italia vào năm thứ nhất
công nguyên. Và từ đất Tây Dương đó, tôn giáo này lan truyền lên phía Bắc,
chiếm lĩnh cả lãnh thổ châu Âu. Rồi theo thời gian và bối cảnh phát triển của
các nước châu Âu, Kitô giáo tràn sang các vùng miền khác trên thế giới;
Islam giáo - xuất hiện muộn hơn so với hai tôn giáo trên, thế kỷ thứ VI ở
vùng Trung Đông. Và từ nơi này, Islam giáo phát triển xâm nhập cả thế giới
Ả Rập, Bắc Phi rồi ngược lên Thổ Nhĩ Kỳ, lên vùng Trung Á và về phía
Đông Nam Á (các nước Malayxia, Inđônêxia).
 
    Ở Việt Nam, khi nói đến tín ngưỡng / tín ngưỡng dân gian là nói đến sự
biểu thị niềm tin đa thần, có nghĩa là niềm tin, lòng ngưỡng mộ và các hoạt
động bày tỏ niềm tin, lòng ngưỡng mộ đối với các thế lực siêu nhiên ngoài
con người. Không chỉ là tâm linh, tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn là một
thành tố cấu thành nên bộ mặt văn hoá Việt Nam truyền thống, góp phần
củng cố khối đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước.
 
    1. TÍN NGƯỠNG MẶT TRỜI 

Nền kinh tế nông nghiệp trồng cấy lúa nước là chính, người Việt phụ thuộc
nhiều vào nước và ánh sáng, đó là cơ sở hình thành tín ngưỡng mặt trời và
các hiện tượng tự nhiên có liên quan. Tín ngưỡng mặt trời hình thành từ thời
văn hoá Đông Sơn. Dấu ấn tín ngưỡng thể hiện trên tất cả các mặt trống
đồng, ở vị trí trung tâm trang trọng nhất, gắn với việc cầu mưa của cư dân
nông nghiệp thời Đông Sơn. Về sau này mặt trời / ông trời vẫn luôn là vị thần
tối cao được mọi người tôn xưng là Ngọc Hoàng thượng đế - cai quản cả vũ
trụ.
 
    Tục thờ mặt trời với tư cách là vị thần ánh sáng sau này có mờ đi, nhưng
những biểu thị văn hoá của tục thờ này thông qua các trò chơi phong tục thì
đã phản ánh rõ dấu vết của tín ngưỡng. Đó là các trò chơi đánh phất, vật cù,
cướp cầu, ném giỏ... có mặt ở rất nhiều lễ hội cầu mưa ở vùng trung châu Bắc
Bộ và Thanh Nghệ. Với tình cảm gia đình, người Việt gọi mặt trời với thái độ
gần gũi tôn kính - Ông Trời. Còn Ngọc Hoàng thượng đế ở trên cao là chỗ
dựa tinh thần để người dân tin vào công lý, chân lý ở mọi phán xét cuối cùng.
Với tư cách này, mặt trời được tôn là Ông Cao Xanh.

    2. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU     

Với cư dân nông nghiệp, ngoài ánh kỹ thuật, cây giống và ánh sáng, các yếu
tố của tự nhiên khác là mây, mưa, sấm, chớp cũng có vai trò quan trọng
không kém. Vì thế mà các yếu tố này được người Việt xem là các vị Nữ thần
- bà đỡ của nghề nông. Các Bà được thờ phụng và tôn vinh thành các Mẫu.
Khi Phật giáo có mặt ở Việt Nam, các Mẫu đã hoá thân vào Phật đài trở
thành các vị Bụt của hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp
Lôi và Pháp Điện. Các vị Tứ Pháp, theo huyền thoại, có chung bà mẹ là Phật
Mẫu Man Nương.
 
    Sau hệ thống Tứ Pháp là tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ - các vùng không
gian mà con người nông nghiệp quan hệ, được biểu thị bằng Mẫu thượng
Thiên, Mẫu thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (công chúa Liễu Hạnh được
hoá thân làm Mẫu Địa / Thánh Mẫu che chở con người trên mặt đất.).
 
    Trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu, người Việt đã tin và sống theo triết lý
''Phúc đức tại Mẫu''.

    3. TÍN NGƯỠNG TỔ TIÊN  


    
Đây là tín ngưỡng của nhiều dân tộc Đông Nam Á và là nét đặc thù của khu
vực văn hoá này. Tuy nhiên ở người Việt, nó gần như một thứ tôn giáo dân
tộc / Đạo Tổ tiên / Đạo Nhà, và được coi như truyền thống đạo đức dân tộc.
Sự biểu hiện / biểu thị của tín ngưỡng tổ tiên ở cả ba cấp cộng đồng trong cấu
trúc xã hội, đã khẳng định chức năng và giá trị của tín ngưỡng này.
 
3.1. Cấp độ quốc gia
 
    - Tổ tiên là người sáng lập ra đất nước: Vua Hùng.

    - Là những vị có công với nước dù huyền thoại hay thực tế: Tản Viên,
Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo...
Trong số này, bốn nhân vật huyền thoại - Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng
Tử, Liễu Hạnh được dân gian tôn thờ là Tứ Bất Tử. Đó là những biểu tượng
cho sức mạnh liên kết của cộng đồng trong làm ruộng và đánh giặc, biểu
trưng cho khát vọng xây dựng một cuộc sống phồn thịnh và hạnh phúc.
 
3.2. Cấp độ làng xã
 
    Cả cộng đồng làng cùng cộng mệnh với nhau vì có chung một ông Tổ làng
- Thần Thành hoàng. Đó là vị thần cai quản, che chở, định đoạt phúc hoạ,
thịnh suy cho cả làng, được cả làng tin tưởng với tình cảm thiêng liêng kính
cẩn. Thành hoàng được thờ phụng từ cuối thế kỷ XV, gắn với sự lên ngôi của
Nho giáo - hệ tư tưởng / hình thái ý thức của xã hội phong kiến từ thời Hậu
Lê. Những đối tượng sau đây được các làng quê Việt Nam tôn làm Thành
Hoàng:
 
    - Những vị thần trong huyền thoại và cổ sử.

    - Những anh hùng võ tướng có công đối với các triều đại.

    - Những nhà khoa bảng, những ông quan thanh liêm, những vị có công
khai hoang lập ấp, mở mang cơ nghiệp, những công chúa, hoàng hậu đã có
công lao giúp đỡ dân làng.

    - Người chết bất đắc kỳ tử, người hành khất, người ăn trộm. Việc suy tôn
những đối tượng này là một cáh bộc lộ nguyện vọng muốn được sống yên
lành.
   
Thành hoàng được thờ ở đình làng - một công trình kiến trúc thường được
xây dựng ở đầu làng, trên thế đất đẹp nhất; trong việc dựng đình, hướng đình
được đặc biệt chú ý, bởi hướng đình cũng liên quan đến sự thịnh suy của
làng. Điều này được ca dao phản ánh:
        Toét mắt là tại hướng đình

        Cả làng toét mắt chứ mình em đâu.


    Đình làng là nơi trú sở của Thành hoàng - vị thần đứng đầu làng, là Tổ
làng, nên các thần khác phải đứng sau Thành hoàng trong những ngày lễ hội.

    Các ngày lễ Thành hoàng hàng năm là:


        + Lễ kỳ yên (cầu an): thường tổ chức vào tháng Giêng, tháng 7 để cầu
mong cho làng được sống thanh bình, yên ổn.
        + Lễ Khai hạ: khai hạ nghĩa là bắt đầu ngày vui đầu năm, phải chờ ngày
lễ này mới khai trống, khai mõ, đánh chiêng, làng mới được bắt đầu động
thổ.
        + Lễ hạ điền: hạ điền có nghĩa là xuống đồng. Ngày ấy cúng Thành
hoàng xong thì ông Thủ chỉ (hay còn gọi là ông Tiên chỉ) - người đứng đầu
làng sẽ tự thân cày ruộng ở thửa ruộng trước đình làng. Chỉ vài đường cày
mang ý nghĩa tượng trưng cho hoạt động nông nghiệp của dân chúng trong
làng.
        + Lễ sắp ấn: Tổ chức vào dịp cuối năm để thay mũ áo mới cho Thành
hoàng và cho các vị thần khác trong làng.
     Lễ cúng tế được tổ chức ở đình, thể hiện nghiêm trang và quy mô. Việc lễ
bái mô phỏng theo quy cách của lễ tiết cung đình, đúng theo tinh thần
’Hương đảng tiểu triều đình’. Các vị hương chức đầu phải mặc áo gấm thụng,
đội mão ra làm lễ. Có phân công tiến tửu (dâng rượu), độc chúc (đọc văn
khấn). Các phường bát âm phục vụ theo nghi lễ bài bản. Trống đánh, cờ mở,
tạo một quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Có làng tổ chức vui chơi giữa cuộc tế
lễ hoặc ngay sau đó. Vui chơi giữa cuộc có hát cửa đình, vui chơi sau đó là
các trò đu, trò vật và các tích chèo.
     Nhiều làng mở hội vào dịp này với những trò diễn mà mục đích / ý nghĩa
là diễn cho vị Tổ làng xem những kết quả hoạt động của dân làng trong năm.
Những làng mà Thành hoàng là một nhân vật giỏi võ thuật hay có sở trường
về một môn nghệ thuật thì trong ngày lễ hội, dân chúng cũng phải diễn lại sự
tích cho thần xem. Nhiều lại còn giữ lại một số tục lễ gọi là hèm. Sau những
nghi thức cúng bái ở đình, Thành hoàng được rước kiệu đi quanh làng. Kiệu
Thành hoàng bao giừo cũng đi trước kiệu các vị thần khác. Đám rước có khi
diễn ra trên quy mô tổng, huyện.

Thành hoàng giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của làng như vậy,
nên vào đời vua Lê Anh Tông (1572), triều đình đã ra lệnh sưu tập và soạn ra
thần tích Thành hoàng để vua ban sắc phong thần.
3.3. Cấp độ gia đình (gia tộc)
    Tổ tiên của gia đình, dòng họ là người có công sinh dưỡng và khai sáng ra
dòng họ.

    Cơ sở vật chất để biểu hiện ý niệm thờ Tổ Nhà là Bàn


thờ (gia đình) và Nhà thờ Họ / Nhà tờ Tổ (Từ đường) với
cuốn tộc phả (dòng họ).

    Nghi thức thờ cúng Tổ tiên thể hiện ở ngày giỗ. Ngoài
ngày này, Tổ tiên còn được lễ bái trong các ngày lễ tết,
sóc vọng, trong những sự kiện vui mừng cũng như những
biến cố buồn của gia đình.
    Ý nghĩa cơ bản của đạo thờ Tổ tiên của người Việt là ý nghĩa giáo dục.
Thờ Tổ tiên dấy lên lòng hiếu thảo, nuôi dưỡng lòng biết ơn, thực hiện đạo lý
’uống nước nhớ nguồn’.
    4. TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC 
Ý thức về nòi giống đã dẫn đến sự hình thành tín ngưỡng phồn thực. Đây
cũng là một tín ngưỡng phổ biến ở khu vực Đông Nam Á - vùng văn hoá, văn
minh lúa nước. Sự khác nhau thể hiện ở những biểu thị văn hoá ở mỗi nước.
 
    Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt
chiều dài lịch sử, với hai dạng biểu hiện: thờ cơ quan sinh
dục và thờ hành vi giao phối / thiêng liêng hoá hành vi
tính giao. Nguyên do của tục thờ bắt nguồn từ phương
thức sinh tồn và điều kiện sống của người Việt thủa xưa.
Khi chưa có sự trợ giúp của khoa học, kỹ thuật, con người
lao động và sống thuần bằng tri thức kinh nghiệm, nên
khó có thể khắc phục tình trạng người hiếm của mọn. Để
nuôi ước vọng dân đông, vật thịnh, người xưa, bằng kinh
nghiệm trực quan đã nhận thấy / cho rằng: sự đơm hoa kết
trái của cây cối, sự sinh con đẻ cái của con vật, con người
phải qua hoạt động tính giao của giống đực với giống cái. Đây cũng chính là
cơ sở tâm linh của tín ngưỡng phồn thực Việt Nam, một tín ngưỡng được duy
trì cho mãi đến giáp Cách mạng Tháng tám 1945. Dấu ấn của nó thể hiện
đậm trên các biểu tượng vật thể, hàm chứa chiều sâu văn hoá làng và tạo cho
văn hoá dân tộc những nét đặc sắc để góp cho kho tàng văn hoá nhân loại.
Dấu ấn tín ngưỡng phồn thực đối với chúng ta ngày nay đã trở thành dấu son
đáng trân trọng, bởi đó là văn hoá cổ truyền của dân tộc.
Bài 7. LỄ HỘI

    1. KHÁI NIỆM   

Lễ hội là hoạt động tinh thần của cộng đồng, là hình thức sinh hoạt văn hoá tín
ngưỡng truyền thống. Lễ hội của các dân tộc là sự phản ánh nhận thức liên quan đến
tập quán sản xuất, đến các hoạt động tập thể của cộng đồng. Lễ hội còn là dịp để nhớ
về cội nguồn dân tộc.

Lễ hội bao gồm hai bộ phận: lễ và hội.


 
    - Lễ là các nghi lễ, lễ thức được biểu thị qua việc đọc các bài văn tế, hành vi cúng
tế, các động tác lạy, đọc tụng... Gắn với lễ có đối tượng thờ / vật thờ, lễ vật dâng cúng
và các nghi thức lễ. Tóm lại, lễ là một hệ thống nghi thức, hành vi, động tác theo các
quy định chặt chẽ, ổn định của truyền thống văn hoá lễ nghi, đã trở thành di sản trong
đời sống sinh hoạt lễ hội của nhân dân.
 
    - Lễ là hành vi thể hiện lòng tin, sự tôn kính của một tập thê cộng đồng người đối
với đối tượng được tín ngưỡng - đối tượng có tác động sâu sắc trong đời sống tâm linh
của họ. Lễ còn mang ý nghĩa thể hiện sự trật tự, sự chiêm tưởng của con người đối với
thần linh. Với những đối tượng tín ngưỡng là những nhân vật lịch sử, văn hoá thì hành
vi lễ còn mang tính chất thể hiện lòng tôn kính, biết ơn người đã có công đối với đát
nước.
 
    - Ở mỗi địa phương khác nhau thường có những lễ hội khác nhau, gắn với nhân vật
tín nguỡng cũng khác nhau, đúng như câu tục ngữ của người Việt: ’Trống làng nào
làng ấy đánh / Thánh làng nào làng ấy thờ’.
 
    - Căn cứ vào mục đích và nội dung của lễ, thấy có ác loại lễ hội sau:
        + Lễ hội nghề nghiệp.

        + Lễ hội kỷ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước.

        + Lễ hội tôn giáo và văn hoá.


    - Hội: Bao gồm các trò diễn, trò chơi dân gian hết sức phong phú, xưa gọi là ’bách
hí’, tức nhiều trò vui. Hội được sinh ra từ lễ, có đặc điểm căn bản là vui: ’Vui xem
hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội’. Nói cách khác, nếu bản chất của lễ là thiêng thì bản
chất của hội là vui. Các trò chơi, trò diễn trong lễ
hội, phần lớn bắt nguồn từ những ước vọng thiêng
liêng của cư dân nông nghiệp. Đó là:
 
        + Các trò chơi, cuộc thi xuất phát từ ước
vọng cầu mưa: Các trò chơi thi tiếng nổ, mô
phỏng tiếng sấm nhắc trời làm mưa (thi đốt pháo,
đi thuyền đốt pháo, đánh pháo đất).

        + Các trò thể hiện tư tưởng phồn thực: cướp


cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu.

        + Các trò thể hiện ước vọng luyện rèn sự khéo léo: thi nấu cơm, thi luộc gà, thi
dệt vải, thả diều.

        + Các trò nhằm mục đích luyện rèn sức khoẻ: đấu vật, kéo co.
 
    - Thời gian mở lễ hội: Tập trung vào hai mùa trong năm: mùa xuân và mùa thu.

2. MỘT SỐ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM  

2.1. Lễ hội chùa


 
    Lễ hội chùa ở Việt Nam có hai dạng. Đó là lễ hội chùa gắn với sinh hoạt
thuần tuý Phật giáo và lễ hội chùa gắn với hội xuân dân tộc
 
    2.1.1. Lễ hội chùa với sinh hoạt thuần tuý Phật giáo
 
    Ở dạng lễ hội chùa này có: lễ Phật đản, lễ Phật thành đạo và lễ Vu Lan.
Ngoài ra, trong chùa còn có lễ ’Tam nguyên’. Lễ Tam nguyên bao gồm ba lễ
hội riêng:
    - Lễ Thiên quan tích phúc tổ chức vào rằm tháng Giêng, mục đích là cầu
trời ban phúc lành, chăm lo cuộc sống cho con người: ’Lễ Phật quanh năm
không bằng rằm tháng Giêng’.
 
    - Lễ Địa quan xá tội tổ chức vào rằm tháng bẩy, mục đích hướng chúng
sinh hành lễ để xả ác tòng thiện. Lễ trùng và hoà nhập với lễ Vu Lan
 
    - Lễ Thuỷ quan giải ách tổ chức vào rằm tháng mười, gắn với hy vọng là
lấy nước để rửa hết tai ương.
 
    - Các lễ hội thuần tuý là sinh hoạt Phật giáo, gồm: lễ Phật đản - kỷ niệm
ngày sinh của Phật, tổ chức vào rằm tháng tư âm lịch hàng năm, gắn với một
nghi thức quan trọng là tắm Phật bằng nước thơm, khăn lau đỏ, sau đó xé ra
chia cho mọi người để lấy khước; lễ Phật thành đạo tổ chức vào rằm tháng
chạp để ghi nhớ ngày Phật thành Bậc Giác ngộ (Bụt, Phật). Tóm lại, hai lễ
này là để kỷ niệm những mốc lớn trong cuộc đời đức Phật tổ Thích Ca Mâu
Ni. Qua đó mọi người như nhận thấy mỗi chúng sinh đều có Phật tính trong
mình, ai cũng có thể thành Phật nếu tu hành
tinh tấn, như lời Đức Phật rằng: ’Ta là Phật
đã thành, chúng sinh là Phật đã thành’.
 
    Còn lễ Vu Lan là lễ cúng cô hồn và phổ độ
quần sinh, tiến hành vào rằm tháng bẩy,
được kết hợp với lễ Địa quan xá tội, nhằm
nêu cao tấm gương về đạo hiếu, và vạch ra
con đường tội lỗi và diệt trừ tội lỗi, mà tất cả
đều xuất phát từ chữ Tâm, nhân duyên quả
báo. 
    Các lễ trên đều là lễ trọng Phật giáo. Về hình thức được tổ chức giản dị,
cốt ở lòng thành kính. Lễ vật dâng cúng chỉ có hương hoa với nghi thức ’Lục
cúng’ được thể hiện theo quy định nghi lễ nhà Phật. Chính nghi thức dâng
’lục cúng’ này đã được nâng thành nghệ thuật múa, đó là múa hoa đăng, hay
còn gọi là múa ’Lục cúng hoa đăng’.
 
    Điều quan trọng ở những lễ hội nêu trên là sự chuyển tải Phật Pháp, thắp
sáng đuốc tuệ để xua đi sự u minh trong con người. 
 
     2.1.2. Lễ hội chùa với hội xuân dân tộc 
    Đó là các lễ hội được vẫn được tổ chức tại chùa, nhưng còn gắn với hội vui
của làng, của vùng. Lễ hội loại này gồm một số lễ hội phản ánh một lớp văn
hoá cổ sơ gắn với những tín ngưỡng dân gian, và một số khác là hội chơi, hội
xuân của dân tộc, của tuổi trẻ. Đó là những lễ hội gắn với những nghi lễ cầu
mưa ở những ngôi chùa thờ Tứ Pháp vùng Bắc bộ, gắn với hội đua thuyền ở
chùa Keo Thái Bình, cũng là cầu mưa. Cầu mưa cũng là cầu mùa.
 
   Lễ hội chùa còn gắn với những sinh hoạt văn nghệ, như hội làng quan họ
Bắc Ninh. Ở đây hội làng cũng là hội chùa. Hội hát quan họ có thể diễn ra
trênsân đình, bến bãi, và cả trên sân chùa nữa. Sinh hoạt văn hoá ở những
chùa vùng đồng bằng nhưng lại có những núi đá thì hội chùa còn gắn với tục
chơi hang, chơi núi - một phong tục chơi xuân xa xưa của dân tộc. Chẳng hạn
như hội chùa Thầy (Hà Tây), một công trình kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng,
người đi chùa cũng là đi hội vãn cảnh, thăm hang, thăm núi. Và trai thanh,
gái lịch cũng nhớ hội chùa Thầy vì nơi đây có hang Cắc Cớ, để trai gái từng
nhóm lên núi, xuống hang thoả mãn tình cảm tuổi trẻ, đúng như câu ca được
truyền tụng từ lâu:
 
    Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ
    Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
    Hội chùa có thời gian dài nhất, với không gian rộng nhất là hội chùa
Hương (Hà Tây). Hội kéo dài ba tháng mùa xuân, song nhộn nhịp nhất là từ
giữa tháng giêng đến cuối tháng hai. Trẩy hội chùa Hương để lễ Phật, lễ Mẫu,
đề cầu tự, cầu lộc, cầu tài, và tất nhiên để chiêm ngưỡng cảnh đẹp kỳ thú của
Hương Sơn
 Một vùng non nước bao la
                 Rằng đây lạc quốc hay là Đào Nguyên
    Hương Sơn là chốn non tiên
           Bồng Lai mà ở giữa miền non tiên

2.2. Lễ hội đền


    Đền là nơi thờ thần. Đó là những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại được
tôn vinh là anh hùng dân tộc; thần có thể là những vị thần tín ngưỡng dân
gian.
 
    2.2.1. Lễ hội đền với việc thờ các anh hùng dân tộc
 
 

- Lễ hội đền Hùng, biểu thị của tín ngưỡng Tổ tiên dân tộc. Trẩy hội đền
Hùng (ngày mười tháng ba) là trở về với cội nguồn dân tộc..
 
    - Lễ hội đền Gióng tổ chức vào ngày mùng chín tháng tư, tại xã Phù Đổng
(Hà Nội), để kỷ niệm kỳ công giết giặc Ân xâm lược, để nhớ về hào khí của
dân tộc, để từ đây xây dựng truyền thống bất khuất, quật cường của dân tộc.
Từ việc gợi lại truyên thống xa xưa, hội Gióng góp phần xây dựng tư cách
văn hoá cho mỗi người con dân nước Việt như câu ca dao địa phương còn
truyền với tính giáo dục được khẳng định:
 
    Ai ơi mùng chín tháng tư

    Không đi hội Gióng cũng hư mất đời


    - Nếu Thánh Gióng là anh hùng huyền thoại, thì phổ biến trong lịch sử dân
tộc lại là các anh hùng lịch sử đã tạo những kỳ tích trong sự nghiệp giữ nước
của dân tộc. Các ngôi đền thờ các vị anh hùng có ở khắp nơi, như các đền thờ
Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo. Lễ hội với ý nghĩa kỷ niệm, tưởng nhớ hai
nhân vật lịch sử này là:
 
        + Đền Hạ Lôi (Mê Linh, Vĩnh Phú), được tổ chức vào ngày 6 tháng
giêng, tương truyền là nhằm kỷ niệm ngày yến hạ khao quân của Hai Bà.
 
        + Đền Hát Môn (Hà Tây), nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa và là nơi diễn
ra chiến thắng lớn của Hai Bà, cũng là nơi Hai Bà trầm mình trở thành bất tử.
 
        + Đền Kiếp Bạc tổ chức lễ hội từ ngày 15 đến 20 tháng Tám vào dịp giỗ
Trần Hưng Đạo, nhằm ôn lại cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của Trần Hưng
Đạo.
 
    - Lễ hội Đền Đô - Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua nhà Lý ở Đình Bảng, tổ
chức vào ngày 15 tháng Ba để kỷ niệm ngày vua Lý Thái Tổ đăng quang.
 
    2.2.2. Lễ hội đền với việc thờ thần theo tín ngưỡng dân gian
    - Lễ hội các đền thờ thần sông, thần núi
 
    - Lễ hội đền thờ Tứ Trấn (4 phía bảo vệ kinh thành Thăng Long từ thời nhà
Lý, trong đó có đền Voi Phục ở phía tây thờ Linh Lang - thần sông, và đền
Kim Liên ở phía Nam thờ Cao Sơn - thần núi. Đó là hai vị thần dân tộc phụ
trách hai bộ phận Sơn Hà / Đất Nước. 
 
    - Lễ hội đền thờ thần Trống đồng, tổ chức vào ngày 25 tháng 3.
 
    - Lễ hội các đền, phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, như lễ hội Phủ Giầy.
2.3. Lễ hội đình
    Đình là nơi thờ Thành hoàng, vị thần bảo trợ, định đoạt phúc hoạ thịnh suy
cho cả làng. Đình làng đã trở thành gương mặt văn hoá của cả làng - mái
đình, bến nước, cây đa đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt / quê
hương.
 
    Lễ hội đình làng là lễ tế Thành hoàng làng để cầu xin sự bảo trợ cho người
an vật thịnh. Lễ tế diễn ra uy nghi, sang trọng với nghi thức đã được quy định
chung cho tất cả các làng. nếu làng nào có hèm đặc biệt thì giữa cuộc lễ có
những động tác diễn lại một cách nghệ thuật các hoạt động đặc biệt của
Thành hoàng, chẳng hạn như hoạt động múa nõ nường, tục chém lợn, tắt đèn,
ôm cột đình...
    Phần hội ở đình là hội xuân, là nơi diễn ra tất cả các trò chơi vui kể cả các
trò ở hội đền và hội chùa cũng có ở hội đình. Tất cả các trò chơi vui ở đình
tạo cho không khí hội náo nhiệt, thắt chặt thêm tinh thần cộng đồng, sự bình
đẳng. Qua hội đình, người dân được cân bằng nhịp sống lao động nặng nhọc
với giải trí, vui chơi.
 
    Lễ hội đình làng là một hình thức sinh hoạt văn hoá thường kỳ, trong trọng
mà náo nức, có ý nghĩa giáo dục các thế hệ dân làng noi theo người xưa và
gắn bó với người hiện tại, đồng thời vừa là sự giải toả căng thẳng, mệt nhọc
để thăng hoa văn hoá.
 
2.4. Lễ hội thiên chúa giáo 
    Lễ thức Thiên chúa giáo có hai dạng: lễ
thường và lễ trọng. Lễ thường gồm có lễ
chầu lượt biểu thị sự tôn kính mình Thánh
và lễ diễn ra tại nhà thờ xứ đạo vào ngày
của Chúa / ngày chúa nhựt (chủ nhật). Vào
ngày này, các giáo dân đến nhà thờ nghe
linh mục rao giảng về một số chủ điểm như
về Đức tin, Đức khiêm nhường, Cầu cho
các linh mục, Kính chuác các chân phúc Việt Nam. Lễ thường chỉ có phần lễ.
Lễ trọng mới là lễ hội vì có cả hai phần là lễ và hội.
 
    2.4.1. Lễ rước Thánh Quan thầy xứ
    Với các làng Công giáo, Thánh Quan thày xứ được xem là Thành hoàng
của xứ họ đạo và địa phận. Cuộc rước lễ diễn ra náo nhiệt, trang nghiêm, rầm
rộ, uy nghi với đầy đủ các nghi trượng của lễ hội truyền thống người Việt.
    2.4.2. Các lễ trọng trong mùa chay và mùa vọng 
    - Mùa chay (cuối tháng hai, kết thúc vào nửa đầu tháng tư còn gọi là mùa
thương khó kỷ niệm những sự kiện chúa Giê Su chịu nạn rồi sống lại, gồm
các lễ: lễ tro, lễ kính thánh cả Guse, lễ truyền tin, lễ lá, lễ kỷ niệm Chúa tử
nạn, lễ Phục sinh.
 
    - Mùa vọng từ cuối tháng 11 đến lễ Giáng sinh ngày 25 tháng 12, là mùa
giáo dân đón chờ ngày Chúa Giê Su thấy trần thế làm người.
 
    2.4.3. Múa hát tháng hoa Đức Mẹ
    Lễ diễn ra vào các ngày chủ nhật của tháng năm, là lễ múa hát và dâng
kiệu hoa, rước kiệu hoa bày tỏ sụ cung kính và lòng thành đối với Đức Mẹ.
 
    2.4.4. Lễ rước Thánh thể. 
    Diễn ra ở nhà thờ xứ họ đạo và địa phận, rất trang nghiêm và náo nhiệt. về
hình thức, lễ cơ bản giống lễ rước Thánh Quan thày xứ.

Như vậy, lễ hội Thiên chúa giáo là những sinh hoạt văn hóa của một bộ phận
khá đông là giáo dân của nước ta, là sự cố kết cộng đồng cùng chung một tín
ngưỡng tôn giáo. Ở các lễ hội này, chúng ta gặp lại nhiều yếu tố của văn hoá
dân tộc truyền thống như khăn xếp, áo thụng xanh, lọng, các nghi trượng của
lễ hội, các làn điệu dân ca, các nhạc cụ dân tộc. Những lễ hội này ca ngợi
Chúa và Đức mẹ, qua đó cũng gián tiếp đề cao đạo đức dân tộc. Đây cũng là
những dịp nghỉ ngơi, giải trí tích cực trong chu kỳ nhịp điệu đan xen với lao
động sản xuất.
 
Bài 8. VĂN NGHỆ DÂN GIAN

I. KHÁI NIỆM            
   
Văn nghệ dân gian là tiếng nói của người bình dân phản ánh cuộc sống, ước
vọng của mình thông qua nghệ thuật, văn chương. Trong văn nghệ dân gian
có sự tổng kết kinh nghiệm cuộc sống lao động sản xuất, có cái nhìn của đạo
đức luân lý trong gia đình, cộng đồng xã hội, có cả lời than thân trách phận
của những số phận mồ côi nghèo khổ, của những thân phận làm dâu khổ sở...
 
    Văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam rất phong phú và đa dạng và
độc đáo, đã góp phần tạo nên diện mạo và bản sắc văn hoá dân tộc. Văn nghệ
dân gian gồm nhiều loại hình, ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu hai loại hình là
diễn xướng dân gian và tạo hình dân gian.

II. DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN    

1. Âm nhạc / nhạc cụ cổ truyền 


    Việt Nam có nhiều nhạc cụ thuộc ba bộ: bộ gõ, bộ dây và bộ hơi, trong đó
các nhạc cụ thuộc bộ gõ có nguồn gốc lâu đời nhất và phổ biến nhất.
 
    1.1. Bộ gõ:  gồm cồng, chiêng, trống cái, trống cơm, trống đồng, đàn đá.
 
    1.2. Bộ dây:  gồm đàn bầu (độc huyền cầm), đàn nhị, đàn tam thập lục, đàn
tỳ bà, đàn nguyệt, đàn tranh (thập lục), đàn t/rưng.
 
 
    1.3. Bộ hơi:  Khèn và sáo.
2. Diễn xướng dân gian 
 
    2.1. Các thể loại dân ca
 
    Các thể loại dân nước ta rất phong phú. Miền đất nào cũng có những làn
điệu dân ca độc đáo.
        - Hát ru: ru em, ru con ba miền.

        - Hò: hò sông nước và hò cạn.

        - Hát quan họ ( Bắc Ninh), hát xoan (Phú thọ), hát đúm (Hưng Yên), hát
ví, hát dặm (Nghệ Tĩnh); ca Huế; hát bài chòi (miền Trung) và các làn điệu lý
(miền Nam).

        - Hát trống quân, hát xẩm, hát chầu văn, hát ca trù.
    Sau đây chúng ta tìm hiểu một vài thể loại dân ca tiêu biểu của ba miền
Bắc - Trung - Nam.
    a. Hát quan họ: xuất xứ từ Kinh Bắc
(Bắc Ninh). 
    Lề lối tổ chức theo tùng canh gọi là canh
quan họ. Tham gia canh quan họ là các ’liền
anh’, ’liền chị’. Hát quan họ thường là hát
đôi (đôi nam, đôi nữ) và hát đối. Hát đôi
được phân công người ’hát chính’ và người
’hát luồn’. Quan họ có tới 200 làn điệu,
trong đó có những là điệu đặc sắc như bài
’Giã bạn’.
 
    b. Hát trống quân: 
    Cũng là một hình thức hát đối đáp nam nữ, diễn ra ở một số vùng nông
thôn Bắc bộ. Không gian hát thường ở đình làng hoặc đầu xóm, vào những
đêm trang sáng. Người hát chia làm hai phe là phe nam và phe nữ. Có một
chiếc thùng được úp ngược xuống một cái hố đào nông, trên đáy thùng có
miếng gỗ để làm căng sợi dây thép mắc sang hai bên. Hai đầu dây buộc vào
hai cái cọc đóng chắc xuống đất. Trên tay nguời hát cầm một que cứng dài
khoảng một gang tay gõ vào sợi dây để bật ra tiếng ’thùng thình’. Hình thức
hát là một bên hỏi va một bên đáp, với diễn trình như sau: hát chào, hát
mừng, hỏi quê quán rồi hát đối đáp. Lối hát có cả ứng tác, đối đáp tinh
nghịch. Hát trống quân tạo không khí vui nhộn và say mê cho cả người hát
lẫn người xem.
 
    c. Hát ví (dặm) Nghệ Tĩnh: 
    Là lối hát đối đáp trong lao động. Có những loại hát ví sau: ví phường vải,
ví đò đưa, ví phường củi, ví phường nón, ví phường gặt, ví phường cấy. Các
cuộc hát ví có khi kéo dài mấy ngày. Nhiều đôi nam nữ đã nên vợ nên chồng
từ lối hát này. Lối hát này thu hút cả thanh niên lẫn người già.
 
   

d. Hát xẩm: 

 
   

Là điệu hát rong của những người mù tài năng có tâm tư góp tiếng đàn, tiếng
hát của mình với cuộc đời, đồng thời cũng là cách kiếm sống duy nhất của
họ. Người hát xẩm vừa hát vừa đàn, thường có vợ hoặc con dắt đi. Các bài
hát thường mang tính tự sự, toát lên tâm hồn, tính cách người Việt: quý trọng
nghĩa tình, lẽ phải và đạo đức. Bài hát xẩm tiêu biểu là xẩm ’Thập ân".
 
    e. Hò Huế: 
 
    Là đặc sản văn nghệ dân gian xứ Huế, còn gọi là ca Huế. Hò Huế rất đa
dạng, gắn bó với lao động sản xuất, đậm chất trữ tình. Sự đa dạng của hò Huế
thể hiện ở nhiều làn điệu hò, thể hiện ở các môi trường diễn xướng: trên cạn,
dưới nước, ru con, đưa linh...
    g. Hát bài chòi: 
 
    Là đặc sản văn nghệ của miền Trung, đặc
biệt là vùng Bình Định. Thoạt kỳ thuỷ, bài
chòi vốn là một trò chơi của nhân dân Bình
Định trong những ngày tết mùa xuân, được
kết hợp với những làn điệu dân ca địa
phương. Điệu hò bài chòi về sau được kết
hợp với những yếu tố trình diễn. Những người lo việc sóc bài, chia bài gọi là
anh hiệu. Anh hiệu thường là những người có giọng hát tốt, có tài sáng tác
những câu thơ ứng với các con bài.
 
Ví dụ như các câu thơ trong con bài Nhì nghèo chẳng hạn. Những anh hiệu
dần dần chuyên nghiệp hoá và sống bằng nghề hò bài chòi trong ngày tết, làm
cho bài chòi trở thành một hình thức diễn xướng sinh hoạt dân gian, từng làm
say mê nhiều người.
         Rủ nhau đi đánh bài chòi
         Để cho con khóc đến lòi ruột ra.
    h. Các điệu lý Nam Bộ: 
 
    Lý là những bài hát của làng quê. Những bài hò quê mùa của miền Trung
miền Nam không phải là hò thì được gọi là lý. Nam bộ là kho tàng vô tận về
lý, trong đó có lý giao duyên - một thể dân ca, tình ca với nội dung tâm tình,
rất thông dụng, được mọi người ưa thích.
    2.2. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền
 
    a. Hát chèo: 
    Chèo là đặc sản văn nghệ dân gian của nhân dân vùng châu thổ Bắc bộ và
trung du Bắc bộ, gắn với môi trường diễn xướng ở nông thôn, tong các dịp
hội hè, đình đám. Cơ sở hình thành hát chèo là từ các điệu dân ca, dân vũ,
múa hát tôn giáo vùng đồng bằng sông Hồng. Chèo định hình và thịnh vượng
trong những thế kỷ XV, XVI. Những vở chèo cổ được lưu truyền đến ngày
nay như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình - Dương Lễ. Nội dung
các tíhc chèo cổ hầu hết kể về số phận bi thương của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến; xen vào đó là những tiếng cười châm biếm, đả kích vò trật tự
phong kiến của các vai hề áo ngắn và hề áo dài/ áo chùng. Xưa chèo diễn
xướng ở sân đình, trong các dịp hội hè đình đám, nên gọi là chèo sân đình,
còn những người hát chèo thì gọi là phường chèo.
 
    Đầu thế kỷ XX, chèo vào đô thị, diễn trên sân khấu có phông màn, cảnh,
đèn điện, nên sự ước lệ khác hẳn lối diễn ước lệ khi còn là chèo sân đình.
Cũng trong thời gian này, do ảnh hưởng của thị hiếu tầng lớp tiểu thị dân và
xu hướng thương mại hoá trong nghề hát nên chèo bị tha hoá, nghệ thuật trở
nên hỗn tạp, dẫn đến sự ra đời phong trào chèo văn minh, tức là hình thức
chèo pha tuồng, pha hát tây. Tiếp theo là sự ra đời của phong trào chèo cải
lương của Nguyễn Đình Nghị - hình thức theo khuynh hướng tả thực của sân
khấu kịch nói phương Tây du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chèo cải
lương đã làm mất đi nhiều lối diễn ước lệ truyền thống của chèo cổ. Sau cách
mạng tháng Tám 1945, hình thức diễn xướng này mang tên gọi là chèo hiện
đại - có các đoàn hát chuyên nghiệp, có kịch bản viết về các tích dân gian và
lịch sử, và về đề tài hiện đại.
 
    b. Hát tuồng: 
    Tuồng là đặc sản văn nghệ của miền Trung và miền Nam, được hình thành
do ảnh hưởng của hí khúc Trung Quốc qua quân lính nhà nguyên bị giữ làm
tù binh dưới thời nhà Trần (thế kỷ XIII). Tuồng phát triển mạnh ở Đàng
Trong vào những thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Những vở tuồng cổ đặc sắc còn
đến ngày nay là: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Châu Dương Tử. Theo trật tự
thời gian và nội dung vở diễn, có thể phân ra các loại tuồng: tuồng cổ, tuồng
cung đình, tuồng đồ, tuồng văn thân, tuồng tân thời và tuồng hiện đại/ tuồng
cách mạng.
 
    Tuồng là nghệ thuật mang tính cổ điển, là tác phẩm văn chương bác học.
nghệ thuật biểu diễn mang tính ước lệ cao và có những quy phạm chặt chẽ
trong các lối nói, hát, múa và hoá trang.
    c. Múa rối nước: 
    Là loại hình sân khấu gắn bó với thiên nhiên, lao
động sản xuất trồng cấy lúa nước. Đó là một loại
hình mang tính tổng hợp rất cao của nhiều loại hình
nghệ thuật dân gian khác. Múa rối nước có truyền
thống từ lâu đời (có từ thời nhà Lý). Nhà của các
diễn viên điều khiển rối nước gọi là Thuỷ đình.
Chương trình biểu diễn rối nước khá phong phú và đa dạng. Bên cạnh các trò
thuộc về đề tài sản xuất như : Tứ dân (ngư, tiều, canh, độc) là các trò thuộc
về những sinh hoạt văn hoá, như các nhóm trò vật, đua leo thang, đánh kiếm,
đua ngựa; có cả những trích đoạn các tích chèo tuồng cổ, các trò lễ nghi hội
hè, các trò diễn tích lịch sử như Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Bà Triệu, Trần Hưng
Đạo... Nhân vật quen thuộc trong rối nước truyền thống là chú Tễu (người
đảm nhiệm vai trò giáo đầu vở diễn) - hình ảnh tiêu biểu của người nông dân
đồng bằng Bắc Bộ. Các tiết mục rối nước thường nhắn gọn, luôn thay đổi,
được kết hợp với âm nhạc, pháo hoa, lửa đuốc... phản quang trên mặt nước
nên càng tăng phần hấp dẫn.
    d. Cải lương:
    Là loại hình kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ. Tiền
thân của hát cải lương là hình thức ca ra bộ (ca thể hiện / minh hoạ bằng điệu
bộ). Điệu hát chủ chốt của nghệ thuật cải lương là điệu ca vọng cổ nổi tiếng -
điệu nhạc vua của sân khấu cải lương, bắt nguồn từ bài Dạ cổ hoài lang, tác
giả là Cao Văn Lầu. Khởi thuỷ mỗi câu vọng cổ có hai nhịp, nên gọi là Dạ cổ
nhịp đôi, sau mở ra thành Dạ cổ nhịp tư (mỗi câu bốn nhịp), rồi nhịp tám...
sau Dạ cổ nhịp tám lại được mở thành bản nhịp 16 và đổi tên là vọng cổ.
Vọng cổ nhịp 16 tiếp tục phát triển thành nhịp 32, 64, nhưng từ 20 câu rút lại
thành 6, rồi 4 câu. Có thể giữa hai cặp của 4 câu vọng cổ xen vao một bài lý,
hoặc tân nhạc.

    Cải lương phát triển mạnh trong khoảng 10 năm, từ 1920 - 1930, với nhiều
ban gánh và nghệ sĩ tên tuổi lừng danh còn lưu danh đến tận bây giờ. 
 
Nghệ thuật truyền thống Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau: 
        - Tính biểu trưng: Thiên về biểu đạt nét tinh thần, nhấn mạnh nội dung
tư tưởng.

        - Tính biểu cảm: Đậm chất trữ tình.

        - Tính tổng hợp: Các loại hình nghệ thuật cùng tham gia trong một loại
hình.

        - Tính linh hoạt: Diễn viên đượ phép sáng tạo trong khi diễn và có mối
giao lưu mật thiết với người xem.

  III. NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH       

  - Tạo hình là thuật ngữ dùng để chỉ hai loại hình nghệ thuật có liên quan mật
thiết, chặt chẽ với nhau là hội hoạ và điêu khắc, được thực hiện trên các chất
liệu: đá, đất, gỗ, kim loại, giấy.
 
1. Điêu khắc:
 
    Từ đá người Việt đã sáng tác những tượng
Phật như tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích (Hà
Bắc); từ đất, gốm đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời (cách đây một vạn năm)
và có những thành công; từ chất liệu kim loại, người Việt đã sáng tác rất
nhiều tác phẩm chạm khắc tinh tế trên trống đồng, thạp đồng và các đồ đồng
khác; với vật liệu gỗ, người Việt đã làm nên những pho tượng Phật kiệt xuất
như tượng Phật Bà nghìn mắt, nghìn tay, tượng các vị La Hán, tượng Tổ ở
chùa Tây Phương... và rất nhiều phù điêu chạm nổi ở đình làng.
 
2. Hội hoạ:
 
    Hội hoạ của người Việt Nam được thể hiện trên gỗ và giấy. Từ vật liệu gỗ,
người Việt Nam làm được khảm trai, khảm xà cừ, đặc biệt là làm tranh sơn
mài. Ngày nay, với sự phát triển của tri thức và công nghệ, người Việt Nam
còn làm được sơn mài trên cả kim loại, giấy bìa, tre và nứa.

Giấy là vật liệu nhanh bị huỷ hoại, nên đến ngày nay chỉ còn hai dòng tranh
dân gian là tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống. Đây là hai dòng tranh nổi
tiếng, mà sản phẩm được làm ra từ những chất liệu của đồng quê.
 
    - Tranh Hàng Trống là hoạ phẩm của một số phường tranh ở Hà Nội. Đặc
trưng của tranh Hàng Trống là tranh thờ, ví như các bức tranh: Bạch hổ, Hắc
hổ, Ngũ hổ, Đức Thánh Trần. Ngoài ra còn một số mẫu khác về đề tài sinh
hoạt. Tranh Hàng trống được in trên giấy trắng.
    - Tranh Đông Hồ diễn tả nhiều đề tài trong đời sống xã hội cổ truyền: Có
tranh tả cảnh sinh hoạt (Ngư - Tiều - Canh - Độc, cảnh cày bừa, gặt hái, cảnh
vui chơi trong ngày hội...), tranh châm biếm (đánh ghen, đám cưới chuột, đồ
cóc, hứng dừa), tranh thiên nhiên (tứ quý), tranh về đề tài lịch sử (Hai Bà
Trưng, Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung...), tranh kể truyện dân gian (Thạch
Sanh, Lục Vân Tiên, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều).
 
    Ngoài hai dòng tranh truyền thống trên, người Việt Nam, trong quá trình
giao lưu tiếp xúc với văn hoá phương Tây, đã tiếp thu thể loại tranh mới /
hiện đại là tranh sơn dầu. Với loại hình mới này, các nghệ sĩ Việt Nam đã tạo
nên nhiêu bức tranh sơn dầu tuyệt tác, gắn với tên tuổi các hoạ sĩ sơn dầu nổi
tiếng như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia trí, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn,
Bùi Xuân Phái...
 
    Nghệ thuật tạo hình truyền thống của Việt Nam có một số đặc trưng cơ
bản sau:
 
    - Các sản phẩm được tạo ra tuân thủ theo một nguyên lý và mục đích
chung, thống nhất là chú trọng về tư tưởng, tinh thần, nên gợi nhiều hơn tả,
nói khác đi là chú trọng vào nội dung tư tưởng hơn hình thức.
 
    - Nguyên lý và mục đích đó đã quy định thủ pháp nghệ thuật là phóng to,
thu nhỏ và mô hình hoá, bất chấp yêu cầu về tính hợp lý của hiện thực. Các
thủ pháp nghệ thuật đó nhằm nêu bật nội dung tư tưởng, hướng sự chú ý của
người xem vào tính triết lý, tính nhân sinh của nghệ thuật. Các bức tranh như
Đám cưới chuột, tranh Tứ linh, tranh Bát vật, tranh Ngũ hổ, tranh Tam đa...
là những minh chứng tiêu biểu cho nguyên lý và thủ pháp nghệ thuật đó.
Bài 9. PHONG TỤC TẬP QUÁN

   I. KHÁI NIỆM 


    
Phong tục tập quán Việt Nam rất đa dạng. Đó là các ứng xử xã hội được hình thành
trong quá trình lịch sử, đã qua sư lựa chọn sàng lọc của dân tộc và sự thử thách của
thời gian, có cả sự học tập và giao lưu với các dân tộc khác. Vì vậy, những gì còn tồn
đọng đến ngày nay, về cơ bản đều là những tinh hoa được dân tộc khẳng định và chấp
nhận.

II. LỄ TIẾT       
   
Lễ tiết là một bộ phận văn hoá truyền thống Việt Nam, bao gồm việc tổ chức
những nghi lễ, hội hè theo một khuôn mẫu nhất định vào những thời điểm tự
nhiên quay vòng theo chu kỳ - theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Ý nghĩa cơ
bản của lễ tiết là thể hiện ý tưởng về trường tồn cuộc sống, sự khao khát của
con người về thiên địa hài hoà ban cho người an vật thịnh. Lễ tiết mang ý
nghĩa biểu tượng đó là sự thể hiện cuộc sống tái sinh lặp đi lặp lại trong vòng
quay của vũ trụ và sự bất tận của thời gian. Lễ tiết gắn liền với khái niệm thời
gian, phản ánh ý niệm của dân tộc về sự phân đoạn thời gian đó, vì thế nó
phần nào trở thành bộ phận của ý thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc dân tộc
sâu đậm.
    Lễ tiết Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc song phần nào đã được Việt
hoá - nó là là kết quả hỗn dung của lễ hội Việt Nam cổ truyền với ảnh hưởng
của truyền thống lễ tiết Trung Hoa.
 
    Chữ Tết là biến âm từ chữ Tiết (chữ Hán). Lễ tết (tiết) gồn hai phần: cúng
ông bà tổ tiên (lễ) và ăn uống bù cho những ngay làm lụng vất vả (tết). Ngày
lễ tiết quan trọng nhất trong năm là ngày tết Nguyên Đán - ngày mở đầu một
năm mới đối với người Á Đông trong đó có dân tộc Việt Nam.
 
1. Tết Nguyên Đán
    Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán tức là tết bắt
đầu năm mới, người Việt gọi vắn tắt là ’’Tết’’. Tuy chưa xác định người Việt
có tục ăn tết từ bao giờ, song có thể thấy rõ tục đón năm mới chắc phải có từ
xa xưa, rồi qua giao lưu ảnh hưởng phong hoá của Phương Bắc , người Việt
cũng tiến hành đón năm mới vào ngày Nguyên Đán
- ngày 1 âm lịch hàng năm.
 
    Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc Giao thừa gắn
với lễ Trừ tịch. Tuy nhiên, công việc chuẩn bị cho
tết thì đã được tiến hành từ lâu trước thời điểm đó.
Công việc lo tết bắt đầu rộ lên vào khoảng giữa
tháng Chạp, với một nghi lễ quan trọng là lễ Táo
Quân, còn gọi là chạp ông Công, được tiến hành
voà ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Dân gian cho
rằng ngày này Táo quân sẽ lên chầu trời để tâu về việc làm ăn, cư xử của mỗi
gia đình với Ngọc Hoàng. Người Việt tin rằng ông Táo có quyền năng với
mỗi gia đình và báo cáo hàng năm của vua Bếp rất quan trọng đối với sự
thịnh suy của gia chủ trong thời gian tiếp theo. Do vậy nhiều gia đình cúng
ông Táo rất linh đình. Về tính chất, có thể nói lễ cúng này là nghi lễ tống cựu,
đồng thời cũng là khai tết. Tục này đáng giữ gìn vì nó nhắc nhở mọi người cả
năm nên ăn ở phúc đức để năm sau, đời sau có phúc lộc nhiều hơn, mặt khác
cần phải trân trọng cội nguồn của sự sống là Thần Lửa.
 
    Sau ngày tết Táo Quân, không khí tết với các tục lệ chào đón năm mới bắt
đầu. Việc biếu tết cũng như trả hết nợ nần được tiến hành trước giao thừa. Tết
xưa, trước sân đình và nhà, tới chiều 30 tết, không bao giờ thiếu cây nêu -
vốn gốc gác xa xưa là cây vũ trụ đón mặt trời, đón mùa xuân, sau chuyển hoá
thành ’’cây mốc’’ báo hiệu đất có chủ, ma quỷ không được đến trú ngụ hay
quấy phá. Cũng trong chiều ngày 30 tết đó, các gia đình đi viếng mộ gia tiên ,
mời gia tiên về ăn tết.
 
   Thời điểm quan trọng nhất của tết Nguyên Đán là đêm giao thừa với lễ trù
tịch. ’’Trừ’ là trao lại chức quan, ’’tịch’’ là ban đêm. Lễ trừ tịch cử hành lúc
giao thừa là khoảng thời gian giao nhau giữa năm cũ và năm mới, mục đích
để tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới, gọi là thần / Ông Hành Khiển
Các gia đình, vào thời điểm gần 1 giờ, bày cỗ ngoài sân để cúng.
 
    Ý nghĩa của lễ Trừ tịch / cúng giao thừa về sau còn mang thêm màu sắc
mới. Nhiều người quan niệm lễ cúng này là cúng chúng sinh. Dù là cúng thần
thời gian hay cúng chúng sinh thì tục lệ này vẫn mang ý nghĩa triết học -
nhân văn tốt đẹp. 
 
    Tối giao thừa xưa, người Việt có tục đốt pháo với ý nghĩa là tiễn năm cũ đi
đồng thời để trừ ma quỷ. Ngày nay tục đốt pháo không còn nữa.

Sau lễ cúng giao thừa là lễ cúng Thổ Công, tức vị thần cai quản trong nhà,
thường được gọi là Đệ nhất gia chi chủ.

Các nghi lễ trên kết thúc và năm mới vui vẻ hội hè bắt đầu.
 
    Sau phần nghi lễ chính thức tại nhà, người ta có thể đi ra khỏi nhà đi hái
lộc. Người ra khỏi nhà trở về đầu tiên hay người đến thăm đầu tiên sau giao
thừa là người xông nhà (đạp đất). Người Việt tin rằng, người xông nhà tốt vía
sẽ đem lại tài lộc, do đó thường coi tuổi và mong những người hợp tuổi, tốt
vía xông nhà mình. Cùng với tục xông nhà là những kiêng kỵ nhằm tránh đi
những điều không may/ giông trong năm mới, như tục kiêng quét nhà vì sợ
quét cả thần Tài đi.
 
    Ngày tết vui vẻ nhưng không quên người đã khuất, nhất là tổ tiên, ông bà
ông vải. Người Việt, ngày 30 tết đón ông bà về ăn tết thì đến ngày mồng 3
làm lễ hoá vàng, gọi là ngày cúng tiễn ông vải. Ngày này phải tiến hành các
thủ tục là đơm mâm, hoá vàng để tiễn.
 
    Hướng về năm mới với những điều tốt đẹp, người Việt Nam trong dịp tết
còn có tục mở đầu công việc năm mới. Tuỳ theo nghề nghiệp khác nhau sẽ có
những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, lễ quan trọng nhất là lễ hướng tới
hoạt động nông nghiệp của người Việt Nam. Đó là lễ Tịch điền và lễ Thượng
nguyên. Và đến lễ Thượng nguyên, tết Nguyên đán mới thật sự kết thúc. Một
năm cũ chính thức qua đi, một năm mới bắt đầu với một chu kỳ lao động mới
với biết bao lo âu mới và niềm vui mới.
 
2. Tiết Thanh minh và ngày hàn thực
 
    Trong đời sống văn hoá người Á Đông, thanh minh là lễ tiết hàng năm,
được tổ chức vào ngày mùng ba tháng ba âm lịch, có ý nghĩa đặc biệt: Thanh
là khí, Minh là sáng sủa - Thanh minh là khí trong trẻo và sáng sủa. Đó là
ngày nhớ về cội nguồn. Đối với người Việt Nam, ngày Thanh minh là ngày
Tảo mộ, với những công việc: thăm viếng mộ phần gia tiên, dọn dẹp phát
quang, làm cơm cúng tại các phâng mộ hoặc tại nhà để nhớ về nguồn cội của
mình.
 
    Tết Hàn thực có xuất xứ Trung Quốc vào ngày mồng ba tháng ba âm lịch.
Hàn thực có nghĩa là ăn đồ lạnh. Ngày này người Việt Nam thường ăn bánh
trôi bánh chay. 
 
    Tết Thanh minh là một tập tục cổ truyền đáng trân trọng và giữ gìn, bởi nó
nhắc con người trần thế nhớ về khởi thuỷ của mỗi kiếp người, nhắc ta sống
thế nào để giống nòi mãi trường tồn trong vòng quay của vũ trụ bao la.
3. Tết Đoan ngọ 
 
    Tết Đoan ngọ tổ chức vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch. Người Trung
Quốc cũng có ngày này để tưởng nhớ về Khuất Nguyên, một vị trung thần
nước Sở. Tuy có ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, nhưng ngày này của người
Việt Nam không hề dính líu hay nhắc nhở đến vị trung thần Khuất Nguyên
của Trung Quốc. Ngày tết Đoan Ngọ ở Việt Nam dân gian gọi là ngày giết
sâu bọ nhằm bảo vệ mùa màng, sức khoẻ con người.
 
4. Tết Trung nguyên 
 
    Tết Trung nguyên được tổ chức vào ngày rằm tháng 7, người xưa cũng gọi
ngày này là ngày xá tội vong nhân hay ngày cúng cô hồn. Giới tăng ni, Phật
tử thì gọi là ngày lễ Vu Lan
 
    Theo tín ngưỡng, người Việt cho rằng rằm tháng bảy là ngày xá tội vong
nhân, nghĩa là bao nhiêu tội nhân dưới âm phủ, ngày hôm đó được tha tội hết.
Bởi vậy, trên dương thế mọi gia đình đều làm lễ cúng cô hồn. Còn ở chùa thì
tổ chức lễ cúng gọi là lễ cúng Thập loại chúng sinh và đọc Văn chiêu hồn của
Nguyễn Du.
 
    Về bản chất, lễ này là một lễ mang ý nghĩa tốt, thể hiện một tình thương
không vụ lợi đến mọi kiếp người khốn khổ.
 
Tóm lại: Lễ tiết là một bộ phận đời sống văn hoá quan trọng của người Việt.
Thông qua các lễ tiết, người ta gắn mình với thiên nhiên, với vũ trụ, với cộng
đồng, giữ gìn mối quan hệ với quá khứ, dòng dõi và liên kết với nhau để
hướng tới những chu kỳ tiếp theo của vòng quay vũ trụ luân hồi. Cội nguồn
sâu xa của lễ tiết Việt Nam phần lớn đều bắt rễ từ cuộc sống lao động và sáng
tạo của cư dân nông nghiệp lúa nước từ bao đời nay. Người ta không chỉ có
lao động vất vả quanh năm, mà còn phải vui chơi giải trí, phải thoả mãn
những nhu cầu về thế giới tâm linh của mình. Và chính trong lĩnh vực này, lễ
tiết có ý nghĩa to lớn, là một tục đẹp, đồng thời là một bộ phận hữu cơ không
thể thiếu của đời sống văn hoá tinh thần con người Việt Nam.
 

III. HÔN LỄ.    

       
   

Hôn lễ là một lễ thức quan trọng nằm trong phông cảnh nghi lễ đời người, mà
biểu hiện là việc lập gia đình của đôi trai gái. Lễ cưới, biểu hiện sự ra đời một
gia đình mới được coi là gốc của vạn phúc, nên được trân trọng và tổ chức
chu đáo.
 
   Trong đời sống tinh thần của người Việt, cưới là
một việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người.
Dân gian có câu:
 
                            Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà

                        Trong ba việc ấy thật là khó


thay
    Phần lớn các nghi lễ của người Việt chịu ảnh hưởng của tục lệ Trung
Quốc. Theo tục lệ của Trung Quốc thì có 6 lễ trong hôn nhân (lục lễ).
                      1/ Nạp thái: kén chọn.

                      2/ Vấn danh: hỏi tên tuổi, ngày sinh cô gái.

                      3/ Nạp cát: chấp nhận sự đính ước.

                      4/ Nạp tệ: lễ ăn hỏi, đưa sính lễ đến nhà gái.

                      5/ Thỉnh kỳ: xin lễ cưới, định ngày cưới..

                      6/ Thân nghinh: cưới - đón dâu.


Sáu lễ trên dần đần được người Việt Việt hoá còn ba lễ chính:
                1/ Lễ chạm ngõ: gồm nạp thái và vấn danh.

                2/ Lễ ăn hỏi: gồm nạp cát và thỉnh kỳ, trong đó có tục nộp sêu sau
khi ăn hỏi.

                3/ Lễ cưới: gồm nạp tệ và thân nghinh.


   Trong hôn lễ / lẽ cưới của người Việt Nam, có một vài lễ thức hoàn toàn là
của người Việt, mang đậm phong vị dân tộc. Đó là:
   - Lễ lại mặt: lễ diễn ra sau khi cô dâu làm dâu được ba ngày. Sang ngày thứ
tư, cặp vợ chồng mới phải dắt nhau về nhà gái để lễ gia tiên, tục gọi là lễ lại
mặt hay lễ tứ hỉ, nếu ngay ngày hôm sau đã về thì gọi là nhị hỉ. Lễ lại mặt
xưa có mục đích để cô dâu tỏ chữ hiếu với cha mẹ, mặt khác còn có ý nghĩa
thông báo rằng cô ấy, chị ấy đã làm toại nguyện nhà chồng và chồng. Trường
hợp có trục trặc thì trong lễ lại mặt bố mẹ cô dâu cũng sẽ được biết thông qua
lễ vật của chú rể mang về (thủ lợn bị cắt mất một tai có nghĩa là cô dâu không
còn trong trắng nữa).
 
   - Lễ nộp cheo: là một nghi lễ phụ trong đám cưới nhưng nhất thiết phải có.
Ca dao, tục ngữ cổ có những câu:
                                               - Có cưới mà chẳng có che

                                       Nhân duyên trắc trở như kèo long đanh.


                                               - Nuôi lợn thì phải băm bèo

                                          Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.


                                              - Cheo có làng, cưới có họ
   
Tất cả những đều nhằm chứng minh một tục lệ riêng có ở Việt Nam là lễ nộp
cheo. Nghĩa là một cuộc kết hôn muốn được công nhận là chính thức , ngoài
lễ cưới ra, phải có lễ cheo. Cheo là để làng xóm công nhận, còn cưới chỉ mới
là công bố trong hai họ mà thôi. Có thể hiểu như ngày nay các cặp vợ chồng
phải đăng ký trước uỷ ban để pháp luật công nhận. Cũng như vậy, xưa lễ
cheo là để chứng minh rằng tại đơn vị cộng đồng ấy có thêm một gia đình
mới, một thành phần trong khối cộng đồng. Muốn được cộng đồng công nhận
thì cặp vợ chồng phải chứng tỏ ý thức xây dựng cộng đồng. Lễ cheo là bằng
chứng của ý thức ấy. Như vậy, lễ nộp cheo là một thủ tục như thể nằm ngoài
cuộc hôn thú nhưng không thể không có.
 
    Tóm lại, phong tục hôn nhân của người Việt Nam có những nghi tiết
mang đậm phong vị dân tộc, phù hợp với phương thức sinh tồn là nông
nghiệp trồng cấy lúa nước. Hôn lễ đã đáp ứng được hai nhu cầu cơ bản là duy
trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực.

IV. TANG LỄ           


   
'Tang' là một từ gốc Hán, có nghĩa là công việc phải làm với người mới chết.
Những công việc ấy được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn mới chết đến khi
táng và giai đoạn tiếp sau khi táng, gồm 'để trở', cúng các tuần, cúng giỗ, cải
táng... Tất cả được gọi là tang lễ hay tang chế. Nói chung, lễ tang hay tang
chế là những công việc được nghi thức hoá của người sống đối với người
chết, bao gồm cả việc tống táng và truy tưởng.
 
    Các nghi thức lễ tang của các dân tộc không giống nhau bởi quan niệm về
cái chết của mỗi tộc người, mỗi tôn giáo khác nhau. Người Việt, trong đời
sống tâm linh của mình cũng có những quan niệm cùng những nghi lễ cho
người chết theo quan niệm sinh là ký tử là quy - sống gửi, thác mới thật là về
thế giới bên kia, một thế giới cũng hao hao như thế giới bên này (thế giới của
người sống. Vì vậy, người Việt thường có câu 'dương sao âm vậy' (trần sao,
âm vậy). Từ quan niệm ấy mà người Việt đã ứng xử với người qua đời bằng
những lễ thức như sau:
 
1. Tang chế 
    Tang chế là chế độ để tang. Dưới thời phong kiến, tang chế ở nước ta
không chỉ là phong tục mà còn thuộc luật tư pháp (công dân), được thể hiện
rõ ràng trong các bộ luật Hồng Đức và luật Gia Long.
 
    Luật Hồng đức và luật Gia Long, hai bộ luật cổ chịu ảnh hưởng lớn của
các bộ luật Trung Hoa, nên về tang chế cũng chịu ảnh hưởng, có nghĩa là
chịu ảnh hưởng cái nền đạo hiếu của Nho giáo. Tuy nhiên như thế không có
nghĩa là người Việt không cải biến, không Việt Nam hoá. Theo chế độ để
tang của người Việt thì tang có 5 bậc dài ngắn khác nhau, tuỳ thuộc sự thân
sơ, và được người xưa viết thành bài thơ có nhan đề "Ngũ phục thi'.
 
       Tang cha tang mẹ tang chồng

      Ba năm sồi vải tỏ lòng xót xa

      Anh em, cô ruột, ông bà

      Xa là chú, bác gần là trưởng tôn

      Tang cháu ruột, tang các con

      Với tang dâu trưởng đều tròn một năm

      Tang chín tháng kể ra liền

      Chị em cô ruột xa miền ngoại gia

      Vợ cháu ruột, anh họ ta

      Cùng tang các cháu thảy đà đại công (9 tháng)

      Đích tôn thừa trọng ba đông

      Bác họ, anh họ 'tiểu công' lâu gì (5 tháng)


      Tang cha mẹ vợ, cậu gì

      Dưới thì cháu chắt, lệ 'ty ma' còn (3 tháng)

      Vợ chúng tôn, vợ điệt tôn

      Cũng trong ba tháng cho tròn tình thương

      Con nuôi, mẹ đẻ lấy chồng

      Chiếu trong kinh lễ không tang rành rành.

      Trong dân gian thì có câu:

      Chồng cô vợ cậu chồng dì

      Trong ba người ấy chết thì không tang


    Như thế, trong năm loại tang thì tang cha mẹ là tang trọng/ đại tang. Cơ sở
ấn định thời hạn tang xuất phát từ quan niệm của Nho giáo.
 
Cùng với tang chế là tang phục. Tang phục không phải được dùng trong suốt
thời kỳ có tang, mà chỉ trong các dịp sau đây:
      - Ngày nhập quan.

      - Ngày chôn cất.

      - Ngày thứ 49 sau khi chết.

      - Ngày thứ 100.

      - Và lần cuối cùng khi làm lễ hết tang.


    Nhưng trong thời kỳ cư tang, dù không phải hàng ngày mặc tang phục,
người chịu tang cũng không được ăn mặc và trang sức xa xỉ, vải vóc sang
trọng, màu sắc loè loẹt hay rực rỡ, để biểu thị sự tưởng nhớ, nỗi buồn rầu của
mình.
 
2. Lễ tang 
 
Đó là những nghi thức cúng lễ, chôn cất người chết. Các nghi thức tang có
thể chia thành ba phần
 
   - Lúc lâm chung: những công việccủa người sống phải
làm đối với người hấp hối / chết.
 
   - Chuẩn bị đưa đám: gồm những công việc: lập tang
chủ, lễ mộc dục (tắm gội cho người chết), lễ phạn hàm
(bỏ cơm, tiền vào miệng người chết), lễ khâm liệm (mặc
quần áo mới; bọc vải cho người chết sau khi đã tắm rửa),
lễ thành phục (phát tang và khóc), chọn huyệt (chọn hướng huyệt để người
chết phù hộ cho con cháu).
 
    - Đưa đám và chôn cất: đưa đám - đưa linh cữu đến tận chỗ chôn. Đoàn
tống táng được bố trí như một đám rước, với các nghi trượng: nhà táng,
phường bát âm, đối trướng, gậy chống của con trai (nếu là đưa đám cha mẹ),
bát cơm quả trứng. Các lễ thức sau khi chôn cất xong gồm: lễ thành phần, lễ
phản khốc và các lễ trọng sau:
      + Lễ ngu: lễ cúng ba ngày

      + Lễ cúng tuần thất thất : cúng 49 ngày (lễ tiết thuộc Phật giáo).

      + Lễ tốt khốc (thôi khóc): cúng 100 ngày (lễ tiết thuộc Nho giáo).

      + Lễ tiểu tường: lễ giỗ đầu (lễ tiết thuộc Nho giáo).

      + Lễ đại tường: hết tang (lễ tiết thuộc Nho giáo).
3. Một số nghi trượng trong lễ tang
 
      1/ Nhà táng: xưa để chôn đi cùng với người chết. Nhà táng có hai tác
dụng: để che đi cỗ linh cữu, tạo ấn tượng thẩm mỹ, tranh sự hãi hùng cho
người quan sát; làm vật chôn theo (hoá) để người chêt có nhà ở theo quan
niệm 'dương sao âm vậy'.
 
      2/ Phường bát âm: trong đám tang, phường bát âm có chức năng:
 
     - Tấu nhạc thờ khi nhập quan, nhất là về đêm khuya; miền Bắc thường có
kèm theo kể chuyện về công lao người đã chết theo giọng thập ân (kể 10 ơn
của cha mẹ).

    - Tấu nhạc mỗi khi có người đến phúng viếng.


 
      3/ Đối trướng: những tấm vải màu đỏ trên viết những câu đối (đối) hay 4
hoặc 5 chữ Hán to (trướng) tỏ lòng thương tiếc người quá cố. Đối trướng
phần lớn do khách hay bà con thân thuộc phúng viếng với ý nghĩa là biểu
tượng của sự chia buồn, mặt khác cũng làm vơi nhẹ đi sự nặng nề của tang
tóc.
 
      4/ Gậy chống của con trai: gậy tang dùng cho hạng đại tang - tang cha
mẹ, với nghi thức chống là cha đưa mẹ đón.
 
     5/ Bát cơm quả trứng: bát cơm quả trứng (kèm đôi đũa bông) được dùng
trong cúng cơm hàng ngày, khi mới mất cũng như hết tuần 49. Những thứ
này một mặt là biểu tượng của sự phồn sinh, mặt khác còn là sự biểu thị
người chết đi vào một sự sống khác.
 
    Tóm lại, lễ tang là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người sống với người
chết, nói khác đi là thái độ của người ta trước một hiện tượng tự nhiên là sự
chết, là sự chống trả của con người với tự nhiên. Và những ứng xử trong lễ
tang của người Việt là sự hỗn dung ảnh hưởng của ba tôn giáo: Nho, Phật,
Đạo với tín ngưỡng dân tộc là đạo Tổ tiên.
Bài 10. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI

    Việt Nam từ khi lập nước, tiền thân là các quốc gia Văn lang, Âu Lạc, thì
ngày nay các nhà nghiên cứu còn nhận thấy các dấu hiệu là cư dân các quốc
gia đó mang những sắc thái tộc người khác nhau. Trên các di vật của văn
hoá Đông Sơn, đặc biệt là trên trống đồng Đông Sơn, người ta nhận thấy
sự khác biệt về các hình thức trang trí, cách thức ăn mặc, trang sức, các
kiểu tết tóc, búi tóc của người phụ nữ... Cộng đồng của người Việt cổ
(Lạc Việt), chủ nhân văn hoa Đông Sơn, rất có thể là tổ tiên xã xưa của
các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me, Việt - Mường, Tày - Thái sau
này.
    Sau công nguyên, nhất là thời kỳ phong kiến tự chủ (thế kỷ X - XIX)
cùng với sự củng cố và mở rộng cương vực về phí Nam, nhiều tộc người
đã gia nhập vào thành phần các đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Ở
miền núi phía Bắc, ngoài các tộc người bản địa sinh sống lâu đời, thì
càng ngày càng có nhiều nhóm tộc người có nguồn gốc từ phương Bắc đến
định cư sinh sống, đó là các dân tộc: Dao, Mông, Hoa, Cờ Lao, Sán Chay, Lô
Lô, Hà Nhì, Gáy, Ngái, Nùng... đến nước ta vào những thời kỳ khác nhau.
Các tộc kể trên thường không cư trú theo khu vực riêng mà sinh sống xen cài
với các tộc người đã ở từ trước, tạo nên bức tranh tộc người và văn hoá hết
sức đa dạng. 
    Ở phía Nam, cùng với quá trình Nam tiến và mở rộng bờ cõi của quốc gia
Đại Việt, dần từ thời nhà Lý đến nhà Nguyễn, cương vực Việt đã mở rộng
dần từ sông Gianh đến Nam Bộ ngày nay. Thực tế là quá trình thực dân / đi
tìm đất sinh sống của người Việt và sự mở rộng quốc gia của các triều đại
Đại Việt tuy cùng hướng nhưng không phải là một, mà thường là người Việt
di cư đến tìm đất trước, sau đó nhà nước phong kiến mới 'hợp thức hoá' về
cương vực quốc gia sau. Quá trình này cũng đã tạo điều kiện cho các tộc
người phía Nam gia nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trước hết là
người Chăm, Khơ Me, các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở Trường
Sơn (Bru - Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Hrê...) và sau cùng là các tộc ở Tây
Nguyên: Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Ê Đê, Mnông, Mạ, Xtiêng...).
    Như thế, cho tới nay, trải qua quá trình mấy ngàn năm dựng nước và giữ
nước, cùng với việc củng cố và mở rộng cương vực quốc gia, thì thành phần
tộc người của cư dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày một đa dạng.
Theo thống kê thành phần tộc người thì nước ta có 54 dân tộc / tộc người với
những sắc thái và bản sắc văn hoá dân tộc hết sức đa dạng. Vậy các sắc thái
tộc người được thể hiện như thế nào?
    Sắc thái văn hoá tộc người được thể hiện trên ba cấp độ:
    1/ Văn hoá nhóm ngôn ngữ tộc người.

    2/ Văn hoá tộc người .

    3/ Văn hoá nhóm địa phương tộc người.

    I. VĂN HOÁ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI          

Từ góc độ tộc người, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận đinh Việt Nam như một Đông
Nam Á thu nhỏ. Điều này hàm nghĩa: Ở Việt Nam có gần như đầy đủ các tộc người
đại diện cho các nhóm ngôn ngữ - tộc người lớn của Đông Nam Á như: Môn - Khơ
Me, Tày - Thái, Việt - Mường, Mông - Dao, Nam Đảo, Hán, Tạng - Miến.

     Việc phân chia các tộc người vào các nhóm ngôn ngữ cơ bản dựa vào cứ liệu ngôn
ngữ và để nghiên cứu mối quan hệ về nguồn gốc và mối quan hệ ngôn ngữ. Tuy
nhiên, ngôn ngữ cũng là một bộ phận văn hoá tộc người, nếu không muốn nói là bộ
phận rất quan trọng. Mặt nữa, từ mối quan hệ nguồn gốc ngôn ngữ, cũng tạo nên
những tương đồng về đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của các tộc
người trong một nhóm ngôn ngữ tộc người ấy.
 
    Những nét cơ bản nhất về đặc trưng văn hoá, cuộc sống, tinh thần và tập quán xã
hội của từng nhóm văn hoá - ngôn ngữ tộc người, được trình bày dưới đây.
1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt - Mường
    - Nhóm Việt - Mường là nhóm ngôn ngữ tộc người lớn nhất của nước ta, gồm các
dân tộc: Việt, Mường, Thổ, Chứt. Dân tộc Chứt sống ở miền núi Quảng Bình; dân tộc
Kinh sinh sống tập trung ở đồng bằng châu thổ các dòng sông lớn từ Bắc tới Nam, ở
các thành phố lớn, thị xã, thị trấn, thị tứ và các trục đường giao thông trên mọi miền
của Tổ quốc; dân tộc Mường sống tập trung ở tỉnh hoà Bình, Thanh Hoá, rải rác ở Sơn
La, Phú Thọ và Hà Tây; dân tộc Thổ sống tập trung ở miền núi Nghệ An.
 
    - Hoạt động kinh tế: Người Chứt và người Thổ sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy;
nguời Mường sống chủ yếu bằng nghề ruộng nước; người Việt sống hoàn toàn chủ
yếu bằng làm ruộng nước.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần
        + Tiếng Kinh (Việt) là tiếng phổ thông của cả nước, phát triển đến trình độ có
chữ viết - chữ gốc La tinh. Các dân tộc khác chưa có chữ.
 
        + Tín ngưỡng: tín ngưỡng đa thần, người Kinh ngoài tín ngưõng dân gia thì còn
chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Ở một số vùng, người Kinh
còn theo đạo Ki tô (Christian).
 
        + Lễ hội: phong phú. Người Kinh có lễ hội làng, lễ hội vùng và cả dân tộc.
 
        + Văn nghệ dân gian: các dân tộc nhóm Việt - Mường có kho tàng truyện cổ tích,
dân ca, ca dao, tục ngữ phong phú. Riêng dân tộc Mường có cuốn ’Mo - sử thi dân tộc
Mường’ được đánh giá là di sản vô giá của dân tộc Mường nói riêng và của văn hoá
Việt Nam nói chung.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình của các dân tộc nhóm văn hoá - ngôn ngữ Việt -
Mường là gia đình phụ quyền.
2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn - Khơ Me. 
 
    - Gồm 21 dân tộc: Khơ Me, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, Co, Mnông, Xtiêng, Bru
- Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Gié Triêng, Brâu, Rơ Măm, Mạ, Mảng, Chơ Ro, Khơ Mú,
Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu. Đây là các nhóm bản địa ở Việt Nam và Đông Dương. Ở
Việt Nam, các tộc người nhóm này cư trú tập trung nhất ở đồng bằng sông Cửu Long,
miền núi Đông Nam Bộ, các tỉnh Tây Nguyên, dọc Trường Sơn và một số ít ở Tây
Bắc.
 
    - Hoạt động kinh tế, trừ người Khơ Me là ruộng nước và chài lưới, các tộc người
còn lại chủ yếu sống bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nương.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng / văn hoá tinh thần
 
        + Tiếng nói của một số dân tộc đã có chữ viết: người Khơ Me có văn tự cổ gốc
Sanscrit. Một số dân tộc ở Tây Nguyên như Ba Na, Mnông, Cơ Ho, Mạ đã có chữ viết
nhưng là chữ do người Pháp xây dựng, trên cơ sở chữ cái La tinh.
 
        + Tín ngưỡng tôn giáo: rất đa dạng. Người Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long
chủ yếu theo đạo Phật. Người Khơ Me có tục lệ là nam thanh niên được coi là người
lớn khi đã tu ở chùa từ một đến ba năm. Trong thời gian tu, người đi tu được học chữ,
học giáo lý của Phật, học lao động sản xuất.
 
    Các dân tộc nhóm Môn - Khơ Me có tín ngưỡng đa thần. Giàng là tên gọi chung để
chỉ các vị thần. Đó là các thần núi, thần sông, thần lửa, thần bến nước... Những hoạt
động mở đầu năm sản xuất đều phải báo và xin phép Giàng mới được thực hiện.
 
        + Lễ hội: có nhiều lễ hội gắn với hoạt động sản xuất, sinh hoạt tôn giáo tín
ngưỡng. Cư dân Môn - Khơ Me ở Nam Bộ có các ngày lễ Chon chnam thmay - đón
năm mới, lễ Óc bom bóc - cúng trăng, lễ Vi sa ka ban chia - lễ Phật đản...
 
    Các lễ hội nổi tiếng ở Tây Nguyên là lễ hội bỏ mả (Pơ thi), lễ cúng Giàng, trong lễ
cúng Giàng có tục đâm trâu mang ý nghĩa hiến sinh; có cả lễ hội mang tư tưởng phồn
thực như lễ mở đầu mùa gieo hạt trên nương rẫy của người Khơ Mú.
 
         + Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc nhóm Môn - Khơ Me đồ sộ, phong
phú về thể loại lẫn chất lượng. Về dân ca đã có hàng chục làn điệu khác nhau; nhạc cụ
dân gian Tây Nguyên rất độc đáo; già làng Tây Nguyên hay kể Khan / sử thi cho con
cháu nghe ở nhà Rông. Một số dân tộc có bộ luật tục đồ sộ. Các dân tộc ở Tây
Nguyên có tập quán làm tượng nhà mồ nhằm thể hiện tình cảm của người sống với
người đã chết.
 
        + Văn hoá xã hội: các dân tộc có tập quán hôn nhân một vợ một chồng, cư trú
bên nhà chồng là chính. Tuy nhiên có một số dân tộc lại có tục cặp vợ chồng luân
phiên cư trú ở hai bên với ý giúp cho bố mẹ mỗi bên một thời gian, như các dân tộc:
Xơ Đăng, Xtiêng, Brâu.
 
3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày - Thái 
 
    - Đây là nhóm ngôn ngữ lớn ở Đông Nam Á và Trung Quốc, có vai trò quan trọng
trong tiến trình lịch sử và văn hoá của khu vực. Ở Việt Nam gồm có các dân tộc: Thái,
Tày, Bố Y, Lào, Lự, Nùng, Giáy, Sán Chay, cư trú ở các
tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, dọc biên giới Việt - Trung và
Việt - Lào.
 
    - Nghề nghiệp chính của cư dân Tày - Thái là làm
ruộng nước ở các thung lũng và trồng trọt cạn trên các
sườn đồi.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
 
        + Tiếng nói của người Thái đã phát triển đến trình độ có chữ viết (chữ Phạn Ấn
Độ). Tiếng Thái còn là tiếng phổ thông của miền Tây Bắc và miền núi Thanh Hoá,
Nghệ An. Tiếng Tày, Nùng - tiếng phổ thông của Việt Bắc, vốn cũng có chữ viết gốc
từ chữ Hán và được các trí thức dân tộc Tày - Nùng hoá thành Nôm Tày, Nôm Nùng,
trước khi có bộ chữ Tày, Nùng La tinh do nhà nước xây dựng năm 1961.
 
        + Tín ngưỡng cư dân nhóm Tày - Thái là tín ngưỡng đa thần, trọng tâm là thờ tổ
tiên. Người Thái, Tày, Nùng còn chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật
giáo.
 
        + Cư dân Việt Bắc và Tây Bắc có nhiều ngày lễ hội được tổ chức tưng bừng: lễ
hội hang Bua (Nghệ An), lễ Xên bản, Xên mường ở Tây Bắc, lễ hội Lùng tùng ở Việt
Bắc...
 
        + Kho tàng văn hoá dân gian của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái rất
phong phú và đa dạng, phổ biến là các loại hình truyền thuyết, truyện cổ, ca dao, tục
ngữ, thành ngữ, truyện thơ. Nhiều thể loại văn học dân gian đã được biên soạn, ấn
hành như Nam Kim Thị Đan, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Sóng chụ xon xao,
Khun Lú nàng Ủa... Các làn điệu dân ca đặc trưng là hát Sli (Tày) và hát Lượn
(Nùng), là những nét văn hoá độc đáo của vùng Tây Bắc và Việt Bắc.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc nhóm Tày - Thái là gia đình phụ quyền.
Trong tục cưới xin, người Thái có nét khác so với các dân tộc khác, đó là có tục cưới
hai lần. Cưới lần đầu là để ở rể, cưới lần thứ hai mới được đưa vợ con về bên nhà
chồng và làm nhà ở riêng.
 
4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông - Dao 
 
    - Nhóm này gồm các dân tộc: Mông, Dao và Pà Thẻn, có nguồn gốc phương Bắc.
Cư dân sống ở vùng cao Việt Bắc và Tây Bắc, chủ
yếu ở các tỉnh biên giới Việt - Trung và Việt - Lào.
    - Hoạt đồng kinh tế: nghề nghiệp chính của cư
dân Mông - Dao là trồng trọt cây lương thực trên
khô cạn.
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh
thần:
        + Tiếng Mông được sử dụng rộng rãi trên
vùng cao. Người Mông, trước khi có chữ Mông La
tinh do nhà nước xây dựng, đã dùng chữ Hán để
ghi chép gia phả và sách cúng, văn tự, ruộng đất.
Người Dao, trước khi có chữ Dao La tinh, có chữ
Nôm Dao để ghi chép sách cúng và gia phả.
 
        + Tín ngưỡng của các dân tộc nhóm Mông - Dao là tín ngưỡng đa thần, trọng
tâm cũng là thờ tổ tiên. Tuy nhiên, biểu thị văn hoá thờ tổ tiên ở các dân tộc khác
nhau. Người Mông không đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà nhưng rất cơi trọng quan hệ
dòng họ. Người Dao thờ tổ tiên là Bàn Vương. Người Dao còn chịu ảnh hưởng của
đạo Nho và đạo Giáo (một biểu hiện ảnh hưởng của Đạo giáo). Trong những năm gần
đây, một số vùng đồng bào theo đạo Tin lành.
        + Lễ hội: các dân tộc mở nhiều lễ hội vào mùa xuân, thể hiện đậm nét đặc trưng
dân tộc. Người Mông có những lễ hội nổi tiếng như lễ Gầu Tào - lễ cầu tự và trả ơn
sau khi cầu tự đã có con, lễ Nào xồng - lễ cúng ăn thề bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ
mùa màng và bảo vệ trị an trong bản làng. Người Dao, ngoài lễ hội Bàn Vương là lễ
lớn nhất, được tổ chức hàng năm với nghi lễ trang nghiêm và ý thức sâu sắc về cội
nguồn tổ tiên, còn có lễ /tục Cấp sắc cho nam thanh niên đến tuổi thành niên và còn là
lễ cấp đèn cho làm thầy cúng, và lễ Nhàng chầm đao / nhảy chầm đao mà thực chất là
ngày hội của nam thanh niên rèn luyện võ nghệ hàng năm, với vũ khí là dao bằng gỗ.
 
        + Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này rất đa dạng,
chủ yếu tập trung ở người Mông và người Dao. Đó là những bài ca văn vần phổ biến;
những bài ca dân ca trữ tình cũng như những tiếng hát than thân trách phận, phận làm
dâu khổ sở, phận mồ côi nghèo đói. Dân tộc Mông có những nhạc cụ độc đáo là khèn
bè, khèn lá, đàn môi, đặc biệt là sáo mông - một biểu tượng tình cảm của tình yêu đôi
lứa... Người Dao có điệu hát dân ca ’Páo dung’ là nức lòng các chàng trai, cô gái.
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao là gia đình
phụ hệ nhỏ. Quan niệm dòng họ của người Mông và người Dao rất sâu sắc. Đặc trưng
quan hệ dòng họ của người Mông là ’cùng họ cùng ma’. Người Dao trong quan hệ
dòng họ cũng rất được quan tâm. Họ dùng hệ thống tên đệm giữ họ và tên để phân
biệt vai vế, thế hệ giữ những người cùng họ.

Trong hôn lễ, người Mông và người Dao có tục đón dâu độc đáo. Người Mông có tục
đón dâu là trước khi cô dâu bước qua ngưỡng cửa vào nhà chồng, bà mẹ chồng cầm
chân gà cào cào vào lưng cô dâu. Còn người Dao có tục cô dâu phải rửa chân trước
khi bước vào nhà chồng. Hai hiện tượng khác nhau nhưng cùng chung một ý nghĩa,
đó là động tác tách ma nhà cô dâu ra khỏi cô dâu và để cho ma nhà chồng quản lý cô
dâu mới.
5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo 
 
    - Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo gồm các
tộc: Chăm, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai, Chu Ru, sống tập
trung ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
 
    - Hoạt động kinh tế: Bộ phận sống ở đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ là ruộng
và đánh cá, bộ phận sống ở miền núi làm nương rẫy là chính.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng / văn hoá tinh thần: những giá trị về ngôn ngữ văn
hoá hình thành trong lịch sử của các dân tộc nhóm này một mặt gắn với lịch sử giao
lưu văn hoá, mặt khác còn gắn với bối cảnh môi sinh của đồng bào, rất đa dạng.
 
        + Tiếng nói của một người Chăm đã phát triển đến trình độ có chữ viết; tiếng Ê
Đê, Gia Rai là tiếng nói phổ thông của một vài khu vực.
 
        + Tín ngưỡng: các dân tộc thuộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này thờ cúng đã thần,
tin vào vạn vật hữu linh. Những vị thần có vị thế quan trọng trong đời sống tâm linh
của đồng bào, thường xuyên phải cúng bái để cầu xin sự bảo hộ trong các hoạt động
lớn là thần núi, thần sông, thần bến nước, thần lửa. Với người Chăm, tôn giáo ngự trị
trong đời sống của họ là đạo Hồi và một số ít theo đạo Bà Ni. Người dân rất đề cao nữ
thần. Vị thần sáng thế, Thánh Mẫu của người Chăm được họ sùng bái là Thần Mẹ Pô
Na gar.
 
        + Lễ hội: các dân tộc có nhiều lễ hội với các nội dung: lễ hội liên quan đến sản
xuất nông nghiệp, như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng
lúa ra đòng (người Chăm); lễ gieo hạt lúa, lễ thức tỉnh ruộng rẫy, lễ nhập thóc vào
kho... (dân tộc Ê Đê và Gia Rai). Bên cạnh lễ hội liên quan đến nông nghiệp, các dân
tộc cũng có những lễ hội tín ngưỡng văn hoá, đó là: lễ hội đua voi, lễ bỏ mả (Tây
Nguyên), lễ hội ka tê, lễ hội Tháp Bà (người Chăm).
 
        + Văn nghệ dân gian các dân tộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này thật phong phú và
đặc sắc. Người Ê Đê có sử thi bất hủ Đam San, người Gia Rai có sử thi Xinh Nhã.
Các dân tộc ở Tây Nguyên có những bộ luật tục bằng văn vần. Người Chăm có làn
điệu dân ca và nhạc dân gian thấm đượm sự tiếp nối chất văn hoá cổ truyền văn hoá
đạo Hồi. Những tháp Chàm và phong cách nghệ thuật tượng đá tròn là những di sản
nghệ thuật sống mãi của văn hoá Chăm, văn hoá Việt Nam và văn hoá nhân loại.
 
    Trên cao nguyên đó là những tượng nhà mồ làm bằng gỗ- biểu hiện tình cảm của
người sống với người đã khuất, gây nhiều ấn tượng sâu sắc cho các nhà nghiên cứu và
thưởng thức nghệ thuật dân tộc. Nhạc cụ của các dân tộc cũng khá đa dạng, độc đáo,
được chế tạo từ cây lồ ô. Trong số các loại nhạc cụ, có đàn đá Khánh Sơn / Thạch cầm
nổi tiếng trên thế giới.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc thuộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này là gia
đình mẫu hệ. Trong hôn nhân, các dân tộc Ê Đê và Gia Rai tồn tại tục nối nòi (nối
dây) tương đối phổ biến.
 
6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán
    - Thuộc nhóm ngôn ngữ này có các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu, có nguồn gốc Trung
Quốc, cư trú ở thành phố Hồ Chí Minh, các thị xã, thị trấn thuộc các tỉnh ven biên giới
Việt - Trung.
 
    - Hoạt động kinh tế: đa số cư dân làm nghề buôn bán (người Hoa), một số khác làm
ruộng rải rác ở các miền quê từ đồng bằng ven biển đến trungdu và miền núi.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
 
        + Các dân tộc thuộc nhóm này dùng chữ Hán (chữ Trung Quốc) làm văn tự cho
mình. Ở những nơi đông người Hoa đều có mở trường dạy Trung văn.
 
        + Tín ngưỡng: Thờ đa thần gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, trọng tâm là thờ
tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có công khai phá đất đai và tổ sư nghề
nghiệp. Người Hoa còn chịu ảnh hưởngmạnh của tư tưởng Khổng giáo, Đaoh giáo và
Phật giáo.
 
        + Lễ hội: Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hán có nhiều lễ tết đặc trưng dân tộc, phản
ánh những hoạt động sản xuất của đồng bào, như Tết Đoan ngọ (5/5 âm lịch) của
người Sán Dìu (là ngày đi hái thuốc nam để dành chữa bệnh trong năm), của người
Hoa ( là ngày lễ tết các ông tổ sư nghề nghiệp). Đặc trưng trong lễ hội của đồng bào là
thường tổ chức múa sư tử.
        + Văn nghệ dân gian của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hán rất đặc sắc, đáng chú ý
là những làn điệu dân ca mang tính đặc trưng dân tộc rõ nét. Người Hoa có hình thức
hát sơn ca ’Sán cố’, người Ngái có hát ’Sường cô’, đó là kiểu hát dân ca được thể hiện
trong các dịp lễ hội mùa xuân, trong đám cưới, trong các buổi hát giao duyên giữa trai
gái các bản làng với nhau. Nhạc cụ có tù và, kèn, sáo, thanh la.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc này là gia đình phụ hệ. Người Hoa dựng
vợ gả chồng chủ yếu theo nhóm địa phương (đồng hương - Quảng Châu, Triều Châu
chẳng hạn). Theo phong tục, cô dâu và chú rể phải ăn đủ 100 miếng trầu, có nhưvậy
vợ chồng mới sống ’bách niên giai lão’. Đối với hôn nhân của con gái, ông cậu có vai
trò quan trọng.
 
    Các dân tộc nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán tuy có nguồn gốc Trung Hoa nhưng di cư
sang Việt Nam đã số vào thời kỳ nhà Minh suy đồi và nhà Thanh cầm quyền, đã được
coi là các dân tộc thiểu số của Việt Nam, được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ như
các dân tộc thiểu số khác. Bản sắc văn hoá dân tộc của họ được tôn trọng, giữ gìn và
phát huy.
7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng - Miến
    Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các dân tộc: hà Nì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống và
Si La, sinh sống dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào, thuộc các tỉnh Cao
Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La. 
 
    - Hoạt động kinh tế: cư dân sống bằng nghề phát nương làm rẫy, trồng luá nương là
chính. Ngoài ra, việc thu hái lượm lâm thổ sản có vai trò quan trọng trong cuộc sống
của đồng bào.
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
 
        + Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này thường dùng tiếng Mông, tiếng Thái
làm ngôn ngữ giao tiếp xã hội. Tiếng nói chưa phát triển đến chữ viết. Để có văn tự
ghi chép sách cúng và gia phả, trước đây đồng bào sử dụng chữ Hán, ngày nay là chữ
quốc ngữ.
 
        + Tín ngưỡng: tín ngưỡng của đồng bào là tín ngưỡng đa thần, tin vào vạn vật
hữu linh, rất tôn thờ các hiện tượng tự nhiên, với quan niệm các hiện tượng tự nhien
đều có hồn. Người La Hủ quan niệm trong mỗi con người có 12 linh hồn, một hồn
chính ở trong bếp của nhà, một hồn trú ngụ trong người, còn mưòi hồn kia nhập vào
các hiện tượng tự nhiên. Người Lô Lô thờ thần Kết Dơ - vị thần cai quản vũ trụ bao
la, tạo ra con người, và thần Mít Dơ là thần cai quản mặt đất, che chở cho con người.
Trong nhà đồng bào thờ cúng tổ tiên.
 
        + Lễ hội: lễ hội của các dân tộc nhóm ngôn ngữ này rất đa dạng và phong phú.
Người La Hủ tổ chức ăn tế, lễ hội mừng mùa màng sau khi thu hoạch xong ngô, lúa.
Trong lễ hội của người La Hủ không bao giời thiếu các điệu múa khèn và hát dân ca.
Trước kia, người Si La,người Hà Nhì, người La Hủ tổ chức cúng bản vào cuối tháng
giêng, tháng hai. Đồng bào có phong tục cứ 7 năm lại tổ chức cúng gọi hồn lúa.
 
        + Văn nghệ dân gian: các dân tộc nhóm Tạng - Miến có kho tàng văn hoá dân
gian phong phú. Người Lô Lô có các đặc sản văn nghệ nổi tiếng là trống đồng và các
điệu đánh trống đồng, các làn điệu dân ca, dân vũ đặc sắc gắn với nội dung sinh hoạt
cũng như nghi lễ (đám tang, đám cưới). Người Cống có làn điệu dân ca được hát vào
dịp tháng năm, là dịp vui chung của cả bản, trong đó có bài dân ca tiễn con gái về nhà
chồng của rất đặc sắc, chứa đựng tâm hồn văn học sâu sắc. Người Si La có nhiều thể
loại dân ca, tình ca, sử ca, gồm nhiều bài hát kể về sự tích ngày xưa của dân tộc.
Người Phù Lá có nhiều truyện cổ đặc sắc ca ngợi tình đoàn kết dân tộc, đấu tranh
chống bạo tàn. Người Hà Nhì có các trường ca - Đất người Hà Nhì, Đời sống người
Hà Nhì, và các truyện thơ dài về đám cưới, là những áng thơ rất đặc sắc.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này là gia đình phụ
hệ. Theo tục lệ, sau khi kết hôn, người vợ phải đổi họ sang tên họ của nhà chồng.
Người La Hủ cũng có tục ở rể có thời hạn. Hết hạn ở rể, luác đón dâu về, người mẹ
chồng ra cửa đón và lấy một nắm gạo xoa lên lưng cô dâu, sau đó, cô dâu dùng tay
phải, chú rể dùng tay trái bứt đứt sợi chỉ tráng dăng ngang trước cửa từ trước, rồi cùng
nhau bước vào nhà. Dân tộc Cống có tục đón dâu cũng khá độc đáo là dì của chú rể
phải vào buồng cõng cô dâu ra. Một vài dân tộc có tục anh trai chết, em trai lấy chị
dâu làm vợ.
8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai
    - Nhóm văn hoá ngôn ngữ này gồm các dân tộc: Cờ Lao, La Chí, La Ha và Pu Péo,
nói ngôn ngữ gần với ngôn ngữ Tày - Thái. Các dân tộc này đều sống ở vùng cao Việt
Bắc và Tây Bắc. Dân tộc nào cũng có dân số ít.
 
    - Hoạt động kinh tế: nguồn sống chính của cư dân là làm ruộng bậc thang, nương
trồng ngô hoặc lúa cạn, và trồng lúa nước.
 
    - Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
        + Tiếng nói của các dân tộc trên chỉ dùng trong giao tiếp gia đình và nội bộ tộc
người. Trong giao tiếp xã hội rộng hơn, họ dùng tiếng phổ thông trong vùng. Tiếng
nói của các dân tộc này chưa có chữ viết.
 
        + Tín ngưỡng: các dân tộc có tín ngưõng đa thần, đặc biệt sùng bái các thần tự
nhiên, như thần núi, thần sông, thần rừng già thần mô đất, thần tảng đá, thần nương
rẫy... Thờ tổ tiên là phổ biến. Người Pu Péo quan niệm trên trời và dưói đất đều có
người. Người trên trời đeo dao gỗ vào cổ, người đươi đất đeo dao gỗ vào kheo chân.
 
        + Lễ hội: rất đa dạng, tổ chức hàng năm vào dịp hoa ban nở. Vào dịp này, người
La Ha tổ chức lễ mừng xuân. trong dịp lễ tế, người Pu Péo tổ chức lễ Pạt Ong (ép
nước để mở đầu vụ sản xuất).
 
        + Văn nghệ dân gian: khá phong phú. Người La Chí có làn điệu dân ca nổi tiếng
- Ni Ca, có truyện kể về nguồn gốc loài người, nguồn gốc cộng đồng. Nhạc cụ có đàn
tính, đàn lá, trống chiêng. Người Pu Péo có chuyện kể về nạn đại hồng thuỷ, quả bầu
mẹ, có kho tàng tục ngữ khá phong phú. Người la Ha cũng có vốn văn nghệ dân gian
quý giá, nhưng được thể hiện chủ yếu bằng tiếng Thái.
 
        + Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc này là gia đình phụ hệ. Người Cờ Lao,
người Pu Péo trong hôn nhân không lấy người cùng họ. Người phụ nữ La Ha thì sau
khi lập gia đình phải đổi họ theo gia đình nhà chồng. Nếu chồng chêt, người vợ goá
không được trở lại nhà bố mẹ đẻ mà phải ở lại với con tria lớn hoặc với họ hàng nhà
chồng, hoặc đi bước nữa.
 
    Tục đón dâu của các dân tộc ít người này cũng khá độc đáo. Với người Pu Péo,
trong bữa cơm trình báo tổ tiên để đón dâu, rể mới, cả nhà phải ăn bốc, cơm và thức
ăn đựng trên một cái nong. Ở người Cờ Lao, bên cạnh việc cưới theo nghi lễ chính
thức còn có tục ’kéo vợ’. Người Cờ Lao xanh trong ngày cưới, chú rể mặc áo xanh,
quấn khăn đỏ qua người, cô dâu khi vào đến cổng nhà trai phải búi tóc ngược trên
đỉnh đầu và phải giẫm vỡ một cái bát, một cái muôi (vá) gỗ mà nhà trai đã để sẵn ở đó
mới được vào cổng.
 
    Như vậy, từ góc độ các nhóm lớn ngôn ngữ tộc người, Việt Nam đã phần nào thể
hiện được tính đa dạng của cả khu vực Đông Nam Á, như là một Đông Nam Á thu
nhỏ.
Bài 11. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG / KHÔNG GIAN VĂN HOÁ
VIỆT NAM
 
      Văn hoá Việt Nam không chỉ giàu có về sắc thái văn hoá tộc người, mà còn giàu
có cả về sắc thái địa phương nữa.
    Nghiên cứu vấn đề sắc thái văn hoá địa phương, các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận
từ góc độ lý thuyết vùng văn hoá.
 
    Theo kết quả nghiên cứu hiện nay, nước ta có 6 vùng văn hoá.
 
        - Vùng văn hoá Việt Bắc.

        - Vùng văn hoá Tây Bắc.

        - Vùng văn hoá đồng bằng / châu thổ Bắc Bộ.

        - Vùng văn hoá Trung Bộ.

        - Vùng văn hoá Tây Nguyên.

        - Vùng văn hoá Nam Bộ.

I. VÙNG VĂN HOÁ VIỆT BẮC    


   
Vùng văn hoá Việt Bắc gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Đây là vùng
rừng núi, có biên giới quốc gia với Trung Quốc, cùng là nơi cư
trú tập trung của các dân tộc Tày - Nùng.
 
    Địa hình Việt Bắc có những dãy núi lớn hình cánh cung như
Ngân Sơn, Bắc sơn, Đông Triều, có cả những ngọn núi cao như
Phja Bjoóc (Bắc Kạn), Tây Côn Lĩnh (Hà Giang), rừng núi có nhiều gỗ quý và các
loại động vật khác nhau; có những cánh đồng lòng chảo như cánh đồng Nước Hai
(Cao Bằng), Thất Khê (Lạng Sơn) và nhũng thung lũng ven các sông lớn nhỏ trong
vùng; có những dòng sông đi vào lịch sử, thơ văn như sông Lô, sông Gâm, sông Cầu,
sông Bằng, sông Kỳ Cùng; có hồ Ba bể rất lớn và nổi tiếng cả nước, đi vào huyền
thoại. Khí hậu vùng Việt Bắc có thể chia thành hai vùng: vùng thấp - nhiệt đới và
vùng cao - ôn đới. Việt Bắc cũng là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông
bắc, nên mùa đông ở đây rất lạnh.
 
    Vùng văn hoá Việt Bắc có những di tích lịch sử nổi tiếng như Pác Bó, Tân Trào,
Kim Bình, Định Hoá... và những danh thắng như Ba Bể, Mẫu Sơn, Tam Thanh...
 
    Cư dân sống ở vùng Việt Bắc chủ yếu là người Tày và người Nùng. Đây cũng là
hai dân tộc đã gắn bó với vùng này từ lâu đời. Do đó có thể nói, vùng văn hoá Việt
Bắc là vùng văn hoá Tày - Nùng. Điều này đã được hình thành từ lâu trong lịch sử.
Ngoài ra, vùng này còn là nơi sinh sống của các dân tộc khác có dân số ít hơn cư dân
Tày - Nùng, như Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chay...

Vốn xa xưa người Tày và người Nùng cùng nguồn gốc. Người Tày còn có tên là ’cần
slửa khao’ - người áo trắng; người Nùng được gọi là ’cần slửa đăm’ - người áo đen.
 
    Dân tộc Tày - Nùng, từ buổi bình minh của xã hội văn minh nước ta, đã hướng về
văn minh châu thổ sông Hồng cùng cư dân Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc. Và
suốt quá trình lịch sử sau này, cư dân Việt Bắc mà chủ yếu là cư dân Tày - Nùng đã
gắn bó số phận của mình với nhà nước phong kiến Việt Nam. Mặt khác, các triều đại
phong kiến Việt Nam cũng rất có ý thức củng cố quan hệ này.

Các yếu tố địa - văn hoá nêu trên đã hình thành nên văn hoá vùng Việt Bắc, với những
sắc thái riêng biệt, thể hiện trong các lĩnh vực sau:
1. Hoạt động kinh tế: 
    Cư dân Việt bắc sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng
nước và chăn nuôi gia súc. Các vùng lòng chảo, các
thung lũng là nơi được đồng bào khai khẩn. Các dòng
sông suối thì được tận dụng, đắp đập, đào mương dẫn
nước vào ruộng, hoặc làm những cọn nước đưa nước từ
lòng sông lên cao tới hàng chục mét để lấy nước tưới
ruộng. Người Tày - Nùng ở Việt Bắc còn trồng nhiều cây
công nghiệp và cây ăn quả trên các sườn đồi, như cây
hồi, cây bông, cây quýt, cây hồng, cây nhãn, cây vải.... Ngoài ra ngành thủ công dệt,
đan lát, rèn, gốm, mộc cũng phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật.
 
    Trong việc canh tác kiếm sống, người Việt Bắc vừa phát triển theo hướng phát triển
văn hoá nước (làm ruộng nước, cọn nước, đào ao, đắp ruộng, đắp đập...), vừa phát
triển văn hoá khô cạn (làm nương trồng cây ăn quả, cây công nghiệp trên các núi đồi),
tạo thành dấu nối giữa miền xuôi và miền ngược. Trong cuộc sống của đồng bào, kinh
tế hái lượm săn bắn có vị trí quan trọng.
2. Đơn vị xã hội: 
    Người Tày - Nùng cư trú thành bản. Bản dựa vào sườn đồi, núi để tiện cho sản
xuất. Ruộng ở phía trước bản, sau bản là nương hoặc rừng cây công nghiệp, cây ăn
quả. Mỗi bản có miếu thờ Thổ công. Bản là đơn vị xã hội cơ sở của người Tày -
Nùng, có đủ các mối quan hệ xã hội, kinh tế, văn hoá.
3. Đời sống vật chất: 
    Người Tày - Nùng chủ yếu ở bằng nhà sàn. Bộ quần áo được may bằng vải bông,
do chính cư dân tự sản xuất ở tất cả các khâu. Màu truyền thống của bộ quần áo là
màu chàm, màu được gắn với truyền thuyết về lòng chung thuỷ trong tình yêu đôi lứa.
Bộ quàn áo của đàn ông gồm áo ngắn xẻ ngực, cài cúc và quần chân què. còn phụ nữ
Tày - Nùng mặc áo 5 thân, cài cúc dưới nách phải, áo dài đủ để chùm hết thân người,
mặc quần, đầu đội khăn chít mỏ quạ, thắt lưng vải. Trang sức có khuyên tai, vòng cổ,
vòng chân, vòng tay, xà tích. Chất liệu trang sức bằng bạc, vừa đẹp, vừa có tác dụng
kỵ gió.

Người tày - Nùng ăn cơm rau là chính, thịt cá thuờng chỉ dùng khi đãi khách quý hoặc
vào các dịp lễ, tết, hội... các món ăn thường xào, rất ít luộc, dùng gạo nếp để làm xôi,
bánh cúng và ăn. Ăn ngày ba bữa. Uống rượu rất phổ biến.
4. Sinh hoạt tinh thần:
    - Tiếng Tày - Nùng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái. Trong lịch sử, tiếng Tày - Nùng đã
phát triển đến chữ viết. Từ thời cổ đại đã xuất hiện chữ Nôm Tày - Nôm Nùng trên cơ
sở cải tiến chữ Hán, sau này xuất hiện chữ La tinh.
 
    - Tín ngưỡng của người Tày - Nùng chủ yếu thờ tổ tiên, thờ cúng đa thần và chịu
ảnh hưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Người ta tin vào thần linh thổ địa,
thần núi, thần sông, thần đất, thần nước, tin vào số mệnh. Ảnh hưởng của Khổng giáo
thể hiện trong nếp sống và quan hệ tôn ti, trật tự thành viên trong gia đình cũng như
quan hệ xóm giềng. Ảnh hưởng của Đạo giáo thể hiện ở việc cúng bắt tà ma, trừ quỷ
của những người hành nghề cúng bái như mo, then, tào, pựt.
Người Tày - Nùng quan niệm có con ma ác ’pji mằn lằn’
chuyên làm hại người
    - Văn học dân gian của cư dân Tày - Nùng rất đa dạng,
phong phú, nổi bật là các làn điệu dân ca như Sli, lựon; truyện
thơ dài hàng trăm câu và các bài cúng, ngoài ra còn có đồng
dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố... Lễ hội của đồng bào nổi
tiếng là hội lùng tùng (hay lồng tồng). Hội lùng tùng thể hiện
nét sinh hoạt văn hoá tinh thần mang tính cộng đồng sâu sắc của bản, vùng. Sinh hoạt
văn hoá trong các lễ hội có ném còn, đánh quay, đánh yến, trình diễn võ thuật, làm ảo
thuật... Người Tày - Nùng cũng có nền y học dân gian truyền thống quý giá, chữa
được một số bệnh nan y.
5. Quan hệ xã hội: 
    Đứng đầu thiết chế cổ truyền của bản là già làng. Đó là người hiểu biết về lệ làng,
phép nước, có đức, có tài để ứng xử, xử lý tốt các mối quan hệ. Tổ chức xã hội trên
làng là nước (gọi là Mường). Gia đình người Tày - Nùng là gia đình phụ hệ. Con trai
có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ. Con gái đi lấy chồng có thể mang theo của hồi
môn nhưng không phải là bất động sản. Trong cưới hỏi, người Tày - Nùng tin vào số.
Số hợp mới lấy nhau, số không hợp thì không được lấy. Phải chọn ngày lành tháng tốt
tổ chức đám cưới. Nam nữ được tự do tìm hiểu, yêu thương nhưng lễ dẫn cưới phải có
sự đồng ý của bố mẹ đôi bên. Ông mối có vai trò quan trọng từ khi dạm hỏi đến khi tổ
chức xong lễ cưới. Theo phong tục, sau khi cưới xong, ông bà mối trở thành bố mẹ
nuôi của cô dâu. Người Tày - Nùng có tục nhận nuôi con nuôi. Con nuôi cũng có
nghĩa vụ với bố mẹ nuôi như bố mẹ đẻ, ngượic lại, bố mẹ nuôi cũng quan tâm con
nuôi như con đẻ của mình.
 
    Tang ma của người Tày - Nùng được tổ chức rất nghiêm túc, thể hiện những nghi
lễ, quan niệm liên quan đến tín ngưỡng dân gian. Trong lễ tang, lễ tế đưa linh hồn
người chết về với tổ tiên, thể hiện chữ hiếu của con cái đối với bố mẹ rất được đề cao.
 
   Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hoá gắn liền với gương mặt văn hoá của hai dân
tộc Tày, Nùng. Tuy có những nét riêng biệt, đặc thù nhưng không vì thế mà làm giảm
sự thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.

    II. VÙNG VĂN HOÁ TÂY BẮC     

Tây Bắc được ví là hòn ngọc của Tổ quốc, xứ sở của hoa ban, của Điện Biên
lịch sử, của các dân tộc Thái, Mông, Khơ Mú, Xinh Mun, Lào, Lựu, La Hủ,
Si La... Vùng văn hoá Tây Bắc bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, một phần
của Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái và miền núi Thanh Hoá, Nghệ An. Đây là
vùng có nhiều rừng núi trùng điệp nhất nước, có những ngọn núi cao nhât
nước như ngọn Phan xi phăng, cao 3142m, Yam Phình, cao 3096m, Pú
Luông, cao 2983m;Tây Bắc là nơi có những cao nguyên rộng lớn như cao
nguyên Mộc Châu, cao nguyên Tả Phình... và còn co những cánh đồng lòng
chảo nổi tiếng đi vào câu ca dân gian: nhất Thanh, nhì Lò, tam Tấc, tứ Than,
như là niềm tự hào của Tây Bắc. Tây Bắc cũng là nơi đầu nguồn của những
dòng sông lớn như sông Đà, sông Mã. Khí hậu Tây Bắc là khí hậu nhiệt đới
nhưng ở vùng cao ngả sang á nhiệt đới. Tây Bắc không chịu ảnh hưởng trực
tiếp của giáo lạnh thổi đến từ Đông bắc tới nhưng lại chịu ảnh hưởng trực
tiếp của những con gió nóng thổi từ phía Tây. Giao thông đi lại không mấy
thuận tiện. Tây Bắc có những địa danh lịch sử gắn với thời đại như Điện Biên
Phủ, có nhà máy thuỷ điện sông Đà, có Sa Pa với cảnh đẹp nổi tiếng.
 
    Tây Bắc được xem như là một ngôi nhà lớn có hai tầng: tầng một / vùng
thấp, là nơi cư trú chính của các dân tộc Thái, Lào, Lự, tuy nhiên, văn hoá
Thái được xem là gương mặt văn hoá vùng thấp Tây Bắc; và tầng hai/ vùng
cao, nơi cư trú của các dân tộc Mông, Dao, Hà Nhì, Si La, Khơ Mú, gương
mặt văn hoá tiêu biểu của vùng cao Tây Bắc chính là văn hoá Mông, Dao.
 
A. Vùng văn hoá tầng thấp Tây Bắc
1. Hoạt động kinh tế:
 
    Ở vùng thấp Tây Bắc, người Thái, Mường, Lào, sống bằng nghề làm ruộng
nước là chính. Ruộng được khai khẩn tư những thung lũng lòng chảo Mường
Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc (Phù Yên), Mường
Than (Than Uyên) và trong thung lũng các dòng sông. Giống lúa truyền
thống gần với lúa nếp. Kỹ thuật trồng lúa nước của người Thái đạt đến trình
độ cao. Hệ thống thuỷ nông mương, phai, lái, lịn, cọn nước được hình thành
từ lâu đời.
 
    Ngoài cây lúa nước, trên các sườn đồi, đồng bào còn trồng các loại ngô,
khoai, sắn, các loại đậu, đỗ, bầu, bí. Cây công nghiệp, cây ăn quả phổ biến là
cây bông và cây xoài. Nghề thủ công của người Thái nổi bật nhất là nghề dệt
vải và nghề đan lát. Họ tự túc vải đủ cho các nhu cầu làm quần áo, chăn, màn,
rèm... Người Thái chăn nuôi trâu bò làm sức kéo và ăn thịt; nuôi lợn, vịt, gà,
chó, cá ruộng, ngựa để vừa phục vụ cúng bái vừa làm thức ăn tiếp khách.
Theo tập quán, con gái Thái đi lấy chồng phai mang theo của hồi môn bắt
buộc là chăn, nệm, gối cho gia đình nhà chồng, vì thế, con gái Thái thường
rất giỏi thêu và biết thêu từ khi còn nhỏ tuổi. Người Thái cũng có nhiều kinh
nghiệm khai thác lâm thổ sản. Rau rừng, măng rừng tham gia vào bữa ăn
hàng ngày. Ở vùng Tây Bắc, việc trao đổi hàng hoá chưa có truyền thống. 
 
2. Đơn vị xã hội: 
 
    Người Thái cư trú thành bản. Bản của người Thái được dựng ở các chân
núi, sườn núi và cư trú theo kiểu mật tập. Các nhà trong bản thường được xây
dựng rất gần nhau, giữa các nhà chỉ có lối đi lại chứ không có vườn như nhà
cửa của các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Bắc. 
 
3. Đời sống vật chất: 
    Nhà cửa của người Thái được làm bằng gỗ, tre, nứa, lá. Trên đầu hồi nhà
Thái đen có ’’khau cút’’. Sàn nhà cao khoảng 1,6m. Hai phía đầu hồi đều có
cầu thang đi lên nhà gọi là chán (sàn) và quản. Khách quen, nam giới lên nhà
theo thang bên đầu quản; khách lạ và phụ nữthường đi thang bên chán vào
nhà.Việc bố trí chỗ ở trong nhà hết sức chặt chẽ. Tính từ đầu quản sang đầu
chán, dọc theo vách phía sau nhà là chỗ để thờ, chỗ ngủ của bố mẹ; chỗ ngủ
của con gái lớn và vợ chồng trẻ ở cuối dãy. Con trai lớn trước khi đi ở rể ngủ
ở quản. Giữa nhà, dọc theo đòn nóc có hai bếp. Bếp đun nước và sưởi đặt ở
đầu quản, đây cũng là khu vực tiếp khách nam giới. Bếp nấu cám lợn, nấu ăn,
đồ xôi đặ ở đầu chán. Xung quanh bếp này là chỗ tiếp khách nữ.
 
    Quần áo Thái may bằng vải bông, nhuộm màu chàm. Bộ trang phục của
nam giới đơn giản, có áo ngắn xẻ ngực, cài cúc và quần chân què. Bộ trang
phục phụ nữ có váy, xửa cỏm (áo), khăn piêu đội đầu. Xửa cỏm bó sát lấy
người, chiếc khăn piêu thêu hoa văn màu đỏ, làm tăng vẻ đẹp của người phụ
nữ. Đồng bào dùng nón lá tre để che nắng, che mưa.
 
    Người Thái có truyền thống ăn cơm nếp, rau. Người Thái có câu:
                  ’’Khảu, nặm dú năng đin

                   Cắm kin dú năng pá’’


    Nghĩa là:
                    ’’Cơm nước ở mặt đất

                    Thức ăn ở trong rừng’’.


    Cách chế biến đồ ăn thức uống của người Thái có những nét riêng biệt.
Cơm xôi đồ trên cái ninh, mỗi ngày đồ một lần ăn cả ngày. Rau xanh thường
ăn sống, chấm muối giã tỏi ớt; rau có nhiều chất chát, đắng. Người Thái cung
có nhiều cách chế biến thịt cá đậm tính dân tộc như món lạp, món nước chấm
’’nặm pạ’’, cá ăn gỏi, ăn nướng... Người Thái có tục uống rượu cần ’’lảu xá’’
và cả rượu chưng cất. Tục mời rượu rất nhiệt. 
 
4. Sinh hoạt tinh thần: 
    Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái, cùng hệ ngôn ngữ với tiếng Tày
- Nùng, gần với tiếng Lào và Thái Lan và là thứ tiếng phổ thông ở vùng thấp
Tây Bắc và miền núi của các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An. Tiếng
Thái đã phát triển đến trình độ có chữ viết.

Tín ngưỡng của người Thái thuộc tín ngưỡng nguyên thủy, tin vào đa thần,
coi mọi vật đều có linh hồn và có nhiều loại thần khác nhau. Đồng bào quan
niệm, con người có đến 80 hồn; 30 hồn đằng trước; 50 hồn đằng sau (xam
xếp khoăn mang nả, hả xíp khoăn mang lăng). Người chết là chết phần xác,
còn phần hồn về sống với tổ tiên.
 
    Người Thái có tầng lớp thầy cúng, chuyên cúng chữa bệnh cho người ốm,
mà theo quan niệm của Thái đó là đưa âm binh đi đánh đuổi tà ma, quỷ.
Người Thái coi con ’’phi phông’’ là con ma chuyên làm hại người.
 
    Người Thái có nhiều ngay lễ xên bản, xên mường để cầu mong trời đất,
thần linh phù hộ cho dân làm ăn thuận lợi, cầu cho mưa thuận gió hoà, sâu
bọ, dã thú không phá hoại mùa màng. Ngày lễ đã trở thành ngày hội với các
phần vui chơi tập thể như ném còn, múa tập thể. Con gái Thái vốn nổi tiếng
là múa dẻo và đẹp.
 
    Vốn văn nghệ dân gian của người Thái rất phong phú. Những truyện
truyền miệng lâu đời như sóng chụ son sao, Khun lú nàng ủa, trở thành
những di sản tinh thần sống mãi với lịch sử dân tộc. Làn điệu dân ca nổi tiếng
của người Thái là hát ’’khắp’’. Tiếng ’’khắp’’ luôn mượt mà, đầy tình nhân
ái, làm say đắm lòng người.
 
    Y học dân gian Thái cũng khá phát triển. Từ xưa, với các loại lá cây rừng,
người Thái đã tự bào chế, chữa được nhiều thứ bệnh thông thường. Họ đề cao
việc phòng ngừa bệnh tật, thể hiện rất rõ trong ăn uống. Họ thường uống
nước lã nhưng lại ít bị bệnh đuờng ruột, có lẽ do dùng nhiều chất chát, cay
trong bữa ăn.
 
    Đơn vị xã hội thấp nhất của người Thái là bản (làng). Trong bản có đủ các
mối quan hệ xã hội, kinh tế, văn hoá. Đứng đầu bản là trưởng bản. Gắn với
nhà nước là một hệ thống Phìa với chức năng quản lý bản. Tổ chức trên bản
là Mường. Đứng đầu Mường là Anha. Việc quản lý xã hội được thực hiện
theo luật tục.
 
    Gia đình người Thái là gia đình phụ hệ. Con trai trong gia đình được thừa
kế tài sản cố định, con gái đi lấy chồng
mang theo của hồi môn. Trong hôn
nhân, người Thái có tục ở rể có thời hạn.
Thông thường, sau khi tổ chức đám cưới,
chú rể phải đến ở rể nhà cô dâu từ đến 3
năm. Trong thời gian ở rể được cùng lao
động và hưởng thụ như mọi thành viên khác
trong gia đình bố mẹ vợ. Trong quan hệ gia
đình người Thái có mối quan hệ ba dòng họ
rất đáng quan tâm: ’’Ải nọng’’ - anh em họ nội, ’’Lúng ta’’ - anh em họ
ngoại, ’’Nhính xao’’ - anh em họ nội của gia đình chồng các chị em gái. Mối
quan hệ ba dòng họ một mặt có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống hàng
ngày, mặt khác và quan trọng hơn là phải có bổn phận giúp nhau trong những
công việc lớn của gia đình như việc cưới, tang, làm nhà mới.
 
    Tang ma của người Thái được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, nghiêm
túc theo những tục lệ hình thành từ lâu đời. Họ quan niệm, chết đi là sống ở
thế giới bên kia, nên người chết cũng được chia của như người sống. Người
Thái cũng có tục lam nhà mồ, nhà mồ đuợc làm ngay trên mộ của người
sống, là nhà sàn. trong nhà sàn có cả các dụng cụ sinh hoạt như chă, đệm,
cuốc, dao... thậm chí còn thả gà, lợn một cách tượng trưng (sau đó bắt lại
đem về). Người Thái vừa thực hiện thổ táng, vừa thực hiện hoả táng. Tục hoả
táng có lẽ do ảnh hưởng văn hoá Phật giáo.
 
    Người Thái rất chú ý đến việc dạy dỗ con cái. Công việc giáo hoá này
được thực hiện theo một quan niệm rất cụ thể và nhân văn. Họ có câu:
                              ’’Tặp lục tặp kẻn ta

                              Tặp ma tặp mậy cậy’’


         Có nghĩa:
                            ’’Đánh con đánh bằng mắt

                             Đánh chó đánh bằng gậy’’


    Con gái Thái theo làm nghề của người phụ nữ từ lúc lên 8 - 10 tuổi. Cũng
ở tuổi này bắt đầu tập lao động sản xuất như làm nương, dệt vải... Con trai
làm các công việc đồng áng. Đặc biệt, sau khi lấy vợ, trong thời gian ở rể, bố
vợ có trách nhiệm dạy dỗ con rể lao động, làm việc những việc rất cụ thể, từ
mài dao, đan gùi... đến các tập quán, lễ nghi trong ứng xử hàng ngày.
 
B. Vùng văn hoá tầng cao Tây Bắc
 
    Vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc có nhiều dân tộc sinh sống, như người
Mông, Dao, La Hủ, Si La... Song văn hoá tiêu biểu của vùng này là văn hoá
Mông và Dao. Cư dân Mông - Dao cư trú và làm ăn trên vùng núi cao từ
800m đến 1000m so với mặt biển. Đây là vùng ít nước, khí hậu kiểu á nhiệt
đới.
 
    Cư dân vùng cao Tây Bắc và cả Việt Bắc sinh sống chủ yếu bằng nghề
trồng trọt cây lương thực trên khô cạn. Hai loại cây lương thực được trồng
phổ biến là cây lúa nương ở Tây Bắc và cây ngô ở Việt Bắc. Đồng bào có tập
quán sống du canh du cư. Ngoài trồng trọt, cư dân vùng cao còn chăn nuôi
đại gia súc, gia cầm như trâu, bò, ngựa; nuôi gia súc, gia cầm như lợn, gà,
chó, dê. Việc chăn nuôi nhằm mục đích là cúng bái và ăn thịt. Bên cạnh đó,
ngành nghề thủ công của cư dân vùng cao phát triển đa dạng, gồm nghề dệt,
đan lát đồ mây tre, nghề mộc, và đặc biệt là nghề rèn. Người Mông có kỹ
thuật tôi rèn thép rất tốt. Các sản phẩm như dao, cuốc, lưỡi cày đạt kỹ thuật
rất cao.
 
    Sống ở miền núi, môi trường xung quanh là cây rừng, hơn nữa trình độ sản
xuất còn thấp nên việc hái lượm lâm thổ sản và săn bắn có vai trò quan trọng
trong cuộc sống của đồng bào.
 
    Nơi cư trú của cư dân vùng cao là các sườn núi, tạo thành các bản làng.
ranh giới làng thường rất rộng, các gia đình trong làng sống rải rác, ít làng
sống tập trung.
    Nhà ở của cư dân vùng cao là nhà đất, làm bằng gỗ, tranh tre, nứa lá. Nhà
thường ba gian, mái nhà thấp, không có cửa sổ, có một cửa chính ở gian giữa
và hai cửa sổ phụ ở hai đầu. Trong nhà người Mông, nơi thờ là bức vách phía
sau gian giữa, đối diện với cửa chính ra vào. Hai gian cạnh, mỗi gian có một
bếp: một để sưởi và nấu cơm nước, một bếp để nấu cám lợn. Việc bố trí chỗ
ngủ và sinh hoạt gia đình phù hợp với việc sử dụng bếp trong nhà: gian bếp là
là chỗ ngủ của hai vợ chồng trẻ, gian bên kia là chỗ ngủ của hai ông bà, gian
giữa là nơi sinh hoạt chung của gia đình; ăn
cơm, tiếp khách.
    Trang phục của người vùng cao may bằng
vải lanh. Phụ nữ Mông mặc váy và áo xẻ
ngực nhưng không cài cúc mà gấu áo cho
vào trong váy. Cổ áo của phụ nữ Mông là
trung tâm trang trí của chiếc áo. Cổ áo rộng
khoảng 15cm, dài khoảng 30cm, được khâu
vào áo và treo trên vai như cổ áo bộ đội hải
quân. Ngoài váy áo, trang phục của phụ nữ còn có tạp dề, thắt lưng, khăn đội
đầu, xà cạp. Nam giới mặc bộ trang phục như bộ bà ba. Đồng bào vùng cao
thường dùng ô che nắng, che mưa.
    Người vùng cao ăn cơm, canh rau. Cơm đựơc nấu một lần vào buổi sáng
và để ăn cả ngày. Bữa ăn tổ chức đơn giản: trên bàn để một rá cơm, độ hai
bát canh rau. theo tập quán, người Mông dùng thìa gỗ xúc cơm trong rá và
muác rau ăn, mà không dùng bát con, đũa. Đồ ăn thức uống độc đáo của
người vùng cao là mẻn mén (bột mịn được chế biến từ bột ngô) và thắng cố
(lẩu bò, chó, lợn, dê...), đậu răng ngựa.
 
    Tiếng nói phổ thông ở vùng cao là tiếng Mông. Trước đây, ngoài tiếng
Mông, do quan hệ kinh tế xã hội, vùng cao còn dùng tiếng Quan hoả. Ngày
nay, tiếng Việt được sử dụng rộng rãi. Tiếng Mông phát triển khá cao, đủ sử
dụng trong sinh hoạt giao tiếp trên vùng cao. Hiện nay, người Mông sử dụng
bộ chữ được nhà nước ta xây dựng trên cơ sở bộ chữ cái la tinh.
 
    Người Mông tin vào đa thần. Các vị thần thường xuyên được cúng bái là
thần núi, thần sông, thần trời, thần đất. Họ phân biệt hai loại ma: ma lành và
ma dữ. Ma lành là ma tổ tiên, thường phù hộ ho con cháu làm ăn, phù hộ sức
khoẻ ho mọi người; còn ma dữ chuyên làm hại người. Cả người Mông và
người Dao đều tin có con ma Ngũ hải chuyên làm người ốm đau, làm vật
nuôi chết. Theo họ, ma Ngũ hải có ở trong một số gia đình thuộc dòng dõi
nhất định. Gia đình nào bị nghi ngờ có ma Ngũ hải thì quan hệ với cộng đồng
và gia đình rất khó khăn.
 
    Trong cộng đồng người Mông vùng cao có tầng lớp thầy cúng chuyên
chữa bệnh bằng cách đuổi tà ma, quỷ quái, dùng các phép phù thuỷ.
 
    Người vùng cao có những lễ hội đặc trưng. Đó là các lễ hội ’Gấu tào’,
’Nào xồng’, ’Nhàng chầm đao’, tổ chức vào đầu xuân.
 
   Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc vùng cao phong phú và cũng rất độc
đáo. Có lẽ, trước đây do chữ viết không có nên đồng bào sáng tác truyền
miệng nhiều. Người vùng cao rất yêu âm nhạc. Các nhạc cụ độc đáo có khèn
bè, khèn lá và đàn môi.
 
    Y học dân tộc vùng cao cũng rất đáng nghiên cứu để ứng dụng. Nhiều
bệnh nan y như ruột thừa, hóc xương được đồng bào chữa bằng lá cây rừng
mà khỏi. Người Dao biết rất nhiều cây thuốc.
 
   Xã hội vùng cao trước Cách mạng tháng Tám là xã hội thổ ty. Ở xóm làng
phải có ’xéo phải’ và ’mã phài’ cai trị. Người vùng cao, đặc biệt là người
Mông, có quan hệ họ hàng rất chặt chẽ, thể hiện ở bổn phận giúp đỡ nhau
trong cuộc sống. Người Mông quan niệm ’cùng họ, cùng ma’ nên đã là người
cùng dòng họ, dù mới gặp nhau cũng coi nhau như người nhà, được sinh đẻ
và chết trong nhà nhau. Việc tìm hiểu cách cúng để nhận họ là việc làm
nghiêm túc, mang tính bí mật. Tin nhau mới nói cho nhau biết cách cúng ma
của dòng họ mình.
 
    Gia đình người vùng cao là gia đình phụ hệ nhỏ. Con trai được thừa kế tài
sản của bố mẹ, con gái đi lấy chồng mang theo của hồi môn, của hồi môn
nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự giầu nghèo của bố mẹ đẻ.
 
    Tục lệ cưới xin của người Mông được thực hiện theo một quy trình nghiêm
ngặt. Con gái đã lấy chồng thì không được quay trở về ở nhà bố mẹ đẻ ở nữa,
vì con ma nhà chồng đã quản lý cô dâu. Người Mông có tục ’háy pù’ (dắt tay
bạn gái). Thông thường, trai gái yêu nhau, muốn kết duyên vợ chồng nhưng
nhà nghèo, khó lo đủ bạc trắng, thịt rượu để cưới, thì họ thoả thuận hẹn gặp
nhau tại một địa điểm để chàng trai ra dắt tay cô gái đón về làm vợ. Sau khi
dắt tay cô gái về, nhà trai làm thủ tập nhập vào ma nhà chồng và đã ở một
đêm bên nhà chồng nên cô gái không được về nhà bố mẹ đẻ nữa. Sau ’háy
pù’, chi phi về đám cưới sẽ giảm đi rất nhiều.
 
    Người Mông và người Dao đều chung quan niệm chết là về ở thế giới bên
kia. Người Mông đưa hồn về trời, còn người Dao thì đưa hồn người chết về
Dương Châu (Trung Quốc). Với người Mông, ngoài làm ma tươi cho nguời
chết còn phải là ma khô. Việc làm ma khô phải cúng bằng trâu, bò, nên đây
cũng là gánh nặng cho con cháu.
 
Bài 11. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG / KHÔNG GIAN VĂN HOÁ
VIỆT NAM (Phần tiếp theo)

 III. VÙNG VĂN HOÁ CHÂU THỔ BẮC BỘ             


    Nói về vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ là nói về vùng văn hoá tiêu biểu cho
cả lãnh thổ, bao gồm thành phố Hà Nội và các tỉnh : Hải Dương, Hưng Yên,
Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam. Đây là vùng đất bằng phẳng,
được tạo thành từ sự bồi đắp cảu các con sông lớn. Do đó, đây là một vùng
đất phù sa màu mỡ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trồng cấy lúa nước.
Nhưng vùng này cũng là vùng gặp lũ lụt hàng năm, nên từ rất sớm đã hình
thành những tuyến đê để bảo vệ mùa màng và cuộc sống của cư dân ở đây.
Phía đông châu thổ Bắc Bộ là biển đông, phía tây là núi rừng. Khí hậu vùng
châu thổ Bắc Bộ có bốn mùa rõ rệt: mùa xuân ấm, ẩm, mùa hạ nóng, có mưa
bão, mùa thu mát, mùa đông khô lạnh và có gió mùa đông bắc từng đợt. 
 
1. Hoạt động kinh tế: 
 
    Cư dân châu thổ Bắc Bộ làm nghề trồng lúa
nước là chính. Để mở rộng diện tích canh tác,
họ đã quai đê lấn biển để làm ruộng nước, làm
thêm nghề muối và đánh cá biển. Nông dân
vùng này còn làm nhiều nghề thủ công khác
nhau và đạt đến trình độ cao như nghề gốm,
nghề đúc đồng, nghề dệt chiếu, đệt lụa, làm
giấy, nghề rèn...Châu thổ Bắc Bộ cũng là nơi
kinh tế trao đổi sớm phát triển. Thời cổ đại nơi này đã có các trung tâm buôn
bán, đã lưu ấn trong ngôn ngữ dân gian: thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến.
Sự hình thành và phát triển kinh tế trao đổi ở đây gắn liền với vị thế địa kinh
tế, tạo nên mô hình cảng - thị (thứ nhất cận thị, thứ nhì cận giang) 
 
2. Đơn vị xã hội: 
 
    Làng của vùng châu thổ Bắc Bộ nằm giữa cánh đồng, trên vùng đất cao, có
luỹ tre xanh bao quanh. Ở trung tâm mỗi làng có đình làng, giếng nước, cây
đa, tạo thành một hình mẫu cấu trúc làng quê Việt.
 
3. Đời sống vật chất: 
    Nhà của nông dân châu thổ Bắc Bộ là nhà đất ba gian, vách đất lợp rơm rạ.
Gian giữa dặt bàn thờ và bộ tràng kỷ với bàn uống nước, hai gian bên là
buồng ngủ. Nhà giàu thì làm năm gian. Gần sát nhà ở có nhà ngang làm nhà
bếp và để công cụ sản xuất, có giếng nước và cây cau.
 
    Trang phục của cư dân châu thổ Bắc Bộ là quần áo màu gụ. Xưa, phụ nữ
mặc váy, áo dài tứ thân, đeo dải yếm, chít khăn mỏ quạ, đeo thắt lưng, nam
giới mặc quần áo chân què, áo xẻ ngực.
 
    Cư dân châu thổ Bắc bộ ăn cơm tẻ, rau xanh và cá, tôm, tép. Rau xanh
thường được nâu, làm thành các món luộc, dưa cải, dưa cà chấm tương. Châu
thổ Bắc bộ cũng là nơi có nhiều loại bánh chế biến từ bột nếp như bánh dày,
bánh chưng, bánh gai ngon nổi tiếng..
 
    Tiếng nói của cư dân châu thổ Bắc Bộ là tiêng Kinh, thuộc nhóm ngôn ngữ
Việt - Mường, nằm trong hệ ngôn ngữ Nam Á. Tiếng Kinh ở vùng này là
tiếng phổ thông của cả nước, được sử dụng chính trên các phương tiện thông
tin đại chúng. Trong lịch sử, tiếng Kinh đã phát triển đến văn tự. Thời cổ đại
là chữ Nôm (dựa trên nguyên tắc tiếp biến chữ Hán). Sau này tiếng Kinh
được ghi bằng ký tự La tinh. Hiện nay, chữ Kinh La tinh / Việt La tinh là
quốc ngữ.
 
4. Sinh hoạt tinh thần: 
    Tín ngưỡng cư dân châu thổ Bắc Bộ là tín ngưỡng đa thần, trong đó có tín
ngưỡng quan trọng, chủ đạo là thờ Tổ tiên. Nông dân vùng này chịu ảnh
hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Làng có chùa, có nhiều nơi thờ
cúng viết bằng chữ Nho, có người hành nghề cúng bái,
chữa bệnh, cầu phúc cho người và mùa màng.
 
    Kho tàng văn học dân gian châu thổ Bắc Bộ rất
phong phú và sinh động. Các thể loại từ truyền thuyết
đến truyện cổ, dân ca, ca dao, tục ngữ, truyện trạng...
đều có bề dày lịch sử và thấm đẫm chất nhân văn. Văn
hoá bác học ở vùng này có những tác giả rất điển hình
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...
 
    Lễ hội ở Bắc Bộ rất đa dạng, tổ chức theo mùa và gắn với tín ngưỡng đa
thần, cầu mùa. Lễ hội chủ yếu là hội làng. Nổi bật nhất ở vùng này là lễ Giỗ
tổ Hùng Vương (Phú Thọ), lễ hội chùa Hương (Hà Tây), lễ hội Phủ Giầy
(Nam Định)...
 
    Gia đình người Kinh là gia đình phụ hệ nhỏ. Quan hệ của gia đình có ảnh
hưởng của Nho giáo. Con trai trưởng được thừa kế tài sản. Con trai trưởng
phải có trách nhiệm với các em. Quan hệ họ hàng được đặc biệt coi trọng, họ
nội, họ ngoại đều có nghĩa vụ chăm sóc nhau. Dân gian có câu: ’Sẩy cha còn
chú, sẩy mẹ bú dù’ để nói về mối quan hệ huyết thống bền chặt giữa các thế
hệ với nhau. Lịch sử phát triển xã hội vùng châu thổ Bắc Bộ là phát triển từ
Làng lên Nước.
 

IV. VÙNG VĂN HOÁ TRUNG BỘ         


   
Trung Bộ là giải đất ven biển, chạy dọc theo chân núi Trường Sơn - Tây
Nguyên. Trung Bộ có chiều ngang đông tây hẹp nhưng chiều dài Bắc Nam lại
lớn (từ Quảng Bình đến Bình Thuận hiện nay). Địa hình vùng này bị chia cắt
bởi các đèo là đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả... Các dòng sông lớn nhỏ
vùng này bắt nguồn từ chân dãy Trường Sơn - Tây Nguyên, chảy theo hướng
Đông và đổ ra biển. Do chiều ngang hẹp nên sông ngắn, do vậy dải đồng
bằng hẹp, thay vào đó là những cồn cát, cồn sò, những đầm phá (Tam Giang,
Cầu Hai). 
 
    Thuộc dải đất miền Trung còn là các quần đảo lớn nhỏ, nhấp nhô trên biển
đông như Hòn Gió, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm..., trong đó đáng kể nhất là hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
 
1. Hoạt động kinh tế: 
    Khí hậu miền Trung khá khắc nghiệt: Khô nóng và chịu nhiều bão biển.
Cư dân vùng này chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước. Tuy nhiên, do gần
biển, nên ngoài trồng lúa, đồng bào còn làm nghề biển và trồng nhiều loại cây
ăn quả như nho, mía, bông, dừa. 
 
2. Đơn vị xã hội: 
 
    Cư dân miền Trung sống theo từng làng; dân chài tụ cư trên các cồn dọc
theo bờ biển tạo thành các xóm vạn chài, làng biển.
 
3. Đời sống vật chất: 
 
    Nhà ở cư dân là nhà đất, lùn và chắc, lợp rơm rạ, sau là ngói. Bố trí nhà ở
vẫn theo truyền thống của người Việt: gian giữa nhà, nơi trang trọng nhất đặt
bàn thờ gia tiên, hai bên là hai buồng ngủ, bếp được đặt trong nhà ngang,
cùng với dụng cụ lao động.

Bữa ăn của cư dân Trung Bộ là cô, rau, cá (cá sông, cá biển. Khẩu vị nhiều
chất cay, nhất là các món ăn Huế. Huế cũng là nơi có nhiều món ăn vốn phục
vụ cho quan lại trong triều đình ngày trước vẫn lưu truyền trong dân cư đến
ngày nay.
4. Sinh hoạt tinh thần
 
    Sinh hoạt tinh thần của cư dân miền Trung gắn với hai không gian / tiểu
vùng là xứ Huế và tiểu vùng Nam Trung Bộ, nên
tất có một số đặc điểm nổi bật, mang sắc thái
riêng.

   4.1. Xứ Huế, vốn là đất cố đô / kinh đô thời


Nguyễn, nên nơi đây còn một số kiến trúc cung
đình của thế kỷ trước, nay được UNESCO công
nhận là di sản văn hoá thế giới, gồm một hệ
thống Kinh thành, Hoàng thành, Tử cấm thành,
điện Thái Hoà, Ngọ Môn; là một loạt đền, chùa
như chùa Thiên Mụ, Hòn Chén, Từ Đàm, Diệu Đế, Tuý Vân... là những lăng
tẩm như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiêu Trị, Tự đức, Khải Định. Các
công trình được xây dựng trên một vùng đất khá phù hợp với cảnh quan xứ
Huế - nơi có dòng sông Hương lững lờ, có núi Ngự Bình không cao nhưng
thuận mắt cho tầm nhìn; là những đầm phá làm khoảng đệm êm ái giữa biển
và dãy Trường Sơn. Xứ Huế còn có một kho di sản văn hoá dân gian phong
phú, đa dạng và được kế thừa một kho di sản văn nghệ cung đình (trong đó
có nhã nhạc đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế
giới), nên văn nghệ xứ này tạo cho mình một bản sắc riêng rất Huế... Đó là
nghệ thuật biểu diễn các bài hò Huế, bài Chòi, hát Lý, hát Sắc bùa và những
bài ca trên sông Hương.

 
   

4.2. Tiểu vùng văn hoá Nam trung bộ là nơi gặp gỡ, tiếp xúc văn hoá Việt -
Chăm. Nét nổi bật của văn hoá Chăm là sự tôn thờ phồn thực, được biểu hiện
trên những phù điêu, tượng đá và tháp Chàm. Tháp Chàm có mặt bằng hình
vuông hoặc hình chữ nhật, xây cất bằng gạch không nung. Tháp có thể ba,
bốn đến năm tầng, tầng trên được giật cấp thu nhỏ hơn tầng dưới. Trên góc
tháp và đỉnh tháp mỗi tầng đều có một linga, nền và thân tháp có hình vuông.
Theo quan niệm dân gian, hình vuông là Yoni (đất) - âm tính, chỉ sự ổn định,
còn chiếc linga - dương tính ngự trên đỉnh tháp là tượng trưng cho trời - trời,
đất giao hoà mới thuận đường phát triển. Tháp Chàm nổi tiếng ở Nam Trung
Bộ là tháp Pô Nagar ở Nha Trang.
 
   Tháp thờ một vị nữ thần Pô Na gar (thần Mẹ xứ sở), vị thần đáng kính nhất.
Theo sử sách, Pô Nagar còn có tên ghi bằng chữ Phạn là Bhagavati - một vị
thần của Ấn Độ. Từ khi người Việt vào đây sinh sống, cộng cư người Việt đã
tiếp nhận và thờ phụng nữ thần hết sức cung kính, và gọi bằng cái tên Việt là
Thánh Mẫu Thiên Y a na và thường gọi tắt là Tháp Bà. Hàng năm, lễ hôi
Tháp Bà tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch, thời điểm này gần với tập quán
’giỗ mẹ tháng 3 giỗ cha tháng 8’ của người Việt Bắc Bộ. Tham gia lễ hội
Tháp Bà có cả người Chăm và người Việt. Trong lễ hội, phần diễn xướng
nghi lễ cung văn, múa bóng do người Việt thể hiện; còn người Chăm thể hiện
những điệu múa đặc sắc của dân tộc mình. Đây là một hình ảnh về sự kết hoà
hai văn hoá Chăm và Việt - là đặc trưng văn hoá tiêu biểu của vùng này.
 
    V. VÙNG VĂN HOÁ TÂY NGUYÊN    

Tây Nguyên là vùng đất cao nguyên đất đỏ, nằm ở phía Tây Nam trung Bộ,
có biên giới với hai nước bạn Lào và Cam Pu Chia. Không kể các dân tộc
thiểu số phía Bắc và người Kinh chuyển vào đây sinh sống gần đây, nơi đây
là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc thuộc hai nhóm Môn Khơ Me và
Nam Đảo. Tây Nguyên có những bình nguyên lớn như Kon Tum, Gia lai,
Đắc Lắc, Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc... Rừng ở đây cung cấp rất nhiều gỗ
quý. Những dòng sông lớn trên cao nguyên này là sông Sêsan, sông Adunpa
và sông Sêpêpốk, trên ba sông này có hệ thống thuỷ điện kiêm thuỷ lợi. Do
có biên giới quốc gia với Lào và Cam Pu Chia, nên văn hoá cao nguyên có sự
giao lưu trong lịch sử.

 
    Vùng văn hoá Tây Nguyên trình bày ở đây là văn hoá của cư dân lâu đời
trên mặt đất này.
 
1. Hoạt động kinh tế: 
 
    Hoạt động kinh tế của cư dân Tây Nguyên là phát
nương làm rẫy, du canh. Cây trồng chính là cây lúa
nương. Cây bông cũng được trồng phổ biến nhằm phục
vụ nhu cầu mặc. Tây Nguyên cũng là vùng đất thích hợp
trồng cây cà phê và cây cao su. Những cây công nghiệp
này đang phát huy giá trị, có vai trò quan trọng trong cơ
cấu kinh tế của vùng này. Chăn nuôi gia súc ở Tây
Nguyên không phát triển. Đồng bào có nuôi trâu nhưng
chủ yếu để làm vật hiến sinh (cúng Giàng). Người Tây
Nguyên nuôi voi để phục vụ sản xuất và vận tải hàng
hoá. Dân tộc Mnông ở bản Đôn (Đắc Lắc) nổi tiếng về nghề thuần dưỡng voi.
Các ngành nghề thủ công như đan lát, dệt, phát triển mạnh, nhất là ngành đan
lát mây tre rất phát triển, đan nhiều đồ đựng, gùi rất đẹp. Kinh tế hàng hoá
trên cao nguyên chưa phát triển. Tài sản có giá trị với đồng bào là chiêng,
cồng, ché đựng rượu, Kpan (ghế dài...) 
 
2. Đơn vị xã hội: 
 
    Người Tây Nguyên cư trú thành Buôn. Buôn thường nhỏ, nhà mỗi gia dình
làm tương đối xa nhau. Vai trò của già làng rất quan trọng trong đời sống xã
hội của đồng bào. Tiếng nói của già làng có giá trị đại diện cho dân làng,
được dân tin tưởng nghe theo. 
 
3. Đời sống vật chất: 
 
    Nhà ở của cư dân Tây Nguyên là nhà sàn. Đồng bào Ê Đê có truyền thống
ở nhà dài. Ngôi nhà công cộng của cộng đồng à nhà Rông.
 
    Trang phục của người Tây Nguyên đơn giản về kiểu cách nhưng rực rỡ về
mầu sắc. Bộ trang phục phụ nữ gồm váy dài và áo chui đầu không tay. Nam
giới mặc áo chui đầu và mặc quần, có khi đóng khố cởi trần. Trang sức của
phụ nữ có khuyên tai, vòng cổ, vòng tay. Hoa văn trên trang phục chủ yếu là
hoa văn hình học.
 
    Người Tây Nguyên ăn cơm, rau, chế biến thức ăn khá đơn giản: rau thường
ăn luộc, nấu canh, dùng nhiều ớt cay trong bữa ăn. Trong các dịp lễ hội, tiếp
khách, hội ngộ, họ uống rượu cần. Khi có khách đến nhà, họ mang cơm rau
đãi khách. 
 
4. Sinh hoạt tinh thần: 
 
    Tiếng nói của đồng bào Tây Nguyên thuộc hai nhóm ngôn ngữ khác nhau:
Nam đảo và Môn - Khơ Me. Tín ngưỡng của người Tây Nguyên là tín
ngưỡng đa thần. Các thần có tên gọi chung là Giàng. Lễ cúng Giàng là lễ
cúng phổ biến và lớn nhất ở Tây Nguyên, trong lễ cúng này bao giờ cũng có
tục đâm trâu nhằm hiến sinh cho Giàng.
 
    Lễ hội ở Tây Nguyên đã dạng: cúng trời, cúng đất, cúng hồn lúa, cúng lên
nương, cúng nhập hồn lúa vào kho... trong rất nhiều lễ hội thì lễ hội bỏ mả là
lễ hội lớn nhất, là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá cộng đồng.
Liên quan đến bỏ mả là tượng nhà mồ (tượng dựng ở nhà mồ). Tượng được
tạc bằng gỗ, có nhiều hình dạng khác nhau, nói lên vị thế của người nằm
trong nhà mồ.
 
    Văn học dân gian của các dân tộc Tây Nguyên phong phú và độc đáo. Dân
tộc nào cũng có truyện thần thoại, cổ tích, những làn điệu dân ca...Đặc biệt
vùng cao nguyên này rất giàu sử thi và luật tục, thể hiện dưới dạng văn vần
và lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu. Đặc điểm sử thi Tây Nguyên là
chất anh hùng ca thể hiện rất mãnh liệt, như chàng Đam San mà dám nghĩ
đến việc bắt nữ thần mặt trời về làm vợ. Nhiều dân tộc ở Tây nguyên có tục
kể sử thi cho con cháu nghe: người Ê Đê có
Khan, người Ba Na có Hmon, người Gia Rai có
Hri...
 
     Tây Nguyên là vùng đất giàu âm nhạc và
phong phú về các loại nhạc cụ., đặc biệt là âm
nhạc cồng chiêng. Hầu như mọi hoạt động tập
thể, lễ hội, đón khách quý... đề có cồng chiêng.
Cồng chiêng có từng bộ, gia đình nào cũng có.
Cồng chiêng là tài sản của gia đình và là biểu tượng của sự giàu nghèo. Nhà
nghèo có một bộ cồng chiêng, còn nhà giàu thì có nhiều bộ. Một bộ cồng
chiêng thường từ 3 đến 15 cái, kèm theo cồng chiêng còn có trống. Người
Tây Nguyên còn quan niệm có thần trong chiêng, trống. Họ cho rằng trống là
biểu tượng cho mặt trời / tính dương, cồng chiêng là biểu tượng của đất / tính
âm. Quan niệm này thể hiện khái niệm nguyên sơ về tính lưỡng hợp.
 
    Trong các lễ hội ở Tây Nguyên có một đặc trưng quan trọng là sự tham gia
của cồng chiêng. Do vậy, có nhà nghiên cứu đã đưa ra thuật ngữ 'văn hoá
cồng chiêng Tây Nguyên' để khái quát hoá đặc điểm nổi bật nhất của các dân
tộc ở Tây Nguyên.

VI. VÙNG VĂN HOÁ NAM BỘ    


          
Nam Bộ, về mặt địa lý chia ra hai miền là miền Tây và miền Đông. Miền Tây
là vùng đất châu thổ sông Cửu Long, có nhiều kênh rạch, đất đai bằng phẳng,
màu mỡ do được bồi đắp bằng phù sa của sông Cửu Long. Miền Đông là
vùng đất châu thổ sông Đồng Nai, vùng chân dài của cao nguyên Tây Nam
Trung Bộ, nơi có nhiều núi nhấp nhô xen giữa những đồng bằng, do đó đất
đai vùng nỳa kém màu mỡ. Dân Nam Bộ có câu:
                              ’’Miền Tây ăn cá bỏ đầu

                      Miền Đông nhặt được xóc xâu mang về’’


để nói lên sự kém trù phú của miền Đông so với miền Tây Nam Bộ. Khí hậu
ở Nam Bộ một năm chỉ có hai mùa là mùa mưa và mùa khô.

Về lịch sử vùng đất: Nam Bộ là mảnh đất được khai phá muộn. Người Việt
đến thế kỷ XVI mới có mặt ở vùng đất phì nhiêu nhưng hoang vắng này. Ca
dao Nam Bộ đã phản ánh thực tế vùng đất khi người Việt đến khai hoang lập
ấp như sau:
                             ’’Chèo ghe sợ sấu cắn chưn

                      Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma’’


    Vào cuối thế kỷ XVIII có thêm người Hoa đến Nam Bộ. Lúc đó (1679),
nhà Minh đã thất bại nhà Thanh, nên hai tướng nhà Minh là Trần Thượng
Xuyên và Dương Ngạn Địch tỏ lòng trung thành với nhà Minh đã dẫn khoảng
3.000 binh lính cùng vũ khí và người thân, chủ yếu là người Quảng Đông và
người Phúc Kiến sang Việt Nam, và được chúa Nguyễn cho vào ở đất Biên
Hoà và Mỹ Tho ngày nay. Người Khơ Mer có thể có mặt sớm nhất ở Nam Bộ
(từ thế kỷ XIII), vào thời kỳ Ăng Co tan rã. Người Chăm có mặt ở Nam Bộ
muộn hơn cả, khoảng vào đầu thế kỷ XIX, chủ yếu ở An Giang và Tây Ninh.
 
    Nói đến văn hoá Nam Bộ, người ta thường nói nhấn đến văn hoá đồng
bằng sông Cửu Long, trong đó có văn hoá của người Khơ Mer.
 
1. Hoạt động kinh tế
 
    Nghề làm ăn chính của cư dân ở đây là trồng lúa nước, nhưng là gieo xạ
lúa chứ không cày cấy như nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh việc
trồng lúa nước, người Khơ Mer có nghề làm vườn trồng cây trái nhiệt đới nổi
tiếng. Các loại cây trái được trồng nhiều ở đây là soài, bưởi, thanh long, cam,
chuối, dứa, dưa hấu, sầu riêng, chôm chôm... Trái cây vùng này đã trở thành
hàng hoá được bán khắp trong nước và được chế biến để bán ra nước ngoài.
Một số dân ven biển chuyên sống bằng nghề đánh bắt hải sản. 
2. Đơn vị xã hội: 
    Cư dân sống tập trung thành làng; nơi cư trú của người Khơ Mer gọi là
phum, sóc.
3. Đời sống vật chất: 
    Nhà cửa vùng này khá sơ sài. Trang phục truyền thống của người  Khơ
Mer có bộ quần áo bà ba đen với chiếc khăn rằn ri quàng qua vai, qua cổ.
Hiện nay, hầu hết thanh niên mặc âu phục.
 
    Đặc điểm cơ cấu bữa ăn của người Nam bộ là có nhiều món ăn thuỷ sản
như tôm, cá, mực...khẩu vị có nhiều chất cay, ngọt; nước dừa và dừa được
dùng phổ biến.
 
    Mìên Tây Nam Bộ lắm kênh rạch nên phương tiện đia lại và vận chuyển có
xuồng ba lá, ghe tam bàn, thuyền ’’tắc rán’’, ’’đuôi tôm’’. Phương tiện vận
chuyển trên bộ là các xe bò, xe trâu, cộ trâu.
4. Sinh hoạt tinh thần: 
    Nam Bộ là vùng đất mới được khai phá. Những
người đến đây có nguồn gốc ’’tứ xứ’’: người Việt
từ Bắc vào, người Khơ Mer từ Cam pu chia sang,
người Hoa từ Trung Quốc đến. Theo lẽ thường,
những người dám rời bỏ quê hương đi tìm đất mới
thường có ý chí cao, can đảm và có cái nhìn rộng
mở, tự tin, dám chịu đựng, sẵn sàng học hỏi và tiếp
thu nhằm thích ứng với hoàn cảnh mới. Quả thế,
người Nam Bộ rất năng động, có phong cách tự tin, tự chủ, nhạy cảm với cái
mới, tiếp thu nhanh những yếu tố văn hoá mới. Trí thức Nam Bộ sớm nhận ra
giá trị của chữ Việt la tinh nên sớm tiếp thu và sử dụng nó. Họ nhạy cảm với
giá trị của báo chí nên cũng sớm cho ra mắt những tờ báo bằng chữ Việt la
tinh. Người Nam Bộ sớm nhận ra giá trị của kinh tế hàng hoá nên tổ chức
buôn bán lớn từ nhiều thập kỷ.
 
    Một nét đặc trưng nổi bật trong đời sống tinh thần của vùng Nam Bộ là sự
tồn tại và đan xen lẫn nhau của nhiều tín ngưỡng. Tôn giáo chủ đạo của Nam
Bộ là Phật giáo. Đồng bằng Nam Bộ có tới 400 ngôi chùa. Phật giáo Nam Bộ
chủ yếu là pháiTiểu Thừa. Kiến trúc nhà chùa là những tác phẩm nghệ thuật
đẹp mà uy nghi. Bên cạnh đạo Phật còn có tôn giáo địa phương như Cao Đài,
Hoà Hảo, và có những Ông đạo rất riêng biệt như đạo Dừa, đạo Ngồi, đạo
Nằm, đạo Câm.
 
Bài 12. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI 

I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM   


   
- Việt Nam có một vị thế địa văn hoá, địa chính trị khá đặc biệt, ít quốc gia
nào có được. Vị thế ấy tạo điều kiện cho văn hoá Việt Nam đón nhận nhiều
luồng giao lưu văn hoá khác nhau. Tuy vậy, nét đặc biệt của văn hoá Việt
Nam lại là sự không chối từ về văn hoá, biểu hiện ở sự cởi mở trong việc tiếp
nhận văn hoá nước ngoài, tiếp thu tinh hoa của mọi nền văn hoá để làm giàu
cho văn hoá của mình. Đây cũng là hằng số của văn hoá Việt Nam trong mọi
thời kỳ lịch sử.
 
    - Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi tự nhiên. Có thể nói thiên nhiên Việt
Nam là điểm xuất phát của văn hoá Việt Nam. Với môi trường tự nhiên, văn
hoá cổ truyền Việt Nam vừa là sự hoà điệu, vừa là sự đấu tranh với hiên
nhiên. Đây cũng có thể xem là một hằng số, một nét hằng xuyên của văn hoá
Việt Nam.
 

    - Nhìn từ phương diện xã hội, nông dân, nông nghiệp lúa nước, xóm làng,
là ba nhân tố cơ bản của nền văn minh thôn dã Việt Nam. Tiến trình lịch sử
văn hoá Việt Nam đi qua thời gian, trong không gian là trên cơ sở ba nhân tố
cơ bản này.
 
    - Có một nền văn hoá Việt Nam được tạo ra từ nền văn hoá của 54 tộc
người trên đất nước Việt Nam. Điều đó nói lên rằng không gian văn hoá Việt
Nam vừa đa dạng, vừa thống nhất, văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá
thống nhất trong đa dạng. Đây là một trong những quy luật cơ bản của quá
trình hình thành và phát triển của văn hoá Việt Nam, đồng thời cũng chính là
một hằng số của văn hoá Việt Nam.
 
    - Hiện nay, trong văn hoá Việt Nam đang diễn ra những biến đổi phong
phú và phức tạp theo hướng chuyển đổi cấu trúc từ văn hoá truyền thống sang
văn hoá hiện đại. Cấu trúc văn hoá hiện đại được hình thành sẽ là một cấu
trúc mang tính chất đa văn hoá. Các lớp cấu trúc văn hoá cổ truyền và hiện
đại, các lớp văn hoá bản địa và nước ngoài cùng tồn tại bên nhau, dẫn đến
tính chất đa dạng về lối sống của những khu vực dân cư khác nhau, những
tầng lớp xã hội khác nhau, những thế hệ và lứa tuổi khác nhau... 
 
    - Cấu trúc văn hoá hiện đại đang hình thành ở Việt Nam cũng mang tính
chất của một cấu trúc mở, luôn luôn có sự giao lưu, trao đổi với những nền
văn hoá khu vực và thế giới. Do đó, một mặt nó sẽ không ngừng được làm
phong phú hơn bằng cách tiếp nhận những giá trị mới, mặt khác, những giá
trị đã có của nó cũng luôn luôn có khả năng tự điều chỉnh cho phù hợp với
những biến đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại.

II. VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN       


   
Có một thời, người ta đã quan niệm văn hoá là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế,
bởi cho rằng văn hoá là lĩnh vực không sinh lợi. Sự phát triển và tăng trưởng
của hàng loạt các nước trên thế giới đã khiến nhân loại phải nhận thức lại vai
trò của văn hoá. Năm 1988, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên Hợp
Quốc (UNESCO) đã tuyên bố để mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá
bằng sự nhấn mạnh:
 
    'Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy trong mọi xã hội ngày nay,
bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị và kinh tế
nào, văn hoá và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau".
 
    Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi
trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về
kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất
nhiều.'
 
    Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của các dân tộc, tiếp nhận thành tựu trí
tuệ của thời đại, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những nhận thức sâu sắc về
vai trò của văn hoá trong phát triển:' Kinh tế và văn hoá gắn liền với nhau hết
sức chặt chẽ, kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hoá và
văn hoá không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở
kết hợp hài hoà kinh tế và văn hoá là
sự phát triển năng động, có hiệu quả
và vững chắc nhất'. 
 
    Nghị quyết kỳ họp thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khoá VII đã khẳng
định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển. Gần đây
nhất (năm 1998), nghị quyết Trung
ương lần thứ năm khoá VIII về xây
dựng và phát triển văn hoá Việt Nam
đã chỉ rõ: ' Phương hướng chung, đồng thời là nhiệm vụ bao quát của sự
nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại
đoàn kết, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm
sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình,
từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người, tạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình
độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ đắc lực công nghiệp hoá, hiện đại
hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội'.
 
 III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ
BẢN SẮC DÂN TỘC.                 
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra và thực hiện một đường lối đổi mới toàn diện để đạt được mục
tiêu ’Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh’. Mục tiêu ấy được
thực hiện bởi sự kết hợp cả mấy nhân tố kinh tế, xã hội, và văn hoá trong quá
trình phát triển. Việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam hiện đại nhưng đậm đà
bản sắc dân tộc phải được đặt trong quá trình ấy mà thực hiện.
 
    Đường lối đổi mới của Đảng khẳng định cơ chế thị trường đang là điều
kiện và phương tiện cho sự phát triển của đất nước. Mặt ưu việt của cơ chế
thị trường là đã mở ra những thành quả to lớn cũng như những triển vọng cho
sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng cho thấy nhiều hiện
tượng tiêu cực không thể xem thường, nhất là trên góc nhìn văn hoá học.
 
    Mặt khác, từ quan điểm chiến lược, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, việc mở rộng quan hệ với bên ngoài là tất yếu. Trong thời đại
ngày nay, không có một dân tộc nào có thể tách rời, sống biệt lập với thế giới.
Riêng với văn hoá, tiến bộ cua khoa học công nghệ thông tin lại càng đặt ra
việc phát triển văn hoá không thể tách rời văn hoá thế giới. Hằng số của văn
hoá Việt Nam là mở cửa đón nhận truyền thống văn hoá bốn phương, tiếp
nhận cái tốt, cái thích hợp, loại bỏ cái xấu, không thích hợp. Vì thế, nếu mất
bản sắc dân tộc thì cũng mất văn hoá, và khi
đã mất văn hoá thì cũng mất luôn dân tộc.
 
    Cổ truyền (truyền thống) - văn hoá - nhân
tố mới là quy luật phát triển không ngừng
của văn hoá. Cổ truyền là quá khứ còn lại
cho đến ngày hôm nay, văn hoá là cái hiện
tại còn nhân tố mới là cái mới xuất hiện.
Theo quy luật phát triển, cái hiện tại sẽ lùi
dần về quá khứ, trong đó có những cái tinh,
cái đẹp được chắt lọc, giữ gìn trở thành cái cổ truyền; nhân tố mới cùng với
thời gian phát triển thành cái hiện đại, thành văn hoá.
 
    Do vậy, việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là việc làm hiện tại có tiếp nối với cổ truyền và hướng về tương lai, túc là
phải kế thừa văn hoá cổ truyền, phát huy những giá trị nhân văn của văn hoá
truyền thống và định hướng phát triển văn hoá cho tương lai.
 
    Kế thừa văn hoá cổ truyền dân tộc là kế thừa những giá trị văn hoá được
chắt lọc từ lịch sử hàng ngàn năm qua nhiều thế hệ. Tinh hoa từ đó được thể
hiện trong hoạt động kinh tế, trong văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần... và
nhiều biểu tượng văn hoá khác. 
 
    Bản chất tiên tiến trong văn hoá thể hiện ở tính nhân bản, ở tính vị tha, ở ý
thức xây dựng cộng đồng trong ứng xử xã hội. Xã hội phát triển, bản chất
tiên tiến cũng phát triển. Đó là sự bổ sung hoàn thiện nâng cao giá trị nhân
văn nhân bản, tính vị tha và ý thức xây dựng cộng đồng ngày một cao hơn;
đồng thời biết tiếp nhận những tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới
để làm giàu văn hoá Việt Nam.
 
    Bản sắc văn hoá dân tộc là nếp sống của cả dân tộc. Trong nếp sốngcó
những điểm được coi là cốt lõi, tinh tuý cần được bảo tồn và phát huy, nhưng
cũng có những điểm yếu, lỗi thời cần phải loại bỏ. Xây dựng nền văn hoá
đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp tron
nếp sống, là sự lựa chọn có ý thức để kế thừa các truyền thống đó. Mặt khác,
khi tiếp nhận những tinh hoa văn hoá nhân loại, chúng ta cũng phảo biết
"Việt Nam hoá" để nó hoà kết được với bản sắc văn hoá Việt Nam.
 
    Kế thừa truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc là một nội dung rất quan
trọng trong xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Vấn đề đặt ra là những truyền thống văn hoá nào của dân tộc được kế
thừa? Có thể kể ra một số truyền thống cơ bản sau:
               - Truyền thống yêu nước thương nòi.

               - Truyền thống yêu lao động và lao động sáng tạo.

               - Phong cách giản dị, hợp lý trong đời sống văn hoá vật chất.
               - Thừa kế và phát huy tiếng nói và chữ viết dân tộc.

               - Kế thừa, bảo tồn và phát huy vốn văn hoá, nghệ thuật dân gian
Việt Nam.

               - Các phong tục tập quán tốt đẹp.

               - Tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.
    Nói kế thừa là đã hàm ý nói có ý thức chủ động tiếp nhận tinh hoa văn hoá
của nhân loại nhằm xây dựng nội dung văn
hoá mới trên hình thức dân tộc (tính dân tộc).
    Như vậy, việc xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc đòi hỏi
chúng ta phải biết kế thừa vốn văn hoá cổ
truyền tốt đẹp, biết chủ động tiếp nhận tinh
hoa văn hoá thế giới, biết sử dụng hình thức
nghệ thuật dân tộc để chuyển tải nội dung
tiến tiến.
    Trong thời đại ngày nay, văn hoá không
còn là lĩnh vực riêng biệt, đứng ngoài phát triển. Kinh tế và văn hoá là những
lĩnh vực cốt lõi của sự tồn tại mỗi dân tộc. Muốn xây dựng kinh tế thì phải có
con người được đào tạo, rèn luyện trong một môi trường văn hoá lành mạnh,
nhân bản.
 
   Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam hiện nay là xây dựng nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ và nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
 
    Phát triển xuất phát từ văn hoá và hướng tới văn hoá, hướng tới con người,
vì sự phát triển và hoàn thiện con người.
 
    Văn hoá là mặt bằng xuất phát, là động lực, là mục tiêu của phát triển.
 
    Mỗi người Việt Nam khi soi mình vào tấm gương văn hoá dân tộc, khi
nhận thức rõ mục tiêu, vị thế văn hoá đối với phát triển, có thể nhận ra mình
là ai, từ đâu tới và sẽ đi tới đâu. Trong bối cảnh của sự phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay ở Việt Nam, sự tự ý thức văn hoá đó có ý nghĩa quan trọng để
mỗi người Việt Nam vừa có khả năng hoà nhập được vào sự phát triển chung
của thế giới hiện đại, vừa giữ được cho mình một nhân cách văn hoá có chiều
sâu trong lịch sử dân tộc.

You might also like