You are on page 1of 9

Câu 1: Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong

thời kỳ
đổi mới: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc”.
Theo anh (chị), cần có giải pháp gì để thực hiện tốt văn hóa lễ hội ở Việt Nam hiện
nay?
Phần lí thuyết
Văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa, vì vậy, "phải hoàn thành
cách mạng văn hóa mới hoàn thành được công cuộc cải tạo xã hội" và "Đảng tiên phong phải
lãnh đạo văn hóa tiên phong”. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi đó là mục
tiêu quan trọng của xã hội chủ nghĩa. Đảng ta cũng đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
a. Nội dung quan điểm
- Tính chất tiên tiến của nền văn hóa (thể hiện ở 5 đặc trưng):
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng: vì con
người, vì sự phát triển toàn diện con người (cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú
về tinh thần, trong sáng về đạo đức). “Nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và phát
triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và
cộng đồng, giữa tự nhiên và xã hội”
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện được tinh thần dân chủ: phát huy quyền
làm chủ của nhân dân - tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân tham gia vào quá trình sáng tạo,
hưởng thụ và biểu hiện văn hóa; tôn trọng, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; tạo điều
kiện cho sự phát triển văn hóa của các dân tộc, vùng, miền, làng xã, gia đình một cách bình
đẳng; tôn trọng sự sáng tạo của cá nhân.
“Phải đảm bảo dân chủ, tự do cho mọi sáng tạo và mọi hoạt động văn hóa. Mặt khác cần nhấn
mạnh rằng sự sáng tạo chân chính gắn liền với trách nhiệm trước công chúng, trước dân tộc
và thời đại” (NQ HNTW 4 – Khóa VII)
+ Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa mang tính hiện đại: tiếp thu, tiếp biến các thành
tựu văn hóa, tri thức, khoa học, công nghệ hiện đại của nhân loại. Sử dụng các thành quả văn
hóa, văn minh của thời đại vào giải quyết các vấn đề của dân tộc (hiện đại hóa, công nghiệp
hóa đất nước). Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng tiến bộ vào sự nghiệp xây
dựng đất nước, con người và xã hội.
“Nâng cao trình độ tư duy khoa học, duy lý trong mọi hoạt động KT-XH trong điều kiện KTTT,
giải quyết các vấn đề dân tộc đặt ra trên tầm thời đại...”
+ Nền văn hóa tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu
hiện và các phương tiện hiện đại để chuyển tải nội dung. “ Xây dựng có trọng điểm cơ sở vật
chất kỹ thuật cho hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại chúng, đổi mới công nghệ, nâng
cao chất lượng sản phẩm, từng bước tiến kịp trình độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới” (NQ TW
4 – Khóa VII)
- Tính chất dân tộc (đậm đà bản sắc dân tộc)
+ Mối quan hệ giữa văn hóa và dân tộc: văn hóa là một yếu tố hình thành dân tộc. Văn
hóa là bộ mặt tinh thần, là linh hồn, là sức sống của một dân tộc.
+ Bản sắc văn hóa của dân tộc là bản sắc của dân tộc thể hiện trong văn hóa là những
yếu tố "độc đáo", "đặc sắc" của nền văn hóa dân tộc, là "cốt cách dân tộc", "đặc tính dân tộc"
(Hồ Chí Minh), là bộ “gen” bảo tồn dân tộc.
+ Bản sắc văn hóa Việt Nam là "tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam" là giá
trị bền vững của văn hóa Việt Nam (Văn kiện Hội nghị Trung ương năm, khóa VIII). Biểu hiện
ở 5 giá trị cơ bản:
1. Tinh thần yêu cầu nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc;
2. Tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
3. Tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động;
4. Lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình đạo lý;
5. Tính giản dị trong lối sống, sự tinh tế trong ứng xử.
Phần liên hệ:
Tuy nhiên, do những tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế, lĩnh vực văn hóa cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, tác động không nhỏ đến văn
hóa truyền thống của dân tộc. Điển hỉnh là việc lễ hội hiện nay có xu hướng biến đổi mạnh mẽ,
bên cạnh lễ hội cổ truyền đang bị tác động bởi nhiều yếu tố kinh tế xã hội đương đại nên biến
đổi, còn xuất hiện việc tổ chức các sự kiện, festival hiện đại. Vì vậy, khái niệm lễ hội cổ truyền
chỉ là khái niệm tương đối vì hầu hết các thành tố, thậm chí cả chức năng của lễ hội cũng thay
đổi.
 Về thời gian tổ chức lễ hội: có hai xu hướng biến đổi. Một số lễ hội làng, lễ hội cổ
truyền ở miền núi không kéo dài về thời gian như trước đó. Ví dụ một lễ hội thường tổ
chức từ 3 đến 5 ngày thì nay chỉ tổ chức trong nửa ngày hoặc kéo dài đến hai, ba ngày.
Nhưng mặt khác có một số lễ hội cổ truyền kéo dài hàng tháng hoặc vài tháng trời như
Hội Chùa Hương, Hội Bà Chúa Xứ, Hội Đền Hùng.

 Không gian lễ hội cũng mở rộng. Trước đây các hội làng chỉ được tổ chức ở một không
gian nhất định trong làng và phạm vi, quy mô tổ chức cũng chỉ của làng. Nhưng hiện
nay, do nhiều yếu tố (do quảng bá du lịch, do tâm lý muốn vượt trội của các nhà lãnh
đạo địa phương) nên quy mô của các hội làng cũng được mở rộng cả về không gian và
thời gian. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng mà đang có xu hướng biến thành lễ hội
vùng, thậm chí là lễ hội chung của huyện. Đối tượng người đến dự hội không chỉ là dân
làng, không chỉ là một dân tộc mà là nhiều dân tộc, có cả du khách nước ngoài tham
dự.

 Tình trạng ô nhiễm môi trường thường xuyên xảy ra ở các di tích, danh thắng và trong
các lễ hội.

 Đối vối các hoạt động tổ chức lễ hội truyền thống hiện nay, có thể thấy biểu hiện của
lãng phí như:

+ Dâng cúng xa hoa nhưng không có trong truyền thống;

+ Tổ chức lễ hội dài ngày nhưng nội dung sơ sài, thiếu hiệu quả;

+ Lạm dụng đốt hương, vàng mã, đồ hàng mã quá giới hạn sinh hoạt tín ngưỡng;
 Công tác tuyên truyền, quảng bá cho di tích, danh thắng và lễ hội ở một số địa phương
chưa được chú trọng, thông tin về di tích, danh thắng còn hạn chế

Trước thực trạng các xu hướng biến đổi của lễ hội đang diễn ra nhanh chóng như hiện
nay, xuất hiện hai luồng dư luận trái chiều. Một số cơ quan thông tin đại chúng cho rằng việc
tổ chức và quản lý lễ hội vô cùng lộn xộn, mất bản sắc văn hóa dân tộc, gây ra nhiều hậu quả
tai hại và đề xuất các biện pháp mang tính hành chính như “cấm”, “bỏ”. Thậm chí có người
chưa hiểu rõ xu hướng biến đổi của lễ hội là một yêu cầu khách quan khi chuyển sang cơ chế
thị trường nên sốt ruột đề ra các giải pháp mang tính chất chữa cháy là chính. Hoặc cũng có
khuynh hướng coi nhẹ vai trò quản lý nhà nước, cần để cho người dân tự do làm chủ, tự do tổ
chức lễ hội. Cả hai luồng dư luận như vậy đều không đánh giá đúng thực tế. Từ kinh nghiệm tổ
chức và quản lý lễ hội ở các tỉnh, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:

Về quan điểm: Cần nhận thức sự biến đổi của lễ hội cổ truyền cũng như xuất hiện nhiều loại
hình tổ chức sự kiện mới là một yếu tố khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì thế
không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên lý tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn
mẫu cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện như hiện tại. Đồng thời cũng không coi
nhẹ việc quản lý của nhà nước đối với lễ hội.

NÂNG CAO Ý THỨC TỰ GIÁC VÀ TÍNH CHỦ ĐỘNG CỦA NGƯỜI DÂN
* Đầu năm 2020, nhiều địa phương trên cả nước đã tạm dừng tổ chức các lễ hội, để phòng,
chống dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 (SARS-CoV-2). Ngay sau khi có sự chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ về việc phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do virus
SARS-CoV-2 gây ra, Bộ đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chuyên môn công văn chỉ đạo công tác
phòng, chống dịch bệnh này trong lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch. Việc dừng tổ
chức lễ hội vẫn đảm bảo nhu cầu tinh thần - tâm linh của người dân, bởi chỉ dừng tổ chức các
hoạt động hội tập trung đông người, còn phần nghi lễ vẫn được tổ chức theo nghi lễ truyền
thống với đại diện cộng đồng tham gia. Quan trọng nhất là nhờ có công tác tuyên truyền được
thực hiện đồng bộ, sâu rộng, nên ý thức tự giác và tính chủ động của người dân được nâng cao.

Về đào tạo nguồn nhân lực tổ chức, quản lý lễ hội

Vấn đề tổ chức các sự kiện, các lễ hội hiện nay là vấn đề rất quan trọng. Nhưng thực trạng
ở các tỉnh hiện nay, từ cấp cơ sở lên đến tỉnh (cả Bộ VHTTDL) đều rất thiếu đội ngũ cán bộ có
khả năng về quản lý, chỉ đạo và trực tiếp tổ chức các sự kiện, các lễ hội. Chương trình tổ chức
lễ hội chưa được giảng dạy thành một ngành học trong hệ thống trường cao đẳng cộng đồng,
trường cao đẳng sư phạm và trường trung cấp văn hóa nghệ thuật. Ngay số cán bộ am hiểu về
việc tổ chức lễ hội ở ngành VHTTDL rất ít. Hầu như hiện nay chưa có ai là chuyên gia về vấn
đề này. Chỉ có một vài người có kinh nghiệm và khả năng tổ chức của ngành. Lớp trẻ chưa
được đào tạo qua trường lớp và thực tiễn. Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách đối với ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch là phải tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nhiều cấp độ khác nhau

Kết luận:

Từ thực trạng đã nêu ở trên đang đặt ra vấn đề quản lý và tổ chức lễ hội truyền thống
hiện nay phải có những đổi thay theo kịp sự đổi thay của thực trạng lễ hội. Để lễ hội vẫn giữ
được bản sắc văn hóa, công tác tổ chức và quản lý lễ hội hiện nay đòi hỏi phải giải quyết đồng
bộ mối quan hệ nhiều chiều trong đời sống văn hóa - xã hội, giữa du lịch, kinh tế... và giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Nói tóm lại, trong bối cảnh mới hiện nay, xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn là một nhiệm vụ hàng đầu, cấp thiết, quan trọng của
cả hệ thống chính trị và toàn xã hội - với mục tiêu cao cả là để Tổ quốc ta mãi mãi là một quốc
gia văn hiến, để dân tộc ta mãi mãi là một dân tộc văn hóa, xứng đáng với tầm vóc của mình
trong lịch sử và đủ sức, tự tin, vững bước tiến cùng thời đại.
Câu 2: Phân tích quan điểm CNH, HĐH của Đảng: “Lấy việc phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Liên hệ:
1. Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để thực sự phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
2. Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để phát triển nhanh nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Phần lí thuyết:
Con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là chủ thể,
vừa là sản phẩm, vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy,
Đảng đã khẳng định “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được coi
là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, KH & CN, con người,
cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước trong đó con người là yếu tố quyết định.
Vì các nguồn lực khác thì sẽ dần cạn kiệt nhưng nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ là
khả năng vô tận, có khả năng tự tái sinh.
* Nội dung quan điểm:
2.1. Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH cần đặc biệt
chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đây là điều kiện
để hình thành và phát triển các thế hệ con người Việt Nam khỏe về thể chất, trong sáng về tâm
hồn, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
2.2. CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó lực
lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò
đặc biệt quan trọng. Nguồn nhân lực cho CNH – HĐH đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về cơ
cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến
của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.
2.3. Vấn đề phát huy nguồn lực con người qua các kỳ ĐH:
+ ĐH VIII: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. “Lấy
việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế
gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.
+ ĐH IX, X tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”
+ ĐH XI: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững”
+ ĐH XII: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Phần liên hệ:
1. phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Nhìn nhận lại quá trình lịch sử dân tộc, trong tiềm thức và ý thức xã hội, trí thức nhiều lúc
đã được đặt ở vị trí hàng đầu, vai trò quan trọng của trí thức đối với sự tồn vong hay hưng thịnh
của đất nước được nói đến từ rất sớm: “nhất sĩ, nhì nông”, “sĩ, nông, công, thương”. Đội ngũ
trí thức đóng vai trò đặc biệt to lớn trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Không ai ngoài trí thức có thể đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao như tầng lớp
trí thức, mặc dù trí thức không thể độc lập, tự thân có thể đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao được, mà phải phối hợp và cùng với các nhóm, tầng lớp, cộng đồng xã hội khác. Nhưng
đây là lực lượng quan trọng nhất, tinh nhuệ và chủ lực, có vai trò to lớn nhất mà không ai có
thể thay thế. Chính vì thế, việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức VN trong giai đoạn hiện
nay luôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu mà Đảng chủ trương và thực hiện.
Hiện nay, dù rằng trên phạm vi cả nước, đội ngũ trí thức đã đào tạo được một số lượng khá
lớn nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhưng trước yêu cầu phát triển của đất nước, nguồn nhân
lực chất lượng cao còn rất thiếu và yếu so với nhu cầu phát triển xã hội. Nhằm phát huy tốt hơn
vai trò đội ngũ trí thức đã có, phát triển hơn nữa tầng lớp trí thức trong thập kỷ tới, để tiến hành
CNH, HĐH đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, xây dựng nền kinh tế tri thức, phát triển
đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trong những năm tới, theo tôi, tất yếu phải
tích cực, quyết tâm thực hiện các việc sau đây:
 Trước hết, nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vai trò của đội ngũ trí thức.
Có một số cán bộ, đảng viên, ở một số cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, và một bộ
phận nhân dân vẫn có nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của
đội ngũ trí thức, không tin tưởng trí thức, ít quan tâm đến công tác trí thức. Một số
người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp chỉ tính toán thuần túy
ở khía cạnh lợi nhuận bằng tiền; chưa thấy hết được giá trị của các phát minh, sáng chế
của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của đất nước. Có thể thông qua nhiều hình
thức khác nhau như: tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, tổ chức hội thi, hội thảo,… nhằm
nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về vai trò đội ngũ trí thức trong giai đoạn
hiện nay. Trong đó, trọng tâm vẫn là công tác tuyên truyền, giáo dục.
 Thứ hai, phải xây dựng môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức.
Môi trường và điều kiện thuận lợi sẽ là bệ đỡ, chất xúc tác cho đội ngũ trí thức phát
huy cao nhất năng lực sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động. Trái lại, môi trường kém,
không thuận lợi sẽ gây cản trở, kìm hãm năng lực sáng tạo. Môi trường và điều kiện
hoạt động gồm nhiều nội dung khác nhau, nhưng trước hết là không khí dân chủ, tự do
sáng tạo, công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo. Tạo lập môi trường dân chủ,
tự do sáng tạo, công bằng trong hoạt động của đội ngũ trí thức là điều kiện tiên quyết
để có một nền KHCN phát triển, tiềm lực KHCN mạnh. Do đặc thù lao động của trí
thức, nên khi nào, ở đâu hạn chế sự tự do lưu thông dữ liệu, thông tin và tri thức, thì
khi đó, chỗ ấy càng chậm tiến vào mô hình kinh tế mới14.
 Thứ ba, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật đầy đủ, hiện đại, thích hợp với yêu cầu
nghiên cứu, triển khai KHCN, phát triển văn hóa, khoa học. Cơ sở vật chất là tiền đề
không thể thiếu cho hoạt động của giới trí thức. Ngày nay, hệ thống cơ sở vật chất - kỹ
thuật không chỉ giản đơn là sách vở, thư viện, phòng thí nghiệm mà nội dung của nó
phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào từng lĩnh vực, ngành, nghề, vấn đề nghiên cứu, sáng
tạo. Không có cơ sở vật chất - kỹ thuật tương thích thì đội ngũ trí thức không thể nghiên
cứu, sáng tạo tri thức, văn hóa, hay ứng dụng.
 Thứ tư, nhanh chóng đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, bố trí, sử dụng
trí thức. Vai trò của trí thức phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực, phẩm chất đạo
đức, bản lĩnh chính trị. “Đây là yếu tố cơ bản quy định sức mạnh và hiệu quả phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức”16. Hiện nay, chất lượng cần được đặt lên hàng đầu trong
tương quan với số lượng. Sau đó và cùng với việc nâng cao chất lượng thì hoàn thiện
cơ cấu hợp lý, phù hợp sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ.

Kết luận:

Có rất nhiều vấn đề mà thực tế đang đặt ra cho việc phát triển đội ngũ trí thức. Nhưng trên
đây là bốn vấn đề mà tôi cho là căn bản nhất, bức thiết nhất hiện nay, đòi hỏi phải thực hiện
đồng bộ, kịp thời, quyết tâm và nhất quán, mới hi vọng có thể có chuyển biến tích cực trong
hoạt động của tầng lớp trí thức hiện nay cả trên phạm vi địa phương lẫn quốc gia. Thực hiện
sớm, đồng bộ, hiệu quả các đề xuất trên đây chính là thực hiện đường lối Đại hội lần thứ XII
của Đảng: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo.
Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế,
chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám
định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”

Phần liên hệ 2: Theo anh (chị), cần có những giải pháp gì để phát triển nhanh nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay?
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở rộng
quan hệ đối ngoại hợp tác với các nước trên thế giới. Đây vừa là thời cơ vừa là những nguy cơ,
thách thức yêu cầu phải tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng với thực
tiễn. Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững
đất nước.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành nguồn nhân lực của đất nước. Đó là những
con người được đào tạo cơ bản, có trình độ, chuyên môn kỹ thuật cao, hay nói cách khác, nguồn
nhân lực chất lượng cao chính là những người tài và giỏi, có thể làm được những việc mà nguồn
nhân lực nói chung không thể làm được, hoặc làm được với chất lượng, hiệu quả không cao.

Thời gian qua, nguồn lực chất lượng cao hoạt động ở các ngành nghề, lĩnh vực đã được quan
tâm, tạo điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt và có những đóng góp nhất định vào việc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng phải khẳng định rằng:
Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được quan tâm một cách thường xuyên,
liên tục ở các thời điểm, giai đoạn khác nhau, vẫn còn xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám”,
nguồn lực chất lượng cao hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề chưa tương đồng với nhau,
có ngành rất nhiều nguồn lực chất lượng cao, ví dụ ngành toán học, vật lý, chế tạo máy… có
ngành rất ít, như: khoa học xã hội nhân văn, văn hoá, nghệ thuật…

Một bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao có biểu hiện kiêu ngạo, tự mãn, cho rằng bản thân
có tài năng đưa ra những đòi hỏi, yêu sách phải bảo đảm các điều kiện làm việc, hoặc có biểu
hiện xem thường người khác, đặt ra những quy định, yêu cầu riêng có cho bản thân mình. Trước
yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là hội nhập quốc
tế ngày càng cao, Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ nếu không
quan tâm, chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hiện thực ý chí, khát
vọng vươn lên dựng xây, kiến thiết đất nước thì Việt Nam sẽ phải đối diện với nguy cơ, thách
thức tụt hậu về kinh tế, đánh mất cơ hội tham gia thị trường lao động quốc tế.
Một số biện pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta hiện nay

 Có cơ chế, chính sách hợp lý, đồng bộ để thu hút, sử dụng đối với nguồn nhân lực
chất lượng cao

Có thể thấy, cơ chế, chính sách sử dụng hợp lý, phù hợp với nguồn nhân lực chất lượng
cao là sự ghi nhận, đánh giá của Đảng, Nhà nước và các tổ chức, lực lượng có liên quan. Vấn
đề đặt ra là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong việc phối kết
hợp để xây dựng, ban hành quy chế sử dụng, làm việc đối với nguồn nhân lực chất lượng cao,
đặc biệt là các phòng, ban, sở nội vụ ở các cơ quan, đơn vị và địa phương; xây dựng môi trường
văn hoá trong sáng, lành mạnh giữa người đứng đầu với cấp dưới; duy trì và thực hiện nghiêm
túc các chế độ, quy định, nề nếp sinh hoạt ở mỗi cơ quan, đơn vị và địa phương; quan tâm đến
đời sống của cán bộ, công nhân thuộc quyền quản lý.

 Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học, cao
đẳng
Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng
cao ở nước ta hiện nay. Ngay từ các bậc học, nhất là bậc học Phổ thông trung học, giáo viên và
phụ huynh học sinh phải định hướng tương lai cho con em mình trong việc chọn lựa ngành
nghề phù hợp với năng lực, thế mạnh của bản thân. Từ đó, tập trung đào tạo, bồi dưỡng chuyên
sâu về một ngành, lĩnh vực mà mình yêu thích, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng sau khi hoàn thành
khoá học. Đặc biệt, các trường cao đẳng, đại học phải làm tốt công tác tuyển chọn, xây dựng
chương trình đào tạo phù hợp với trình độ nhận thức của người học, đáp ứng nhu cầu, nhiệm
vụ của xã hội, của quá trình hội nhập, mở cửa, phát triển nền kinh tế tri thức hiện nay. Thực
tiễn nguồn lực chất lượng cao ở nước ta không có nhiều, chủ yếu là nguồn lực trung bình, tức
là lao động ở bậc phổ thông, đơn giản, lao động có trình độ chuyên môn cao rất ít. Do đó, hầu
hết việc sản xuất, sử dụng công nghệ máy móc, thiết bị đều nhập khẩu từ nước ngoài, xin ý kiến
chuyên gia nước ngoài đến hỗ trợ. Theo đó, tiến hành rà soát lại chương trình đào tạo ở các
trường; tăng cường thời gian học thực hành, giảm thời gian học lý thuyết; tuyển dụng học sinh
vào đào tạo phải bảo đảm chất lượng, không chạy theo số lượng; Các cơ sở giáo dục cần phát
triển hơn nữa vào các ngành nghề chất lượng cao: như lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông
tin, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ sinh học... để giúp người lao động có thể làm chủ khi
cuộc cách mạng số hóa bùng nổ như hiện nay.

 Giải quyết tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với thực tiễn nền kinh tế - xã
hội của đất nước
Trong những năm vừa qua nền kinh tế - xã hội nước ta có bước tăng trường khá cao, tương đối
ổn định, nhưng do tác động của bối cảnh thế giới, khu vực và đặc biệt là đại dịch Covid - 19
gần đây đã làm cho một số ngành, lĩnh vực, nhất là người lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tình hình đó, ảnh hưởng phần nào đến nguồn nhân lực chất lượng cao, theo đó, cần giải quyết
tốt mối quan hệ giữa môi trường làm việc với điều kiện tế của mỗi ngành, lĩnh vực ở mỗi cơ
quan, đơn vị, địa phương. Nguồn nhân lực chất lượng cao thường có biểu hiện tự cao, tự mãn,
ít lắng nghe ý kiến đóng góp của người khác, hoặc có nghe chỉ mang tính chất chiếu lệ cho
song, cho có, tự mình quyết định mọi việc, không tôn trọng mọi người xung quanh. Do đó,
trong quá trình làm việc, giải quyết các mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa nguồn
nhân lực chất lượng cao với mọi người xung quanh phải hài hoà, hợp lý, không đặt cái tôi cá
nhân lên quá cao.
Kết luận:
Vậy sự thành công hay thất bại, tận dụng tốt thời cơ, vận hội hay vượt qua nguy cơ, thách thức
từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc cách quyết định vào phương
thức khai thác nguồn lực con người, nhất là việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao. Nguồn nhân lực có chất lượng cao, với số lượng và cơ cấu hợp lý, giàu trí tuệ, giàu ý chí
và khát vọng, có lý tưởng cách mạng soi sáng, sẽ là động lực để sớm đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Câu 3: Phân tích định hướng của Đảng: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, với nhận thức sâu sắc về đặc điểm của nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tầm
quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” (Nghị quyết 26 - HNTW7 khóa X). "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước".
Cơ sở định hướng
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn có tầm quan trọng
đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống của nông
dân. Đó là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là nước ta có điểm
xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại.
+ Nước ta có thế mạnh để phát triển nông nghiệp (gần 70% dân số sống ở nông thôn,
hơn 47% lao động làm nông nghiệp). Nông nghiệp Việt Nam với vị trí là cái gốc của đất nước,
là cái lợi thế rõ ràng nhất. Do đó để đảm bảo cho đời sống dân cư ổn định, thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu để phát triển thì rất cần thiết phải đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn.
+ Nước ta đã nhận thức rõ được mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong
thời đại CNH, HĐH đó là: Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, là địa bàn tiêu
thụ hàng hóa của công nghiệp. Công nghiệp làm tăng năng suất cho nông nghiệp, cung cấp máy
móc, kĩ thuật, cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, bộ mặt của nông nghiệp có thay đổi được hay
không là phụ thuộc vào sự phát triển của CN.
+ Mục đích của đất nước ta là tăng trưởng KT gắn với tiến bộ và công bằng XH, rút
ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Do đó cần phải thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Nông nghiệp phát triển, bộ mặt nông thôn thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện
là một tiền đề quan trọng để giữ vững sự ổn định chính trị XH.
+ Đó là ta học tập kinh nghiệm không chỉ từ thành công mà còn từ thất bại của các
nước khi thực hiện CNH, HĐH (Hoa Kỳ, các nước Tây Âu, Nhật Bản)
Nội dung định hướng: 3 nội dung
 Một là, về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
+ Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị
gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh tiến bộ
khoa học – kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
+ Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ;
giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
 Hai là, về quy hoạch phát triển nông thôn.
+ Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi
trường lành mạnh.
+ Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - XH đồng bộ như thủy lợi,
giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ,…
+ Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí,
bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín, dị đoan, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội.
 Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
+ Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở
nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao
động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong
và ngoài khu vực nông thôn, kể cả đi lao động nước ngoài.
+ Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu,
vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

You might also like