You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA. SỰ VẬN DỤNG CỦA


SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC

HỌC PHẦN: 2111POLI2005- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 1 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA. SỰ VẬN DỤNG CỦA


SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC

HỌC PHẦN: 2111POLI2005- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Họ và tên: Dương Bảo Dy

Mã số sinh viên: 46.01.751.031

Lớp học phần: 2111POLI200551

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Thanh Lương

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 1 năm 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài......................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................2
6. Kết cấu của đề tài...........................................................................................................3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA..............................................4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.................................................................................4
1.1 Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác...4
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa....................................................8
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT
HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC.........................................................................12
2. Sự Vận dụng của sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện
nay.................................................................................................................................... 12
2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới......................................12
2.2 Sự vận dụng bản sắc văn hóa dân tộc của sinh viên trong xã hội hiện nay.................13
2.3 Sinh viên cần làm gì để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc............................................14
2.4 Trách nhiệm của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa............15
2.5 Biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.................................................................15
KẾT LUẬN......................................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................18

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam chính là đặc điểm nổi bật, thuộc tính riêng của nền
văn hóa khi ta đặt nó so sánh với các nền văn hóa khác trong khu vực và quốc tế. Vận
dụng cách tiếp cận địa lý - lịch sử, những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam kết tinh
thành quả lao động, đấu tranh hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, gồm:
Nền văn hóa hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước ở miền sông nước và
biển đảo; đề cao giá trị văn hóa gia đình truyền thống; đậm tính cộng đồng, tự trị của văn
hóa làng xã; thấm đậm, bao trùm tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia - dân tộc; đề cao nữ
quyền; trọng nông, xa rừng, nhạt biển; đa dân tộc, thống nhất trong đa dạng; nền văn hóa
mở, thích ứng và tiếp biến hài hoà các nền văn minh nhân loại. Hồ Chí Minh, nhà văn
hóa kiệt xuất - danh nhân văn hóa thế giới, Người đã cống hiến trọn đời mình cho nhân
dân Việt Nam và cho nhân loại, là điểm hội tụ những giá trị cao đẹp nhất trong lịch sử
hàng ngàn năm văn hiến - văn minh của dân tộc Việt Nam; là biểu tượng cao đẹp nhất
của văn hóa Việt Nam trong thời đại mới, là điển hình của sự kết hợp hài hòa giữa đạo lý
của dân tộc với tinh hoa của nhiều dòng văn hóa Đông - Tây. Đã nhận thức rất rõ mối
quan hệ giữa dân tộc và bản sắc dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tài sản vô
giá; là linh hồn của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với
bao biến cố thăng trầm của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả
dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy nó là biểu tượng của sự trường tồn, là cầu nối giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn
đề sống còn của mỗi quốc gia, là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của từng dân tộc. Đây
còn là trách nhiệm nghĩa vụ của thế hệ trẻ, đặc biệt là những sinh viên đã và đang ngồi
trên ghế nhà trường, họ được xem là lực lượng nòng cốt trong việc duy trì nên văn hóa
nước nhà.

2
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Phân tích làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về văn hóa. Từ đó có những liên hệ đến trách
nhiệm của sinh viên và sự vận dụng của sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc. Nêu cao tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với văn hóa truyền
thống mà ông cha ta để lại.

3. Đối tượng nghiên cứu

Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về nền văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa. Và
trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo tồn và duy trì nên văn hóa nước nhà.

4. Phạm vi nghiên cứu

Tư tưởng Hồ Chí về văn hóa cùng sự vận động logic đổi mới trong văn hóa từ xửa đến
nay. Từ đó nêu cao tinh thần gìn giữ và tiếp thu nền văn hóa hiện đại, vận dụng vào nền
văn hóa nước nhà của thế hệ trẻ, đặc biệt là tầng lớp sinh viên ngày nay.

5. Phương pháp nghiên cứu


Tiểu luận vận dụng các phương pháp thống nhất phân tích - tổng hợp, lịch sử - logic, diễn
dịch - quy nạp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh, phương pháp đọc hiểu tài liệu, văn
bản, chú giải học...Bài luận còn dựa vào vốn kiến thức đã học, tài liệu giáo trình sẵn có,
thông qua các buổi học trực tuyến .
6. Kết cấu của đề tài

Tiểu luận gồm 2 chương, kết luận và Tài liệu tham khảo.

3
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn
hóa kiệt xuất Việt Nam trong Nghị quyết 24C/18.6.5 của Khóa họp 24 Đại Hội đồng
UNESCO từ ngày 20-10-1987 đến ngày 20-11-1987.
Cống hiến của Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh còn thể hiện ở việc sáng tạo văn hóa
văn nghệ, xác lập hệ thống quan điểm về văn hóa và xây dựng nền văn hóa mới Việt
Nam. Cả cuộc đời Người chú trọng chống giặc dốt, phát triển văn hóa, nâng cao dân trí.
Nền văn hóa mà Hồ Chí Minh chủ trương kết hợp những truyền thống tốt đẹp của văn
hóa dân tộc được phát triển và nâng cao với tinh hoa văn hóa của nhân loại, thấm nhuần
sâu sắc chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính. Người cho rằng, phải làm
cho văn hóa đi sâu vào tâm lý quốc dân, đi vào cuộc sống mới; văn hóa phải sửa đổi tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ; văn hóa phải làm thế nào cho mọi người dân Việt
Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng
hạnh phúc mà mình nên được hưởng.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

1.1 Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

1.1.1 Định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hóa

Khái niệm “văn hóa” có nội hàm phong phú và ngoại diện rất rộng. Theo Hồ Chí Minh,
văn hóa có ý nghĩa vô cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Người viết: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.)

4
Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi,
văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo;
xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực
của sự phát triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
*Phương thức tiếp cận

Chủ tịch Hồ Chí Minh có bốn cách tiếp cận chủ yếu về văn hóa:
1) Tiếp cận theo nghĩa rộng, tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt của con người;
2) Tiếp cận theo nghĩa hẹp là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng
tầng;
3) Tiếp cận theo nghĩa hẹp hơn là bàn đến các trường học, số người đi học, xóa nạn
mù chữ, biết đọc biết viết (thường xuất hiện trong các bài nói với đồng bào miền núi);
4) Tiếp cận theo “phương thức sử dụng công cụ sinh hoạt”.
Qua nghiên cứu nhận thức của Hồ Chí Minh về văn hóa, chúng ta nhận thấy người xuấ
phát từ phạm trù ‘sinh tồn’ để kiến giải phạm trù văn hóa. Người coi văn hóa là kết quả
tổng hợp đúc kết từ mọi hình thức sinh hoạt của loài người khi phải thích ứng với mọi
nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
 Quan niệm văn hóa nêu trên của Hồ Chí Minh xuất hiện trong một bối cảnh thời gian
và không gian đặc biệt, khi UNESCO chưa thành lập, cả nước đang tập trung cho nhiệm
vụ giải phóng dân tộc. Đây là quan niệm văn hóa duy nhất theo nghĩa rộng. Từ sau Cách
mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh có bàn đến văn hóa nhưng theo nghĩa hẹp, với ý nghĩa là
kiến trúc thượng tầng, là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội.
1.1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác.

*Quan hệ giữa văn hóa và chính trị: Hồ Chí Minh cho rằng, trong đời sống có bốn vấn đề
phải được coi là quan trọng ngang nhau và có sự tác động qua lại lẫn nhau, đó là chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Ngày 24.11, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII, dẫn lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh“Văn hóa soi đường cho quốc dân

5
đi”, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, lâu nay, vị trí của văn hóa chưa được nhận
thức đầy đủ. “Văn hóa nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn, dân tộc còn”, ông nhấn
mạnh. (Báo Thanh Niên “Văn hóa còn, dân tộc còn”).

Văn hóa ngang hàng với chính trị kinh tế, xã hội, tạo thành 4 vấn đề chủ yếu của đời sống
và các vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau, được coi trọng như nhau.

Trong quan hệ với chính trị: Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị, tức
là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ chức và nhà
chính trị phải có hàm lượng văn hóa.

"Chính trị" trong ngôn ngữ phương Tây (Politic) là "khoa học và nghệ thuật giành, giữ và
thực thi quyền lực". ở phương Đông, bản thân từ “chính trị” trong nguyên nghĩa đã bao
hàm ý cai trị, quản lý đất nước, xã hội hướng theo chính đạo. Các-Mác đã quan niệm rằng
con người  khi sinh ra trước hết phải sống, phải lo đáp ứng những yêu cầu tối thiểu có
tính sinh học, sau đó mới quan tâm đến những vấn đề của khoa học, triết học, chính trị..
(Tạp chí điện tử học viện báo chí và tuyên truyền, “Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị
trong tư tưởng Hồ Chí Minh).

*Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế: Trong mối quan hệ với kinh tế, Hồ Chí Minh giải
thích rằng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, những cơ sở hạ tầng của xã hội
có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được.

Đời sống xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất của đời
sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Khái quát khoa học đó
cho thấy tất cả tầm rộng lớn và sâu sắc của văn hóa, từ đó dẫn đến nhiều khía cạnh lý
luận cùng những kết luận thực tiễn hết sức quan trọng. Xã hội đứng hai chân trên hai
“nền tảng”, nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không thể đứng vững.

Văn hóa cũng không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, nghĩa là văn hóa không
hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế. Tóm lại,

6
sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển; ngược lại, mỗi
bước phát triển của kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.

*Quan hệ giữa văn hóa và xã hội: Giải phóng chính trị đồng nghĩa với giải phóng xã hội,
từ đó văn hóa mới có điều kiện phát triển. Xã hội thế nào văn hóa thế ấy. Văn học, nghệ
thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng trong chế độ nô lệ của kẻ áp bức, thì
văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được.

Một trong những tiêu chí được sử dụng để đánh giá sự phát triển của xã hội là văn hóa.
Điều này được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong đường lối, chính sách phát triển
coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, xác định các định hướng ưu tiên nhằm phát
triển bền vững trong giai đoạn 2011-2020 là phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa
dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát
triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành
mạnh; xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là xây dựng, bồi đắp đạo đức,
lối sống, trí tuệ, thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội và ý thức chấp hành
pháp luật trong thế hệ trẻ. (Tỉnh ủy Khánh Hòa, “Tác động của văn hóa ứng xử đến sự
phát triển của xã hội”).

*Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại: Bản sắc văn hóa dân tộc
là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là thành quả của
quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con người Việt Nam.

Bản sắc văn hóa dân tộc được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là lòng yêu
nước, thương nòi; tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình thức, cốt cách văn
hóa dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ, phong tục, tập quán, lễ hội, truyền thống, cách cảm và
nghĩ...

Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất - danh nhân văn hóa thế giới, Người đã cống hiến
trọn đời mình cho nhân dân Việt Nam và cho nhân loại, là điểm hội tụ những giá trị cao
đẹp nhất trong lịch sử hàng ngàn năm văn hiến - văn minh của dân tộc Việt Nam; là biểu
7
tượng cao đẹp nhất của văn hóa Việt Nam trong thời đại mới, là điển hình của sự kết hợp
hài hòa giữa đạo lý của dân tộc với tinh hoa của nhiều dòng văn hóa Đông - Tây. Đã nhận
thức rất rõ mối quan hệ giữa dân tộc và bản sắc dân tộc. Người chỉ rõ: ''mỗi dân tộc phải
chăm lo đặc tính của mình trong nghệ thuật'', phải ''chú ý phát huy cốt cách dân tộc''. Và
Người nhắc nhở cần phải tránh 2 thái độ: tiếp thu một cách máy móc hoặc phủ định hoàn
toàn ''vốn cũ. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người luôn gạn đục khơi trong trong tiếp thu
truyền thống văn hóa, trong xây dựng thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Với Hồ Chí Minh, việc bảo vệ, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc là rất cần thiết, là việc
phải làm, nên làm, nhưng quan trọng hơn lại là việc biết vận dụng và phát triển những
bản sắc ấy vào cuộc sống. Đó chính là cách tốt nhất để bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hóa
dân tộc. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự gắn bó chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại. Theo
Người, mọi hiện đại, tiên tiến đều bắt nguồn từ truyền thống tết đẹp. Từ tầm nhìn của một
nhà văn hóa lớn. Người luôn nhắc nhở mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải biết quý
trọng vốn cổ dân tộc, ''dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam''.

Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt
Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung tiếp thu là toàn
diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh. Tiêu chí tiếp thu là có
cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và
tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để
tiếp thu văn hóa nhân loại.

1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa

1.2.1 Văn hóa là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng

Văn hóa là mục tiêu: Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Như vậy, cùng với chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa nằm trong mục tiêu chung của toàn bộ tiến trình cách mạng.

8
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu – nhìn một cách tổng quát – là quyền
sống, quyền sung sướng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc; là khát vọng của nhân
dân về các giá trị chân, thiện, mỹ. Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho một xã hội phát triển
bền vững với ba trụ cột là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Chúng ta có thể
nhận thức ở những mức độ khác nhau trong di sản Hồ Chí Minh về các mục tiêu của
Chương trình nghị sự XXI1, một phần quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.

Liên quan đến vai trò quan trọng của văn hóa trong quá trình phát triển của đất nước,
Đảng luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển kinh tế xã hội.

Lĩnh vực văn hóa luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, chỉ đạo đầu tư phát triển và đạt
được những thành tựu quan trọng. Văn hóa từng bước trở thành nền tảng vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, sự phát triển văn hóa hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức, bất cập, nảy
sinh nhiều vấn đề cần tập trung giải quyết. Bộ trưởng khẳng định, xây dựng văn hóa, phát
triển con người chính là mục đích cuối cùng của mọi sự phát triển. (Cổng thông tin điện
tử Thừa Thiên Huế, “ Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển”).

Văn hóa là động lực: Động lực là cái thúc đẩy làm cho phát triển. Di sản Hồ Chí Minh
cho chúng ta một nhìn nhận về động lực phát triển đất nước, bao gồm động lực vật chất
và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội lực và ngoại lực. Tất cả quy tụ ở con
người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa.
Nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có thể
nhận thức ở các phương chủ yếu diện sau:
 Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi,
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.

1
Chương trình nghị sự XXI được 189 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các quốc gia thành viên Liên hợp
quốc thông qua vào thàng 9 năm 2000 có 8 mục tiêu cụ thể: (1) Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; (2) Đạt phổ cập
giáo dục tiểu học; (3) Tăng cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ ; (4) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ
em; (5) Tăng cường sức khỏe bà mẹ; (6) Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) Bảo đảm bền vững
về môi trường; (8) Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển.

9
 Văn hóa văn nghệ góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng,
sự lạc quan, ý chí, quyết tâm và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
 Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, giúp con người hiểu biết quy luật phát
triển của xã hội.
 Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người,
hướng con người tới các giá trị chân, thiện, mỹ.
 Văn hóa pháp luật bảo đảm dân chủ, trật tự, kỷ cương, phép nước.

1.2.2 Văn hóa là một mặt trận

Văn hóa là một trong bốn nội dung chính của đời sống kinh tế - xã hội, quan trọng ngang
các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Nói mặt trận văn hóa là nói đến một lĩnh vực hoạt
động có tính độc lập, có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác, đồng thời phản ánh
tính chất cam go, quyết liệt của hoạt động văn hóa. Mặt trận văn hóa là cuộc đấu tranh
cách mạng trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng.

Mặt trận văn hóa là cuộc chiến đấu trên lĩnh vực văn hóa; vì vậy anh chị em văn nghệ sĩ
là chiến sĩ trên mặt trận ấy; cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em
là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tư tưởng của Người là nền tảng, là khát vọng của dân tộc ta
khẳng định bản sắc của mình. Chân lý này cũng đã được chứng minh trong suốt chiều dài
hàng ngàn năm của lịch sử đất nước. Văn hóa còn thì dân tộc còn. Những người hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật phải là những chiến sĩ vững vàng, điều này vô
cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đất nước ta nhiều lần bị đủ các loại kẻ thù xâm
lược, dù có mấy mươi năm, mấy trăm năm thậm chí hàng ngàn năm, nhưng chúng ta
chưa hề mất đi bản sắc văn hóa dân tộc; bởi lẽ trong bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta vẫn
giữ gìn được gia tài văn hóa, giữ gìn được bản sắc riêng. (Báo Vĩnh Long, “Văn hóa là
một mặt trận”).

10
Theo Hồ Chí Minh, dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, thời đại ta là một thời đại vẻ
vang. Vì vậy chiến sĩ văn nghệ phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc anh hùng
và thời đại vẻ vang.

1.2.3 Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân

Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng văn hóa
của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo Người, mọi hoạt động văn hóa phải
trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh được tư tưởng và khát vọng của
quần chúng.

Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hoá, do vậy văn hoá phải
phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Với Người việc
xây dựng nền văn hoá có tính đại chúng gắn liền với nhân dân luôn được quan tâm đặc
biệt. Do vậy Người luôn nhắc nhở những người làm công tác văn hoá phải quan tâm đến
đối tượng phục vụ là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn đề cao những giá trị tốt đẹp của nền
văn hoá dân tộc đã có từ nghìn năm. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của
toàn dân không chỉ có nghĩa là toàn dân tham gia sáng tạo văn hoá mà còn có nghĩa là
toàn dân đựợc hưởng thụ văn hoá, mọi tài sản văn hoá đều thuộc sở hữu toàn dân. Xây
dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách
mạng và sự kiên trì thận trọng. Sự nghiệp xây dựng nền văn hoá của rnước ta hiện đang
có nhiều thời cơ thuận lợi song cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ lớn.
(Báo Bắc Kạn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân”).

11
CHƯƠNG 2: SỰ VẬN DỤNG CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
2. Sự Vận dụng của sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc hiện nay.

2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới

Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Cùng với việc đưa ra quan niệm về ý nghĩa của văn hóa, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc
xây dựng nền văn hóa dân tộc với 5 nội dung:

 Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường.


 Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
 Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân.
 Xây dựng chính trị: dân quyền.
 Xây dựng kinh tế.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, Hồ Chí Minh khẳng định
lại quan điểm của Đảng từ năm 1943 trong Đề cương văn hóa Việt Nam về phương châm
xây dựng nền văn hóa mới. Đó là một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng.

Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.

Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, đó là là
một nền văn hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc, bảo đảm tính khoa
học, tiến bộ và nhân văn. Ngày nay, trước những biến động của tình hình thế giới và khu
12
vực đang tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hoá của dân tộc, một mặt, chúng ta tiếp thu
có chọn lọc những giá trị văn hoá tiên tiến, khoa học, đại chúng. Mặt khác, chúng ta cũng
kiên quyết xoá bỏ những hủ tục, tàn dư, những sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài.
Đặc biệt, để văn hoá tăng thêm sức mạnh dân tộc, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thì
mỗi người dân chúng ta cần phải giữ gìn nền văn hoá Việt Nam luôn tiên tiến, đậm đà
bản sắt dân tộc.   

2.2 Sự vận dụng bản sắc văn hóa dân tộc của sinh viên trong xã hội hiện nay

Đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, sức mạnh nội
sinh quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đúng với khẩu hiệu của chúng ta trong thời đại
ngày nay: Hòa nhập chứ không hòa tan, chúng ta hội nhập với sự phát triển của thế giới
nhưng song song với đó vẫn giữ được những nét truyền thống, nét đặt trưng của dân tộc.

Tuy nhiên giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, khép kín, “nhốt”
nền văn hóa dân tộc khỏi sự ảnh hưởng của bên ngoài mà nó đồng nghĩa với việc giao lưu
hợp tác văn hóa để tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại tiến bộ làm cho nền văn
hóa dân tộc giàu có hơn, hiện đại hơn, có sức sống mãnh liệt hơn, đề kháng trước những
yếu tố phản văn hóa.

Một ví dụ điển hình trong việc vận dụng văn hóa nước nhà xen lẫn tiếp thu sự hiện đại,
cải cách đó chính là việc cách tân tà áo dài truyền thống. Dù áo dài truyền thống hay cách
tân thì người mặc những trang phục ấy đều thấy tự hào và yêu văn hóa Việt. Năm 2015,
một sự “chuyển mình” đầy ngoạn mục của chiếc áo dài. Để giúp tất cả các chị em có thể
dễ dàng diện trang phục áo dài, các nhà thiết kế đã nghĩ ra việc cách tân tăng tính ứng
dụng áo dài trong đời sống đương đại. Khác với những tà áo dài xưa thường được may
dài đến cổ chân phối cùng quần dài rộng thì ngày nay các tà áo dài cách tân được thiết kế
với tà ngắn chỉ ngang đến đầu gối, tay lỡ, cổ tròn hoặc cổ thuyền đơn giản hơn nhiều với
áo dài truyền thống. Mỗi năm các cuộc thi thiết kế áo dài đều thu hút đông đảo sinh viên,
thế hệ trẻ tham gia. Đây là một cơ hội để sinh viên tìm hiểu lịch sử, nét văn hóa truyền

13
thống của Việt Nam ta. Áo dài cách tân đã đưa trang phục truyền thống vào cuộc sống
hằng ngày, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của thế hệ trẻ hơn. Áo dài cách tân dù có
phổ biến trong cuộc sống thường nhật nhưng sẽ không thể nào thay thế được vai trò của
chiếc áo dài truyền thống vào những dịp đặc biệt. Cả hai đều có những vẻ đẹp và sứ mệnh
riêng, cần được đặt vào những hoàn cảnh sao cho phù hợp văn hóa.

2.3 Sinh viên cần làm gì để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

Mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng
cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì lợi
ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn
trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm
văn hóa không lành mạnh.

Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc giáo dục
tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm hiểu liên quan
lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ
động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu
những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào
dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với
những biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ.

Hội Sinh viên Việt Nam các cấp cần trở thành mái nhà chung ấm áp để sinh viên đóng
góp, cống hiến trong các phong trào Hội.

Hội Sinh viên cần tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành mạnh để đáp ứng nhu cầu học tập,
vui chơi và giải trí của hội viên, sinh viên. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để sinh
viên đăng ký và tham gia nghiên cứu, thực hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng
các đề tài liên quan bảo vệ, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

14
Những hội viên và quan trọng hơn là những cán bộ nòng cốt của Hội phải là những người
tiên phong đi đầu, làm gương trong công tác này, chủ động xây dựng tác phong, lối sống
đẹp, sống có ích... và động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng. Được như vậy, vai
trò của Hội Sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ nhanh
chóng được khẳng định. (Báo Nhân Dân, “Vai trò của sinh viên trong việc giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”).

2.4 Trách nhiệm của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa.

Hiện nay nhiều nguồn văn hóa đang du nhập vào nước ta khiến nhiều người dần thay đổi
nhận thức và đánh mất đi những bản sắc, giá trị dân tộc. Hơn lúc nào hết, lúc này chúng
ta, nhất là thế hệ trẻ phải "xung kích" để bảo vệ những giá trị tinh thần lớn lao ấy, để đất
nước chúng ta vẫn giữ nguyên được bản sắc, hòa nhập chứ không hòa tan.

Thế hệ trẻ là mũi nhọn của đất nước trước sự "xâm lược" của văn hóa độc hại. Những
người trẻ là lực lượng xung kích, sáng tạo có vai trò quan trọng to lớn trong việc giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, họ là lực lượng trực tiếp tham gia bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát
triển và quảng bá những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc thực hiện nội
dung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để phát huy vai trò, sức mạnh của
mình, thế hệ trẻ nên trau dồi kiến thức về văn hóa dân tộc, lên án những hành vi sai trái
làm suy đồi đạo đức, văn hóa, tuyên truyền những thông tin chính thống, đúng đắn cho
mọi người và phải rèn luyện lối sống tốt đẹp, bảo lưu những giá trị tinh thần của dân tộc.

Thế hệ trẻ là thế hệ sẽ tiếp nối, xây dựng đất nước, chính vì vậy, hơn ai hết họ phải nhận
thức, hiểu được tầm quan trọng của những nét đặc sắc văn hóa, bản sắc dân tộc.  Hi vọng
rằng giới trẻ sẽ thực hiện được lời dạy của Bác Hồ, đưa nước ta sánh vai với các cường
quốc năm châu.

2.5 Biện pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

-Một là, sinh viên tham gia đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục ý thức tự giác của
người dân trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa gắn với quảng bá du lịch. Từ đó

15
khơi dậy lòng tự hào của mỗi dân tộc đối với di sản văn hóa tốt đẹp của cộng đồng mình
bằng các hoạt động như: tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, nếp sống văn hoá mới ở các bản, làng,
gia đình, dòng họ;…

-Hai là, tiếp tục đẩy mạnh rà soát, thống kê toàn bộ các loại hình văn hóa, văn hóa vật thể
như: kiến trúc nhà ở, dụng cụ lao động sản xuất, đồ gia dụng, phương tiện vận chuyển,
nhạc cụ,...); văn hóa phi vật thể như: truyện kể, văn thơ (truyền miệng, chữ viết…), địa
chí, hương ước, ca dao, tục ngữ, câu đố, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng,...

-Ba là, tập trung quy hoạch bảo tồn, phát huy di sản văn hoá gắn với xây dựng hệ thống
du lịch ở các địa phương nói mình sinh sống một cách đồng bộ và khoa học, để các hoạt
động này nhanh chóng trở thành những sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn, góp phần thay
đổi bộ mặt nông thôn, làng, bản, làm cho đời sống văn hoá ở địa phương ngày càng
phong phú.

-Bốn là, huy động mọi nguồn lực xã hội hóa, cộng đồng dân cư, nguồn hỗ trợ để đầu tư
bảo tồn bản sắc văn hóa, gắn với sản phẩm đặc trưng du lịch, kêu gọi các cá nhân, tổ
chức doanh nghiệp đầu tư hoạt động kinh doanh các điểm thể thao, vui chơi giải trí trên
địa bàn.

16
KẾT LUẬN
Mỗi một giá trị văn hóa là thành quả của một quá trình sáng tạo lâu dài. Ở đó, con người
vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, vừa là đối tượng thụ hưởng, cũng vừa là một sản phẩm
văn hóa, Chính vì lẽ đó, phát triển văn hóa gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng con người
văn hóa đang là xu thế tất yếu hiện nay. Bác Hồ từng nói “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, trong mọi sự phát triển, dù ở tầm cao
hay chiều sâu, thì điều cốt lõi vẫn là chất lượng. Phát triển văn hóa cũng vậy, thậm chí
càng quan trọng hơn khi mọi sự phát triển muốn đạt chất lượng và sự bền vững, nhất thiết
phải có nội dung văn hóa. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng các chính sách phát triển văn hóa
từ tầm vĩ mô đến vi mô, phải phản ánh được những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập, việc gìn giữ các giá trị văn hóa không phải là bảo quản nó trong
tủ kính; mà cần gắn với việc phát huy để làm tỏa sáng các giá trị ấy trong đời sống. Theo
đó, du lịch được xem là một giải pháp nhằm mở hướng cho việc khai thác và phát huy giá
trị nguồn tài nguyên nhân văn. Đồng thời, du lịch không chỉ là ngành kinh tế dịch vụ xuất
khẩu tại chỗ có giá trị cao và thu hút nhiều lao động; mà còn giúp những giá trị văn hóa
của dân tộc được thấm sâu, được lan tỏa trong nước và quốc tế. Về với xứ Thanh, nơi núi
biếc như bia đá đã ghi tạc nhiều cái tên như Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi... cùng biết bao
anh hùng, nhân sĩ mà sự nghiệp lẫy lừng của họ đã viết lên những trang sử chói ngời
trong lịch sử dân tộc. Về với xứ Thanh, nơi nước biếc mây trời tô điểm vô vàn cảnh sắc
tươi đẹp, để có những trải nghiệm đáng nhớ và để có những giây phút bình yên. Đồng
thời, để thêm khát vọng giàu đẹp cho quê hương xứ sở và cũng là để nền văn hiến Việt
Nam mãi lấp lánh trong dòng chảy văn minh nhân loại.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh- Dành cho bậc đại học không chuyên- Ngành lý
luận chính trị. (Hà Nội 8/2019)
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.458.
3. Báo Thanh Niên “Văn hóa còn, dân tộc còn”
https://thanhnien.vn/van-hoa-con-dan-toc-con-post1404855.html
4. Tạp chí điện tử học viện báo chí và tuyên truyền, “Mối quan hệ giữa văn hóa và
chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/moi-quan-he-giua-van-hoa-va-chinh-tri-trong-tu-
tuong-ho-chi-minh-p24776.html
5. Tỉnh ủy Khánh Hòa, “Tác động của văn hóa ứng xử đến sự phát triển của xã hội”
https://tinhuykhanhhoa.vn/tin-chi-tiet/id/7787/Tac-dong-cua-van-hoa-ung-xu-den-su-
phat-trien-xa-hoi
6. Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế, “ Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động
lực phát triển”.
https://thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Chinh-sach-moi/tid/Van-hoa-vua-la-muc-tieu-vua-la-
dong-luc-phat-trien/newsid/6B38DF24-CA21-47A1-80CD-AAF8011496F0/cid/
2BEA0540-FCA4-4F81-99F2-6E8848DC5F2F
7. Báo Nhân Dân, “Vai trò của sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc”)
https://nhandan.vn/chinhtri/vai-tro-cua-sinh-vien-trong-giu-gin-va-phat-huy-ban-sac-van-
hoa-dan-toc-195345/
8. Báo Vĩnh Long, “Văn hóa là một mặt trận”
http://www.baovinhlong.com.vn/van-hoa-giai-tri/202106/van-hoa-la-mot-mat-tran-
3061718/#.YfIWaElBzrf
9. Báo Bắc Kạn, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân”
http://baobackan.com.vn/channel/1166/200802/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-van-hoa-phuc-
vu-quan-chung-nhan-dan-6973/

You might also like