You are on page 1of 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HỒ CHÍ MINH



BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA GIÁO DỤC TẠI VIỆT
NAM HIỆN NAY, TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA

GVHD : NGUYỄN HỮU KỶ TỴ

Nhóm : 7

Lớp : L11

HỌC KÌ : 232

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................................2
I. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện
nay.............................................................................................................................................2
1.1. Đường lối của Đảng trong xây dựng phát triển văn hóa, con người.............................2
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
.............................................................................................................................................. 4
1.3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam......................7
II. Vận dụng............................................................................................................................10
2.1 Đánh giá thực trạng:.....................................................................................................10
2.2 Thành tựu:.....................................................................................................................12
2.2.1. Xây dựng cơ sở 2 cùng rất nhiều cơ sở vật chất:..................................................12
2.2.2. Tăng thu nhập của các nhân viên, cán bộ nhà trường:..........................................12
2.2.3. Các chương trình hỗ trợ sinh viên:.......................................................................13
2.2.4. Liên kết với các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các cá nhân xuất sắc, các tập đoàn
lớn:..................................................................................................................................14
2.3. Hạn chế, nguyên nhân..................................................................................................15
2.3.1. Giảm hoặc không còn được đảm bảo nguồn chi từ ngân sách nhà nước..............15
2.3.2. Chưa có chính sách tín dụng phù hợp cho sinh viên vay......................................17
2.3.3. Chưa đa dạng hóa được các nguồn thu gây gánh nặng lên các nguồn thu chính. 18
2.4 Giải pháp..................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................................21
PHẦN MỞ ĐẦU
Văn hóa không chỉ là bản sắc tinh thần của một quốc gia mà còn là nền móng cho sự
phát triển toàn diện. Trên con đường hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Việt Nam không chỉ
đặt mục tiêu về tăng trưởng kinh tế mà còn coi trọng việc bảo tồn và phát triển văn hóa, xây
dựng một xã hội văn minh và nhân văn. Trong bối cảnh này, vai trò của đảng lãnh đạo trong
việc xây dựng và phát triển văn hóa trở nên vô cùng quan trọng.

Trong quá trình phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam, việc thiết lập cơ chế tự chủ
tài chính đã nổi lên như một yếu tố quyết định đối với sự phát triển của các trường đại học,
trong đó có Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Với những nỗ
lực trong việc tự chủ tài chính, Trường đã đạt được những thành tựu đáng kể trong văn hóa
giáo dục.

Tuy nhiên, việc thiết lập cơ chế này không đến mức hoàn hảo và vẫn còn tồn tại
những hạn chế và thách thức đáng kể. Nguồn chi từ ngân sách nhà nước giảm sút, dẫn đến
tăng học phí và ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận giáo dục của sinh viên. Ngoài ra, chính
sách tín dụng cho sinh viên vay cũng còn nhiều hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu thực tế
của sinh viên. Việc đa dạng hóa các nguồn thu cũng gặp phải nhiều khó khăn do thiếu chính
sách hỗ trợ và khuyến khích từ phía nhà nước. Qua báo cáo này, chúng ta sẽ đi sâu vào phân
tích các vấn đề trên và đề xuất những giải pháp cụ thể để cải thiện tình hình, từ đó nâng cao
chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam, đặc biệt là tại Trường Đại học Bách Khoa.

1
PHẦN NỘI DUNG

I. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
hiện nay
1.1. Đường lối của Đảng trong xây dựng phát triển văn hóa, con người
Ngay từ khi thành lập chính quyền, Đảng ta đã rất quan tâm đến vấn đề phát
triển văn hóa, con người, coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá
trình xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng phát triển văn hóa là hoạt động của các chủ thể tác động vào môi trường tự
nhiên và xã hội một cách có mục đích để tạo ra nền văn hóa cùng với các giá trị mới theo
hướng chân, thiện, mỹ, mà trong đó chúng thấm nhuần tinh thần dân tộc sâu sắc, khoa học,
nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Do đó, việc xây dựng phát triển văn hóa xét cho cùng cũng là vì
con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Còn xây dựng phát triển con người là
việc các chủ thể tạo ra các tác động có mục đích để tạo điều kiện và cơ hội cho con người
phát triển toàn diện về cả trí tuệ, đạo đức thể lực và năng lực thẩm mỹ. Do đó, xây dựng phát
triển con người là vấn đề trọng tâm của xây dựng phát triển văn hóa.
Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng phát triển văn hóa, con
người Việt Nam trong cả quá trình thực hiện cải cách đất nước do đã nhận thức được sự
quan trọng và mối quan hệ chặt chẽ giữa xây dựng phát triển văn hóa, con người.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII
“Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” xác
định 5 giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống, trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ
và nhân văn, dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
phấn đấu không ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa đáp ứng được nhu
cầu phát triển tiến bộ của nhân loại, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc
trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Không chỉ thế, nền văn hóa này đảm bảo được sự thống

2
nhất của quốc gia – dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc, cũng như tôn trọng và phát huy sự
đa dạng văn hóa của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam. Đây chính là nền văn hóa
thấm nhuần các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, trá thành nền tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển đất
nước.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa VIII, Đảng ta tiếp tục
ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về xây dựng và phát triển nền văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bổ sung thêm quan điểm mới
là: sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải đi đôi với yêu cầu phát triển đất
nước bền vững; phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, phải quan tâm xây dựng văn hóa
trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Tập trung phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với
xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá
trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần
quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh phát huy sức mạnh nội lực trong nước cần thực hiện đa
dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ
người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước.
Đảng ta định hướng rất rõ vấn đề phát triển văn hóa, con người trong các Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng về tính định
hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và
triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với
giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kì mới”. Theo đó, phải phát triển
con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trá thành sức mạnh nội sinh, động
lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn
hóa, đảm bảo vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế... Để thực hiện
thành công quan điểm phát triển văn hóa, con người trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu
phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ,
3
Đảng viên trong các đơn vị... khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy
các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội”.
Đường lối của Đảng đã đưa ra những định hướng cơ bản có ý nghĩa vô cùng quan
trọng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, quyết định đến sự phát triển,
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nói riêng và sự thành công của sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Trong thời gian qua, các chủ trương,
đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã được cụ thể hóa
trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước, ghi rõ trong Hiến pháp. Cũng trong đó, Đảng
ta nêu rõ các quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện nhằm định hướng xây dựng, phát
triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới.
1.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam
Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Quan điểm
này khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc phục tình trạng coi nhẹ
yếu tố văn hóa so với kinh tế, chính trị trong đời sống, hạn chế được hiện tượng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, điển hình là tình trạng quan liêu, tham nhũng của một
bộ phận không ít cán bộ, Đảng viên hiện nay.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện đặc điểm hài hòa giữa đặc trưng “tiên tiến” và
“bản sắc dân tộc”, đồng ý với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tiên tiến
là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội dựa theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối
quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, xã hội và tự nhiên. Sự tiên tiến không chỉ ở nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
4
Nam được vun đắp nên qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo
lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống…Bản sắc văn hóa dân tộc còn được thể hiện đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện
mang tính dân tộc độc đáo. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc
tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Việc bảo
vệ bản sắc văn hóa dân tộc phải đi đôi với đấu tranh chống lại những phong tục, tập quán
lạc hậu, lỗi thời.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa dạng giữa cộng đồng các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. 54 dân tộc anh em sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái
văn hóa riêng nhưng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Kế thừa và
phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng tâm
của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người. Cùng với
đó, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nguy cơ xa rời bản chất đích
thực của văn hóa, cụ thể là tha hóa con người là có thể xảy ra nếu không xác định rõ mục
tiêu để hướng mọi hoạt động văn hóa vào hoàn thiện con người. Giá trị văn hóa là do con
người sáng tạo ra, mà con người cũng là sản phẩm của môi trường văn hóa do chính mình
tạo ra nên nhân cách con người nắm vai trò quyết định trong việc tạo nên chất lượng văn
hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con người để có thể đứng vững trước những khó khăn,
thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn
đề hệ trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố
văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây
5
dựng môi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và văn hóa. Việc xây dựng môi trường văn hóa không chỉ giới hạn ở đời sống văn
hóa vật chất, tinh thần mà còn mở rộng gắn kết xây dựng môi trường văn hóa và bảo vệ môi
trường sinh thái. Đảng ta ghi nhận và khuyến khích các hoạt động văn hóa tâm linh, hoạt
động xã hội tích cực; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn liền với dân tộc, nhân ái,
nhân đạo. Tập trung xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết;
xây dựng văn hóa doanh nghiệp, tinh thần khởi nghiệp và kinh doanh.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri thức giā vai trò quan trọng.
Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng yếu có ý nghĩa to lớn, là nguồn lực và cũng
là động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững của đất nước. Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm
xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô
đào tạo. Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ văn hóa, tiến tới hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng cán bộ
trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đạo đức.
Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng
lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Không ngừng bài trừ các
thói xấu, nâng cao tinh thần đấu tranh, phản đối mọi hành vi bóc lột văn hóa, thực hiện “diễn
biến hòa bình”.
Văn hóa-xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ thị
về văn hóa nói chung; về giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ, báo chí, xuất bản, văn học,
nghệ thuật,… nói riêng. Những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến về nhận thức lý luận của
Đảng về văn hóa. Bầu không khí xã hội, dân chủ cởi mở hơn; dân trí được nâng cao; tính
tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị mới của văn hóa, con
người Việt Nam từng bước được định hình trong đời sống. Phong trào xóa đói giảm nghèo,
đền ơn đáp nghĩa và các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây
dựng nông thôn mới”… đạt được những kết quả tích cực. Sự đầu tư của Nhà nước và xã hội
cho nguồn lực văn hóa tiếp tục tăng cao, hệ thống thể chế văn hóa từ trung ương đến cơ sở
6
được hình thành, từng bước triển khai và phát huy hiệu quả. Giao lưu văn hóa, hợp tác và
hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng.
Nhìn một cách tổng quát, các quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo của Đảng
ta vừa cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách, để từ đó, đưa ra định hướng đúng đắn cho quá
trình xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh tư
duy lý luận văn hóa của Đảng đã có một bước đột phá mới. Việc nhận thức toàn diện và sâu
sắc những vấn đề lý luận thể hiện tập trung các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực
tiễn của chúng ta có được những kết quả thực tiễn tốt hơn.
1.3. Nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
Dựa vào bước bắt đầu từ năm quan điểm trên, Đảng ta đã đưa ra sáu nhiệm vụ rất cơ
bản và bao quát toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến
văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Sáu nhiệm vụ đó là: (1)Khi
dậy tinh thần yêu nức, khát vọng phát triển đất nức ; (2) Xây dựng con người Việt Nam thời
kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp ; (3) Phát triển toàn
diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa; (4) Phát huy vai trò chủ thể sáng
tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; (5) Xây dựng Đảng về chính trị và văn hóa, về
đạo đức, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; (6) Xây dựng môi trường văn
hóa phù hợp với nền kinh tế, làm cho văn hóa thích nghi và điều tiết sự phát triển đất nước
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Để thực hiện tốt năm quan điểm, sáu nhiệm vụ trên, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:
Một là, tuyên truyền, giảng dạy, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người để đáp ứng yêu cầu phức tạp
trong tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức
mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển
sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất
để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất

7
nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung
tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa cả
về mặt nhận thức và cách thức.
Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức Đảng phải xác định việc xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng trong suốt thời kỳ đổi mới. Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí,
tầm quan trọng của công cuộc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Xây dựng
ý thức và sự tôn trong đối với sự đa dạng văn hóa là yếu tố quan trọng để hà nhập với cộng
đồng
Về cách thức, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong phương thức lãnh đạo mang
lại tính hài hòa về văn hóa phát triển theo đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa
phải đảm bảo được quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên nền tảng phát huy tính
tự giác. Khắc phục tính thụ động trong việc sáng tạo và nâng cao tinh thần tự giác.
Ba là, để đạt được sự phát triển toàn diện và đồng bộ trong các lĩnh vực văn hóa và
đời sống văn hóa tại Việt Nam, chúng ta cần thực hiện một loạt biện pháp kỳ công và đặc
biệt có tính chiến lược.
Để phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa và đời sống văn hóa tại Việt
Nam, cần thực hiện một loạt biện pháp chặt chẽ và có tính chiến lược. Đầu tiên, cần xây
dựng một chiến lược phát triển văn hóa nhằm đặt ra các mục tiêu cụ thể và các biện pháp
thực hiện để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của mọi lĩnh vực văn hóa. Tiếp theo, việc tăng
cường đầu tư và hỗ trợ cho văn hóa, cũng như khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới trong
lĩnh vực này là rất quan trọng. Đồng thời, việc tăng cường giáo dục và thông tin văn hóa,
thúc đẩy sự đa dạng và hòa nhập văn hóa, cùng việc sử dụng công nghệ và truyền thông hiện
đại sẽ giúp tạo ra một môi trường văn hóa phong phú, đa dạng và phát triển bền vững tại
Việt Nam.
Bốn là, để phát huy vai trò chủ thể sáng tạo và chủ thể thụ hưởng văn hóa của nhân
dân, cần tạo ra một môi trường văn hóa mở và đa dạng, khuyến khích sự tham gia tích cực
của mọi người trong việc tạo ra và trải nghiệm văn hóa.

8
Điều này bao gồm việc tăng cường giáo dục văn hóa để khuyến khích mọi người
tham gia tích cực vào việc tạo ra và trải nghiệm văn hóa. Cần tạo ra các cơ hội và diễn đàn
để mọi người có thể hiện sự sáng tạo của mình thông qua các hoạt động nghệ thuật và văn
hóa. Hỗ trợ và khuyến khích những nỗ lực sáng tạo từ cộng đồng cũng là yếu tố quan trọng,
bao gồm việc thúc đẩy các dự án văn hóa cộng đồng và bảo tồn di sản văn hóa. Cuối cùng,
cần đảm bảo rằng mọi người đều có cơ hội công bằng để tham gia và thụ hưởng văn hóa, và
việc này có thể đạt được thông qua việc cung cấp các dịch vụ văn hóa đa dạng và phong phú
cho mọi tầng lớp xã hội. Thông qua đó xây dựng gia đình và xã hội đoàn kết, hòa thuận,
bình đẳng, hạnh phúc, kỷ cương, nề nếp, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, lành
mạnh; có tinh thần tương thân, tương ái, tự nguyện, tự quản, dân chủ, xây dựng môi trường
xã hội lành mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã hội
hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực phát
triển con người toàn diện.
Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cần đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển
văn hóa, con người cân bằng với đầu tư cho phát triển kinh tế. Bởi vì, chung quy lại mọi sự
phát triển đều do con người và vì con người. Nếu giá trị văn hóa có xu hướng phát triển tiêu
cực, tư tưởng con người bị suy thoái về đường lối chính trị, đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà nước cần đầu tư cả về tài lực, vật
lực và có kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt để thực hiện mục tiêu xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam hiện nay.
Sáu là, xây dựng một môi trường văn hóa phù hợp với nền kinh tế và làm cho văn hóa
thích nghi và điều tiết sự phát triển của đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần
thứ tư là một thách thức quan trọng đối với Việt Nam. Trong điều kiện mới này, việc xây
dựng một môi trường văn hóa đa dạng và linh hoạt, khuyến khích sự sáng tạo và đổi mới
trong các lĩnh vực văn hóa, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và sử dụng
công nghệ thông tin và truyền thông mới là rất quan trọng. Đồng thời, cần tạo ra các chính
sách và biện pháp hỗ trợ để bảo vệ và phát triển di sản văn hóa truyền thống, đồng thời
khuyến khích sự hòa nhập của các giá trị văn hóa mới và nền kinh tế số vào cuộc sống hàng
9
ngày của người dân. Điều này sẽ giúp đất nước thích nghi và điều tiết sự phát triển một cách
cân đối, đồng thời thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển bền vững trong thời đại mới.
Tóm lại, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực để phát
triển đất nước. Văn hóa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách con
người và bản sắc, cốt cách dân tộc. Con người là nguồn lực quan trọng nhất nắm giữ vai trò
quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, văn hóa, con người còn được xem là
một trong những yếu tố có vai trò quyết định sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia, dân tộc
trên trường quốc tế. Vì thế, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển
đất nước bền vững là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của cách mạng Việt
Nam trong thời kì hiện đại.

II. Vận dụng


2.1 Đánh giá thực trạng:
Năm 2006, khái niệm “tự chủ tài chính” xuất hiện lần đầu qua Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006. Sau đó, lần lượt các Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày
24/10/2014; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015; Nghị định số 60/2021/NĐ-CP
ngày 21/6/2021 được ban hành để bổ sung các quy chế về tự chủ tài chính cho các đơn vị sự
nghiệp công, bao gồm cả các trường đại học công lập. Xuyên suốt các cột mốc này, có rất
nhiều thí điểm, dự án để đổi mới, thúc đẩy các trường đại học tự chủ tài chính.

Tự chủ tài chính là sự tự lập của các trường đại học, hạn chế sự tác động, can thiệp
của Nhà nước về mặt tài chính, giúp các trường có ngân sách để tự do trong việc thay đổi
các hoạt động, chiến lược giúp tồn tại và phát triển trong thời kì cạnh tranh. Theo đó, các
trường tự chủ tài chính được trao quyền tự quyết và quản lý các khoản thu chi, đảm bảo duy
trì ngân sách cho các chương trình, hoạt động của trường. Tự chủ đại học đã và đang dần
đần được Bộ giáo dục và các nhà trường thực hiện nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
phát triển nhân lực trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Tự chủ tài chính đại học là xu hướng tất yếu ở Việt Nam nói riêng, trên toàn thế giới
nói chung. Trong xu thế giao lưu hội nhập quốc tế đang càng ngày càng được đẩy mạnh, các
trường đại học trên toàn thế giới đang cạnh tranh nhau về nguồn lực, nhân tài cho việc

10
nghiên cứu, phát triển. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật, yêu cầu
kỹ thuật đối với kỹ sư tăng cao khiến các trường cần đổi mới các chương trình cũng như cơ
sở vật chất, phòng thí nghiệm đáp ứng nhu cầu thời đại. Cho nên tự chủ tài chính đại học là
hết sức cần thiết cho việc cạnh tranh giữa các trường đại học, nâng cao chất lượng giáo dục,
do mỗi trường sẽ tự nghiên cứu hướng đi phù hợp, tạo ra sự riêng biệt, vận động phát triển
khi mà quyền tự chủ được phát huy.

Tháng 7 năm 2020, cùng với trường Đại học Kinh Tế - Luật, Đại học Công Nghệ
Thông Tin, Đại học Bách Khoa TPHCM đã đưa ra đề xuất tự chủ tài chính lên Hội đồng Đại
học Quốc gia TPHCM và được duyệt. Theo đó, trường Đại học Bách Khoa đã đề ra nhiều
chủ trương, chiến lược với mục tiêu cải tạo chất lượng đạo tạo trong giai đoạn 2021-2025.

Khi được trao quyền tự chủ, trường Đại học Bách Khoa TPHMC đã đặt các mục tiêu
như sau:

- Xây dựng và vận hành theo quy mô tự chủ, tự chịu trách nhiệm của trường Đại học
Bách Khoa dựa trên chủ trương giao quyền tự chủ đối với các trường công lập.
- Quản trị hiệu quả và phát triển bền vững các nguồn lực (nhân lực, tài chính, trang
thiết bị, tài sản trí tuệ).
- Tạo môi trường làm việc, học tập, nghiên cứu sáng tạo, cải thiện và hiện đại; đề cao
đạo đức nghề nghiệp.
- Duy trì, củng cố độ uy tín của trường tại khu vực trong nước và tạo dựng, phát triển
thương hiệu Bách Khoa tại khu vực quốc tế.

Để đạt được mục tiêu, trường đã đưa ra cách giải pháp, chiến lược để hiện thực hóa mục
tiêu:

- Tự chủ, tự chịu trách nhiệm hoàn toàn về mặt nhân sự, chuyên môn, vận hành và tự
chủ một phần về mặt tài chính.
- Thành lập các khoa, phòng, ban, trung tâm, mở các ngành, chương trình mới, đáp
ứng nhu cầu thời đại và phục vụ sự phát triển của trường.

11
- Quản lý và đưa ra quyết định dựa trên thông tin, dữ liệu tập trung; Quản lý hiệu quả
các cơ sở phát triển, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu đào tạo, nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ.
- Đã bắt đầu nhiều hoạt động tạo bước tiền đề cho tự chủ đại học trước thời điểm tháng
7 năm 2020 và đẩy mạnh tiến độ vào sau thời điểm được duyệt.

2.2 Thành tựu:


Với nguồn kinh phí có được từ việc tự chủ tài chính, trường Đại học Bách Khoa
TPHCM đã tiến hành nhiều cải tạo và đã đạt được nhiều thành tựu như:

2.2.1. Xây dựng cơ sở 2 cùng rất nhiều cơ sở vật chất:


Để chuẩn bị cho đề xuất tự chủ tài chính, trường Đại học Bách Khoa TPHCM đã khởi
công xây dựng cơ sở 2 tại Thành phố Dĩ An, Bình Dương để trang bị trước số phòng học và
phòng thí nghiệm. Cho đến năm 2024, cơ sở 2 trường Đại học Bách Khoa TPHCM vẫn
không ngừng nâng cấp và hoàn thiện. Ví dụ như:

- 4 tòa nhà H1, H2, H3, H6 với rất nhiều phòng học đầy đủ các thiết bị như đèn, quạt,
máy chiếu, loa,…
- Nhà thể dục thể thao.
- Các phòng thí nghiệm Hóa, Vật lí cho các môn đại cương.
- Các phòng thí nghiệm, các gói thiết bị thí nghiệm và thiết bị an toàn cho khoa Kĩ
thuật Hóa học ở H3 và khoa Môi trường và Tài nguyên ở H2.
- Các xưởng thực tập cho khoa Điện – Điện tử, khoa Cơ khí,…
- Tu sửa và mở rộng tòa H1, xây dựng hệ thống căn tin ở tầng hầm tòa H1.
- Một phần mái che ở bãi giữ xe.

Ngoài ra, tại cơ sở 1 cũng được cải tạo sửa chữa như các khu vực nhà B1B và B1A, trạm
y tế, P.201, P.201A xưởng C1, PTN sức bền vật liệu,…Điều này đã giúp sinh viên thuận lợi
hơn trong việc học tập, có nhiều thí nghiệm trực quan hơn, giúp sinh viên cải thiện điểm số
cũng như kiến thức.

12
2.2.2. Tăng thu nhập của các nhân viên, cán bộ nhà trường:
Đây là động thái giúp cải thiện chất lượng đội ngũ đào tạo về lượng và về chất, khi
việc tăng lương giảng viên sẽ giúp thu hút các tiến sĩ cũng như đội ngũ sư phạm giỏi. Ngoài
ra, cùng với chế độ khen thưởng nhằm mục đích khuyến khích và chăm sóc đội ngũ đào tạo
hiện tại của trường, giúp họ thoải mái hơn về mặt tinh thần, từ đó cải thiện chất lượng giảng
dạy.

Nguồn: Nguồn: Bộ GD&ĐT

Bảng số liệu trên được Bộ GD&ĐT tổng hợp từ các trường tự chủ và đưa ra tại Hội nghị
tự chủ đại học ngày 4/8 năm 2022. cho thấy các sau thực hiện tự chủ tài chính, mức lương
trung bình của giảng viên đại học công lập đã được cải thiện. Ngoài ra, báo cáo của bộ cũng
cho biết trường Đại học Bách Khoa TPHCM cũng nằm trong top 10 trường có doanh thu cao
nhất, phản ánh sự tích cực trong việc giải quyết các vấn đề về thu nhập của nhà trường nói
chung và các nhân viên, cán bộ nhà trường nói riêng.

2.2.3. Các chương trình hỗ trợ sinh viên:


Việc tăng học phí tuy đặt gánh nặng tài chính lên sinh viên, song nhà trường tạo điều
kiện giúp đỡ, hỗ trợ sinh viên nhiều hơn từ quỹ cảu trường, đặc biệt là hỗ trợ các sinh viên
có hoàn cảnh khó khăn và các sinh viên có năng lực, thành tích tót:

13
- Trường có phòng Công tác Sinh viên, trung tâm Hỗ trợ Sinh viên và Việc làm để hỗ
trợ sinh viên thực hiện nhu cầu của họ.
- Tạo ra các Quỹ học bổng để khuyến khích sinh viên cải thiện thành tích. Trước tự chủ
- Cho phép sinh viên sử dụng các phòng thí nghiệm cho mục đích nghiên cứu đề tài
khoa học dưới sự giám sát của giáo viên điều hành phòng thí nghệm.
- Vào học kì sao đại dịch Covid-19, trường hỗ trợ tặng giáo trình đại cương cho các
sinh viên, hỗ trợ cho các trang thiết bị để học trực truyến.

2.2.4. Liên kết với các doanh nghiệp, nhà đầu tư, các cá nhân xuất sắc, các tập đoàn
lớn:
Trường tích cực liên kết với các doanh nghiệp lớn, hỗ trợ đầu ra cho sinh viên mới tốt
nghiệp cũng như giúp sinh viên đang học có điều kiện tiếp xúc với doanh nghiệp qua các
chương trình thực tập, các buổi giao lưu, chia sẻ, các buổi hướng nghiệp,…

Các doanh nghiệp liên kết với trường Đại học Bách Khoa TPHCM

Nguồn: Cổng thông tin trường ĐHBK ĐHQG-HCM

Trong đó, hầu hết các buổi ký kết với các doanh nghiệp diễn ra vào thời điểm chuẩn
bị và sau tự chủ tài chính. Ví dụ nhứ trường đã thực hiện kí kết với:

- Công ty Yaskawa Electric đến từ Nhật Bản vào ngày 01/10/2019 tại Trường Đại học
Bách Khoa TPHCM.
- Công ty TNHH Siemens / Công ty THHH phần mềm Siemens đến từ Đức vào ngày
22/01/2021 tại Hội trường A4 - Trường Đại học Bách Khóa TPHCM.
- Công ty TNHH Bosch Việt Nam đến từ Việt Nam vào ngày 25/10/2021 tại Hội
trường A4 - Trường Đại học Bách Khóa TPHCM.

14
Có các chương trình trao đổi sinh viên với các nước như Nhật, Đức,… giúp sinh viên
có điều kiền tiếp xúc với phương thức giáo dục tại các nước. Có thể kể đến như chương trình
kĩ sữ Việt - Nhật của khoa Điện - Điện tử hợp tác với trường đại học Nagaoka tại Nhật Bản
và tuyển sính khóa đầu vào năm 2019.

Một số tập đoàn hợp tác với trường Đại học Bách Khoa TPHCM:

Về lĩnh vực viễn thông: FPT, VNPT,…

Về lĩnh vực công nghệ: Intel, Vinagam, VNTT,…

Về thiết bị điện, điện tử: Mitsubishi, Suzuki,…

Về năng lượng: Solar BK, Tổng công ty điện lực TPHCM,…

2.3. Hạn chế, nguyên nhân


Những thành tựu về văn hóa giáo dục mà trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc
gia TP. HCM đạt được thông qua việc thiết lập cơ chế tự chủ tài chính rất đáng được công
nhận. Nhưng song song với những thành tựu thì việc thiết lập cơ chế tự chủ tài chính vẫn
còn tồn đọng những hạn chế, khó khăn.

2.3.1. Giảm hoặc không còn được đảm bảo nguồn chi từ ngân sách nhà nước
Nghị định số 86/2015/ NĐ-CP do Chính phủ ban hành năm 2015 cho phép các trường
đại học công lập được tự chủ, trong đó bao gồm tự chủ về tài chính. Theo nghị định này, đối
với giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập: Học phí của các cơ sở giáo dục đại
học, giáo dục nghề nghiệp công tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư theo quy định
của Chính phủ được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật, định mức chi phí do cơ
quan có thẩm quyền ban hành và lộ trình tính đủ chi phí đào tạo. Học phí của các cơ sở giáo
dục đại học, giáo dục nghề nghiệp công lập chưa tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư
theo quy định của Chính phủ được xác định trên cơ sở tính toán có sự cân đối giữa hỗ trợ
của Nhà nước và đóng góp của người học, thực hiện theo lọ trình giảm dần bao cấp của Nhà
nước. Quyết định này đã trực tiếp ảnh hưởng đến sự thay đổi học phí của các trường thực
hiện tự chủ nói chung và Trường đại học Bách Khoa TP.HCM nói riêng.
15
Khóa 2019, 2020 2021
Học phí 1 tín chỉ vượt định 410.000 805.000
mức (VNĐ/TC)
Tại đại học Bách Khoa TP.HCM sau khi tự chủ, học phí tăng tương đương 96% đối
với 1 tín chỉ vượt định mức.

Việc tăng học phí trong các trường đại học công lập tự chủ có thể trực tiếp làm giảm
cơ hội đến giảng đường của các sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn điều này dẫn đến
giảm tốc độ mở rộng quy mô đào tạo nhân lực trình độ đại học. Thống kê vào năm 2016 của
Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng tỷ lệ sinh viên đại học đến từ các gia đình có mức thu nhập
cao là 52% trong khi chỉ là 19% sinh viên đến từ các gia đình có thu nhập thấp cùng với ảnh
hưởng của đại dịch COVID-19 thì những thống kê này càng đáng quan ngại hơn.

Nguyên nhân dẫn đến hạn chế này đến từ khó khăn cơ bản mà hệ thống giáo dục bậc
đại học ở Việt Nam đang vướng phải chính là sự eo hẹp nguồn chi từ ngân sách nhà nước.
Theo số liệu của Bộ Tài chính vào năm 2020, khoản ngân sách nhà nước chi cho giáo dục
đại học dự tính chỉ đạt 0,27% GDP và thực chi thì chỉ đạt 0,18% GDP con số này chỉ chiếm
4,6% tổng ngân sách chi cho mảng giáo dục. Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới
(2020), ngân sách nhà nước chi trung bình cho giáo dục tại 162 quốc gia là 4,72% GDP vào
năm 2015, lượng chi này cao hơn 4,22% GDP tại Việt Nam ở cùng thời điểm. Riêng các khu
vực thuộc Thái Bình Dương và Đông Á, các quốc gia này có mức chi trung bình cho giáo
dục tương đương 5,12% GDP quốc gia, so với mức chi tại Việt Nam thì con số này cao hơn
gần 1%.

16
2.3.2. Chưa có chính sách tín dụng phù hợp cho sinh viên vay
Hiện nay, chính sách tín dụng cho sinh viên đang được thực hiện theo quyết định số
1656/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Nhìn chung các chính sách tín
dụng này mang thiên hướng chính sách bảo trợ xã hội, hỗ trợ các trường hợp khó khăn nhiều
hơn là một chính sách cho giáo dục đại học.

Nguyên nhân trên dẫn đến việc các chính sách được ban hành vẫn còn mang nhiều
hạn chế:

Thứ nhất, hạn chế về đối tượng được vay. Theo quy định được ban hành từ năm 2007,
chỉ sinh viên với hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như mồ côi hoặc là thành viên của gia đình
thuộc diện hộ nghèo, hộ gia đình có mức thu nhập thấp hoặc gia đình gặp khó khăn về tài
chính do tai nạn, bệnh tật, thiên tai, dịch bệnh mới được vay.

Thứ hai, mức cho vay thấp. Theo quyết định số 1646/QĐ-TTg, mức cho vay là 2,5
triệu đồng/tháng. Nếu chỉ so với mức học phí thì khoảng vay này bằng 1,74-2,55 lần học phí
của các trường đại học công lập chưa tự chủ, khoảng 0,5 -1,21 lần học phí tối đa của các
trường đại học công lập tự chủ chi thường xuyên, riêng với đại học Bách Khoa TP.HCM
khóa 2021 thì mức vay này tương đương 0,96 lần học phí. Nếu cộng thêm mức sống thì
lượng cho vay này chỉ đáp ứng được 25 – 40% tổng chi phí học tập của sinh viên.

17
Thứ ba, thời hạn cho vay ngắn. Sinh viên phải trở nợ gốc và lãi vay lần đầu tiên ngay
khi có việc làm, có thu nhập nhưng không được quá 12 tháng kể từ ngày kết thúc khóa học.
Thời hạn vay tối đa bằng 2 lần thời gian phát tiền vay. Để dễ hình dung thì nếu sinh viên vay
lần đầu tiên ngay sau khi trúng tuyển đại học và thời gian học là 5 năm thì thời hạn vay tối
đa là 10 năm. So với các quốc gia khác thì thời hạn vay này ngắn hơn nhiều, chẳng hạn như
Brazil (12 năm), Nhật Bản (18 năm), Hàn Quốc và Malaysia (20 năm), Trung Quốc (23
năm).

Thứ tư, lãi suất cho vay cao. Lãi suất cho vay thời điểm 2021 là 6,6% năm. Đây là
mức lãi suất khá cao cho đối tượng được ưu đãi của Ngân hành chính sách xã hội. Mức lãi
suất này cao hơn 1% so với mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng
thương mại nhà nước và tương đương với mức lãi suất cho vay mà các ngân hàng thương
mại áp dụng ưu đãi cho cán nhân viên hoặc một số chương trình ưu đãi khác. Rõ ràng, có sự
bất hợp lý trong việc áp dụng lãi suất ưu đãi đối với tín dụng sinh viên.

2.3.3. Chưa đa dạng hóa được các nguồn thu gây gánh nặng lên các nguồn thu chính
Hiện nay các trường đại học công lập dựa vào ba nguồn thu chính bao gồm: Ngân
sách nhà nước, học phí và các nguồn thu khác (thu từ các hoạt động dịch vụ, từ chuyển giao
công nghệ, hợp tác công tư, hiến tặng, …). Trong ba nguồn thu này thì học phí vẫn là lớn
nhất và quan trọng nhất. Khi quyết định tự chủ tài chính, ngân sách nhà nước sẽ không còn,
đồng thời vì sự đa dạng hóa và tối ưu trong các nguồn thu ngoài học phí chưa được đa dạng
hóa và tối ưu nên gánh nặng phần nhiều vẫn sẽ đè nặng lên nguồn học phí.

Để hiểu rõ hơn về hạn chế kể trên, ta đi vào phân tích nguyên nhân mà các nguồn thu
ngoài học phí khác chưa được đa dạng hóa và tối ưu.

Thứ nhất, về việc chuyển giao công nghệ đối với các đề tài dự án nhận tài trợ từ ngân
sách nhà nước, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ hiện mới chỉ đang trình
phương án giao cho đơn vị chủ trì nghiên cứu khoa học được quyền đăng ký sáng chế, tạo
thuận lợi cho việc thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu. Bên cạnh đó, cơ chế định giá tài
sản trí tuệ của các bên liên quan cũng còn nhiều vướng mắc.

18
Thứ hai, nguồn thu từ hiến tặng cũng rất hạn chế mà một trong những nguyên nhân là
chưa có chính sách pháp luật (ví dụ như chính sách về miễn trừ thuế) để khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tham gia hiến tặng trực tiếp cho trường đại học. Quỹ Phát triển ĐHQG-HCM
được thành lập từ năm 2009, trải qua 12 năm hoạt động cũng mới chỉ vận động tài trợ được
gần 100 tỷ đồng để tài trợ trực tiếp cho các hoạt động của ĐHQG-HCM. Từ nguồn tài trợ
này, Quỹ đã cấp học bổng, phối hợp với ngân hàng BIDV triển khai chương trình cho sinh
viên vay ưu đãi lãi suất 0%. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính nên số lượng sinh viên nhận
học bổng, được tiếp cận nguồn vốn vay của Quỹ còn ít.

2.4 Giải pháp


Tự chủ tài chính ở các trường đại học là phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa
hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Việc ban hành tự chủ tài chính từ năm 2015 đã tạo nên
nhiều thay đổi trong cơ chế thu, quản lý học phí cũng như cách thức sử dụng nguồn lực tài
chính ở các trường đại học tự chủ. Theo thống kê của Vụ Kế hoạch tài chính của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, năm 2015 – 2016, Việt Nam có 233 trường đại học, trong đó có 163 trường
đại học công lập, chiếm 73% và 60 trường đại học ngoài công lập, chiếm 27%. Nhưng đến
năm 2018, mới chỉ có 23 cơ sở giáo dục đại học công lập được Chính phủ cho thí điểm tự
chủ là những trường có thể tự chủ 100% kinh phí, từ chi thường xuyên đến đầu tư phát triển.
Các trường còn lại thì gặp vấn đề với các khoảng chi thường xuyên và nguồn lực để tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất khi thực hiện tự chủ. Thực tế, nguồn từ ngân sách nhà nước
chiếm khoảng 30 – 40% tổng thu của các trường đại học hằng năm và con số này sẽ giảm đi
khi các trường thực hiện bán tự chủ hoặc mất hoàn toàn với các trường hoàn toàn tự chủ.

Đối diện với vấn đề giảm hoặc không đảm bảo nguồn chi từ ngân sách nhà nước,
nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng và sử dụng nguồn tài nguyên phục vụ cho việc tự chủ. Để thực
hiện tự chủ, cần xây dựng bộ máy, các chuyên gia, chuyên viên thực hiện công tác tham mưu
cho Ban Giám hiệu về nội dung, biện pháp thực hiện, cung cấp các thông tin, các phương án
lựa chọn để người lãnh đạo có thể ban hành các quyết định kịp thời, cần thiết.

19
Thứ hai, xây dựng cơ chế kiểm soát các hoạt động về tự chủ tài chính. Nhà trường
cần đặt ra những tiêu chuẩn, tiêu chí chặt chẽ để đánh giá việc thực hiện sự tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tài chính của bản thân trường đại học. Đồng thười cũng phải có cơ chế để xác
định mức độ hoàn thành các tiêu chí đó.

Thứ ba, cần sớm xây dựng và ban hành Chiến lược tổng thể phát triển Giáo dục đại
học ở Việt Nam, trong đó có phân tích, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho
mỗi giai đoạn, đề xuất kinh phí đầu tư của nhà nước để đào tạo nhóm lao động này. Từ đó
xây dựng và triển khai được cơ chế đặt hàng đào tạo đối với các trường đại học.

Thứ tư, cần có lộ trình điều tiết ngân sách nhà nước đối với các trường đại học tự chủ
theo hướng chỉ dừng cấp ngân sách chi thường xuyên sau khi trường đại học đã tự chủ xong
một chu kỳ đào tạo (4-5 năm), để đảm bảo việc tăng học phí của các trường đại học tự chủ
theo đúng lộ trình.

Thứ năm, các trường cần thực hiện phân cấp trong cho các đơn vị trong trường; mở
rộng nguồn thu và khoản chi; hoàn thiện quy chế chi tiêu nội bộ; quy định trách nhiệm giải
trình về tài chính giữa các cấp trong trường; tổ chức hoặc động kiểm soát nội bộ và công
khai tài chính; đào tạo nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các đơn vị trong trường.

20
PHẦN KẾT LUẬN

Trong quá trình đọc và phân tích báo cáo về tình hình tự chủ tài chính và ảnh hưởng
đối với chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, chúng ta đã nhận thấy rõ ràng những thách thức và cơ hội mà việc tự chủ tài chính
đem lại. Từ những diễn biến và số liệu được trình bày, chúng ta nhận thấy rằng việc tự chủ
tài chính không chỉ là một xu hướng mà còn là một yếu tố quyết định đối với sự phát triển
bền vững của giáo dục đại học ở Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thiếu nguồn lực từ ngân sách nhà nước và những hạn chế về chính
sách tín dụng đối với sinh viên đã gây ra những vấn đề đáng chú ý. Một điểm đáng lưu ý là
việc tăng học phí đối với sinh viên sau khi tự chủ tài chính đã gây ra những áp lực kinh tế
đáng kể, đặc biệt là đối với những sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Điều này có
thể dẫn đến tình trạng giảm quy mô đào tạo và sự mất cơ hội tiếp cận giáo dục cao hơn đối
với một số đối tượng sinh viên. Bên cạnh đó, chính sách tín dụng hiện tại cũng đang gặp
phải nhiều hạn chế, nhất là về mức độ và thời hạn cho vay, cùng với mức lãi suất cao. Điều
này khiến cho việc tiếp cận nguồn vốn để học tập trở nên khó khăn hơn đối với sinh viên.

Tuy nhiên, chúng ta không nên nhìn nhận vấn đề này chỉ từ góc độ tiêu cực. Việc tự
chủ tài chính cũng mở ra một loạt các cơ hội phát triển mới, như khả năng đa dạng hóa

21
nguồn thu từ các hoạt động khác nhau và tạo điều kiện cho sự sáng tạo trong quản lý tài
chính của các trường đại học.

Tóm lại, để đảm bảo sự bền vững và phát triển của giáo dục đại học tại Việt Nam, cần
có sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chính phủ, trường đại học, và các bên
liên quan. Cần có những điều chỉnh cụ thể và chính sách linh hoạt hơn để giúp các trường
đại học tự chủ tài chính một cách hiệu quả, đồng thời đảm bảo rằng việc này không ảnh
hưởng tiêu cực đến khả năng tiếp cận giáo dục của sinh viên và chất lượng đào tạo. Chúng ta
cần phải tiến về phía một hệ thống giáo dục đại học bền vững, minh bạch và công bằng, phù
hợp với yêu cầu và thực tế của xã hội hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành
cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
(2) Đỗ Thơm, Cho đại học tự chủ nhưng không được cắt ngân sách nhà nước, Tạp chí
điện tử Giá dục Việt Nam: https://giaoduc.net.vn/cho-dai-hoc-tu-chu-nhung-khong-
duoc-cat-ngan-sach-nha-nuoc-post188117.gd
(3) Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, Đẩy nhanh tự chủ tài chính trong các trường
đại học công lập : https://ueb.edu.vn/Tin-Tuc/UEB/day-nhanh-tu-chu-tai-chinh-trong-
cac-truong-dai-hoc-cong-lap-/34355
(4) Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Wikipedia:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_%C4%90%E1%BA
%A1i_h%E1%BB%8Dc_B%C3%A1ch_khoa,_%C4%90%E1%BA%A1i_h
%E1%BB%8Dc_Qu%E1%BB%91c_gia_Th%C3%A0nh_ph%E1%BB%91_H
%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh
(5) Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam (27/8/2021), Những điểm mới trong văn kiện
Đại hội XIII của Đảng về giáo dục và đào tạo, truy cập từ: Những điểm mới trong văn
kiện Đại hội XIII của Đảng về giáo dục và đào tạo | Tư liệu văn kiện Đảng
(dangcongsan.vn)

22
(6) Hồng Hạnh, Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đại học mỗi năm đạt 0,18% GDP,
không có đà cho khoa học bứt phá, bá điện tử Đại Biểu Nhân Dân: Ngân sách nhà
nước chi cho giáo dục đại học mỗi năm đạt 0,18% GDP, không có đà cho khoa học
bứt phá - Báo Đại biểu Nhân dân (daibieunhandan.vn)
(7) Tìm hiểu trường đại học tự chủ tài chính là gì để có sự lựa chọn phù hợp
nhất,Memart : https://memart.vn/tin-tuc/blog/tim-hieu-truong-dai-hoc-tu-chu-tai-
chinh-la-gi-de-co-su-lua-chon-phu-hop-nhat-vi-cb.html
(8) Cự Giải,Sau 3 năm tự chủ, lương giảng viên đại học tăng vọt thế nào?, Tạp chí Đời
sống và Pháp luật : https://www.doisongphapluat.com/sau-3-nam-tu-chu-luong-giang-
vien-dai-hoc-tang-vot-the-nao-a546807.html
(9) Thông tấn xã Việt Nam, 6 nhiệm vụ, 4 giải pháp để xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong thời kỳ mới, BÁO DÂN TỘC VÀ PHÁT
TRIỂN:https://baodantoc.vn/6-nhiem-vu-4-giai-phap-de-xay-dung-va-phat-trien-van-
hoa-con-nguoi-viet-nam-trong-thoi-ky-moi-1677555236546.htm
(10) Kim Dinh, Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, TRƯỜNG CAO ĐẲNG AN NINH
NHÂN DÂN I : https://cdannd1.bocongan.gov.vn/news/blog/4506/xay-dung-va-phat-
trien-nen-van-hoa-viet-nam-tien-tien-dam-da-ban-sac-dan-toc-duoi-anh-sang-tu-
tuong-ho-chi-minh

23

You might also like