You are on page 1of 30

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA.
VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG

Lớp : 2310HCMI0111
Nhóm : 5
GVHD: TS. Hoàng Thị Thúy

Hà Nội, năm 2023


THÀNH VIÊN NHÓM

STT Tên thành viên Nhiệm vụ Đánh giá


68 Nguyễn Thị Phượng

69 Lê Thị Nguyệt Quế


70 Vũ Thị Thanh Quế

71 Lê Thị Như Quỳnh


71 Đinh Hữu Tài

73 Nguyễn Thanh Thảo

74 Phạm Thanh Thảo


75 Phạm Thị Phương Thảo

76 Trần Thu Thảo

77 Nguyễn Thị Thắm

78 Nguyễn Thị Minh Thu


79 Khoàng Phương Thùy

80 Vũ Thị Phương Thủy

81 Chu Thị Thanh Thúy

82 Phạm Thị Thúy

83 Doãn Hà Trang
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
I. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH..........2
1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác...2
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa............................................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác....3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa....................................................5
2.1. Văn hóa là mục tiêu động lực của sự nghiệp cách mạng.....................................5
2.2. Văn hóa là một mặt trận......................................................................................9
2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân.............................................................10
3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa mới................12
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC
ĐƯỜNG............................................................................................................................... 14
1. Một số vấn đề chung về văn hóa học đường (VHHĐ)..............................................14
2. Thực trạng của văn hoá học đường ngày nay............................................................15
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn hóa học đường cho
học sinh, sinh viên..........................................................................................................18
3.1. Phía nhà trường.................................................................................................18
3.2. Phía học sinh, sinh viên....................................................................................21
4. Đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn hóa
học đường...................................................................................................................... 21
5. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xây dựng văn hóa học đường vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh........................................................................................................................ 22
III. KẾT LUẬN.................................................................................................................... 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................27
LỜI MỞ ĐẦU

Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa
Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc; hình thành nên những giá trị văn hóa Việt Nam cao đẹp, bền vững: yêu
nước, đoàn kết, cần cù, dũng cảm, tài trí, lạc quan, hiếu học, nghĩa tình, hòa hiếu, khoan
dung. Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng Hồ Chí Minh đã
đặt văn hóa ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của xã
hội và các vấn đề này có quan hệ với nhau rất mật thiết. Cho nên trong công cuộc xây dựng
đất nước, cả bốn vấn đề này được coi trọng như nhau. Văn hoá không thể đứng, ngoài mà
phải đứng trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế. Văn hoá giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước. Văn hoá
là đời sống tinh thần của xã hội, văn hoá có phát triển thì xã hội đó mới phát triển và vững
mạnh.

Văn hóa học đường luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm và trong thời gian qua
nhiều thế hệ học sinh, sinh viên cũng như các nhà giáo đã và đang đầu tư nhiều tài lực, vật
lực, trí tuệ nhằm đưa chất lượng đào tạo của Việt Nam ta đạt trình độ ngang tầm khu vực và
thế giới. Không những giáo dục và đào tạo cho học sinh, sinh viên Việt Nam thành những
con người tri thức, văn minh, hiện đại mà còn trở thành những người công dân cư xử có văn
hóa, sống có lý tưởng cách mạng, sống có văn hóa, đạo đức, có lòng yêu nước, tự hào dân
tộc nhằm đào tạo nên những thế hệ công dân tốt, có phẩm chất, năng lực, đạo đức, văn hóa
đáp ứng yêu cầu của xã hội. Do đó, xây dựng văn học đường trở thành việc làm hết sức quan
trọng và cần hết sức trú trọng. Từ tầm quan trọng đó, Đảng luôn phát động các phong trào
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, điều này mang ý nghĩa sâu xa, thiết
thực trong toàn xã hội Việt Nam cũng như trong thế hệ trẻ nói riêng.

Vì thế, Nhóm 5 đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Vận dụng trong
xây dựng văn hóa học đường”.

1
I. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Một số nhận thức chung về văn hóa và quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa

a) Định nghĩa về văn hóa

Khái niệm “văn hóa” có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng. Chính vì vậy đã có
hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Tháng 8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới
Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa của mình về văn hóa. Điều thú vị là
định nghĩa của Hồ Chí Minh có rất nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hóa.
Người viết:

“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

Với định nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về văn hóa
trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong văn học nghệ thuật,
hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học vấn… Trên thực tế, văn hóa
bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra,
nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích sống của loài người.

b) Quan điểm về xây dựng nền văn hóa mới

Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định hướng
cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:

“1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2 - Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3 - Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã
hội.

4 - Xây dựng chính trị: dân quyền.

5 - Xây dựng kinh tế.”


2
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ vai trò, vị
trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau khi giành được độc
lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam
trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người, đã sớm
đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác

Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác định văn
hóa đứng ngang hàng với các lĩnh vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến
thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa”. Quan trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa
văn hóa với các lĩnh vực khác. Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và
chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Đời sống xã hội được
xây dựng, kết cấu đan cài từ bốn lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trong đó, văn
hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, là lĩnh vực thuộc về kiến trúc thượng tầng của
xã hội, và được nhận thức như sau:

a) Trong quan hệ văn hóa với chính trị

Để văn hoá phát triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến
hành cách mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để
giành chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá, mở
đường cho văn hoá phát triển. Tuy nhiên, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong
chính trị, tức là văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị; đồng thời mọi hoạt động của tổ
chức và nhà chính trị phải có hàm lượng văn hóa. "Văn hóa ở trong chính trị" tức văn hóa
phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị, tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: "Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa",
hoặc đường lối kháng chiến toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy.
Theo đó, một phong trào văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn ra rất sôi động,
góp phần đắc lực vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là một
nhiệm vụ rất quan trọng. Mặt trận văn hóa, văn nghệ không chỉ diễn ra trong chống giặc
ngoại xâm, mà còn cả ở công cuộc rất khó khăn, phức tạp là chống giặc nội xâm, “giặc ở
trong lòng”, chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện như tham ô, nhũng nhiễu, lãng phí, lười

3
biếng, quan liêu,... Vì thế, mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa thể hiện càng sâu sắc hơn, hai lĩnh vực phải được tiến hành cùng lúc, thúc đẩy nhau
cùng phát triển.

Tóm lại, Hồ Chí Minh cho rằng, nước Việt Nam thuộc địa, trước hết phải giải phóng
dân tộc, giành độc lập dân tộc, thiết lập nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó chính là sự
giải phóng chính trị để mở đường cho văn hóa phát triển.

b) Trong quan hệ với kinh tế

Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ kinh tế
thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng
tầng. Người cho rằng, "Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, cơ sở hạ tầng xã hội có kiến
thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được".

Như vậy, vấn đề ở đây là kinh tế phải đi trước một bước. Đối với mối quan hệ giữa
văn hóa và kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ
ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”. Quan điểm của Người
chỉ rõ kinh tế chính là cơ sở của văn hóa; do đó, kinh tế phải đi trước một bước, phải chú
trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn
hóa.

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa
xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa... để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân ta". Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế, văn hóa không
hoàn toàn phụ thuộc vào kinh tế, mà có vai trò tác động tích cực trở lại kinh tế.

Văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng, vì thế phải dựa trên sự kiến thiết, phát triển của
cơ sở hạ tầng của xã hội thì mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển văn hóa.
Đồng thời, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi
phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc
cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”. Quan điểm này của Người khẳng định rằng văn hóa có tính tích cực, chủ động, là
động lực của kinh tế và chính trị, vì thế văn hóa phải ở trong kinh tế, thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế.
4
Tóm lại, sự phát triển của chính trị, kinh tế, xã hội, sẽ thúc đẩy văn hóa phát triển;
ngược lại, mỗi bước phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều có sự khai sáng của văn hóa.

c) Trong quan hệ văn hoá với xã hội

Theo Hồ Chí Minh, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính
trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “xã hội thế nào, văn nghệ thế
ấy”. Văn học nghệ thuật của dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhưng chế độ nô lệ của kẻ áp
bức, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được. Phải làm cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng chính trị, giải phóng xã
hội, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên địa vị cầm quyền, thì mới giải phóng được văn hóa.
Như vậy, xã hội phát triển thì văn hóa phát triển, mỗi bước tiến hóa của xã hội đều được văn
hóa soi sáng.

d) Về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu văn hóa nhân loại

Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị văn hóa bền vững của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, là thành quả của quá trình lao động, sản xuất, chiến đấu và giao lưu của con
người Việt Nam. Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Theo Người,
mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa
Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ.

Những luận điểm toàn diện và sâu sắc này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng
cho quan điểm hiện nay của Đảng ta; khẳng định xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
đất nước, nhân dân, chủ trương của Đảng ta luôn nhất quán là: tăng trưởng kinh tế không
phải là mục tiêu duy nhất, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản
sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc và giải quyết những vấn đề an sinh xã hội; văn hóa là nguồn
lực, động lực của phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước, xác định phát triển văn
hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta”.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa

2.1. Văn hóa là mục tiêu động lực của sự nghiệp cách mạng

a) Văn hóa là mục tiêu

5
Văn hóa là kiến trúc thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã hội
thực dân phong kiến và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) tốt đẹp là
mục tiêu của văn hóa. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, trong đó văn hóa cùng với kinh tế, chính trị, xã hội là các mục tiêu chung của
cách mạng Việt Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đứng ngang hàng với các lĩnh
vực hoạt động khác của xã hội: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng
phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Quan
trọng hơn nữa, Người đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác.
Văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế,
chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa
và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì
chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt
được.

Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là mục tiêu chính, là quyền sống, quyền tự do quyền mưu
cầu hạnh phúc, là khát vọng của người dân về các giá trị trong chân-thiện-mỹ. Đó là xã hội
dân chủ- dân là chủ và dân làm chủ- công bằng, văn minh, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành; một xã hội đời sống vật chất, tinh thần của người dân luôn luôn được
quan tâm và không ngừng được nâng cao, con người có điều kiện phát triển toàn diện.

Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những nếp
sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến
một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”.

b) Văn hóa là động lực

Động lực là cái thúc đẩy cho sự phát triển. Di sản Hồ Chí Minh cho thấy động lực phát
triển đất nước bao gồm động lực vật chất và tinh thần; động lực cộng đồng và cá nhân; nội
và ngoại lực.Văn hóa tạo sức mạnh vật chất, tinh thần thắng ngoại xâm theo tinh thần văn
minh thắng bạo tàn. Nếu kinh tế nâng cao đời sống vật chất, thì văn hóa có tác dụng nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Tất cả quy tụ ở con người và đều có thể được xem xét dưới góc độ văn hóa. Tuy nhiên,
nếu tiếp cận các lĩnh vực văn hóa cụ thể trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực có nhận thức
ở các phương diện chủ yếu:

6
Văn hóa chính trị là một trong những động lực có ý nghĩa soi đường cho quốc dân đi,
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự lực, tự chủ, tự cường. Theo tinh thần của Người,
văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói riêng phải lấy dân làm gốc. Gốc có vững cây mới
bền. Quan niệm chính trị của Hồ Chí Minh “là đoàn kết và thanh khiết từ to đến nhỏ”, “văn
hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong chính trị”; “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”
tỏ rõ một điểm nhấn quan trọng trong nhận thức về văn hóa chính trị tập trung ở tổ chức
chính trị và hoạt động chính trị mà hạt nhân là tư cách của một Đảng chân chính cách mạng
với sứ mệnh công bộc trong hoạt động chính trị. Văn hóa nói chung, văn hóa chính trị nói
riêng không phải biểu hiện là cái gì mà chủ yếu là ở ý nghĩa và giá trị với một phương thức
định hình, định hướng đặc thù đối với hành động chính trị có văn hóa. Theo Hồ Chí Minh,
văn hóa chính trị của chính thể Dân chủ Cộng hòa là phải xây dựng tâm lý độc lập tự lực, tự
cường cho dân tộc. Cán bộ, đảng viên phải biết và dám hy sinh mình, làm lợi cho quần
chúng. Đảng và Nhà nước phải xây dựng một xã hội mà mọi sự nghiệp gắn với phúc lợi của
nhân dân trong xã hội, lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở. Đặc biệt chế độ
Dân chủ Cộng hòa phải hàm chứa một nền chính trị dân quyền. Hồ Chí Minh nói “Đảng ta
là đạo đức, là văn minh/Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no” là nói tới văn hóa chính
trị, tập trung ở đây là văn hóa Đảng. Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải mang trong mình
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Trong
đó, tư duy biện chứng, độc lập, sáng tạo, của cán bộ, đảng viên là động lực dẫn đến tư tưởng
và hành động cách mạng đúng đắn.

Văn hóa nghệ thuật góp phần nâng cao lòng yêu nước, lý tưởng, tình cảm cách mạng,
sự lạc quan và niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra các quan điểm cơ bản định hướng cho việc xây dựng nền văn nghệ cách mạng: Văn
hóa, văn nghệ là một mặt trận, người hoạt động văn hóa, nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy,
tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Nội dung này là sự nhấn
mạnh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khẳng định vai trò, vị trí của văn hóa, văn
nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn hóa cũng có tầm quan trọng như mặt trận
quân sự, chính trị, kinh tế.“Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. “Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ
nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự
nhân dân... Nói tóm tắt là phải đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên

7
trên hết, trước hết”. Đối với mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và tự do của văn nghệ sĩ,
Người luôn chỉ rõ: dân tộc bị áp bức thì văn nghệ sĩ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do
phải tham gia cách mạng…

Văn hóa giáo dục diệt giặc dốt, xóa mù chữ, nâng cao hiểu biết của con người, hiểu
biết về quy luật phát triển của xã hội, đào tạo ra cán bộ, con người mới - nguồn nhân lực
chất lượng cao cho sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, việc xây dựng nền giáo dục mới phải được coi là nhiệm vụ cấp bách, có
ý nghĩa chiến lược, cơ bản, lâu dài, có tác dụng “làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân
tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.
Do đó, điều quan trọng trước tiên ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập là phải mở
ngay chiến dịch chống “giặc dốt”. Người xác định mục tiêu của giáo dục là thực hiện ba
chức năng của văn hóa bằng giáo dục: dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình
cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp... Những
quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục là định hướng cho việc xây dựng nền giáo dục mới
phát triển đúng đắn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và góp phần quan trọng vào
quá trình đấu tranh thống nhất nước nhà.

Văn hóa đạo đức, lối sống nâng cao phẩm giá, phong cách lành mạnh cho con người,
hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Đạo đức được Bác coi là cái gốc của người cách mạng,
muôn việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức hay không. Hồ Chí Minh quan
niệm văn hóa đạo đức và lối sống có quan hệ mật thiết với nhau. Theo Người, đạo đức là cái
gốc của xã hội, của con người; đạo đức là nền tảng để hình thành và xây dựng lối sống mới
của con người mới trong xã hội mới. Người cho rằng, đạo đức là những quy tắc, những
chuẩn mực phù hợp với cuộc sống được con người và cộng đồng thừa nhận nhằm điều hòa
mối quan hệ giữa người với người trong quá trình phát triển xã hội. Còn lối sống là cái biểu
hiện bên ngoài, là hệ quả trực tiếp của đạo đức. Trong thực tế, các quan điểm, lối sống, lẽ
sống của dân tộc, cộng đồng cũng chính là quan điểm, giá trị văn hóa đạo đức của dân tộc,
của cộng đồng và ngược lại. Và những chuẩn mực, những khuôn mẫu đạo đức khi đã trở
thành nếp, thành thói quen, tập quán xã hội thì đó chính là lối sống của một cộng đồng, một
cá nhân.

Văn hóa pháp luật đảm bảo dân chủ, kỷ cương, phép nước, trật tự xã hội. Ngay từ khi
nước nhà mới giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nước ta là nước dân
chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân". Dân chủ là bản chất
8
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng, là mục tiêu, động lực của sự phát triển
xã hội, của tiến bộ xã hội, do đó, thực hành và đảm bảo dân chủ là yêu cầu, nhiệm vụ quan
trọng của nhà nước, "là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn". Ðể bảo đảm
và thực hiện tốt dân chủ phải coi trọng việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật vì pháp luật
chính là công cụ để bảo đảm, bảo vệ các quyền dân chủ cho nhân dân trong thực tế. Tuy
nhiên, dân chủ phải có kỷ cương, kỷ luật, bởi vậy cần phải sử dụng pháp chế, thực thi tốt
pháp luật. Thực hành tốt dân chủ mới giúp bảo đảm và khẳng định bản chất dân chủ ưu việt
tốt đẹp khác biệt của nhà nước xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng – một nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật giúp thể chế hóa các quyền dân chủ cho
nhân dân, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời bảo đảm cho nhân dân được thực
hiện đầy đủ các quyền dân chủ của mình, ngăn chặn các hành vi vi phạm dân chủ từ bất kỳ
lực lượng nào, tổ chức nào, cá nhân nào.

2.2. Văn hóa là một mặt trận

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã xác định: văn hóa là một mặt trận quan trọng, “Văn hóa phải
soi đường cho quốc dân đi”; văn hóa Việt Nam mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng.

Mặt trận văn hóa cần được hiểu là có tính chất độc lập, ngang hàng với các mặt trận
khác, đồng thời phản ánh cuộc đấu tranh khó khăn phức tạp không thể hoàn thành một sớm
một chiều. Cuộc đấu tranh đó bao hàm cả mặt “xây” và “chống” trong đó lấy “xây” làm
chính là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài.

Trên cơ sở triết lý dùng văn hóa đánh giặc của dân tộc, tư tưởng này của Hồ Chí Minh
được hình thành sớm, tiếp tục phát triển qua các giai đoạn cách mạng. Hồ Chí Minh bắt đầu
tham gia vào mặt trận văn nghệ từ bài viết đầu tiên “Tâm địa thực dân” năm 1919. Người
dùng ngòi bút của mình như một vũ khí sắc bén trong việc tố cáo, vạch trần tội ác thực dân
trong các chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, đồng thời thức tỉnh, định hướng, động viên;
cổ vũ tinh thần đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Thông qua nhiều bài viết, Người đã
“giải độc” cho người Đông Dương bằng luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc
cách mạng. Văn nghệ đã thực sự trở thành sợi dây bền chặt liên kết các dân tộc trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

Mặt trận văn hóa là một nhiệm vụ nặng nề. Một mặt văn hóa phải góp phần chống lại
các thế lực thù địch với nhiều thủ đoạn nham hiểm như chiến lược “diễn biến hòa bình” .
Cuộc đấu tranh này có lúc công khai có lúc ngấm ngầm nhưng dai dẳng và quyết liệt. Mặt

9
khác văn hóa và tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh chống giặc nội xâm, phanh phui,
lên án những tiêu cực như quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong những cái “khó hơn
nhiều” trong cuộc đấu tranh chống bần cùng lạc hậu so với cuộc đấu tranh chống đế quốc
phong kiến của cuộc đấu tranh chống lại “giặc trong lòng” để làm được điều này đòi hỏi trí
tuệ bản lĩnh của toàn dân, trong đó những văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng .

Nội dung mặt trận văn hóa phong phú, đấu tranh trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức,
lối sống… của các hoạt động văn nghệ, báo chí, công tác lý luận, đặc biệt là vai trò định
hướng giá trị chân, thiện, mỹ. Văn hóa là một mặt trận nên người hoạt động trên lĩnh vực
văn hóa phải là chiến sĩ lực lượng nòng cốt trong xây dựng văn hóa, nghệ thuật là văn nghệ
sĩ. Hồ Chí Minh gọi là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ là chiến sĩ cách mạng. Văn
nghệ sĩ phải biết xung phong và xung phong là sức mạnh của văn nghệ sĩ. Với vũ khí là cây
bút, trang giấy, tài năng nghệ thuật, người nghệ sĩ phải đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng,
vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Điều quan trọng đối với văn nghệ sĩ- chiến sĩ
là phải có dũng khí, không để cho ngòi bút của mình phụ thuộc vào tiền tài, danh vọng,
quyền lực, không bẻ cong ngòi bút và điều chính yếu là phải có lập trường chính trị vững
chắc, phải trau dồi nghệ thuật nghiệp vụ, đi thực tế tôn trọng sự thật . Như vậy để làm tròn
nhiệm vụ, chiến sĩ trên các mặt trận văn hóa phải có lập trường tư tưởng vững vàng, ngòi bút
là vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Họ phải bám sát cuộc sống thực tiễn, đi
sâu vào quần chúng để cổ vũ con người phấn đấu xây dựng cái đúng, cái đẹp, cái tốt. Đồng
thời, phê bình nghiêm khắc những thói xấu như tham ô, lười biếng, lãng phí, quan liêu,…

Đảng và Nhà nước phải quan tâm bồi dưỡng giáo dục xây dựng đạo đức cho những
người nghệ sĩ đào tạo họ trở thành những nghệ sĩ chân chính. Đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ
sở cần phải được tiếp tục đào tạo để đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển văn hóa
trong thời kỳ mới, đủ bản lĩnh chống lại âm mưu, thủ đoạn của tuyên truyền, chống phá của
các thế lực phản động trong và ngoài nước, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn
diện của đất nước.

2.3. Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao những sản phẩm văn hoá dân gian và luôn nhắc nhở mọi
người phải biết trân trọng, giữ gìn và phát huy những sáng tạo tinh thần của nhân dân. Văn
hóa phục vụ quần chúng nhân dân Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng hạnh phúc
của nhân dân. Tư tưởng văn hóa của Người cũng vì nhân dân, phục vụ nhân dân. Theo

10
Người, mọi hoạt động văn hóa phải trở về với cuộc sống thực tại của quần chúng, phản ánh
được tư tưởng và khát vọng của quần chúng.

Cuộc sống thực tế của nhân dân chính là nguồn gốc của văn hoá, do vậy văn hóa phải
phục vụ nhân dân và nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hóa. Với Người việc xây
dựng nền văn hoá có tính đại chúng gắn liền với nhân dân luôn được quan tâm đặc biệt. Do
vậy Người luôn nhắc nhở những người làm công tác văn hoá phải quan tâm đến đối tượng
phục vụ là nhân dân. Hồ Chí Minh luôn đề cao những giá trị tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc
đã có từ nghìn năm.

Văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn,
phải trả lời được các câu hỏi: Viết cho ai? Mục đích viết? Lấy tài liệu đâu mà viết? Cách viết
như thế nào? Viết phải thiết thực, tránh cái lối viết rau muống mà ham dùng chữ. Nói cũng
vậy. Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn thì quần chúng thích hơn. Tóm lại
"từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng". Trên cơ sở đó để định hướng giá trị cho
quần chúng.

Chiến sĩ văn hóa phải hiểu và đánh giá đúng quần chúng. Quần chúng là những người
sáng tác rất hay. Họ cung cấp cho những nhà hoạt động văn hóa những tư liệu quý. Và chính
họ là những người thẩm định khách quan, trung thực, chính xác các sản phẩm văn nghệ. Xây
dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân không chỉ có nghĩa là toàn dân tham
gia sáng tạo văn hoá mà còn có nghĩa là toàn dân được hưởng thụ văn hoá, mọi tài sản văn
hoá đều thuộc sở hữu toàn dân. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.

Đảng ta xác định rằng, công cuộc đổi mới không chỉ xuất phát từ nền tảng văn hóa,
hướng tới mục tiêu văn hóa, mà còn là một sự nghiệp văn hóa, và do đó cần làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao,
khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chính là truyền thống và hiện
đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế. Tính chất tiên tiến luôn gắn bó hữu cơ với bản
sắc văn hóa dân tộc. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, biệt lập mà
phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ của
văn minh nhân loại.

11
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta đã xác định tiếp tục xây dựng nền
văn hoá Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh với những nội dung cơ bản là: nhận thức rõ
tầm quan trọng của văn hoá trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Kinh tế là cơ sở vật chất
của xã hội là nhân tố quyết định tạo nên sự phồn vinh giàu có và cũng là tiền đề để phát triển
văn hoá. Thực tế nhờ giữ được nền văn hoá dân tộc mà trải qua hàng nghìn năm bị ách đô hộ
của phong kiến phương Bắc nhân dân ta vẫn không bị đồng hoá.

Đảng ta xác định rằng, công cuộc đổi mới không chỉ xuất phát từ nền tảng văn hóa,
hướng tới mục tiêu văn hóa, mà còn là một sự nghiệp văn hóa, và do đó cần làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao,
khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc chính là truyền thống và hiện
đại, kế thừa và phát triển, dân tộc và quốc tế. Tính chất tiên tiến luôn gắn bó hữu cơ với bản
sắc văn hóa dân tộc. Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, biệt lập mà
phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những nội dung tiến bộ của
văn minh nhân loại.

3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa mới

Ngay từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, trong khi tố cáo nền giáo dục thực
dụng, chính sách ngu dân của Pháp ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới việc xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp, vững chắc, lâu dài trên tất cả mọi lĩnh lực và trong đó có cuộc
cách mạng trên lĩnh vực văn hóa. Năm 1943, Hồ Chí Minh đã có dự định xây dựng nền văn
hóa mới gồm 5 điểm lớn:

“1- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.

2 - Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

3 - Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã
hội.

4 - Xây dựng chính trị: dân quyền.

5 - Xây dựng kinh tế.”

Sau cách mạng Tháng tám, trong khi đang tiến hành đẩy mạnh kháng chiến chống
Pháp. Người đã xác định rõ vai trò văn hóa, kết hợp chặt chẽ văn hóa với kháng chiến “văn
hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, kết hợp văn hóa với kiến quốc. Trong

12
nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới, người lưu ý đến 3 nội dung với ý nghĩa là tính chất của
nền văn hóa mới: Dân tộc, khoa học, đại chúng.

Trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ nhân dân miền Bắc quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, người chủ trương xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa
và tính chất dân tộc.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam có sự vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Người quan tâm từ sớm, khi đang tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc. Người chủ trương xây dựng nền văn hóa toàn diện, bao gồm
văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt người nhấn mạnh những nét đặc sắc trong đạo
đức của nền văn hóa phương Đông. Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn
hóa Việt Nam có 3 mặt thống nhất với nhau. Thứ nhất, đó là củng cố, bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hóa dân tộc. Thứ hai, khắc phục những thiếu hụt của văn hóa truyền thống.
Cuối cùng, là tạo ra những giá trị của nền văn hóa tương lai, hoàn thiện nhân cách, hướng
con người tới chân, thiện, mỹ.

Tóm lại, quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, đó là
một nền văn hóa toàn diện, giữ gìn được cốt cách văn hóa dân tộc, bảo đảm tính khoa học,
tiến bộ và nhân văn.

13
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG

XÂY DỰNG VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG

1. Một số vấn đề chung về văn hóa học đường (VHHĐ)

VHHĐ là một tiểu văn hóa, một bộ phận của tổng thể văn hóa quốc gia. Trên thực tế,
VHHĐ hiện đại được khơi mào ở Anh từ đầu thế kỉ XX, lan truyền đến Bắc Mĩ, được giới
nghiên cứu Mĩ phát triển đến cực thịnh vào cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI. Tại mỗi nơi
đến, lý luận VHHĐ lại khoác lên thêm màu sắc địa phương (do yếu tố văn hóa địa phương,
điều kiện chính trị và lịch sử – xã hội quy định), làm cho tổng thể VHHĐ của thế giới vừa
thống nhất vừa đa dạng.

Tại Việt Nam, văn hóa học đường là văn hóa trong môi trường giáo dục và đào tạo. Đó
chính là hành vi, thái độ, ứng xử của giữa các thành viên trong nhà trường với nhau, giữa
nhà trường và ngoài xã hội. Mọi vấn đề liên quan đến đào tạo, cả trước, trong và sau quá
trình đào tạo đều liên quan đến vấn đề văn hóa học đường. Văn hóa học đường là những giá
trị, những kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người đã tích lũy trong quá trình xây dựng hệ
thống giáo dục và quá trình hình thành nhân cách. Bởi vậy, mục tiêu chung nhất của văn hóa
học đường là xây dựng trường học lành mạnh, các mối quan hệ thân thiện và chất lượng giáo
dục thật.

Hành vi, ứng xử văn hóa học đường là những hành vi ứng xử của các chủ thể tham gia
hoạt động GD-ĐT trong nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học. Xét trên nhiều
khía cạnh, hành vi, văn hóa ứng xử tương đồng với văn hóa giao tiếp (trong môi trường học
đường).

Bản chất của xây dựng văn hóa học đường là hoạt động. Hoạt động của người dạy (nhà
trường, nhà giáo dục) và hoạt động của người học (học sinh, sinh viên). Trong đó người dạy
vừa tạo ra môi trường văn hóa vừa đưa những chỉ dẫn, định hướng văn hóa đến người học
nhằm mục tiêu xây dựng văn hóa tổ chức, văn hóa ứng xử, văn hóa môi trường, văn hóa chất
lượng… mà nhà trường đã lựa chọn xây dựng. Hoạt động này của người dạy diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau như sinh hoạt lớp, tư vấn cá nhân, lồng ghép qua môn học, đánh
giá giáo dục…Người dạy qua hoạt động này cũng phải gương mẫu trong thực hiện các chỉ
báo văn hóa này như đối với người học. Điều đó không thể không có và cũng là nhằm tạo ra
môi trường văn hóa chung của nhà trường.

14
Hoạt động của người học là tự mình kiến tạo bản thân qua môi trường văn hóa được
tiếp cận, các chỉ dẫn văn hóa đã lĩnh hội tiến đến có hành vi văn hóa chuẩn mực. Làm được
điều đó người học phải tích cực như có ý chí, động lực, động cơ hoạt động với điều kiện
phải hiểu được tri thức văn hóa; có tình cảm, niềm tin về giá trị văn hóa để có hành vi văn
hóa tự mình.

Môi trường giáo dục là nơi đào tạo những lớp người có tri thức để phục vụ xã hội. Thế
hệ trẻ là tương lai của đất nước, là rường cột của nước nhà. Môi trường giáo dục, trong đó có
một phần ảnh hưởng rất lớn của văn hóa học đường lành mạnh là điều kiện tiên quyết để đào
tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có tài năng, đạo đức, cống hiến cho sự nghiệp
phát triển của nước nhà.

2. Thực trạng của văn hoá học đường ngày nay

Ngay từ xưa ông cha ta đã dạy: Những phẩm chất quan trọng nhất của một con người
đó chính là nhân, lễ, nghĩa, tín. Lễ ở đây chính là văn hóa, đạo đức một cốt lõi của văn hóa
học đường. Khẩu hiệu: “ Tiên học lễ, hậu học văn” có ý nghĩa như vậy. Khẩu hiệu “Tiên
học lễ, hậu học văn” được nêu và chú trọng ở hầu khắp các trường học, nhất là cấp bậc phổ
thông.

Bác Hồ cũng đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì vô dụng, có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó”, “hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà
nên”.

Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong học
tập, có hoài bão khát vọng lớn. Họ có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin
có sức khỏe tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng dụng những kiến thức học vào
thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống có kỷ cương, không ngừng phấn
đấu vươn lên trong học tập và trong cuộc sống. Nền kinh tế, văn hóa, khoa học phát triển tạo
điều kiện cho học sinh, sinh viên (HSSV) được tiếp cận với nhiều kênh thông tin, nhiều mô
hình học tập tiên tiến, do đó, đạt nhiều thành tích trong học tập và nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, cũng dưới tác động của nền kinh tế thị trường, cơ chế mở cửa và do nhiều
nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn trong học đường có xu hướng ngày càng tăng.

Một số hành vi vi phạm luật của học sinh, sinh viên khiến gia đình và xã hội lo lắng
như: vi phạm giao thông, đua xe trái phép, bạo lực nhà trường, quay cóp bài, mua điểm, cờ
bạc, nghiện ngập rượu, trong gia đình trẻ em thiếu kính trên nhường dưới, không vâng lời
15
cha mẹ, người lớn....Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức như: sống hưởng thụ,
chạy theo đồng tiền, xa hoa, phí, lao động và học tập, thiếu ý thức rèn luyện, không đấu trí
lãng mạn với tranh với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị kỷ ... cũng ngày càng nhiều hơn ở đồ vật còn
ngồi trên ghế nhà trường.

Theo số liệu thống kê của UNICEF, 10 - 12% học sinh gặp các vấn đề về tâm lý và ở
Việt Nam đa số các tổn thương xuất hiện trong các mối quan hệ bạn bè, sau mới là gia đình.
Theo các chuyên gia giáo dục, những mâu thuẫn này chủ yếu chịu tác động bởi những quan
niệm và định kiến từ người lớn hằn vào suy nghĩ của trẻ như: phân hóa giàu - nghèo, áp lực
thắng - thua, cách ứng xử thiếu tôn trọng quyền riêng tư và sự khác biệt của người khác.

Từ thực tế nhà trường hiện nay, tình trạng học sinh hư hỏng tuy không phổ biến nhưng
trường nào cũng có, không những ảnh đến phong trào chung mà còn ảnh hưởng đến nhân
cách các học sinh khác. Nếu không xử lý tận gốc rất dễ tạo hiện tượng ‘domino’ kéo theo sự
sụp đổ hàng loạt. Xây dựng văn hóa học đường hiện nay đứng trước vô vàn khó khăn thử
thách. Đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ học sinh đang đi lệch chuẩn. “Nó” biểu
hiện ra muôn hình, muôn vẻ trong mỗi hành vi, suy nghĩ, lời nói hằng ngày.

Đơn giản và dễ thấy nhất là văn hóa ứng xử giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh
với thầy cô giáo. Sinh viên có thể tích cực giao tiếp với nhau trên “thế giới ảo” trên Internet
nhưng trong thế giới thật lại ngại giao tiếp, thậm chí nói những lời thô tục, vô văn hoá trong
trường học. Những hiện tượng nói tục chửi thề, hoặc sử dụng “ngôn ngữ gen Z” không chỉ
làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt mà nó còn là biểu hiện của việc coi thường quy tắc
lịch sự văn minh khi giao tiếp. Chưa kể học sinh gặp thầy cô không chào hỏi, nói xấu thầy
cô bằng những ngôn từ vô lễ. Người xưa có câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”- một chữ là
thầy, nửa chữ cũng là thầy, hay “ Tiên học lễ, hậu học văn” để nhấn mạnh mối quan hệ giữa
thầy và trò- mối quan hệ cốt lõi xây dựng văn hoá học đường. Nhưng đáng buồn thay khi
học sinh gặp thầy cô lại tiết kiệm lời nói đến nỗi mà lại chào thầy cô ngắn gọn như “Em
thầy, Em cô”. Thậm chí còn quá đáng hơn khi gọi thầy cô với những từ thiếu tôn trọng như “
ông nọ, bà kia”… Khi làm bài kiểm tra không tốt bị thầy cho điểm kém không vừa ý mình
học trò sẵn sàng lôi bài kiểm tra ra xé trước mặt thầy cô để tỏ thái độ. Có trường hợp trò vì
mâu thuẫn nhỏ, xung đột ý kiến hoặc bị giáo viên phạt mà quay ra thù thầy cô, tạt axit vào
thầy cô, kể cả việc thuê người giết chết thầy cô mình.

16
Thực tế cho thấy, hiện nay có một bộ phận không nhỏ học sinh, sinh viên phai nhạt lý
tưởng sống, không có định hướng rõ ràng trong học tập, có tư tưởng rất tiêu cực về cuộc
sống, xã hội, họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo quan niệm:
“Được đến đâu thì hay đến đó”, “Nước đến chân mới nhảy”; theo chủ nghĩa cá nhân, vô
cảm, thờ ơ và ích kỉ. Không chỉ vậy, có những người còn vô kỷ luật, mất trật tự và vệ sinh,
thiếu ý thức bảo vệ cảnh quan trường học, tài sản chung. Vì tâm lý “cha chung không ai
khóc” nên một số sinh viên xả rác bừa bãi, vẽ bậy lên bàn, không đóng cửa khi đang sử dụng
điều hoà … Hơn nữa hiện nay rất nhiều học sinh, sinh viên bị sa vào tệ nạn xã hội như hút
chích, cờ bạc, trộm cướp, nghiện games, biến mình thành những nhân vật không có thực
trong trò chơi, bỏ bê học hành, thích xem những văn hóa phẩm đồi trụy; sống bất cần đời, bỏ
nhà đi “bụi”, ăn chơi, thích tổ chức tiệc tùng tốn kém, hay việc thờ ơ khi nhìn thấy người
khác bị móc túi trên xe buýt, gian lận trong thi cử,... Đây chính là điều kiện thuận lợi để các
đối tượng xấu có thể mua chuộc, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của HS-SV mà tuyên truyền
những luận điệu xuyên tạc dẫn đến bị lôi kéo vào các tổ chức phản động như Hội thánh đức
chúa Trời, Việt Nam canh tân cách mạng Đảng (Việt Tân)…

Hay một bộ phận học sinh đề cao lối sống thực dụng, tôn sùng vật chất. Việc biếu
phong bì đi tiền thầy cô như một “truyền thống” tại một số trường đại học, trong khi học
sinh dốt mà điểm vẫn cao, gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, hư hỏng cả một thế hệ
tương lai. Nó đã góp phần làm biến tướng và thương mại hoá quan hệ thầy trò, làm cho thầy
không còn là thầy, không được tôn trọng, không uy nghiêm, được học trò coi là tấm gương
để noi theo học tập, trò cũng chẳng phải trò, chẳng lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ học
hành tu dưỡng.

Một vấn đề không kém phần nhức nhối trong văn hoá học đường ngày nay là bạo lực
học đường. Bạo lực học đường không chỉ là bạo lực về thể chất (đánh đập, xô xát, cướp
bóc,...), bạo lực về tinh thần (chửi rủa, xúc phạm, khinh miệt, cô lập,...), mà còn là bạo lực
tình dục (sàm sỡ, quấy rối, xâm hại,...), bạo lực trên mạng xã hội (đăng tải thông tin sai sự
thật, phỉ báng, uy hiếp,...). Mới đây, dư luận đang bày tỏ sự thương tiếc đối với vụ việc nữ
sinh lớp 10 tại Trường THPT Chuyên - Trường Đại học Vinh, Nghệ An tự tử nghi do bị bạo
lực đường. Hay tại Trường THPT Lang Chánh, Thanh Hóa, khi em Phan Thanh L. vừa tan
học ra tới cổng trường thì bất ngờ bị Nguyễn Bá Thuận cầm một cây gậy sắt vụt thẳng vào
đầu trước sự chứng kiến của nhiều học sinh khác….Có thể thấy bạo lực học đường còn liên
quan đến án hình sự khi học sinh, sinh viên kết bè phái, băng đảng cùng thực hiện hành vi
17
trái pháp luật. Học sinh, sinh viên đánh nhau không chỉ dùng tay giật tóc, tạt tai, tát tới tấp
nữa mà còn sử dụng vũ khí như dao, phớ, kiếm, tuýp sắt… gây thương tích cho người khác,
thậm chí còn lột đồ, “xử” như dân giang hồ của các nữ sinh với nhau.

Văn hoá học đường là môi trường quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục
người học trở thành những con người phát triển toàn diện đức - trí - thể - mỹ, có lòng yêu
nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức và trách nhiệm cao với đất nước, với gia
đình và cộng đồng. Nếu môi trường học đường thiếu văn hoá thì không thể làm được chức
năng truyền tải những giá trị đó đến với thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Do đó, xây dựng
văn hoá học đường cho học sinh, sinh viên là rất quan trọng.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn hóa học đường cho
học sinh, sinh viên

3.1. Phía nhà trường

Xây dựng văn hóa học đường là xây dựng hệ giá trị giáo dục trong mỗi trường học. Đó
là các nội dung văn hóa cụ thể được định danh rõ ràng, kết quả có thể kiểm tra đánh giá
được. Các nội dung này được hình thành trên cơ sở hệ giá trị chung của ngành giáo dục, phù
hợp với đặc điểm của địa phương, của trường bao gồm các nội dung như: Sứ mệnh, tầm
nhìn, hệ thống giá trị...

Để xây dựng văn hóa học đường cho sinh viên của sinh viên trường Đại học Thương
mại nói riêng và các bạn sinh viên nói chung cũng là một trong những nhiệm vụ, trọng trách
để hoàn thành mục tiêu không chỉ đào tạo mà còn giáo dục, phát triển nhân cách con người.
Vì vậy, để góp phần xây dựng và ngày càng phát triển một môi trường văn hóa học đường,
nhất là trong trường Đại học ngày càng trong sạch và lành mạnh, nhà nước và nhà trường đã
có những hành động:

Đầu tiên, nhà trường đã và đang nghiên cứu, khảo sát thực trạng tại trường để nắm bắt
được thông tin thực tế, đồng thời dự đoán tình hình để có thể đưa ra những chuẩn mực có
tính thực tiễn cao, có thể áp dụng trong thời gian dài, phù hợp với tình hình cụ thể của
trường và đồng thời phù hợp với văn hóa con người tại địa phương và nhất là đáp ứng được
nhu cầu hội nhập và phát triển theo xu hướng chung của đất nước. Trong quá trình đó, các
cấp nhà trường cũng có sự tìm hiểu, nghiên cứu và tham khảo những quy định dành cho
sinh viên.

18
Để tạo dựng được môi trường văn hóa học đường khang trang, sạch sẽ, Nhà trường rất
coi trọng và đầu tư cho vấn đề cảnh quan. Xây dựng logo, biểu tượng, bảng hiệu, khẩu hiệu
đặc trưng của trường, mang tính tuyên truyền, vận động hướng tới những giá trị nhân văn,
nếp sống lành mạnh, văn minh, tốt đẹp để nơi dễ nhìn thấy hoặc nơi trang trọng. Chuyển hóa
vốn học vấn của sinh viên thành vốn văn hóa tức là đi từ kiến thức, kĩ năng thành thái độ giá
trị nhân cách. Đó là con đường để hình thành, phát triển nhân cách nhân văn, văn hóa là
thông qua dạy chữ, dạy người, dạy nghề, dạy kỹ năng sống, giá trị sống cho sinh viên. Việc
giao tiếp ứng xử của những người hoạt động trong học đường phải được coi là mẫu mực cho
xã hội. Văn hóa học đường chính là “văn hóa giao tiếp”, “văn hóa ứng xử” của giảng viên và
sinh viên. “Giảng viên phải là tấm gương tốt cho sinh viên noi theo”, phải dùng “nhân cách
để giáo dục nhân cách”, phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò, phải có quan hệ
đúng mực, vừa nghiêm túc, vừa thân mật, giản dị và chân thành. Giảng viên cũng xác định
vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc giảng dạy, trau dồi chuyên môn, truyền cho
sinh viên niềm say mê học tập.

Hiện nay dư luận, các nhà quản lý cũng đồng tình với ý kiến cho rằng, văn hoá ứng xử
học đường đang bị xem nhẹ, các trường chỉ tập trung vào việc dạy kiến thức tự nhiên, xã hội
mà quên đi giáo dục nhân cách, lối sống cho sinh viên. Vì vậy, nhà trường cũng đang xây
dựng bộ quy tắc ứng xử phát huy văn hóa học đường dễ nhớ, dễ hiểu được cụ thể hóa ở từng
địa điểm. Hoạt động này cần diễn ra liên tục, trong một thời gian ít nhất một tháng đầu để
sinh viên hình thành thói quen sau đó dù không có người giám sát vẫn sẽ tự ý thức thực
hiện; Trong giảng đường, bảng nội quy hiện nay đã có nhưng cần bổ sung cụ thể về trang
phục (văn minh, lịch sự, phù hợp, không đi dép lê...). Nếu sinh viên vi phạm, ăn mặc phản
cảm, có thái độ thiếu tôn trọng những người xung quanh thì giáo viên có thể yêu cầu ra khỏi
lớp học, trừ vào điểm rèn luyện…

Nâng cao giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của sinh viên về văn hóa học
đường, đặc biệt phát huy vai trò của tuần sinh hoạt công dân, các môn học chính trị mang
tính tư tưởng, đường lối, các môn tâm lí, luật... Thông qua chính các bài giảng trên lớp,
giảng viên lồng ghép việc giáo dục ý thức tôn trọng tài sản chung như không viết vẽ lên bàn,
tường, tắt điện, khóa nước khi không sử dụng, không xả rác bừa bãi, bảo vệ môi trường, đối
với thầy cô thì phải có thái độ kính trọng, lễ phép... Thông qua công tác đoàn thể để phát
huy vai trò của sinh viên như tổ chức các hoạt động tập thể mang nhiều ý nghĩa giáo dục và
mang tính tập thể: hội diễn văn nghệ, đá bóng, hiến máu, tình nguyện… Từ đó, hình thành ở
19
sinh viên tình đoàn kết, “thương người như thể thương thân”. Tổ chức các diễn đàn, các buổi
đối thoại trao đổi về học tập, về nếp sống văn hóa, những chuẩn mực trong nếp sống học
đường, phát động các phong trào thi đua học tập, nghiên cứu khoa học… Nhà trường cũng
xây dựng các quy định về văn hóa học đường vào làm một trong số các tiêu chí đánh giá kết
quả rèn luyện cũng như xét kết quả thi đua của từng cá nhân, đơn vị.

Ngoài ra, đưa ra các phong trào thi đua và các hoạt động xã hội cần có tính thực chất
hơn, có chất lượng và hiệu quả xã hội hơn, không chạy theo hình thức, tổ chức những phong
trào không thiết thực với đời sống sinh viên cũng như thực tế ở địa phương. Tổ chức một
cách có hiệu quả hơn nữa các hoạt động thể thao, văn hóa văn nghệ thu hút sinh viên tham
gia như chiếu phim vào các buổi tối cuối tuần, câu lạc bộ hát với nhau, câu lạc bộ đờn ca tài
tử, các câu lạc bộ bạn giúp bạn, câu lạc bộ thể thao…

Việc kết hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội trong việc giáo dục cho sinh viên
phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ là điều hết sức cần thiết. Sự kết hợp giữa gia đình với
nhà trường thể hiện trong việc thường xuyên có sự trao đổi từ 2 phía (giảng viên hoặc cố vấn
học tập - phụ huynh). Nhà trường thông báo kết quả học tập, văn hóa đạo đức trường học
của sinh viên cho gia đình. Gia đình cung cấp đầy đủ thông tin cá nhân, trình bày rõ tính
cách, năng lực của sinh viên tạo điều kiện để nhà trường có biện pháp quản lí. Gia đình cũng
phải chu cấp đầy đủ về vật chất, thường xuyên quan tâm, động viên các em sinh viên bằng
những hành động như gọi điện hỏi thăm sức khỏe, động viên các em sinh viên cố gắng học
tập khi sống xa nhà… Có không ít sinh viên thiếu sự quan tâm của gia đình trong cuộc sống
xa nhà mà rơi vào các tệ nạn xã hội. Một môi trường văn hóa học đường được tạo dựng từ
sự kết hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội sẽ có “sức đề kháng” với những “mầm
bệnh”, loại trừ được những biểu hiện văn hóa không lành mạnh nảy sinh từ bên trong, góp
phần xây dựng môi trường văn hóa học đường ngày càng hoàn thiện, trong sáng, tạo điều
kiện khuyến khích sinh viên nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giúp cho sinh viên có
kĩ năng tự xây dựng một hệ giá trị lành mạnh, đúng hướng cho cuộc sống tương lai của
mình, xác lập cho mình một lẽ sống, lí tưởng sống đúng đắn.

Cuối cùng, cấp nhà trường cũng đang ngày một đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa của sinh viên một cách thiết thực như thư
viện, phòng học, phòng tự học, sân bãi thể thao. Không thể yêu cầu hay phát động mọi
người xây dựng môi trường văn hóa, sống có văn hóa mọi lúc mọi nơi, trong khi các cơ sở
vật chất cần thiết để hỗ trợ thực hiện điều đó lại thiếu hoặc không có.
20
3.2. Phía học sinh, sinh viên

Để góp phần xây dựng và ngày càng phát triển một môi trường văn hóa học đường,
nhất là trong trường Đại học ngày càng trong sạch và lành mạnh, cá nhân mỗi học sinh sinh
viên có nhận thức và thái độ đúng đắn đối với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề này.

Mỗi sinh viên tự nâng cao năng lực hoạt động của bản thân thông qua việc thường
xuyên tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao đồng thời phải tự chấn
chỉnh những hành vi sai lệch của mình trong đối nhân xử thế. Cần chủ động, tích cực,
thường xuyên tìm hiểu, tuyên truyền tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về văn hóa và thể
hiện tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý
chí quyết tâm thực hành trong việc xây dựng văn hóa học đường lành mạnh. Tự soi mình,
sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm theo lời Bác dạy. Phấn đấu trở
thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính trung thực, luôn nói đi đôi với
làm để cho người khác noi theo. chỉ rõ tác hại của những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối,
nói một đàng làm một nẻo, hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã
hội. Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên, sinh viên
hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách làm hiệu quả trong việc xây
dựng văn hóa học đường. Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình,
cầu thị, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm và
mặt tích cực. Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp, học hộ, thi hộ, bằng giả, mua
bán tri thức. Sinh viên cũng chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ nạn xã hội, không nói dối thầy
cô, cha mẹ. Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan, trò giỏi.
Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, vào
công việc.

Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng văn hóa học đường một cách
hiệu quả thì cá nhân mỗi sinh viên phải có sự tu dưỡng, rèn luyện hết mình, luôn luôn cố
gắng phấn đấu vì gia đình quê hương đất nước, luôn yêu quê hương đất nước, giàu lòng
nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh trong cuộc sống.

4. Đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây dựng văn
hóa học đường

21
Chúng ta có thể thấy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác xây dựng
văn hóa học đường đã có nhiều chuyển biến tích cực; tạo niềm tin cho xã hội về chất lượng
giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần đào tạo nên những
thế hệ công dân tốt, có phẩm chất, năng lực, đạo đức, văn hóa đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên, nhà giáo biểu hiện lệch chuẩn
về đạo đức, lối sống văn hóa, hành vi ứng xử trên bình diện xã hội và môi trường học
đường. Ở một số địa phương, công tác xây dựng văn hóa học đường chưa được các cấp, các
ngành quan tâm đúng mức, thường xuyên; việc thực hiện còn mang tính hình thức, chưa đi
vào chiều sâu; sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội và các tổ chức đoàn thể trong
trường học thiếu chặt chẽ; nội dung, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục văn hóa học
đường ở một số nơi còn bất cập, thiếu hấp dẫn.

5. Giải pháp thúc đẩy hoạt động xây dựng văn hóa học đường vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên.
Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác
để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam
và sự tin cậy của nhân dân.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” sâu rộng trong học sinh.

Đặc biệt là tạo thành các phong trào mạnh mẽ vào những ngày lễ như kỷ niệm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4; ngày sinh nhật Bác 19/5; ngày Quốc khánh 2/9
gắn với các nội dung, chuyên đề cụ thể nhằm làm cho toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh
nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tư tưởng đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh, thúc đẩy mạnh mẽ việc làm theo tư tưởng đạo đức của Người.
Việc tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, thiết thực và có những đợt
cao điểm hợp lý.

Cần đẩy mạnh tuyên truyền thông qua website nhà trường, thông qua phát thanh, qua
bản tin nội bộ...Cần kết hợp giữa giáo dục những phẩm chất truyền thống như yêu nước,

22
lòng nhân ái, vị tha, trung hiếu, cần, kiệm... với các giá trị đạo đức mới như chủ động, sáng
tạo, tự lập, tự chủ, vượt khó.

Ba là, xác định các nội dung của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh cần đưa vào giáo
dục trong nhà trường.

Có thể đưa thành một môn học hoặc một phần quan trọng của một số môn học như
Giáo dục công dân, Ngữ văn, Lịch sử... Tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh trong
các hoạt động ngoại khoá. Kết hợp giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh với giáo dục truyền
thống, bản sắc văn hoá Việt Nam cho học sinh.

Đặc biệt, giáo dục cho học sinh có thái độ sống tích cực; đam mê, khát vọng và nhiệt
huyết; có lòng trắc ẩn, lòng biết ơn, lòng vị tha, yêu thương, nhân ái với mọi người. Cần
giáo dục để học sinh nhận thức được rằng, thái độ sống tích cực không chỉ ảnh hưởng đến
hạnh phúc hay sự thành đạt của riêng mình mà còn tác động đến gia đình, bạn bè và mọi
người xung quanh. Từ đó hãy giúp cho học sinh xây dựng và hướng đến một cuộc sống tràn
đầy lạc quan và hạnh phúc để các em khám phá cuộc sống tràn đầy mơ ước của tương lai
phía trước.

Giáo dục học sinh có lòng trắc ẩn, lòng biết ơn, lòng vị tha, yêu thương, nhân ái với mọi
người: Thông qua các hoạt động giáo dục để chứng tỏ cho các em thấy những giá trị đạo đức
trên là “nguyên tắc vàng”, “là kim chỉ nam” cho bản thân các em trong những trãi nghiệm
cuộc sống. Nếu các em áp dụng được những điều này vào cuộc sống, vào cách cư xử với
mọi người xung quanh, các em sẽ chiếm lĩnh được tình cảm người khác, đồng thời sẽ hiểu
được giá trị bản thân, khi đó mọi vấn đề trong cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng và suôn sẽ hơn.
Nếu không các em sẽ nhận được sự vô vị trong cuộc sống mà thôi.

Bốn là, tiếp tục nâng cao chất lượng phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm, nhà
trường, gia đình, bản thân HSSV và xã hội

Để không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục nói chung, giáo
dục đạo đức cho học sinh nói riêng phải có sự kết hợp giáo dục của bản thân HS - SV, gia
đình, của nhà trường, và của xã hội thành một quá trình thống nhất, liên tục và hoàn chỉnh.
Thực tế cho thấy, những câu chuyện học sinh, sinh viên có hành động vô lễ với thầy cô giáo
thường bắt nguồn từ cách giáo dục trong gia đình, bắt chước những hành vi ngoài xã hội.
Cho nên, giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và của
chính gia đình; có như thế việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn và ngược lại giáo
23
dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì
kết quả cũng không được như mong muốn.

Đối với giáo viên chủ nhiệm: Là người trực tiếp thay mặt nhà trường giáo dục học
sinh, là người thực hiện sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ môn, các đoàn thể
trong nhà trường, giữa “Gia đình - Nhà trường - Xã hội”. Giáo dục đạo đức học sinh là một
công việc đòi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với nghề; có phương pháp chủ nhiệm tốt
với một kế hoạch toàn diện, hợp lý, linh hoạt. Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hoàn cảnh gia đình,
năng lực từng học sinh, hoàn cảnh khó khăn của từng học sinh … đến việc xử lý tình huống.
Tất cả đều đòi hỏi cần có sự nghiêm khắc của người thầy đồng thời phải có tấm lòng yêu
thương, thể hiện trách nhiệm, lòng vị tha như một người cha đối với con cái; thông cảm chia
sẻ niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự và cho
các em những lời khuyên bảo chân tình; tạo được niềm tin động lực cho học sinh phấn đấu
hoàn thiện. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng không nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên
chủ nhiệm không những cần năng lực chuyên môn, mà còn đòi hỏi phải thật sự là tấm gương
sáng về tác phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử…
Như vậy lời nói, đề xuất của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh.

Đối với giáo viên bộ môn: Chú ý đến mọi đối tượng học sinh, để tận tình giúp đỡ các
em tiếp thu tốt nhất kiến thức mình truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng giờ dạy, chú
trọng yêu cầu hiệu quả việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh trong môn học,
giờ học. Trong đó các môn Khoa học xã hội và nhân văn như: Ngữ văn, Lịch sử, Điạ lý,
Giáo dục công dân,… có vị trí quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết
cơ bản về phẩm chất, đạo đức về quyền và nghĩa vụ công dân sẽ giúp học sinh có thái độ
tích cực và thực hiện những hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức xã hội.

Đối với tổ chức Đoàn thanh niên: Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc Tuyên truyền các nghị quyết của Đoàn, tổ chức thực hiện
“Nền nếp – Kỷ cương”; các phong trào thi đua trong học tập - sinh hoạt; các hoạt động nội,
ngoại khoá; các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa- uống nước nhớ nguồn”… nhằm thu hút học
sinh đến tập thể, đến những hoạt động bổ ích; để giáo dục về lòng nhân ái, truyền thống, đạo
lý con người Việt Nam qua đó để giáo dục đạo đức học sinh.

Đối với cha mẹ học sinh: Cần trở thành gương tốt cho con, cháu học tập; có trách
nhiệm tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huyng học sinh; thường xuyên phối hợp tốt với

24
giáo viên chủ nhiệm - nhà trường để kịp thời nắm bắt các thông tin, trong công tác quản lý
việc học tập, chăm lo giáo dục rèn luyện đạo đức của con em mình. Mỗi cha mẹ học sinh
cần quan tâm xây dựng tổ chức hội cha mẹ học sinh vững mạnh, có mối quan hệ thường
xuyên với nhà trường; phát huy vai trò, chức năng của Hội là động viên, răn dạy con, cháu
chấp hành nội qui của nhà trường, các chủ trương của Đảng và nhà nước.

Đối với mỗi HSSV: Cần phải tự xây dựng cho mình một ý thức học tập, lối sống lành
mạnh, tránh xa các tụ điểm phức tạp hay các dịch vụ nhạy cảm là mầm mống nảy sinh
những tội ác; dũng cảm, đoàn kết lẫn nhau để chống nạn bạo lực học đường.

25
III. KẾT LUẬN

Văn hóa học đường là một môi trường quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục
thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện đức - trí - thể - mỹ, có lòng yêu nước,
tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức và trách nhiệm với đất nước, cộng đồng, gia đình
và bản thân. Xây dựng văn hóa học đường chính là xây dựng môi trường học tập văn minh,
lịch sự đúng với câu nói “Tiên học lễ - Hậu học văn” mà Ngành giáo dục Việt Nam nói
chung và thế hệ trẻ chúng ta luôn hướng đến. Việc xây dựng văn hóa học đường phải được
thực hiện trong thời gian dài mới đạt được kết quả tốt đẹp. Xây dựng được môi trường giáo
dục mà ở đó thầy đúng nghĩa là thầy, trò đúng nghĩa là trò, trong môi trường giáo dục đó chỉ
có tình yêu thương. sự kính trọng, bao dung biết ơn và hoả hiểu đó là mơ ước của tất cả mọi
người. Do đó,mỗi cá nhân chúng ta hãy cùng chung tay, phối hợp chặt chẽ, triển khai thực
hiện xây dựng nội dung giáo dục giá trị văn hóa truyền thống; tình yêu quê hương; giá trị di
tích lịch sử văn hóa thành phố, rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ, học sinh, sinh
viên thành những con người phát triển toàn diện đức - trí - thể - mỹ, có lòng yêu nước, tinh
thần tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức và trách nhiệm với đất nước, cộng đồng, gia đình và
bản thân.

26
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo Thanh tra. 2022. Tăng cường triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường.

2. Nguyễn Thị Bé. 2013. Quản lý hoạt động văn hóa học đường của học sinh trung học phổ
thông trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. Luận văn thạc sĩ.

3. Hồ Chí Minh: toàn tập. 1995. NXB Chính trị Quốc gia.

4. Nguyễn Thị Lệ Thủy. 2020. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng trong xây
dựng văn hóa học đường cho sinh viên Học viện Phụ nữ Việt Nam. Tạp chí giáo dục.

5. Nguyễn Ngọc Thơ. 2020. Khái luận về văn hóa học đường. Tạp chí khoa học - Trường
Đại học Trà Vinh.

6. Nguyễn Thị Tâm. 2015. Vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện xã hội của báo
chí. Luận văn thạc sĩ.

27

You might also like