You are on page 1of 9

Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


1. Những thành tựu nổi bật về lý luận trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 2016-2021. ....................... 1

2. Những thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. ................................. 3

3. Chính sách dân tộc Việt Nam qua 35 năm đổi mới (đến năm 2021). ......................................... 4

4. Ngoại giao kinh tế: Tận dụng tối đa thành tựu chuyển đổi số phục vụ phát triển đất nước........ 6

5. Những thành tựu về ngoại giao ở Việt Nam. .............................................................................. 7

1. Những thành tựu nổi bật về lý luận trên lĩnh vực văn hóa giai đoạn 2016-2021.
Kể từ năm 2016 đến nay, nhận thức lý luận của Đảng ta về văn hóa tiếp tục có bước phát triển,
góp phần tích cực vào thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước với
những thành tựu nổi bật như sau:
Thứ nhất, bước đầu nhận thức tốt quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
Tập trung phát triển các ngành công nghiệp văn hóa kết nối những giá trị văn hóa với giá trị thương
mại của các sản phẩm văn hóa chính là một trong những đổi mới và là thành tựu lý luận của Đảng.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra
những sản phẩm – dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm công ăn việc làm ổn định, đóng
góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa – dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế chính
là sức mạnh mềm văn hóa quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người
dân, cũng như mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá đất nước.
Thứ hai, xác định sự cần thiết phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Sự cải thiện môi trường văn hóa - xã hội trên thực tế là làm cho cuộc sống vật chất của người dân
ngày càng được cải thiện, an sinh xã hội và an ninh con người ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Điều
này được thể hiện qua việc nhận thức và làm rõ được mối quan hệ, vai trò của môi trường văn hoá
với phát triển nhân cách văn hoá và môi trường tự nhiên trong phát triển, nhất là khi xem xét mối
quan hệ với đời sống văn hoá và thực tiễn môi trường văn hóa về phương diện quản lý.
Nghị quyết Nghị quyết số 33-NQ/TW đã có sự bổ sung mới cả về lý luận và thực tiễn về xây dựng
môi trường văn hóa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh:
1. Mục tiêu là xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính
trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát

1
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa
trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách;
2. Quan điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con
người trong phát triển kinh tế;
3. Nhiệm vụ: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở đó mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan,
đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người
về nhân cách, lối sống.
Thứ ba, lý luận và nhận thức về vấn đề xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế
bước đầu được làm rõ.
- Xây dựng văn hóa trong chính trị: Xây dựng văn hóa trong chính trị là nhận rõ và khẳng định
mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và văn hóa. Trong thời gian qua Đảng đã xác định việc xây
dựng thể chế để bảo đảm phát huy vai trò của chính trị đối với phát triển văn hóa là vấn đề quan trọng
hàng đầu với các nhiệm vụ: Xây dựng và hoàn thiện thể chế đó phải vừa bảo đảm được định hướng
chính trị đúng đắn, vừa phát huy tự do, dân chủ rộng rãi trong xã hội để phát triển văn hóa; Mối quan
hệ giữa kỷ luật, kỷ cương và tự do, dân chủ là mối quan hệ căn bản phải được xử lý biện chứng, hợp
lý, hợp tình trong luật pháp và chính sách phát triển văn hóa; Gắn kết chặt chẽ phát triển văn hóa với
công tác chỉnh đốn và xây dựng Ðảng, xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.
- Xây dựng văn hóa trong kinh tế: Nguyên lý nền tảng của phát triển xã hội lành mạnh, thể hiện
tính định hướng XHCN trong phát triển kinh tế là kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, công bằng không chỉ trong phân phối lợi ích mà sâu xa hơn là công bằng về cơ
hội phát triển. Việc Đảng ta xác định xây dựng văn hóa trong kinh tế chính là để đạt được những mục
tiêu đặt ra trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời quán triệt
tinh thần không thể phát triển kinh tế bằng mọi giá, nhất là không thể vì các chỉ số tăng trưởng kinh
tế mà hy sinh những thứ khác. Đây là khía cạnh văn hoá của tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng phải
gắn liền với việc đảm bảo quyền lợi của đa số nhân dân lao động, với tiến bộ và thực hiện công bằng
xã hội.
Thứ tư, đặt vấn đề cần phải xác định hệ giá trị chuẩn mực trong xây dựng và phát triển văn hóa,
đạo đức con người Việt Nam hiện đại.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021) đã tiếp tục phát triển nhận thức mang tính
đột phá về nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hoá, con người, trong đó có nội dung hệ giá trị chuẩn
mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế với việc đề
ra nhiệm vụ cụ thể: "phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, bảo đảm vừa phát huy những
giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại tạo động lực phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; Xây dựng môi trường văn hoá một cách toàn diện ở gia đình,

2
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn
hoá thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế. Khơi dậy tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường, tự hào dân tộc, tính cộng đồng và khát vọng vươn lên. Đề cao tính tiên phong,
gương mẫu trong văn hoá ứng xử của người lãnh đạo các cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức và đảng
viên. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong
đời sống kinh tế, xã hội. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi
trường văn hoá, con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức
tính cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn
minh”.
Thứ năm, giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc với tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa trong xu
thế toàn cầu hóa.
Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự vận hành của nền
kinh tế thị trường đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đó có văn hoá là quy luật
khách quan. Trước những tác động (cả tích cực và tiêu cực) của quá trình hội nhập quốc tế đặt ra cho
sự phát triển văn hóa Việt Nam, Đảng đã nhận thấy những yêu cầu mới về lý luận nhận thức, đó là:
cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, tiếp xúc và đối thoại văn hóa trong xu thế
toàn cầu hóa.
Như vậy, ngày từ khi ra đời đến nay trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi
trọng các vấn đề văn hóa - xã hội - con người và luôn đặt vào vị trí trung tâm của các quan điểm,
đường lối. Mặc dù ở mỗi thời kỳ khác nhau, tùy theo các điều kiện lịch sử cụ thể, cách tiếp cận vấn
đề cũng khác nhau. Tuy nhiên, từ năm 2016 cho đến nay, có thể nói thành tựu nổi bật về lý luận văn
hóa của Đảng đó là: Tư duy lý luận và nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa kinh tế, xã hội, văn
hóa và con người có bước phát triển vượt bậc, thể hiện sự gắn bó hữu cơ, nhuần nhuyễn. Các yếu tố
này làm tiền đề cho nhau, quy định lẫn nhau, trong đó tập trung vào sự phát triển toàn diện của con
người trên tinh thần con người vừa là động lực quyết định, vừa là mục tiêu trung tâm của sự phát triển
trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
2. Những thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động
cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, hơn 54 nghìn
chức sắc, trên 135 nghìn chức việc và gần 30 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo có đông tín đồ nhất là:
Phật giáo - khoảng trên 14 triệu tín đồ, Công giáo - khoảng 7 triệu tín đồ, Phật giáo Hòa Hảo - khoảng
1,5 triệu tín đồ, Tin lành - khoảng 1,21 triệu tín đồ; Cao Đài - khoảng trên 1,1 triệu tín đồ. Ngoài ra,

3
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

ở Việt Nam còn có các tôn giáo khác như: Hồi giáo, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bà
La Môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh Sư đạo, Minh lý đạo…
Thêm vào đó, Việt Nam là quốc gia có hệ thống tín ngưỡng vô cùng phong phú. Hiện nay, ở Việt
Nam có 50.703 cơ sở tín ngưỡng, trong đó khoảng 3.000 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo,
một số di tích được UNESCO ghi danh là di sản thế giới.
Kể từ khi thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, cả nước có hơn 6.500 người được phong phẩm,
suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc.
“Hiện có 67 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại trên
địa bàn các tỉnh, thành phố với hàng trăm người tham gia, chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh (41
điểm nhóm), thành phố Hà Nội (13 điểm nhóm) và có quốc tịch từ nhiều nước (Hàn Quốc, Philippines,
Singapore, Malaixia, Nga, Mỹ, Pháp...”- ông Nguyễn Văn Long thông tin.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù
cũng được thực hiện hiệu quả. Hiện nay, đã có 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo với số lượng 4.418
cuốn được đưa vào sử dụng tại thư viện của 54 trại giam.
Ngoài ra, các tổ chức tôn giáo còn được khuyến khích, tạo điều kiện phát huy nguồn lực tham gia
các hoạt động an sinh xã hội, trải dài từ lĩnh vực giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo và bảo trợ xã hội...
Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện cả nước có khoảng 300 trường và 2.000 cơ sở giáo dục
mầm non, 12 cơ sở dạy nghề do các tổ chức tôn giáo thực hiện. Cùng với đó là trên 500 cơ sở y tế,
phòng khám chữa bệnh từ thiện do các tổ chức tôn giáo thành lập dưới nhiều hình thức, với các hoạt
động hiệu quả, góp phần cùng chính quyền địa phương chăm lo sức khỏe và lan tỏa tinh thần yêu
thương trong cộng đồng. Hiện nay, cả nước có 113 cơ sở trợ giúp xã hội thuộc các tổ chức Phật giáo,
Công giáo, Cao Đài được cấp phép hoạt động, đang chăm sóc, nuôi dưỡng 11.800 đối tượng bảo trợ
xã hội. "Những năm qua, các tổ chức tôn giáo đã chi hàng nghìn tỷ đồng cho hoạt động của các cơ sở
giáo dục, cơ sở y tế, cơ sở bảo trợ xã hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo, đồng thời tích cực tham
gia cùng chính quyền địa phương trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh" - ông Nguyễn Văn Long
nhấn mạnh.
Từ khi thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một
trong những quyền cơ bản của công dân và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng
và tôn giáo, với chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền con người cũng như quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Nhờ đó, cộng đồng tôn giáo ở nước ta không ngừng được
củng cố, phát triển trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày càng khẳng định vai trò trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Chính sách dân tộc Việt Nam qua 35 năm đổi mới (đến năm 2021).
Nhận thức mới, tư duy mới về vấn đề dân tộc của Đảng.

4
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

Tìm hiểu chính sách dân tộc của Việt Nam trong hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi
mới, có thể thấy một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới đều xác định,
vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lớn’’, “luôn luôn có vị trí chiến lược’’, “có vị trí chiến lược lâu
dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta"... Việc xác định vị trí chiến lược lâu dài của công tác dân tộc
chính là xuất phát từ đặc điểm của cộng đồng dân tộc ở nước ta. Bởi vì, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề
giai cấp, vừa là vấn đề quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong điều kiện của một
quốc gia đa tộc người, đa dạng về văn hóa như ở Việt Nam. Đó là một đặc điểm lớn, là đặc trưng,
diện mạo lịch sử, văn hóa của Việt Nam. Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí chiến lược
của chính sách đoàn kết các dân tộc trên cơ sở “bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng,
giúp nhau cùng phát triển”.
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân tộc
đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật. Theo đó, bình đẳng giữa các dân tộc
thể hiện trước hết ở sự bảo đảm và tạo mọi điều kiện để các dân tộc có cơ hội phát triển ngang nhau.
Điều này được Đảng ta khẳng định nhất quán trong các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Do
đó, Đảng và Nhà nước ban hành nhiều đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội chung cho cả
nước, đồng thời cũng ban hành những đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội đặc thù cho
các dân tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong thời
kỳ đổi mới. Đại hội VI của Đảng khẳng định: “Trong việc phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có
đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ
tốt đẹp gắn bó giữa các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập
thể”(2). Với góc nhìn và tư duy mới, vấn đề dân tộc được đặt trong xây dựng quan hệ giữa các dân tộc
và con đường phát triển của các dân tộc; chính sách dân tộc được gắn với đường lối chính trị, với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, với các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm cũng
như hằng năm. Để xây dựng quan hệ dân tộc theo những mục tiêu trên, đòi hỏi phải thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vì vậy, Đảng ta chủ trương: “Đầu
tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động viên tinh thần tự lực, tự
cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có
đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời
sống của đồng bào, trước hết ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng
chiến”(3). Điều này thể hiện rõ mục tiêu trong chính sách dân tộc của Đảng ta là không ngừng nâng
cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của từng dân tộc; làm cho mỗi dân tộc được phát triển

5
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

một cách toàn diện và bền vững; đồng thời, qua đó, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết giữa các
dân tộc.
Thứ tư, chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Tại Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng
ta quan tâm cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng đồng bào
dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và điều kiện, đặc điểm của từng vùng.
Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các
dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững”.

4. Ngoại giao kinh tế: Tận dụng tối đa thành tựu chuyển đổi số phục vụ phát triển đất nước.

Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngoại giao kinh tế trong năm 2022, qua đó góp
phần đắc lực cho quá trình phục hồi, phát triển kinh tế đất nước.
Thứ trưởng Vũ Quang Minh cho biết Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất, Hội nghị Ngoại
giao 31, Hội nghị Ngoại vụ lần thứ 20 đã nhấn mạnh phục vụ phát triển kinh tế-xã hội là một trong
những nhiệm vụ trung tâm của ngành ngoại giao. Trong đó, ngoại giao kinh tế tập trung vào một số
nội dung sau.
Thứ nhất, tận dụng các khuôn khổ quan hệ để tiếp tục thúc đẩy, làm sâu sắc hợp tác kinh tế, thương
mại, đầu tư giữa nước ta với các đối tác chủ chốt, đối tác tiềm năng. Qua đó tiếp tục tranh thủ xu
hướng phục hồi của các nước và các cơ hội hợp tác trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với
chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nước ta.
Thứ hai, đẩy mạnh các nội hàm ngoại giao mới gắn với các ngành, lĩnh vực ưu tiên, các động lực
tăng trưởng bền vững, tận dụng tối đa thành tựu của chuyển đổi số phục vụ phát triển đất nước, trong
đó bao gồm ngoại giao công nghệ, ngoại giao biến đổi khí hậu, ngoại giao nguồn nhân lực chất lượng
cao, ngoại giao tập đoàn, ngoại giao y tế…
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động phối hợp, hỗ trợ, phục vụ, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp
làm trung tâm. Trong đó, ngoại giao kinh tế chú trọng hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư,
du lịch, xuất khẩu lao động; tận dụng lợi ích của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng như
khuôn khổ, diễn đàn hợp tác kinh tế mà Việt Nam là thành viên.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế-xã hội của Chính phủ
và các hoạt động kinh tế-xã hội của các ban, bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; tranh thủ, tận
dụng các mạng lưới đối tác, tư vấn quốc tế, đối thoại chính sách kinh tế cho Việt Nam.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách triển khai công tác ngoại giao kinh tế phục vụ
phát triển trong tình hình mới. Nâng cao năng lực triển khai công tác ngoại giao kinh tế cho ngành
ngoại giao cũng như các cơ quan, địa phương và doanh nghiệp.

6
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

Thứ trưởng Vũ Quang Minh cũng nhấn mạnh một nhiệm vụ hết sức quan trọng, là việc chuẩn bị
tổng kết hơn 10 năm triển khai Chỉ thị 41 của Ban Bí thư về ngoại giao kinh tế. Trên cơ sở đó xây
dựng một Chỉ thị mới của Ban Bí thư về đẩy mạnh triển khai đồng bộ toàn diện công tác ngoại giao
kinh tế phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước đến năm 2030, góp phần thực hiện thành công
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững, hướng tới những
mục tiêu chiến lược giai đoạn 2030-2045.
5. Những thành tựu về ngoại giao ở Việt Nam.
Thế giới đang đối mặt với nhiều vấn đề cấp bách, như: biến đổi khí hậu, diễn biến phức tạp của
đại dịch Covid-19, vấn nạn nghèo đói, xung đột vũ trang ở nhiều quốc gia… Trước tình hình đó,
ngành Ngoại giao Việt Nam đã tích cực triển khai các hoạt động nhằm phát huy vai trò tiên phong
của công tác đối ngoại, thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, từ đó, khẳng định vị thế và
vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngành Ngoại giao Việt Nam đã
đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trên tất cả các trụ cột.
Thứ nhất, về ngoại giao chính trị, ngành Ngoại giao Việt Nam đã tích cực thúc đẩy mối quan hệ
song phương và đa phương giữa Việt Nam với các đối tác, góp phần củng cố vị thế Việt Nam trên
trường quốc tế.
Mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các đối tác đang ngày càng sâu sắc và thực chất hơn,
mở đường cho những cơ hội hợp tác sâu rộng hơn trên nhiều lĩnh vực. Với các đối tác chiến lược
quan trọng, Việt Nam đã và đang tích cực củng cố quan hệ hợp tác, đa dạng hóa các lĩnh vực có tiềm
năng hợp tác giữa hai bên, tạo điều kiện cho việc nâng cấp quan hệ song phương, một trong số đó có
thể kể đến như Tuyên bố chung về tầm nhìn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Nga
đến năm 2030, một bước tiến lớn trong việc khẳng định tình hữu nghị và quan hệ hợp tác bền chặt
của hai quốc gia.
Bên cạnh đó, trên phạm vi khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và đang củng cố vai trò và vị thế của
mình trên mọi lĩnh vực, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, là thành viên tích cực của các tổ chức
quốc tế, chủ động xây dựng và nâng cao hiệu quả hợp tác giữa các quốc gia. Đáng chú ý, trong năm
2021, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an Liên hiệp
quốc, chủ trì 4 sự kiện quan trọng, có ý nghĩa thiết thực, gồm: Phiên thảo luận cấp cao của Hội đồng
Bảo An với chủ đề: Tăng cường hợp tác giữa Liên hiệp quốc và các tổ chức khu vực nhằm thúc đẩy
xây dựng lòng tin và đối thoại trong ngăn ngừa và giải quyết xung đột; 2 phiên thảo luận cấp bộ
trưởng về chủ đề: “Khắc phục hậu quả bom mìn và duy trì hòa bình bền vững: Tăng cường gắn kết
để hành động hiệu quả hơn và Bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với sự sống của người dân” và Phiên
thảo luận mở thường niên về bạo lực tình dục trong xung đột.

7
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

Thứ hai, về ngoại giao kinh tế, ngành Ngoại giao Việt Nam đã chủ động đóng góp tích cực trong
quá trình ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do, góp phần giúp Việt Nam đa dạng hóa thị
trường và sản phẩm, đưa hàng hóa Việt Nam ra thế giới.
Thời gian qua, ngành Ngoại giao đã đôn đốc triển khai và đưa các hiệp định thương mại tự do đã
có hiệu lực đi vào thực chất, đạt hiệu quả. Hiệp định EVFTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu
(EU) có hiệu lực từ tháng 8/2020 đã góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nền kinh tế. Chỉ
trong năm 2021, thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt 63,6 tỷ USD, tăng trưởng 14,8%,
trong đó, Việt Nam xuất sang EU đạt 4,8 tỷ USD, tăng 14,2% so với năm 2020. Bên cạnh đó, hiệp
định UKVFTA giữa Việt Nam và Vương quốc Anh có hiệu lực từ năm 2021 cũng đã góp phần thúc
đẩy thương mại hai chiều giữa hai quốc gia, với tổng giá trị 6,6 tỷ USD.
Cùng với sự hỗ trợ của ngành Ngoại giao, thời gian qua, Việt Nam cũng đã không ngừng tích cực
hoàn thiện khung pháp lý, phê chuẩn hiệp định RCEP trước tháng 11/2021 và dự kiến Hiệp định này
sẽ có hiệu lực từ tháng 01/2022. Với sự tham gia của nhiều nền kinh tế lớn và có mối quan hệ sâu
rộng với Việt Nam, như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…, RCEP hứa hẹn sẽ mở ra nhiều cơ hội
hơn nữa cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, về ngoại giao văn hóa.
Trong thời gian qua, các cơ quan đại diện Việt Nam đã chủ động tổ chức các chương trình giao
lưu trong khuôn khổ Chương trình Ngày Việt Nam ở nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt từ năm 2010. Các chương trình này đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc giới thiệu Việt Nam
đến với bạn bè quốc tế, từ đó thu hút thêm các nhà đầu tư, các đối tác thương mại đến với Việt Nam.
Ngoài ra, Đại sứ quán Việt Nam tại một số quốc gia cũng đã chủ động tổ chức các hoạt động nhằm
bảo tồn và phổ biến tiếng Việt tại nước ngoài thông qua các hình thức như giao lưu với sinh viên học
tiếng Việt, hỗ trợ tư vấn về quá trình học và các tài liệu học tiếng Việt… Những hoạt động kể trên
của các cơ quan đại diện không những góp phần giới thiệu hình ảnh và nét đẹp của tiếng Việt ra cộng
đồng quốc tế mà còn là một cách hiệu quả để truyền bá nét đẹp văn hóa Việt Nam, thúc đẩy mối quan
hệ bền chặt giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế.
Thứ tư, nhờ vào sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài và các
cơ quan trong nước, công tác bảo hộ công dân tại nước ngoài thời gian qua đã đạt được những kết
quả tích cực.
Trong trường hợp có tình huống khẩn cấp, các cơ quan đại diện đã luôn chủ động triển khai các
biện pháp nghiệp vụ, trao đổi thông tin với các cơ quan chức năng tại quốc gia sở tại và trong nước
để tiến hành bảo hộ công dân. Cụ thể, thời gian qua, trước thông tin về việc người lao động Việt Nam
tại một số quốc gia bị bóc lột, phải làm việc trong điều kiện không đáp ứng an toàn, các cơ quan đại
diện Việt Nam đã chủ động xác minh các sự việc và liên hệ với các cơ quan chức năng để có hành
động cần thiết bảo vệ và bảo đảm quyền lợi của người lao động Việt Nam.

8
Nguyễn Huỳnh Hoàng Anh

Về công tác phòng, chống dịch Covid-19, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng đã tổ chức các buổi trao
tặng vật tư, thiết bị y tế cho nhiều quốc gia và đối tác của Việt Nam, thể hiện sự chủ động, tích cực
của Chính phủ và Nhân dân Việt Nam trong công cuộc đẩy lùi dịch bệnh, đồng thời, thể hiện hình
ảnh của một Việt Nam đoàn kết, đồng lòng, tương thân tương ái. Ngoài ra, tính từ đầu năm 2020, Đại
sứ quán, Lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoài đã tổ chức, kết hợp với các hãng hàng không và cơ
quan liên quan của Việt Nam để đưa hàng nghìn công dân Việt Nam mắc kẹt trong đại dịch về nước,
giúp cộng đồng người Việt tại nước ngoài nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn do ảnh hưởng
của đại dịch Covid-19.
Như vậy, có thể thấy, ngành Ngoại giao Việt Nam đã đóng góp to lớn vào công cuộc đẩy lùi dịch
bệnh Covid-19 và nỗ lực phục hồi kinh tế đất nước, đồng thời giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo
lập môi trường hòa bình để tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng.

You might also like