You are on page 1of 39

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


++++++++++++

TIỂU LUẬN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài : Quan điểm Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sự vận dụng
vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay

Học viên : Nguyên Thị Ngọc Hà

Mã sinh viên : 2057080018

Lớp tín chỉ : TH01001_3

HÀ NỘI – 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................5
5. Kết cấu của tiểu luận ...............................................................................5
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM ...................................6
1. Định nghĩa ................................................................................................ 6
2. Cội nguồn văn hoá Việt Nam ...................................................................6
3. Đặc trưng cơ bản..................................................................................... 7
4. Một số đặc điểm của văn hóa Việt Nam .................................................8
CHƯƠNG 2 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN
TỘC, TIẾP THU TINH HOA VĂN HOÁ NHÂN LOẠI ................................ 11
1. Định nghĩa về văn hoá và quan điểm về xây dựng nến văn hoá mới ... 11
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hoá. ........... 12
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá. .... 16
CHƯƠNG 3 : SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN
BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM, TIẾP THU TINH HOA VĂN HOÁ NHÂN
LOẠI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY ................................................................ 27
1. Mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2021 - 2030 .............................. 28
2. Nhiệm vụ phát triển văn hóa giai đoạn 2021 – 2030 ............................ 29
3. Liên hệ : Vai trò của sinh viên trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giữ gìn bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại ........ 36
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 38
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 39

2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam và, một
vị lãnh tụ vĩ đại mà mỗi nhân dân đất nước ta muôn đời không thể nào quên được
công lao và lý tưởng cao đẹp của Người. “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu),
như ánh sáng, như khí trời không thể thiếu được trong cuộc đời mỗi con người
Việt Nam, và ai cũng cảm thấy: “Tự hào biết mấy Bác ơi/ Bác cho con cả cuộc
đời tự do” bởi lẽ mọi bước đi của nhân dân, của Đảng ta đều gắn bó với cuộc đời
cách mạng vô cùng đẹp đẽ và sôi nổi của Bác. Bác đã để lại cho nhân dân Việt
Nam một di sản vô giá – di sản về tư tưởng văn hoá vô cùng cao đẹp và phong
phú. Bác đã nhấn mạnh, văn hoá là động lực của xã hội, của nền kinh tế nước
nhà; văn hoá soi đường cho quốc dân đi. Thật vậy, văn hoá có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc đảm bảo sự phồn thịnh và bền vững của một quốc gia.

Nước ta đã và đang thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0. Nhờ đường lối đúng đắn, chúng ta đã tiếp thu nhiều
giá trị tiến bộ của nhân loại để tiếp tục đẩy mạnh kinh tế - xã hội, nâng cao đời
sống vật chất cũng như văn hóa tinh thần cho người dân... Tuy nhiên, mặt trái của
hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường và cuộc cách mạng 4.0 dường như đã có tác
động tiêu cực đến hệ giá trị truyền thống của người Việt Nam; làm cho thang giá
trị có sự lung lay, có phần khủng hoảng trong việc lựa chọn sự định hướng, nhất
là với thế hệ trẻ. Nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc như: yêu
nước, đoàn kết, tương thân tương ái, hiếu học, chăm chỉ lao động… dù vẫn được
phần lớn nhân dân Việt Nam coi trọng, gìn giữ và phát huy, nhưng cũng đang có
những giá trị văn hoá có biểu hiện mai một, suy thoái. Thực tế đó đòi hỏi yêu cầu
bức thiết cần tìm ra những giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực, hướng tới xây dựng và duy trì văn hoá Việt Nam với thế hệ sau. Với
tầm quan trọng ấy của văn hoá dân tộc, đề tài được thực hiện nhằm cung cấp và
nêu lên những giá trị của nền văn hoá trong hệ tư tưởng của Hồ chủ tịch, qua đó
liên hệ tới việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của đất nước trong thời đại
công nghệ phát triển nhanh chóng như hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

3
Nghiên cứu làm sáng tỏ những quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về văn hoá
dân tộc Việt Nam; từ đó vận dụng vào việc phát triển hệ giá trị của đất nước, con
người Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


- Nghiên cứu làm rõ một số khái niệm cơ bản về: tư tưởng Hồ Chí Minh; văn hoá
Việt Nam và văn hoá dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn văn hoá Việt
Nam; phát triển hệ giá trị của văn hoá Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn văn hoá dân tộc.
- Nghiên cứu quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về hệ giá trị tiêu biểu, cốt lõi
và phương pháp phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nền văn hoá
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh.

3.2. Phạm vi nghiên cứu


- Về nội dung: Trong di sản tinh thần để lại, Hồ Chí Minh đã đề cập trực tiếp,
gián tiếp đến nhiều khía cạnh bản sắc văn hoá dân tộc. Có những giá trị chung
của dân tộc như: Tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục, ẩm thực, trang phục,
lễ hội…; có giá trị riêng của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội, ngành nghề: công nhân,
nông dân, bộ đội, công an, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng…; có giá trị
cá nhân; Có những giá trị chính trị: độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ…; có
những giá trị đạo đức: trung thực, dũng cảm, liêm khiết, chính trực… Đây là
những giá trị tiêu biểu, cốt lõi nhất, tạo nên bản sắc văn hóa, con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh trong thực tế còn là người tiêu biểu cho một nguồn văn hóa: Văn
hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn
giữa văn hóa cổ truyền của dân tộc với những nhân tố tích cực trong văn hóa các
tôn giáo, những tinh hoa văn hóa phương Tây và phương Ðông cùng với văn hóa
Mác-xít, để trở thành nguồn văn hóa đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam. Văn hóa
Hồ Chí Minh là nguồn văn hóa về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết
hợp với sức mạnh của thời đại, vì độc lập cho đất nước vì tự do hạnh phúc cho

4
nhân dân, chăm bồi môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội lành mạnh cho
cuộc sống con người, bảo vệ hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc và tình đoàn kết
quốc tế, "bốn phương vô sản đều là anh em...". Văn hóa Hồ Chí Minh đã định
hướng cho chúng ta tu dưỡng về đức cần kiệm liêm chính, về đạo làm người, về
sự kiên định con đường giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
với ý thức "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đây là những giá trị tiêu biểu,
cốt lõi nhất, tạo nên bản sắc văn hóa, con người Việt Nam. Từ những giá trị tiêu
biểu, cốt lõi mang tính nguyên tắc này đã sản sinh ra nhiều giá trị quý báu khác
của bản sắc văn hoá Việt Nam.

- Về thời gian: Về lý luận nghiên cứu : không giới hạn. Về thực tế phát triển văn
hoá dân tộc : Từ năm 1998 đến năm 2021, là giai đoạn nước ta bước vào thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; là giai
đoạn Đảng, Nhà nước ta đặc biệt coi trọng xây dựng, phát triển văn hóa, đánh dấu
bằng sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết trung ương
IX.
- Về không gian: Trong quốc gia Việt Nam.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận được thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, lôgíc
và lịch sử, tổng hợp và khái quát hóa, đối chiếu và so sánh…

5. Kết cấu của tiểu luận


Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Tổng quan về văn hoá Việt Nam
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại
Chương 3: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hoá Việt
Nam, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại của nước ta hiện nay

5
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

1. Định nghĩa
Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:

Quan niệm thứ nhất: đó là kết hợp giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa người
Việt, trình bày lịch sử văn hóa Việt Nam như là lịch sử văn minh của người Việt.

Quan niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa có trên mảnh đất Việt
Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn hóa của toàn bộ dân tộc/quốc
gia.

Quan niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền
văn hóa dân tộc thống nhất dựa trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa các tộc người.
Quan niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực văn hóa Việt Nam đã khẳng định, vì
vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm thứ ba, văn
hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc.

2. Cội nguồn văn hoá Việt Nam

Về nguồn gốc hình thành văn hoá dân tộc, có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh
vấn đề này. Trong đó, nổi bật nhất khi xem xét cội nguồn của văn hoá, liên quan
đến việc xác định đặc trưng văn hoá là các ý kiến nói về điều kiện tự nhiên. Con
người là một bộ phận của tự nhiên, “là sản phẩm của tự nhiên” (F. Enghen), có
khả năng chinh phục tự nhiên, nhưng đồng thời cũng bị chi phối bởi tự nhiên. (Từ
định nghĩa của văn hoá. Nhà nghiên cứu ngôn ngữ – văn hoá Trần Ngọc Thêm lý
giải: “Bởi văn hoá là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa
của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên
(địa lý- khí hậu) và xã hội (lịch sử – kinh tế) quy định”.

Có thể thấy, Việt Nam chính là nơi hội tụ ở mức đầy đủ nhất mọi đặc trưng của
văn hoá khu vực : Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ. Sau này, do nhiều điều
kiện khác nhau, Việt Nam chúng ta tiếp xúc với các nước khác- tức cũng là các
nền văn hoá khác, như Trung Hoa, Ấn Độ (từ rất sớm), sau đó là tiếp xúc với văn
hoá phương Tây… – Trong bối cảnh đó, dù sớm hay muộn, dù nhiều hay ít, văn
hoá Việt Nam cũng đã có những ảnh hưởng nhất định và đã tiếp nhận các nền văn
hoá này ở những mức độ khác nhau, đặc biệt là với văn hoá Trung Hoa. Đây là

6
nhân tố thứ hai, góp phần làm nên đặc trưng văn hoá Việt Nam. Tuy vậy, với điều
kiện môi trường tự nhiên khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, với một không gian xã hội
được định hình rất sớm, nên đặc trưng gốc văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn bảo
lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian dân tộc
Việt; và đây chính là đặc tính trội nhất khi nói về bản sắc văn hoá Việt Nam, về
lịch sử dân tộc Việt Nam. Đặc trưng này có tác dụng chi phối các đặc trưng văn
hoá khác.

3. Đặc trưng cơ bản

Đặc trưng thứ nhất: Nước ta có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất
cả các khía cạnh người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng
đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những
niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng giáo lý khác
nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ,
từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.

Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc,
dân cư đã tạo ra những vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại việt nam.
Từ cái nôi của văn hóa việt nam ở đồng bằng sông Hồng của người Việt chủ đạo
với nền văn hóa kinh kỳ, văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến những sắc
thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây Bắc và Đông Bắc. Từ các vùng đất biên
viễn của việt nam thời dựng nước ở Bắc Trung Bộ đến sự pha trộn với văn
hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam
Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa dạng trong
văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.

Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người việt cùng với
những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người việt cổ từ
thời hồng bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong hàng nghìn năm nay.
Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quôc và Đông Nam Á đến những ảnh
hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hoá từ thế
kỷ 21. Việt nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có
những khía cạnh mất đi nhưng cũng có những khía cạnh văn hóa khác bổ sung
vào nền văn hóa việt nam hiện đại. Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng
của văn hóa Việt Nam khi nhìn nhận từ bên ngoài bao gồm tôn kính tổ tiên, tôn
trọng các giá trị cộng đồng và gia đình, làm thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù

7
và hiếu học. Phương Tây cũng cho rằng những biểu tượng quan trọng trong văn
hóa việt nam bao gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.

4. Một số đặc điểm của văn hóa Việt Nam

Tiễn trình lịch sử lâu dài gắn với sự mở rộng lãnh thổ địa lý từ Bắc chí Nam,
mang đến sự hình thành những giá trị văn hoá, tạo thành một hệ thống gọi là nền
văn hoá Việt Nam. Đi sâu nghiên cứu nền văn hoá dân tộc, chúng ta thấy nổi lên
tính cộng đồng bao gồm ba trục : gia đình - làng - nước và xu thế nhân văn, hướng
về con người, về cộng đồng, về cội nguồn dân tộc, tìm thấy ở con người những
giá trị của những đức tính tốt đẹp. Hai điểm ấy gắn bó mật thiết với nhau, tạo nên
hạt nhân của nền văn hoá Việt, từ đó mà cấu thành nên nhiều giá trị văn hoá khác.
Nền văn hoá Việt Nam hiện nay đang được xây dựng là nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, với các đặc trưng về dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Những đặc
điểm cơ bản có thể được khái quát qua một số nét sau :

4.1. Về triết học và tư tưởng:

Tư tưởng, triết học Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng của Phật giáo,
Nho giáo và Đạo giáo; nó được dung hợp và Việt hóa đã góp phần vào sự phát
triển của xã hội và văn hóa Việt Nam từ lâu đời. Xã hội nông nghiệp có đặc trưng
là tính cộng đồng làng xã với nhiều tàn dư nguyên thủy kéo dài đã tạo ra tính cách
đặc thù của con người Việt Nam. Đó là một lối tư duy thiên về kinh nghiệm cảm
tính hơn là tư duy lý tính, ưa hình tượng hơn khái niệm, nhưng lại uyển chuyển
linh hoạt, dễ dung hợp và dễ thích nghi. Dân ta có một lối sống nặng tình nghĩa,
đoàn kết gắn bó với cộng đồng, làng nước. Đó là một cách hành động theo xu
hướng giải quyết dung hoà, quân bình, dựa dẫm vào các mối quan hệ, đồng thời
cũng khôn khéo trong ứng biến, biết lấy nhu thắng cương, lấy yếu chống mạnh
trong xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong các bậc thang
về giá trị tinh thần, Việt Nam đề cao chữ Nhân, kết hợp chặt chẽ Nhân với Nghĩa,
Nhân với Đức; bất nhân bất nghĩa đồng nghĩa với thất đức. Chữ Phúc cũng đứng
hàng đầu bảng giá trị đời sống, nhân dân khen nhà có phúc hơn là khen giàu sang,
phú quý.

4.2. Về phong tục, tập quán:

8
Các phong tục như cưới hỏi, tang ma, lễ tết, lễ hội của người Việt nói chung đều
gắn với tính cộng đồng - làng xã. Các lễ hội chính là Tết Nguyên đán, Rằm tháng
Giêng, tết Hàn thực, tết Đoan ngọ, tết Rằm tháng Bảy, tết Trung thu,... Việt Nam
là đất nước của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân. Mỗi vùng thường có lễ
hội riêng, quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp vì nước ta là một nước thuần
nông : như cầu mưa, xuống đồng, cơm mới...; các lễ hội nghề nghiệp như đúc
đồng, rèn, pháo, đua ghe... Ngoài ra, còn có các lễ hội kỷ niệm các vị anh hùng
có công với nước, các lễ hội tôn giáo và văn hóa, hội chùa… Lễ hội có hai phần,
phần lễ mang ý nghĩa khấn cầu và tạ ơn bề trên; phần hội là sinh hoạt văn hóa
cộng đồng gồm nhiều trò chơi, cuộc thi dân gian khác nhau.

4.3. Về tín ngưỡng và tôn giáo:

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Từ thế kỷ XV, do
nhu cầu xây dựng đất nước thống nhất, chính quyền tập trung và xã hội trật tự,
Nho giáo thay thế Phật giáo trở thành Quốc giáo dưới thời Lê. Nho giáo đã ăn
sâu vào cơ chế chính trị - xã hội, vào chế độ học hành khoa cử, vào tầng lớp nho
sĩ, dần chiếm lĩnh đời sống tinh thần lẫn xã hội. Nhưng Nho giáo cũng chỉ được
tiếp thụ ở Việt Nam từng yếu tố riêng lẻ, nhất là về chính trị - đạo đức, chứ không
bê nguyên cả hệ thống. Kitô giáo đến Việt Nam vào lúc chế độ phong kiến khủng
hoảng, Phật giáo suy đồi, Nho giáo bế tắc, để trở thành chỗ an ủi tinh thần cho
một bộ phận dân chúng nhưng trong một thời gian dài mà không hoà đồng được
với văn hóa Việt Nam. Chỉ khi hoà Phúc âm trong dân tộc, nó mới đứng được ở
Việt Nam. Các tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín
ngưỡng dân gian bản địa mà làm cho cả hai phía đều có những biến đổi nhất định,
tạo nên nét riêng của tín ngưỡng Việt Nam.

4.4. Về ngôn ngữ:

Trải qua nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, dưới các triều đại phong kiến,
ngôn ngữ chính thống của nước ta là ngôn ngữ Hán, nhưng cũng là thời gian tiếng
Việt tỏ rõ sức sống đấu tranh tự bảo tồn và phát triển. Chữ Hán được đọc theo
cách của người Việt, gọi là cách đọc Hán - Việt và được Việt hóa bằng nhiều cách
tạo ra nhiều từ Việt thông dụng. Tiếng Việt phát triển phong phú đi đến ra đời hệ
thống chữ viết ghi lại tiếng Việt trên cơ sở văn tự Hán vào thế kỷ X, gọi là chữ
Nôm. Đến thời kỳ thuộc Pháp và chống Pháp thuộc, chữ Hán dần bị loại bỏ, thay
thế bằng tiếng Pháp dùng trong ngôn ngữ hành chính, giáo dục, ngoại giao. Chữ

9
Quốc ngữ là sản phẩm của một số giáo sĩ phương Tây trong đó có Alexandre de
Rhodes hợp tác với một số người Việt Nam dựa vào bộ chữ cái Latinh để ghi âm
tiếng Việt dùng trong việc truyền giáo từ hồi thế kỷ XVII. Chữ Quốc ngữ dần
được hoàn thiện, phổ cập, trở thành công cụ văn hóa quan trọng. Đến cuối thế kỷ
XIX đã có sách báo xuất bản bằng chữ Quốc ngữ. Với sự ra đời chữ Quốc ngữ,
có lợi thế đơn giản về hình thể kết cấu, cách viết, cách đọc, văn xuôi tiếng Việt
hiện đại thực sự hình thành, tiếp nhận thuận lợi các ảnh hưởng tích cực của ngôn
ngữ văn hóa phương Tây. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tiếng Việt và
chữ Quốc ngữ giành được địa vị độc tôn, phát triển dồi dào, là ngôn ngữ đa năng
dùng trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp học, phản ánh mọi hiện thực cuộc sống. Tuy
vậy, bên cạnh tiếng Việt phổ thông, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có
chữ viết riêng ngôn ngữ riêng.

4.5. Về văn học, nghệ thuật

Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân gian và
văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam, có công lớn
gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn và ngôn ngữ của nhân
dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười,
câu đố, tục ngữ, ca dao... với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam. Văn học viết
xuất hiện sau văn học dân gian, với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng, có giá trị
lớn trong kho tàng văn học nước nhà và thế giới.

Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc. Thể loại và làn điệu dân ca Việt Nam
rất phong phú khắp ba miền Bắc, Trung, Nam: từ ngâm thơ, hát ru, hò đến hát
quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví - giặm, ca Huế, bài chòi, lý, ngoài ra còn có
hát xẩm, chầu văn, ca trù… Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có chèo, tuồng vô
cùng phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất
nung ra đời rất sớm. Sau này gốm tráng men, tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh
lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ nghệ thuật cao. Đã có hàng nghìn di tích
văn hóa, lịch sử được Nhà nước xếp hạng. Thế kỷ XX, tiếp xúc với văn hóa
phương Tây, nhất là sau khi nước nhà độc lập, các loại hình nghệ thuật mới ra
đời và phát triển mạnh, thu được những thành tựu to lớn với nội dung phản ánh
hiện thực đời sống và cách mạng. Hiện nay, Việt Nam có 10 di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể được tổ chức UNESCO công nhận là di sản thế giới. Những nét
văn hóa dân tộc cổ truyền hiện đang có nguy cơ bị mai một theo thời gian. Vì thế,
vấn đề bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề cấp thiết và lâu dài,

10
đòi hỏi sự quan tâm của các ngành, các cấp và toàn thể quần chúng nhân dân,
nhất là trong thời đại hiện nay.

CHƯƠNG 2 : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN


TỘC, TIẾP THU TINH HOA VĂN HOÁ NHÂN LOẠI

1. Định nghĩa về văn hoá và quan điểm về xây dựng nến văn hoá mới

1.1. Định nghĩa về văn hoá :

Khái niệm về “văn hoá” có nội hàm phong phú và ngoại diên rất rộng, chính vì
vậy, đã có đến hàng trăm định nghĩa về văn hoá. Tháng 8 –1943, khi còn trong
nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đưa ra một định nghĩa
của mình về văn hoá. Điều thú vị là định nghĩa của Hồ Chí Minh có rất nhiều
điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hoá. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Với định
nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về văn hoá
trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần, trong văn học
nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học
vấn...Trên thực tế, văn hoá bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá
trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là
mục đích cuộc sống của loài người.

1.2. Quan niệm về xây dựng nền văn hoá mới

Cùng với định nghĩa về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hoá dân tộc: “1 là Xây dựng tâm lý: tinh thần
độc lập, tự cường. 2 là Xây dựng luân lý : biết hy sinh mình, làm lợi cho quần
chúng. 3 là Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội. 4 là Xây dựng chính quyền, dân quyền. 5 là Xây dựng kinh tế”.

11
Như vậy, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hoá, đã thấy rõ vai
trò, vịt trí của văn hoá trong đời sống xã hội. Điều này cắt nghĩa vì sao ngay sau
khi giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một
nền văn hoá mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội,
đạo đức, đến tâm lý con người, đã sớm đưa văn hoá vào chiến lược phát triển đất
nước.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hoá.

2.1. Quan điểm về vị trí và vai trò của văn hoá trong đời sống xã hội

Văn hoá là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. Ngay sau
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm này. Ở
đây, Hồ Chí Minh đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội tạo thành
bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và các vấn đề này có quan hệ với nhau
rất mật thiết. Cho nên, trong công cuộc xây dựng đất nước, cả 4 vấn đề này phải
được coi trọng như nhau.Trong quan hệ với chính trị, xã hội; Hồ Chí Minh cho
rằng, chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải phóng. Chính
trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển. Người nói: “Xã hội thế nào,
văn nghệ thế ấy...Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì
văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn không thể phát triển được”. Để văn hoá phát
triển tự do thì phải làm cách mạng chính trị trước. Ở Việt Nam, tiến hành cách
mạng chính trị, thực chất là tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành
chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hoá,
mở đường cho văn hoá phát triển. Trong quan hệ với kinh tế; Hồ Chí Minh chỉ rõ
kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hoá. Từ đó,
Người đưa ra luận điểm: Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng
để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hoá. Người viết: Văn hoá là một kiến
trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hoá mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được. Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây
là kinh tế phải đi trước một bước. Người viết : “Muốn tiến lên Chủ nghĩa Xã hội
thì phải phát triển kinh tế và văn hoá.” Vì sao không nói phát triển văn hoá và
kinh tế ? - Tục ngữ ta có câu: “Có thực mới vực được đạo”, vì thế kinh tế phải đi
trước.

Văn hoá không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Đứng trên lập trường

12
của chủ nghĩa Mac–Lênin, Hồ Chí Minh không nhấn mạnh một chiều về sự phụ
thuộc “thụ động” của văn hoá vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới
phát triển văn hoá. Người cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ động, đóng vai
trò to lớn như một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người
nói: “Trình độ văn hoá của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh
công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hoá của
nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.”Văn hoá phải ở trong kinh tế và
chính trị, có nghĩa là văn hoá phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị,
thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Quan điểm này không chỉ định hướng
cho việc xây dựng một nền văn hoá mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi
hoạt động văn hoá. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quan điểm “văn
hoá cũng là một mặt trận”, “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”...
mà Người đưa ra đã tạo nên một phong trào văn hoá văn nghệ sôi động chưa từng
thấy. Văn hoá không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc. Và cuộc kháng chiến trở thành cuộc kháng chiến có tính văn hoá. Chính điều
này đã đem lại sức mạnh vượt trội cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc chiến
tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ… văn hoá phải ở trong kinh tế
và chính trị, điều đó cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn
hoá, điều mà chủ nghĩa xã hội và thời đại đang đòi hỏi. Ngày nay, trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
chủ trương gắn văn hoá với phát triển, chủ trương đưa các giá trị văn hoá thấm
sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hoá thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

2.2. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Hồ Chí Minh đã bắt tay
ngay vào việc xây dựng một nền văn hoá mới. Nhiều vấn đề về văn hoá đã được
đặt ra và giải quyết ngay trong những ngày đầu của chính quyền cách mạng, như:
giải quyết nạn dốt, giáo dục nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính; cấm hút
thuốc phiện, lương giáo đoàn kết và tự do tín ngưỡng... Như vậy, nền văn hoá
mới ra đời đã gắn liền với nước Việt Nam mới. Nền văn hoá Việt Nam trong thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là nền văn hoá kháng chiến, kiến quốc, nền
văn hoá dân chủ mới. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, nền văn hoá được xây dựng là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Mặc dù có nhiều
cách diễn đạt khác nhau, song nền văn hoá mới mà chúng ta đang xây dựng theo

13
tư tưởng Hồ Chí Minh luôn bao hàm ba tính chất: tính dân tộc, tính khoa học và
tính đại chúng. Tính dân tộc của nền văn hoá được Hồ Chí Minh biểu đạt bằng
nhiều khái niệm, như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc, nhằm nhấn mạnh đến
chiều sân bản chất rất đặc trưng của văn hoá dân tộc, giúp phân biệt, không nhầm
lẫn với văn hoá các dân tộc khác. Người cho rằng, để được như vậy, phải “trau
dồi cho văn hoá, văn nghệ có tinh thần thuần tuý Việt Nam”, phải “lột tả cho hết
tinh thần dân tộc”, đó là chủ nghĩa yêu nước, đoàn kết, khát vọng dân tộc, tự chủ,
tự lực, tự cường của dân tộc...Người cho rằng :“Nếu dân tộc hoá mà phát triển
được đến cực điểm thì tức là đến chỗ thế giới hoá nó, vì lúc bấy giờ văn hoá thế
giới sẽ phải chú ý đến văn hoá của mình và văn hoá của mình sẽ chiếm được địa
vị ngang với các nền văn hoá thế giới”. Tính dân tộc của nền văn hoá không chỉ
thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều
kiện lịch sử mới của đất nước. Tính khoa học của nền văn hoá mới được thể hiện
ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hoá của thời đại. Tính khoa học
của văn hoá đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến
bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học Macxit, đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy
tâm, thần bí, mê tín dị đoan, phải biết gạn đục khơi trong, kế thừa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Tính đại chúng của nền
văn hoá được thể hiện ở chỗ nền văn hoá ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân
dân xây dựng nên. Hồ Chí Minh nói: “Văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta
phải nói là phục vụ công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân”; “Quần
chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần
chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn
là người sáng tác nữa...”

2.3. Quan điểm về chức năng của văn hoá

Chức năng của văn hoá rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá
có ba chức năng chủ yếu sau đây:

- Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp :

Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề quan trọng nhất trong đời sống tinh thần của
con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc
cao đẹp. Chức năng cao quý nhất của văn hoá là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp

14
hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất phong
phú, văn hoá phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối
đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của
những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, đó là
lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một khi lý tưởng này phai
nhạt thì không thể nói đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hoá là phải làm thế nào cho ai
cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; phải làm thế nào cho ai cũng có “tinh
thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng”. Tình cảm lớn,
theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người; yêu tính
trung thực, chân thành, thuỷ chung, ghét những thói hư, tật xấu, sự sa đoạ...

- Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí:

Nói đến văn hoá là phải nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, vốn kiến thức
của người dân. Nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể
hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vấn đề nâng cao dân trí thực sự
chỉ có thể thực hiện sau khi chính trị đã được giải phóng, toàn bộ chính quyền đã
về tay nhân dân. Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hoá trong từng giai đoạn có
thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham
gia sáng tạo và hưởng thụ văn hoá, góp phần cùng đảng tiến một nước dốt nát,
cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Đó cũng
là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta đã
vạch ra trong công cuộc đổi mới.

- Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh;
hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân :

Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen của
cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường
có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, trong
đó, có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tuỳ theo nghề nghiệp, vị trí công tác.
Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm
việc, lối ứng xử trong cuộc sống...Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng,
Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự
tu dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến phẩm

15
chất đạo đức – chính trị. Bởi vì, nếu như không có những phẩm chất này thì họ
không thể hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lý tưởng
thành hiện thực. Những phẩm chất và phong cách tốt đẹp làm nên giá trị của con
người. Văn hoá giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối
sống tốt đẹp, lành mạnh thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa,
hư hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ, ngày càng giảm, vươn tới cái chân,
cái thiện, cái mỹ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Phải làm thế nào cho văn hoá thấm sâu vào tâm lý quốc dân, nghĩa là văn hoá
phải sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ; văn hoá phải soi
đường cho quốc dân đi.

3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá.

3.1. Văn hoá giáo dục

Sau khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều công sức phân
tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và thực dân, chuẩn bị tư tưởng cho việc xây
dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập sau này. Hồ Chí Minh đã phê
phán gay gắt nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân.Nền giáo dục
mới của nước Việt Nam độc lập được Hồ Chí Minh chuẩn bị từ những lớp bồi
dưỡng cán bộ cách mạng trong những năm 20 của thế kỷ XX. Thực sự ra đời sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và phát triển cùng với sự nghiệp cách mạng
của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, việc xây dựng một nền giáo dục của nước
Việt Nam mới phải được coi là một mặt trận quan trọng, nhiệm vụ cấp bách, có
ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Nền giáo dục đó sẽ “...làm cho dân tộc
chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”. Trong quá trình xây dựng nền văn hoá
giáo dục ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong
phú và toàn diện, định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước
nhà. Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thể hiện cả ba chức năng của văn hoá thông
qua việc dạy và học. Dạy và học là nhằm mở mang dân trí, nâng cao kiến thức;
bồi dưỡng những tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong
sáng và phong cách lành mạnh cho con người, đào tạo con người có ích cho xã
hội. Văn hoá giáo dục phải đào tạo được những lớp người có đức, có tài kế tục sự
nghiệp cách mạng, làm cho nước ta “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.
Học không phải để lấy bằng cấp mà phải thực học, “học để làm người, làm việc,

16
làm cán bộ”. Nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Giáo dục
phải toàn diện, bao gồm cả văn hoá, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn
nghề nghiệp, lao động. Các nội dung này có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Người
chỉ rõ, nếu không có trình độ văn hoá thì không tiếp thu được khoa học – kỹ thuật;
không khoa học – kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà;
song phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ học văn hoá mà không học chính trị thì
như người nhắm mắt mà đi. Học chính trị là học chủ nghĩa Mac –Lênin, đường
lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Học để nắm vững quan điểm, lập trường
có tính nguyên tắc của Đảng, thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mac
–Lênin. Phương pháp học phải sáng tạo, không giáo điều. Xã hội ngày càng phát
triển, nhân dân ngày càng tiến bộ nên Người cho rằng phải tiến hành cải cách
giáo dục, nhằm xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học thật
khoa học, hợp lý, đáp ứng đòi hỏi của cách mạng.

- Phương châm, phương pháp giáo dục :

Phương châm học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải
kết hợp với lao động; phải kết hợp thật chặt chẽ ba khâu: gia đình, nhà trường và
xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. Học ở mọi nơi, mọi lúc; học
mọi người. Học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Phương
pháp giáo dục phải phù hợp với mục tiêu giáo dục. Cách dạy phải phù hợp với
trình độ người học, phù hợp với lứa tuổi, dạy từ dễ đến khó; phải kết hợp học tập
với vui chơi, giải trí lành mạnh phải dùng biện pháp nêu gương gắn liền với các
phong trào thi đua...

- Về đội ngũ giáo viên:

Phải quan tâm xây dựng, bồi dưỡng được đội ngũ giáo viên có đạo đức cách
mạng, yêu nghề, yên tâm công tác, đoàn kết và hợp tác với đồng nghiệp, giỏi về
chuyên môn, thuần thục về phương pháp. Mỗi giáo viên phải là một tấm gương
sáng cho học trò về đạo đức, về học tập, “Học không biết chán, dạy không biết
mệt”.

3.2. Văn hoá nghệ thuật

Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống
tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh không chỉ là người khai

17
sinh ra nền văn nghệ cách mạng mà còn là một chiến sĩ tiên phong trong sáng
tạo văn nghệ. Trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Hồ Chí
Minh đã đưa ra nhiều quan điểm lớn. Sau đây là ba quan điểm chủ yếu:
- Văn hoá văn nghệ là một mặt trận, nghệ sỹ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ
là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng :

Hồ Chí Minh khẳng định văn hoá nghệ thuật là một mặt trận tức là khẳng định
vai trò, vị trí của văn hoá – văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng, coi mặt trận văn
hoá cũng có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Ở một tầm
nhìn sâu xa hơn, Hồ Chí Minh còn coi mặt trận văn hoá như một cuộc chiến
khổng lồ giữa chính và tà, giữa cách mạng và phản cách mạng. Cuộc chiến đó sẽ
rất quyết liệt, rất lâu dài, song rất vẻ vang. Trong cuộc chiến đó, nghệ sĩ là chiến
sĩ, tác phẩm là vũ khí. Trước khi giành được chính quyền, văn nghệ có nhiệm vụ
thức tỉnh quần chúng, tập hợp lực lượng, cổ vũ cho thắng lợi tất yếu của cách
mạng. Sau khi có chính quyền, văn nghệ phải tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ chế độ mới, xây dựng con người mới. Mặt trận văn nghệ lúc này còn
cam go hơn, quyết liệt hơn, bởi thắng thực dân đã khó, thắng nghèo nàn lạc hậu
còn khó hơn nhiều. Để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn đó, Hồ Chí Minh yêu cầu:
“chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng... Đặt lợi ích của
kháng chiến, của tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết”.

- Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống của nhân dân :

Thực tiễn đời sống của nhân dân rất phong phú, bao gồm thực tiễn lao động
sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt và xây dựng đời sống mới. Đây là nguốn nhựa
sống, là sinh khí và là chất liệu vô tận cho văn nghệ sáng tác. Từ thực tiễn đó,
bằng tài năng sáng tạo và tinh thần nhân văn của mình, văn nghệ sĩ có thể nhào
nặn, thăng hoa, hư cấu, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật trường tồn cùng dân
tộc và nhân loại. Để làm được như vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu các văn nghệ sĩ
phải thật “hoà mình vào quần chúng” để hiểu thấu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng
của nhân dân, học tập nhân dân và “miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng
hồn thực tiễn đời sống của nhân dân’. Bởi vì, nhân dân không chỉ là người sáng
tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Họ còn là người hưởng thụ và đánh giá
các tác phẩm một cách trung thực, khách quan và chính xác nhất. Phải có những
tác phẩm xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc. Mục tiêu của văn
nghệ là phục vụ quần chúng. Để thực hiện mục tiêu này, các tác phẩm văn nghệ
phải đạt tới sự thống nhất hài hoà giữa nội dung và hình thức. Người nói:

18
“Quâng chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú,
có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có
bổ ích”. Đó là một tác phẩm hay. Một tác phẩm hay là tác phẩm diễn đạt vừa đủ
những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được và khi đọc xong phải suy ngẫm. Tác
phẩm đó phải kế thừa được những tinh hoa văn hoá dân tộc, mang được hơi thở
của thời đại, vừa phản ánh chân thật những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán
cái dở, cái xấu, cái sai, hướng nhân dân đến cái chân, cái thiện, cái mỹ, vươn tới
cái lý tưởng – đó chính là sự phản ánh có tính hướng đích của văn nghệ. Để thực
hiện tính hướng đích này, các tác phẩm văn nghệ phải chân thực về nội dung,
phong phú về hình thức và thể loại đã mở ra con đường sáng tạo không giới hạn
cho các văn nghệ sĩ.

3.3. Văn hoá đời sống

Văn hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt tinh thần ấy không phải là
cái gì cao siêu, trừu tượng, mà lại được thể hiện ra ngay trong cuộc sống hằng
ngày của mỗi người, rất dễ hiểu, dễ thấy. Đó chính là văn hoá đời sống. Gắn việc
xây dựng nền văn hoá mới với xây dựng đời sống mới thực sự là một cách nhìn,
một giải pháp rất độc đáo của Hồ Chí Minh.Văn hoá đời sống thực chất là đời
sống mới, được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới,
nếp sống mới. Ba nội dung này có quan hệ mật thiết, trong đó đạo đức giữ vai trò
chủ yếu. Bởi vì, chỉ có thể dựa trên một nền đạo đức mới, thì mới xây dựng được
lối sống mới và nếp sống mới. Đến lượt mình, đạo đức mới cũng chỉ có thể thể
hiện trong lối sống mới và nếp sống mới.

Đạo đức mới: Để xây dựng đời sống mới trước hết phải xây dựng đạo đức mới.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của hội dồng chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề
nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện:
“Cần, Kiệm, Liêm, Chính”. Sau này, Người đã nhiều lần khẳng định: “Nếu không
giữ đúng “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của
dân”, “nêu cao và thực hành cần, kiệm, liêm, chính tức là nhen lửa cho đời sống
mới”.Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó còn là
lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà truyền thống tốt đẹp của dân tộc với
tinh hoa văn hoá nhân loại. Con người muốn tồn tại phải làm sao cho có ăn, mặc,
ở, đi lại và làm việc; phải làm sao cho mỗi một hoạt động đó đều mang tính văn
hoá. Chính vì vậy, để xây dựng lối sống mới, Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi
“cách ăn, cách mặc, cách đi lại” – theo ngôn ngữ hiện nay thì đây chính là phong

19
cách sống và phong cách làm việc, gọi chung là lối sống mới. Phong cách sống,
theo Hồ Chí Minh là phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn nắp vệ sinh, yêu
lao động, biết quý trọng thời gian...Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí,
anh em thì chân thành, cởi mở; giàu tình yêu thương, quý mến, tôn trọng con
người. Với mình thì nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung. Phong
cách làm việc, theo Hồ Chí Minh là phải sửa đổi sao cho có tác phong quần chúng,
tác phong tập thể - dân chủ, tác phong khoa học. Ba loại tác phong này có quan
hệ mật thiết với nhau. Sửa đổi phong cách làm việc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với cán bộ làm công tác quản lý, lãnh đạo. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, đã là
cán bộ cách mạng phải có phong cách sống và phong cách làm việc tốt, để làm
gương mẫu cho dân.

Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là quá trình làm cho nếp sống mới dần
dần thành thói quen, thành phong tục, tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển
những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đời sống
mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ
mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thỉ sửa đổi, Cái gì
cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà tốt thì phải làm, phải bổ sung. Xây
dựng văn hoá đời sống mới nhằm biến Việt Nam từ một quốc gia nghèo nàn thành
một quốc gia văn minh và phú cường là một công việc lâu dài và phải có phương
pháp tốt. Công việc đó đòi hỏi sự quyết tâm của cả cộng đồng dân tộc, song trước
hết, phải được bắt đầu từ mỗi con người, mỗi gia đình, với tư cách là tế bào của
xã hội.

3.4. Giữ gìn và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc
văn hóa tinh thần của dân tộc trong lịch sử, truyền thuyết dân gian, ca dao, tục
ngữ. Người chỉ ra những sáng tác văn học có tác phẩm hay là phải diễn đạt cho
mọi người hiểu và suy ngẫm về tác phẩm đó chứ không phải cứ viết tác phẩm văn
học dài là mới hay. Người đánh giá cao các sáng tác của nhân dân, coi những
sáng tác của nhân dân là những hòn ngọc quý. Ngoài ra, Người phê phán một số
tác phẩm không đi sâu vào đời sống thực tiễn như cách viết thường ba hoa, dây
cà, dây muống. Người yêu cầu các tác phẩm văn học phải bám sát đời sống con
người, những lời ca tụng chân thật để làm gương và giáo dục cho con cháu ta đời
sau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tinh thần của dân
tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và

20
nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội”, “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các
giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân
tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội”. Việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
tinh thần của dân tộc có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự bền vững và bảo vệ vững
chắc của Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Văn hóa dân tộc Việt Nam chứa đựng giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về
nội dung, đó là lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân
tộc... về hình thức, đó là cốt cách văn hóa dân tộc được biểu hiện ở phong tục, tập
quán, ngôn ngữ, lễ hội, cách cảm và nghĩ.. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc
tính dân tộc. Trong buổi gặp gỡ nhà văn Đức, Irênê Phabe (người dịch Truyện
Kiều), Hồ Chí Minh có nói: “Những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ
điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ những ngọn núi cổ điển đó”. Vì vậy,
trách nhiệm của mỗi người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác, giữ gìn, phát
huy những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của
từng giai đoạn lịch sử.
Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước
và giữ nước, tạo nên một nền văn hóa riêng, với những giá trị truyền thống tốt
đẹp và cao quý. Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt Nam đã tự ý thức về cộng
đồng dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tôn của dân tộc. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Giở sử nước ta ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương
đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền
tảng tinh thần để mỗi người Việt Nam có trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc
mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến lịch sử dân tộc và tự hào với truyền thống
văn hóa dân tộc. Để giáo dục lòng yêu nước, kêu gọi đoàn kết cứu nước và khẳng
định ở triều đại nào cũng có người anh hùng mưu trí, sáng tạo trong đấu tranh
chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, Người viết bài
“Lịch sử nước ta” (tháng 2 năm 1942), trong đó có đoạn:
“Dân ta phải biết sử ta,

21
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa”.
Lòng yêu nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm của người dân Việt
Nam, đã đúc kết thành truyền thống yêu nước và được nâng lên thành chủ nghĩa
yêu nước. Chính tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước là động lực vĩ đại giúp
nhân dân Việt Nam, đứng lên đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc trước kẻ thù
xâm lược. Tổng kết về phong trào yêu nước Việt Nam, trong bài “Nên học sử ta”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Đời nào cũng có người anh hùng mưu cao võ
giỏi đứng ra đoàn kết nhân dân đuổi giặc cứu nước.
Đời Trần, quân Nguyên đánh đâu được đấy, chiếm nước Tàu và nửa châu Âu, thế
mà ba lần bị ông Trần Hưng Đạo đánh tan. Bình dân như ông Lê Lợi và ông
Nguyễn Huệ đã đánh đuổi quân Tàu làm cho nước ta độc lập. Người già như ông
Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh đông dẹp bắc, bao nhiêu lần đuổi giặc
cứu dân. Thiếu niên như Đổng Thiên Vương chưa đến 10 tuổi mà đã ra tay cứu
nước, cứu nòi. Trần Quốc Toản mới 15, 16 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh
phá giặc Nguyên. Phụ nữ thì có bà Trưng, bà Triệu ra tay khôi phục giang san.
Những vị anh hùng ấy vì nước, vì dân mà làm nên sự nghiệp kinh thiên động địa.
Nhờ những vị dân tộc anh hùng ấy mà nước ta được tự do, độc lập, lừng lẫy ở Á
Đông”.
Hồ Chí Minh kết luận: “Nhờ ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ
quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng”. Chính ngọn nguồn giá trị văn hóa tư
tưởng truyền thống, ý chí độc lập và khát vọng tự do đã trở thành nền tảng văn
hóa tinh thần, là động lực vĩ đại của sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt
Nam.
Tinh thần bất khuất, dũng cảm, kiên cường, dù khó khăn, gian khổ, dù phải hy
sinh nhưng vẫn quyết giữ vững lòng trung thành với Tổ quốc, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, đã tạo nên sức mạnh to lớn giúp nhân dân Việt Nam chiến
thắng kẻ thù. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.
Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước”. Mỗi khi vận nước bị đe dọa, ngoại bang nhòm ngó và xâm lăng,
cả nước đồng tâm, toàn dân tụ họp nêu cao quyết tâm bảo vệ nền độc lập. Từ các

22
cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ nhân dân miền ngược đến miền
xuôi, từ những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm cho đến những kiều bào ở nước
ngoài, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Giá trị tinh thần truyền
thống ấy đã được giữ gìn và phát huy từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Từ cuối thế kỷ XIX, dân tộc Việt Nam sống trong cảnh lầm than tủi nhục vì thực
dân Pháp thống trị, lớp lớp sĩ phu và đồng bào yêu nước đã đứng lên chống quân
xâm lược. Các phong trào cứu nước và các cuộc khởi nghĩa đều lần lượt thất bại
và bị đàn áp khốc liệt là do gặp bế tắc về lý luận, đường lối và phương thức đấu
tranh. Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho dân tộc, cho mỗi người yêu nước lúc bấy giờ là
tìm phương sách cứu nước, cứu dân; giải phóng dân tộc là nguyện vọng thiết tha
của nhân dân Việt Nam. Chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước và cảnh
lầm than cực khổ của nhân dân, đã thôi thúc Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường
cứu dân, cứu nước khỏi cảnh nô lệ, áp bức. Người hiểu rõ và thấm thía nỗi đau
của cả một dân tộc không chỉ là sự cảm thông, chia sẻ mà còn phải đấu tranh
giành lấy độc lập. Ý chí độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là
xuất phát điểm của Hồ Chí Minh, cùng hành trang là những giá trị truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử, và cả quyết
tâm “sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”, ngày 05/6/1911 Hồ Chí Minh đã
xuống con tàu đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin tại cảng Sài Gòn, bắt đầu cuộc hành
trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
3.5. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục, tập quán và các lễ hội
truyền thống của dân tộc
Việt Nam là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc anh em, các dân tộc gắn bó
với nhau trên một lãnh thổ và cùng nhau giữ nước, cùng nhau chống giặc ngoại
xâm để bảo vệ Tổ quốc của mình. Trong Thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số tại
Plâycu, Người nói: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê
Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam,
đều là anh em ruột thịt”. Giữ gìn và phát huy bản sắc của mỗi dân tộc sẽ phát huy
được sức mạnh của cả dân tộc, đồng thời những nét văn hóa riêng của mỗi dân
tộc anh em gồm tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội... bổ sung cho nhau và
làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Đối với tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh nhận định: “Người
dân An Nam không có linh mục, không có tôn giáo theo cách nghĩ của Châu Âu.
Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội. Những người già trong
gia đình hay các già bản là người thực hiện những nghi lễ tưởng niệm”. Người

23
không bao giờ phản đối, bài xích các tôn giáo mà luôn luôn tỏ thái độ tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng. Người không hề có sự phân
biệt đối xử giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, giữa người có đạo và người không
có đạo. Hồ Chí Minh chỉ rõ đã là người Việt Nam dù là lương hay giáo đều có
chung cội nguồn sâu xa cùng nòi giống “con Rồng cháu Lạc”, cùng chung vận
mệnh dân tộc và gắn bó với nhau bởi truyền thống đoàn kết. Nhân các dịp lễ như
lễ Nô-en của Công giáo hay ngày Đức Phật Thích Ca thành đạo của Phật giáo,
Người thường gửi thư chúc mừng các chức sắc tôn giáo cũng như các tín đồ. Điều
đó làm cho họ rất phấn khởi vì Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc dù rất bận song
vẫn quan tâm đến ngày vui của họ. Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến đời
sống tâm linh của họ mà trên cương vị Chủ tịch nước, Người đặc biệt quan tâm
đến đời sống hằng ngày của người dân có tôn giáo. Người thường xuyên nhắc
nhở cán bộ cấp cơ sở phải thường xuyên chăm lo đời sống mọi mặt của đồng bào,
từ ăn, mặc, ở, đi lại, học hành đến khi ốm đau phải được chữa bệnh.
Phong tục tập quán của mỗi dân tộc không chỉ là thói quen, lối sống của một cộng
đồng dân tộc mà còn là sự biểu hiện của triết lý vũ trụ, nhân sinh quan của dân
tộc ấy. Phong tục tập quán vừa có cái chung, vừa có cái riêng, thể hiện bản sắc
văn hóa dân tộc một cách đậm đà và sâu sắc. Ngay từ những năm còn ở chiến khu
Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã chú trọng đến việc giữ gìn, tôn trọng phong tục, tập
quán, tín ngưỡng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Người coi đó là “những
vốn cũ quý báu của dân tộc” cần được giữ gìn, bảo vệ và phát huy. Chính vì thế
mà cần phải: “Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời
sống vật chất và văn hóa của các dân tộc”. Tuy nhiên, Người cho rằng cần phải
loại bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan như: lấy chồng hoặc lấy vợ quá sớm,
cúng bái, ma chay theo các hủ tục lạc hậu...
Như vậy, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục truyền thống là
để xây dựng cuộc sống dân tộc được tốt đẹp hơn và xóa bỏ những yếu tố lạc hậu
góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên các địa phương. Mỗi dân
tộc dù có khác nhau nhưng đều có điểm chung là cùng nhau xây dựng đời sống
văn hóa mới, giữ gìn gia phong, thuần phong mỹ tục.
3.6. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật
của dân tộc
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến giữ gìn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật
truyền thống của dân tộc như thơ ca cổ điển, dân ca, âm nhạc, những câu hò, lời
ca, điệu ví quen thuộc, vốn rất đặc trưng tiêu biểu cho văn nghệ dân tộc. Người

24
rất thích nghe hát ví phường vải bởi cái độc đáo của ví phường vải là sự kết hợp
của dân gian hóa và bác học hóa, được đối đáp với nhau qua thể thơ lục bát - thể
thơ truyền thống của dân tộc. Do đó, để hát được ví phường vải hay và xuất sắc
phải biểu đạt được cảm xúc mượt mà, giàu sắc thái. Có lần, Người nghe nghệ sĩ
Kim Lương hát bài “Gởi anh lính bờ Nam”, Người đã khen Kim Lương hát rất
hay những màn biểu diễn mang đậm màu sắc dân ca của dân tộc. Người căn dặn:
“Cháu phải biết hát nhiều dân ca của các miền, vì mỗi miền đều có dân ca hay,
chẳng những người địa phương đó thích, mà người địa phương khác cũng thích”.
Người chỉ bảo trước tiên mình ở địa phương nào thì phải biết hát được dân ca ở
địa phương ấy, không những biết hát mà hát thật hay, biết nhiều bài hát dân ca
các miền phải học hỏi, học thật tốt sao cho xứng đáng với phát huy văn hóa dân
tộc. Người còn nói với các nghệ sĩ là âm nhạc dân tộc nước ta rất độc đáo, có
nhiều câu hát dân ca rất hay bây giờ phải khai thác, phát triển nó lên. Nói chuyện
với nghệ sĩ sáo Đình Thìn, Người tâm sự: “Âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo.
Bác đã đi nhiều nước trên thế giới, nhưng Bác vẫn nhớ những câu hát của dân ta.
Ta có nhiều câu hát dân ca hay lắm. Bây giờ phải khai thác và phát triển nó lên.
Cháu là thanh niên, cháu phải làm nòng cốt tiếp thu và phát triển âm nhạc dân
tộc”. Người nhấn mạnh với họa sĩ Thụy Điển Erích Giôhanxôn: “Mỗi dân tộc cần
phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”. Người trân trọng, yêu thích
những câu hò xứ Nghệ, xứ Huế và các làn điệu dân ca Việt Nam. Vốn cổ truyền
quí báu của dân tộc dù ở miền nào, địa phương nào đều được Người trân trọng và
cảm thụ với niềm xúc động sâu sắc. Người tìm thấy ở di sản văn hóa tinh thần
một ngọn nguồn, một nền tảng để xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc. Người
căn dặn các nghệ sĩ phải giữ gìn và phát huy những cái hay cái đẹp, phải biết quý
trọng vốn nghệ thuật dân tộc. Để kế thừa và phát triển vốn dân ca thì phải sáng
tác, miêu tả con người, cuộc sống, chiến đấu của nhân dân, phát huy được sức
mạnh dân tộc và thống nhất đất nước.
Đối với nghệ thuật tuồng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khen mà còn chỉ dẫn
những người làm nghệ thuật tuồng không được giậm chân tại chỗ, phải biết cải
biên, sáng tạo, cách tân, cách nói và truyền tải được nội dung mới bổ sung được
cho nhau để các thế hệ sau tiếp nối. Khi xem biểu diễn nghệ thuật Tuồng tại Hà
Nội, Người phát biểu: “Nghệ thuật tuồng hay đấy! Nhưng phải phát triển, đừng
giậm chân tại chỗ, chớ gieo vừng ra ngô”. Người căn dặn ngắn gọn và sâu sắc,
không chỉ dành riêng cho nghệ thuật tuồng mà còn cả các loại hình nghệ thuật
sân khấu truyền thống nói chung, mỗi nghệ thuật đều có cái hay và độc đáo riêng.
Đây là sản phẩm của văn hóa dân tộc. Do đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy
cần phải giữ lại được cái hay, cải tiến được hình thức và nội dung, có kế hoạch

25
cụ thể và loại bỏ những cái chưa phù hợp mới phục vụ được nhu cầu của quần
chúng nhân dân. Đến nay nghệ thuật tuồng, chèo đã có nhiều cố gắng thay đổi về
hình thức, nội dung phong phú đã xây dựng được nhiều đề tài lịch sử và giữ được
bản sắc của dân tộc.
Khi đón khách quốc tế tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường mời các
đoàn tuồng, chèo hay dân ca biểu diễn để phục vụ khách, đồng thời Người giới
thiệu các tác phẩm nghệ thuật độc đáo của Việt Nam. Trong dịp lễ tết hay đi thăm
các đoàn văn công Người thường hay tặng kẹo cho các nghệ sĩ, hỏi thăm sức
khỏe, động viên các anh chị em nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn tốt hơn để phục vụ
nghệ thuật, phục vụ đất nước góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
dân tộc. Đây là nguồn sức mạnh và động lực để xây dựng một xã hội mới góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển của nhân loại.
Người cũng rất quan tâm đến các tác phẩm văn học dân gian Việt Nam, trước hết
biểu hiện ở thái độ trân trọng, khẳng định được vai trò và sức sáng tạo, giá trị văn
hóa tinh thần của dân tộc trong lịch sử, truyền thuyết dân gian, ca dao, tục ngữ.
Người chỉ ra những sáng tác văn học có tác phẩm hay là phải diễn đạt cho mọi
người hiểu và suy ngẫm về tác phẩm đó chứ không phải cứ viết tác phẩm văn học
dài là mới hay. Người đánh giá cao các sáng tác của nhân dân, coi những sáng
tác của nhân dân là những hòn ngọc quý. Ngoài ra, Người phê phán một số tác
phẩm không đi sâu vào đời sống thực tiễn như cách viết thường ba hoa, dây cà,
dây muống. Người yêu cầu các tác phẩm văn học phải bám sát đời sống con
người, những lời ca tụng chân thật để làm gương và giáo dục cho con cháu ta đời
sau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa tinh thần của dân
tộc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là những chỉ dẫn quý báu của Đảng và
nhân dân trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng xác định: “Xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội”, “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc; khích lệ sáng tạo các
giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân
tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa với phát triển kinh tế-xã hội”. Việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
tinh thần của dân tộc có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự bền vững và bảo vệ vững
chắc của Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.

26
CHƯƠNG 3 : SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN
BẢN SẮC VĂN HOÁ VIỆT NAM, TIẾP THU TINH HOA VĂN HOÁ
NHÂN LOẠI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Phát triển văn hóa với tư cách là một khái niệm khoa học mới phổ biến trong
những năm gần đây, dù trước đó cách nhìn nhận văn hóa và phát triển, văn hóa
trong phát triển, văn hóa với phát triển đã khá quen thuộc. Tuy vậy, dù không
gọi đúng tên thuật ngữ là “phát triển văn hóa” song vấn đề này đã được đề cập
đến ngay khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và được đẩy mạnh hơn sau khi
đất nước thống nhất (năm 1975). Khi đó, chúng ta nêu cao tinh thần xây dựng
nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa mới trong sự bài trừ những
gì được xem là văn hóa cũ, gắn với thực dân, phong kiến, ví như xóa bỏ mê tín dị
đoan, hạn chế những phong tục, tập quán lạc hậu, đưa tinh thần cách mạng vào
các thực hành văn hóa,...

Từ năm 1986, trong tinh thần đổi mới chung của toàn xã hội, Đảng đã xác định
văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển
chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm
làm giàu đẹp cuộc sống. Quan điểm này đưa đến nhận thức rõ nét về sự gắn bó
mật thiết của văn hóa với mọi mặt đời sống và sự phát triển của văn hóa là thước
đo sự phát triển chung của đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa
VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc” đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Hàm nghĩa phát triển văn hóa
ở đây được thể hiện rõ hơn, phát triển nền văn hóa tiên tiến vừa tiếp thu được tinh
hoa văn hóa thế giới, vừa giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Tiếp đó, Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhấn mạnh, xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện
- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bề n vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Đại hội XII của
Đảng cũng nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức
mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước; khẳng định cần xây dựng nền văn hóa

27
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Phát triển văn hóa là thúc đẩy sức
mạnh nội sinh, đưa văn hóa vào trung tâm của quá trình phát triển phù hợp với
bối cảnh mới, văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Trên tinh thần đó, hiện nay khái niệm phát triển văn hóa đã trở nên phổ biến
với cách hiểu rộng hơn và những ý nghĩa sâu sắc hơn. Phát triển văn hóa với ý
nghĩa hướng đến sự phát triển toàn diện. Nếu phát triển kinh tế mà bỏ qua văn
hóa sẽ dẫn đến sự mất ổn định, thậm chí là khủng hoảng xã hội. Chính vì vậy, sự
gắn kết văn hóa với phát triển kinh tế sẽ đưa đến sự phát triển đa chiều, toàn diện
và bền vững. Không thể có sự phát triển xã hội đúng nghĩa nếu không có phát
triển văn hóa và phát triển vì mục tiêu văn hóa.

1. Mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2021 - 2030

Phát triển văn hóa là một nhiệm vụ chiến lược lớn hướng đến các mục tiêu căn
bản là phát triển xã hội. Trong giai đoạn 2021 - 2030, các mục tiêu căn bản cần
tiếp tục thực hiện là:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về văn hóa, nhìn nhận văn hóa trong sự đa dạng,
công bằng, văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nêu cao tinh
thần phát triển từ văn hóa, vì mục tiêu văn hóa và đưa tinh thần đó thấm nhuần
vào trong các thực hành xã hội và trong các chính sách. Kế thừa và phát huy giá
trị văn hóa của các tộc người và vận hành các giá trị văn hóa đó để trở thành
nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đất nước.

Thứ hai, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
thời kỳ mới. Xây dựng nền văn hóa vừa hội nhập tốt với thế giới, vừa đề cao được
bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa tiên tiến trên nền tảng vững chắc
của văn hóa truyền thống 54 dân tộc và lòng tự hào về văn hóa các dân tộc trên
đất nước Việt Nam.

Thứ ba, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng tốt nhu cầu
nguồn nhân lực cho phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, kiên định lập trường chính trị, tư tưởng, có trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo tốt, có trách nhiệm, tuân thủ pháp luật, có
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, có tính nhân văn, lối sống văn hóa, khoan dung.

28
Thứ tư, tiếp tục xây dựng văn hóa trong kinh tế và chính trị, đầu tư cho văn hóa
ngang hàng với đầu tư cho kinh tế, đưa văn hóa thấm sâu vào từng quy trình sản
xuất, kinh doanh, từng sản phẩm kinh tế. Văn hóa phải trở thành yếu tố bên trong
giúp định vị cơ cấu và vận hành hệ thống chính trị.

Thứ năm, xây dựng văn hóa trở thành hệ điều tiết để góp phần ổn định xã hội.
Tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh từ trong gia đình, cộng đồng đến ngoài
xã hội, trong đó mỗi cá nhân ý thức được về hành vi của mình luôn nằm trong
những ràng buộc về đạo đức, nhân cách và trách nhiệm với cộng đồng và xã hội.
Tăng cường sức mạnh của hệ điều tiết này bằng những chuẩn mực xã hội, dư luận
cộng đồng do chính người dân xây dựng, duy trì và thực hiện thường xuyên. Một
xã hội được điều tiết bởi văn hóa chắc chắn là một xã hội hài hòa và phát triển
toàn diện.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa và thực hiện văn hóa
pháp luật trong toàn xã hội, đưa các hoạt động văn hóa đi vào chiều sâu, chú ý
đến tính hiệu quả, tránh hình thức, bề nổi. Cần xây dựng văn hóa pháp luật và
đưa văn hóa pháp luật thấm sâu vào lối sống, nếp suy nghĩ và hành vi của mỗi
người dân, bảo đảm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, vì vậy chính những
cơ quan làm ra luật, và những người thực thi pháp luật cần thực hiện tốt văn hóa
pháp luật.

Thứ bảy, nâng tầm hội nhập quốc tế về văn hóa, vừa tiếp nhận được tinh hoa văn
hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại, vừa giữ gìn và làm giàu bản sắc
văn hóa. Xác định bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở cốt lõi bảo đảm cho sự giao
lưu văn hóa và hội nhập quốc tế được bền vững và không bị hòa tan.

Thứ tám, xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa lành mạnh, phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, gia tăng sức mạnh mềm văn
hóa trong đối thoại kinh tế, chính trị, ngoại giao,...

Thứ chín, nghiên cứu toàn diện và bài bản về văn hóa, cả nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng, cả nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực tế để nhận diện
rõ giá trị văn hóa, quá trình phát triển và biến đổi văn hóa cùng những vấn đề đặt
ra, từ đó tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định hệ thống chính sách liên quan.

2. Nhiệm vụ phát triển văn hóa giai đoạn 2021 – 2030

29
2.1. Về nâng cao nhận thức văn hóa

Thứ nhất, cần hiểu văn hóa theo nghĩa rộng là tất cả những gì con người có, con
người nghĩ và con người làm, điều đó có nghĩa văn hóa có mặt trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị, ngoại giao, từ các hoạt động
khai thác tự nhiên đến sản xuất, tiêu dùng,... Văn hóa không tách bạch mà gắn
kết chặt chẽ với đời sống xã hội nên bất cứ hoạt động sống nào của con người
cũng có văn hóa và cũng là văn hóa. Cách hiểu văn hóa như vậy cần được thống
nhất và phổ biến rộng rãi ở tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội, có hiểu văn
hóa như vậy mới có được sự nhìn nhận văn hóa trong sự công bằng, không định
kiến và coi trọng tất cả các chủ thể văn hóa.

Thứ hai, mở rộng tuyên truyền để xã hội nhận thức rõ vai trò động lực của văn
hóa trong phát triển ở chiều sâu của vấn đề này. Động lực ấy đến từ những thực
hành văn hóa hằng ngày, từ đời sống tinh thần, thực hành tín ngưỡng, vui chơi
giải trí, thưởng thức nghệ thuật,... mà động lực không phải chỉ xuất hiện ở những
khẩu hiệu hay sự hô hào hình thức.

Thứ ba, khai thác tối đa nguồn lực văn hóa trong phát triển. Nguồn lực văn hóa
rất đa dạng, như các di tích khảo cổ học, các di tích lịch sử, văn hóa tín ngưỡng,
tôn giáo, các quần thể kiến trúc văn hóa, hệ thống các bảo tàng, hệ thống các cảnh
quan văn hóa đặc trưng, các loại hình nhà ở truyền thống, lễ hội, phong tục, tập
quán, ẩm thực, trang phục, các sinh hoạt nghệ thuật, đời sống văn hóa làng, bản,
buôn, các loại hình tri thức dân gian,... của 54 tộc người trên cả nước. Các ngành,
nhất là ngành văn hóa cần xác định đúng và đưa nguồn lực này vận hành linh hoạt
trong các chiến lược phát triển chung và chiến lược phát triển cụ thể của từng lĩnh
vực, như du lịch văn hóa, ngoại giao văn hóa,...

Thứ tư, nhìn nhận đúng vai trò của sự đa dạng văn hóa, coi đa dạng văn hóa là
nguồn lực quan trọng trong phát triển, là mạch nguồn giúp các tộc người có được
bản lĩnh và sự chủ động trong bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa trong quá trình
giao lưu, hội nhập, tiếp biến văn hóa hiện nay.

2.2. Về nghiên cứu toàn diện và bài bản về văn hóa

Đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu, nghiêm túc và bài bản trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn về văn hóa. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với ngành
nghiên cứu văn hóa, quản lý văn hóa trong việc bảo đảm mối liên kết hiệu quả

30
giữa kết quả nghiên cứu cơ bản và việc tư vấn chính sách. Chuyển hóa tốt nhất
các kết quả nghiên cứu thành các chính sách, chương trình hành động phù hợp và
hiệu quả. Nghiên cứu cần đi trước một bước để tạo ra các tiền đề lý luận và thực
tiễn cho việc triển khai các công tác văn hóa. Đầu tư hiệu quả và thường xuyên
hơn cho nghiên cứu cơ bản, khuyến khích những nghiên cứu phản biện chính
sách một cách khách quan và thẳng thắn, chỉ ra những nút thắt, những điểm nghẽn
cần tháo gỡ để các chính sách văn hóa đi vào cuộc sống. Đầu tư thích đáng hơn
nữa cho công tác đào tạo đội ngũ các nhà nghiên cứu văn hóa, tạo ra đội ngũ có
chuyên môn nghiệp vụ cao trong nghiên cứu, sống được bằng nghề và tâm huyết
với nghề. Nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng các lý thuyết nghiên cứu văn hóa, các
kinh nghiệm quản lý văn hóa trên thế giới vào thực tế Việt Nam, tăng cường
quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

2.3. Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong thời kỳ mới

Thứ nhất, rèn luyện bản lĩnh văn hóa trên cơ sở thấm nhuần các giá trị văn hóa
truyền thống và bản sắc văn hóa, chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
làm giàu thêm văn hóa Việt Nam, hạn chế tối đa những mặt trái của quá trình hội
nhập quốc tế về văn hóa. Nhìn nhận đa chiều và chính xác để có các giải pháp
thích hợp, hiệu quả trong việc phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.

Thứ hai, khắc phục cách nhìn nhận văn hóa một chiều, đứng yên và tạo dựng giá
trị theo khuôn mẫu định sẵn mà thay vào đó, cần nhìn nhận đúng đặc tính luôn
vận động, biến đổi và linh hoạt của văn hóa cũng như sự gắn kết chặt chẽ giữa
văn hóa với bối cảnh, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội. Từ đó, nhìn nhận rõ sự
bất cập, chủ quan, áp đặt và những hệ lụy không mong muốn khi định hình các
giá trị văn hóa theo khuôn mẫu cứng nhắc.

Thứ ba, giữ gìn, duy trì và làm giàu bản sắc văn hóa của tất cả các tộc người trên
đất nước, không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu số. Khi hoạch định và triển
khai chính sách, cần hết sức tránh việc dùng một mô hình (chính sách, tiêu chí,
chỉ tiêu,...) áp cho tất cả các dân tộc, các vùng, miền, tránh tối đa nguy cơ đưa
đến sự đồng dạng/đồng nhất văn hóa. Tôn trọng giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa
cũng như các thực hành văn hóa khác nhau của từng vùng, miền, từng tộc người,
xem đó là sự giàu có, là lợi thế trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.

31
2.4. Về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Thứ nhất, ưu tiên tối đa các nguồn lực để xây dựng con người Việt Nam toàn diện
ở các phương diện thể lực, trí lực, kĩ năng sống, đạo đức, nhân cách, lối sống, tâm
hồn, năng lực làm việc, tôn trọng pháp luật. Bồi dưỡng nhân cách con người luôn
là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài nên cần có sự kiên nhẫn, nỗ lực hợp tác giữa các
cá nhân, các cấp, ngành quản lý, các cơ sở đào tạo và cả xã hội.

Thứ hai, nhận diện rõ và khắc phục tối đa tình trạng suy thoái về tư tưởng, xuống
cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân, lấy lại niềm tin trong xã hội. Cần phát hiện và xử lý nghiêm những vi phạm
liên quan đến tha hóa đạo đức, lối sống, gây hậu quả cho xã hội để răn đe và làm
trong sạch đời sống xã hội.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới giáo dục ở tất cả các cấp học và các môi trường giáo dục
khác nhau. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa giáo dục kiến thức khoa học với giáo dục
tư tưởng, nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn, lối sống cho người học, minh bạch trong
việc dạy và học, chống lại các tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng môi trường
giáo dục trong sạch, lành mạnh. Công tác giáo dục, nhất là trau dồi, bồi dưỡng về
văn hóa cần được xác định không phải là nhiệm vụ của riêng ngành giáo dục hay
ngành văn hóa mà là trách nhiệm của cả xã hội. Giảm dần sự chênh lệch trong
giáo dục, chăm lo sức khỏe, trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng,
miền, các tộc người. Tránh các gánh nặng về giáo dục, y tế cho các khu vực đô
thị, trung tâm. Thực hiện đẩy mạnh xã hội hóa về giáo dục.

Thứ tư, làm rõ hệ giá trị con người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử khác
nhau và hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay. Nhận diện rõ các xu hướng biến
đổi văn hóa trong xã hội để kịp thời có định hướng hợp lý, tránh chiều hướng tiêu
cực, hoang mang, thậm chí mất phương hướng của một bộ phận người dân. Các
bài học về giá trị con người, giá trị xã hội, giá trị văn hóa cần được chuyển tải
một cách sinh động, thiết thực hằng ngày để lan tỏa sâu rộng và thường xuyên
trong xã hội. Tạo dựng giá trị văn hóa, bồi đắp tính nhân văn cho con người trên
cơ sở nhìn nhận con người cần có sự hài hòa giữa ba mối quan hệ cơ bản là quan
hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, với chính bản thân và vận hành các
mối quan hệ này trên nền tảng nhân văn. Xây dựng cơ chế để lan tỏa những giá
trị, những hành vi tốt đẹp, những gương người tốt, việc tốt để nêu gương và trau
dồi văn hóa ứng xử của mọi người dân, đưa văn hóa thấm sâu vào đời sống xã
hội, hướng con người tới mục đích nhân văn và sự phát triể n toàn diê ̣n.

32
Thứ năm, phát triển con người cần gắn với chăm lo và đề cao văn hóa gia đình,
bởi gia đình là môi trường quan trọng tạo dựng và bồi dưỡng nhân cách, đạo đức,
lối sống, thể lực, trí lực cho con người. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách cải
cách tiền lương và bảo hiểm cho công chức, viên chức, người lao động, gia tăng
nguồn lực đầu tư và đẩy mạnh hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội để chăm lo
tốt hơn cho con người.

2.5. Về xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế

Thứ nhất, đẩy mạnh việc triển khai các hoạt động cụ thể để đưa văn hóa trở thành
một trụ cột trong phát triển bền vững, tránh hô khẩu hiệu chung chung, hình thức.
Văn hóa cần được xác định là một trụ cột bên cạnh kinh tế, môi trường, xã hội
trong phát triển bền vững.

Thứ hai, đề cao văn hóa, đạo đức trong cơ cấu và vận hành hệ thống chính trị,
chống suy thoái đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, hối lộ, làm ăn phi pháp,
làm giàu bất chính, cơ hội trong chính trị, gian lận trong học hành, chạy theo bằng
cấp, chạy chức, chạy quyền, chạy danh lợi, chạy tội...

Thứ ba, xây dựng văn hóa lãnh đạo, văn hóa từ chức, văn hóa trọng dân, văn hóa
trọng pháp, đề cao lòng tự trọng và tinh thần dám chịu trách nhiệm cá nhân trong
đội ngũ lãnh đạo. Chỉ như vậy người dân mới tin tưởng vào đội ngũ lãnh đạo và
sự minh bạch trong công tác lãnh đạo.

Thứ tư, đầu tư cho văn hóa phải tương xứng với đầu tư cho kinh tế, khắc phục
quan điểm coi văn hóa là kết quả thụ động của kinh tế, là yếu tố đi sau kinh tế,
phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ phát triển kinh tế. Nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam đã trả giá cho sự ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế để rồi phải trả
giá quá đắt về văn hóa và môi trường. Vì vậy, cần phát triển đồng bộ cả kinh tế
và văn hóa, nâng cao hàm lượng văn hóa trong các sản phẩm kinh tế.

Thứ năm, khai thác tối đa nguồn lực văn hóa cho phát triển kinh tế. Thực tế hiện
nay, nguồn thu từ du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, từ thực hành tôn giáo, tín
ngưỡng, lễ hội, từ các loại hình dịch vụ văn hóa ngày càng tăng, đóng góp đáng
kể vào sự phát triển kinh tế. Song nhìn tổng thể, việc khai thác nguồn lực văn hóa
trong phát triển ở nước ta vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Do đó, cần có cơ
chế, chính sách để nâng cao hiệu quả việc phát huy nguồn lực văn hóa nước ta
hiện nay.

33
2.6. Về xây dựng văn hóa trở thành hệ điều tiết góp phần ổn định xã hội

Cần nhìn nhận rõ vai trò điều tiết của văn hóa trong xã hội. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả các cuộc vận động văn hóa, phong trào văn hóa. Phát huy các giá trị tích
cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng, khuyến khích các hoạt động tôn giáo, tín
ngưỡng gắn bó với dân tộc, hướng thiện. Xây dựng, hoàn thiện các thiết chế văn
hóa, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa,
tạo điều kiện để nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng.
Bảo vệ và phát huy những giá trị của tri thức dân gian. Nhận diện giá trị, bảo vệ
và vận hành những tri thức này một cách hợp lý chắc chắn sẽ mang lại những
hiệu quả to lớn cho việc xây dựng môi trường văn hóa.

Xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa. Gia tăng kinh phí đầu tư cho văn hóa
nói chung và cho các hoạt động nghệ thuật nói riêng. Chăm lo quyền lợi và năng
lực sáng tạo của các văn nghệ sĩ, trí thức, các nghệ nhân.

2.7. Về nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa và thực hiện văn
hóa pháp luật trong toàn xã hội

Coi trọng và đầu tư đúng mức cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị các di
sản văn hóa phi vật thể. Xây dựng và triển khai hiệu quả các chính sách khuyến
khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản
văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đẩy mạnh công tác tôn vinh, phong
tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, đi cùng với chính sách đãi
ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công truyền dạy, phổ biến di sản
văn hóa. Đầu tư và khai thác hiệu quả các bảo tàng, thư viện, nhất là đầu tư vào
công tác trưng bày, trang thiết bị kỹ thuật, bảo quản tài liệu, nghiên cứu và trao
đổi tư liệu, phát triển văn hóa đọc,... thu hút người xem và tạo giá trị kinh tế.

Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa, có chính sách khuyến khích, ưu đãi các
doanh nghiệp, các tổ chức, nhà tài trợ đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Xây dựng
văn hóa pháp luật và đưa văn hóa pháp luật thấm sâu vào lối sống, nếp suy nghĩ
và hành vi của mỗi người dân, bảo đảm mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Nâng cao trình độ văn hóa pháp luật và năng lực pháp lý thực tiễn của người dân.

2.8. Về xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa, phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo

34
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về thị trường văn hóa,
công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo. Nhanh chóng hoàn thiện các cơ chế,
chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Củng cố,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác bảo vệ quyền tác giả với các sản
phẩm văn hóa. Đẩy mạnh đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp
cho các ngành công nghiệp văn hóa. Nâng cao năng lực sản xuất và sáng tạo các
sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng cao tham gia vào thị trường công nghiệp
văn hóa trong nước và quốc tế. Xây dựng và phát triển thị trường sản phẩm dịch
vụ văn hóa đúng nghĩa ở trong nước và nước ngoài, hỗ trợ và đồng hành cùng các
doanh nghiệp trong quá trình tham gia và phát triển thị trường, nhất là thị trường
quốc tế. Xây dựng và triển khai các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm,
dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam bằng nhiều cách,
cả trực tiếp, gián tiếp và nhất là quảng bá trên các nền tảng truyền thông mới.

2.9. Về hội nhập quốc tế về văn hóa

Khuyến khích người dân chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, mỗi
người dân là một “đại sứ văn hóa” dù ở trong nước hay nước ngoài. Nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ văn hóa, đặc biệt về chuyên môn, ngoại ngữ... nhằm đáp
ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế về văn hóa ngày càng sâu rộng hiện nay. Cần
có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các ngành để mở rộng phạm vi, đối
tượng và các lĩnh vực hợp tác. Xây dựng chiến lược đầu tư trọng điểm các hoạt
động giao lưu hội nhập văn hóa quốc tế nhằm quảng bá văn hóa Việt Nam ra
nước ngoài. Đẩy mạnh xuất khẩu văn hóa trực tiếp và gián tiếp. Nghiên cứu kỹ
thị trường, kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan giúp nâng cao
hiệu quả xuất khẩu văn hóa. Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh văn hóa, xây dựng nền
tảng văn hóa dân tộc vững chắc nhằm tạo ra “bộ lọc” tốt nhất trong tiếp nhận các
luồng văn hóa nhập khẩu, đẩy lùi xu hướng quá đề cao văn hóa nước ngoài, xa
rời dần văn hóa dân tộc. Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông về giao lưu hội
nhập văn hóa nhằm làm rõ những cơ hội và thách thức của giao lưu, hội nhập văn
hóa quốc tế trong phát triển, làm giàu văn hóa Việt Nam. Xây dựng và phát triển
những sản phẩm, loại hình văn hóa đa dạng, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa
của các vùng miền Việt Nam. Xây dựng và phát triển các trung tâm văn hóa Việt
Nam tại nước ngoài làm cầu nối hiệu quả cho các hoạt động hợp tác, giao lưu,
quảng bá văn hóa, hoàn thiện chính sách hội nhập quốc tế về văn hóa, triển khai
tốt các cam kết, thỏa thuận quốc tế về văn hóa.

35
3. Liên hệ : Vai trò của sinh viên trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giữ gìn bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại

Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương
thức tư duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn.
Sinh viên nước ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con
người của các quốc gia trên thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và
làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật hiện đại, tri thức mới...

Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời,
như: Một bộ phận sinh viên xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Không ít người có thái độ ứng xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động
giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc
cách mạng, truyền thống. Bên cạnh đó, chúng ta thấy một hiện tượng đáng báo
động của giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng trong việc hội nhập, tiếp thu
văn hóa thế giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần
phong, mỹ tục của dân tộc. Không ít sinh viên đang ngày đêm cuốn vào các trò
chơi điện tử, online mang nặng tính bạo lực, ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, thời
gian học tập. Có những người say mê với các ấn phẩm, văn hóa phẩm không lành
mạnh, độc hại, dẫn đến những hành động suy đồi đạo đức, vi phạm pháp luật.
Những biểu hiện sai lệch của những người mà giới trẻ coi là thần tượng như ca
sĩ, diễn viên điện ảnh... cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lối sống của một số sinh
viên hiện nay. Ngoài ra, ngôn ngữ dùng trong những cuộc trò chuyện trên các
trang mạng xã hội hay tin nhắn cũng bị một bộ phận học sinh, sinh viên "biến
tấu" với những từ ngữ khó hiểu, thậm chí dung tục và sử dụng một cách tràn lan,
khó chấp nhận, không còn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt. Thậm chí, có
những từ ngữ bị dùng sai bản chất với ngụ ý không lành mạnh. Những thực trạng
nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và những nguyên nhân chủ
quan. Trước hết, cần phải khẳng định, bản thân mỗi học sinh, sinh viên chưa thật
sự xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện, nâng cao trình độ, học hỏi kỹ năng.

Bản lĩnh, ý thức tìm hiểu còn hạn chế của sinh viên trước những loại hình hoạt
động văn hóa, nghệ thuật khác nhau cũng là một trong những nguyên nhân đáng
chú ý dẫn đến những hạn chế, yếu kém của một bộ phận bạn trẻ trong việc tham
gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thực tế cuộc sống, một số hoạt động
văn hóa, nghệ thuật không còn phù hợp với sở thích của tuổi trẻ, cho nên giới trẻ
và sinh viên phải tìm đến với những loại hình nghệ thuật du nhập từ nước ngoài.
Tuy nhiên, các loại hình này lại chưa được chọn lọc trước khi tràn lan trong xã

36
hội. Công tác quản lý của các ban, ngành chức năng chưa thật sự có hiệu quả
trong việc khắc phục thực trạng này.

Trước những thách thức và khó khăn mà đất nước đang phải đối mặt, sinh viên
phải tự đặt ra cho bản thân mình câu hỏi: Là những trí thức tương lai của đất
nước, mình đã, đang và sẽ làm gì để góp phần đưa đất nước phát triển, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc? Để trả lời được câu hỏi nêu trên, mỗi sinh viên
phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ năng cần
thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì
lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng
hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những
hoạt động, sản phẩm văn hóa không lành mạnh.

Với trách nhiệm của mình, Hội Sinh viên Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc
giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi đây là nhiệm
vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các
cuộc thi tìm hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất nước,
của quê hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức các
hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn
hóa hiện đại; đồng thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những biểu hiện vô cảm;
khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong tuổi trẻ. Hội Sinh viên Việt Nam
các cấp cần trở thành mái nhà chung ấm áp để sinh viên đóng góp, cống hiến
trong các phong trào Hội. Hội Sinh viên cần tạo nhiều hơn nữa các sân chơi lành
mạnh để đáp ứng nhu cầu học tập, vui chơi và giải trí của hội viên, sinh viên.
Khuyến khích và tạo mọi điều kiện để sinh viên đăng ký và tham gia nghiên cứu,
thực hiện các đề tài khoa học, trong đó chú trọng các đề tài liên quan bảo vệ, gìn
giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Những hội viên và quan trọng hơn là
những cán bộ nòng cốt của Hội phải là những người tiên phong đi đầu, làm gương
trong công tác này, chủ động xây dựng tác phong, lối sống đẹp, sống có ích... và
động viên, khuyến khích các bạn trẻ hưởng ứng. Được như vậy, vai trò của Hội
Sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc sẽ nhanh chóng
được khẳng định.

37
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn cận và hiện đại, sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa trên thế giới diễn
ra mạnh mẽ, sâu rộng, phức tạp hơn, là giai đoạn gặp nhau, tác động lẫn nhau,
vừa như là sự "đối chọi" lại vừa như là sự "hấp dẫn" lẫn nhau giữa văn hóa phương
Đông và văn hóa phương Tây. Trong tình hình đó, ở Việt Nam đã diễn ra một
quá trình rất phong phú, tinh tế để cách tân văn hóa, từng bước hiện đại hóa nền
văn hóa truyền thống thông qua tiếp nhận, chọn lọc những giá trị hoàn toàn mới
của phương Tây và nỗ lực không mệt mỏi phát huy, giữ gìn những giá trị tốt đẹp,
bền vững, phù hợp với sự phát triển của văn hóa dân tộc. Trong mối quan hệ đó,
có lẽ, chỉ cần nêu một dẫn chứng mẫu mực là cuộc đời, sự nghiệp văn hóa và
những kinh nghiệm ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chứng minh cho bước
phát triển và đặc trưng của văn hóa Việt Nam thời kỳ cận và hiện đại. Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước cũng để học hỏi, tìm kiếm những gì tốt
đẹp nhất của các nền văn hóa lớn trên thế giới, từ đó Người đã chọn lọc để làm
phong phú thêm cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta. Ở Người là sự kết hợp
tuyệt vờí những tinh hoa của nhiều nền văn hóa thế giới với những giá trị cao quý
và bền vững nhất trong văn hóa dân tộc. Sự thổ lộ chân thành và đánh giá sâu sắc
của Người về những giá trị mà Người chọn lọc và tiếp nhận cho mình trong các
học thuyết của Lê-nin, Khổng Tử, Giêsu, Các Mác và Tôn Dật Tiên là một minh
chứng không chỉ về kinh nghiệm ứng xử văn hóa của bản thân Người, mà có lẽ,
trở thành một quan niệm tiếp nhận, chọn lọc, sàng lọc của văn hóa dân tộc ta đối
với văn hóa thế giới. Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa, các giá trị văn
hóa của bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm
đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh
nghiệm lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra các yếu tố nội sinh về văn
hóa của chúng ta phải giữ vai trò quyết định. Nội lực của chúng ta càng mạnh,
chúng ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có
nghĩa là nội lực đó sẽ chỉ phối các quan hệ với các yếu tố ngoại sinh, quyết định
chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có đủ trình độ, bản lĩnh để "đồng
hoá" các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố của chính nền văn hóa dân tộc,
thành chất xúc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn hóa đó. Như vậy, hội
nhập và giao lưu văn hóa không phải là phép cộng các yếu tố văn hóa bên trong
và các yếu tố văn hóa bên ngoài, mà phải là quá trình tích hợp biện chứng, sinh
động, nhuần nhuyễn để tạo ra một nền văn hóa thuần Việt Nam như Bác căn dặn
: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn
hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau
dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần “thuần tuý Việt Nam”.

38
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lữ Huy Nguyên, Bác Hồ với nghệ sĩ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1995, tr.420.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 1.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 7.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 4.
6. Bác Hồ với đồng bào các dân tộc, Nxb. Thông tấn, Hà Nội, 2007, tr.109.
7. Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, tập 4, Nxb. Hội
nhà văn, Hà Nội, 2012.
8. Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985, tr.229.
9. Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, tập 9, Nxb. Hội
nhà văn, Hà Nội, 2013, tr.260
10. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
11. Các khía cạnh văn hoá Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Bình - Dana Healy, Nhà
xuất bản Thế giới 2006
12. Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Quốc Vượng (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo
dục 2009
13. Một hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam, Hồ Liên, Nhà xuất bản Văn Học 2008
14. Người Việt Đất Việt, Toan Ánh - Cửu Long Giang, Nhà xuất bản Văn Học
2003
15. Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính, Nhà xuất bản Văn Học 2005
16. Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
2003
17. Việt Nam văn minh sử cương, Lê Văn Siêu, Nhà xuất bản Thanh Niên 2004
18. Bài viết : “Một số mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hoá giai đoạn 2021-
2030, hướng tới phát huy hiệu quả nguồn lực văn hoá trong phát triển bền
vững đất nước” - pgs, ts. Nguyễn Thị Phương Châm (Viện trưởng Viện
Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) – Trang điện
tử tapchicongsan.org
19. Bài viết : “Gìn giữ, phát huy và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc trong quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” – GS. TS. Đinh Xuân Dũng - Trang
điện tử tuyengiao.vn
20. Bài viết : “Vai trò của sinh viên trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc” – Tác giả : Đan Anh và Thanh Thuỷ - trang điện tử nhandan.vn

39

You might also like