You are on page 1of 24

1.

1 Tinh hoa văn hóa phương Đông

Hồ Chí Minh tiếp thu các tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Đông: nho giáo, phật giáo,
lão giáo, một số nhà tư tưởng tiến bộ như CN Tam dân của Tôn Trung Sơn.
Nho giáo: HCM đã thừa kế và phát triển những mặt tích cực của Nho giáo, như: tư tưởng
nhân trị và đức trị để quản lý xã hội, tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu
dưỡng rèn luyện đạo đức con người, triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp
đời,v.v… Tuy nhiên, HCM cũng phê phán những mặt tiêu cực của Nho giáo như: bảo vệ
chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách, coi
trọng thi cử.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để phục vụ
cho nhiệm vụ cách mạng.
Phật giáo: HCM kế thừa và phát triển tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân, đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều
thiện, coi trọng lao động… Những quan điểm này được HCM vận dụng sáng tạo để đoàn
kết đồng bào theo đạo Phật, đoàn kết toàn dân vì một nước VN hòa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh.

Lão giáo: HCM chú ý kế thừa tư tưởng của Lão Tử, khuyên con người nên sống gắn bó,
hòa đồng với thiên nhiên, ít lòng ham muốn vật chất, hành động đúng với quy luật của tự
nhiên và xã hội
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng phương Đông
như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như
sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước
ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh -
hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những
yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng
nước ta.

Kết luận: Cách tiếp thu của HCM: tiếp thu trên tinh thần biện chứng, có chọn lọc, không
rập khuôn không máy móc, vận dụng sáng tạo và phát triển vào điều kiện cụ thể của VN.
Ưu điểm đc HCM tiếp thu, cương quyết loại bỏ nhược điểm ra khỏi tư tưởng của mình,
đông thời những điểm chưa phù hợp đc HCM cải biến cho phù hợp hơn. Nhiều khái niện
đạo đức nho giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm từ xưa đã đc sử dụng rộng rãi
trở nên quen thuộc với nhân dân. Khi đề cập đến đạo đức mới, Người cũng sd những khái
niệm đó nhưng với nội dung hoàn toàn mới. Trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản
loại sách “người tốt, việc tốt”, Hồ Chí Minh cho rằng: “đạo đức ngày nay cao rộng hơn:
không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân”

1
1.2 Giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại đối với sinh viên trong giai đoạn hiện nay
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đảng xác định: “Phát triển
con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để
văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc”. Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH, hoàn thiện nền kinh tế thị
trường, định hướng XHCN và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vấn đề giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, kết hợp học hỏi
những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú trọng.

Quá trình hội nhập quốc tế đã có những tác động nhất định, làm thay đổi phương thức tư
duy, lối sống của sinh viên theo hướng hiện đại và tích cực, chủ động hơn. Sinh viên nước
ta biết thêm nhiều hơn về phong tục, tập quán, văn hóa và con người của các quốc gia trên
thế giới. Có điều kiện khám phá thế giới, tiếp thu và làm chủ các tiến bộ khoa học -kỹ thuật
hiện đại, tri thức mới...

Nhận thức được điều đó, sinh viên chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu
vốn văn hóa của mình, có sự trao đổi, sàng lọc cần thiết, có sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
và phù hợp vào thực tiễn lịch sử và xã hội cụ thể của dân tộc. Có thể nói, trên cơ sở tỉnh
hoa văn hóa nhân loại, sinh viên tiếp thu, tiếp biến những giá trị bên ngoài để làm giàu có
cho chính mình mà còn phải biết đem những giá trị, bản sắc của mình vốn có để đóng góp
xứng đáng vào kho tàng văn hoá của nhân loại, làm cho kho tàng ấy giàu có hơn, phong
phú hơn, cũng là một cách để khẳng định mình trong thế giới rộng lớn.

Bên cạnh đó, cũng có những hạn chế cần được nhìn nhận và điều chỉnh kịp thời, như: Một
số người xa rời truyền thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Không ít người có thái độ ứng
xử, biểu hiện tình cảm thái quá trong các hoạt động giải trí, văn hóa, nghệ thuật; lãng quên,
thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca, dòng nhạc cách mạng, truyền thống, hay là du nhập những
hoạt động văn hóa tiêu cực, không phù hợp thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Chính vì thế
để đất nước ta vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập chứ không hòa tan thì mỗi
sinh viên chúng ta phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân những kỹ
năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực rèn luyện vì
lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan trọng hơn, các bạn
trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn
hóa không lành mạnh, chủ động, sáng tạo, tiếp thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn
hóa hiện đại.

2
2.1 Tinh hoa văn hóa phương Tây
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, HCM đã tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa
Pháp, chú ý đến lý tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái của Cách mạng Pháp (1789). Người
đã kế thừa và phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền và đề xuất quan điểm về
quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc của các dân tộc. Trong Tuyên ngôn độc lập năm
1945, sau khi nêu rõ tinh thần của bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, từ đấy Hồ Chí
Minh đã nêu rõ quan điểm của mình: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” Người còn trích
dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 và khẳng định:
“đó là những lẽ phải k ai chối cãi đc”. Người lên án: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực
dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta.
Hành động của chúng trái với nhân đạo và chính nghĩa”.
Trong thời gian HCM sống và hoạt động ở phương Tây, bằng sự hiểu biết nhiều ngoại ngữ
như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Người đã tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng của các
nhà khai sáng Pháp như: Vonte, Rotxô, Môngtétxkiơ, tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn TQ,…. HCM còn tham gia các hoạt động chính trị, nghiên cứu lý luận, kinh tế,
văn hóa, v.v.. đồng thời tiếp thu tư tưởng của Thiên Chúa giáo trong quá trình hình thành tư
tưởng của mình, tiêu biểu nhất là tinh thần bác ái, yêu thương con người.

Trong tư tưởng của mình, HCM kế thừa và phát triển một số nội dung chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xd một nước VN Dân chủ Cộng hòa phải là một
nước “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Người không sao chép, không phỏng theo chủ nghĩa Tam
dân mà thận trọng lọc ra, bảo tồn và phát triển hạt nhân dân chủ cách mạng của Tôn Trung
Sơn nhào nặn với thực tiễn VN, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin hình thành tư
tưởng của Người mang bản chất dân tộc, phản ánh quy luật phát triển của lịch sử.
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây một cách có chọn lọc rồi vận
dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì
mục đích không chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất
vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.

2.2 Liên hệ với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa phương tây trong giai đoạn hiện nay

3
3.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng HCM. Giúp Người vượt hẳn lên phía trc so với những nhà yêu nước tiền bối. HCM
nhận xét: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Leenin”. (đường cách mệnh)
HCM tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin có chọn lọc, không rập khuôn, máy móc, giáo điều.
Từ đó, vận dụng sáng tạo và phát triển để giải quyết được khủng hoảng đường lối cứu nước
và người lãnh đạo cách mạng VN cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng VN, chủ tịch HCM k những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát
triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác Lêninn trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tôc
và cách mạng giải phóng dân tộc, chủ nghĩa xã hội và xây dựng cnxh ở VN, các vấn đề xd
Đảng và Nhà nước, văn hóa, con người, đạo đức,… HCM đều có những luận điểm bổ sung,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa mác lênin. TTHCM là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư
tưởng VN.
Vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với tư tưởng HCM thể hiện: quyết định bản chất
thế giới quan khoa học của tư tưởng HCM; quyết định phương pháp hành động biện chứng
của HCM. Đối với HCM chủ nghĩa Mác Leenin là thế giớ quan, phương pháp luận trong
nhận thức và hoạt động cách mạng. Trên cơ sở lập trg, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mác Leenin, HCM đã triệt để kế thừa, đổi mới phát triển những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc VN, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễm cách mạng trong
nước và thế giới hình thành lên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách
mạng VN. Chủ nghĩa Mác Leenin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định
trong việc hình thành TTHCM.

Chủ nghĩa Mác – Lênin giúp HCM tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra
con đường cứu nước. Người nhận thức: Trong cuộc đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác –
Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên
thế giới.

3.2 Liên hệ vai trò của sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn kiện các kỳ Đại hội
Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam qua 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó đến nay, cùng với việc xây dựng
và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng nhất là đối với thanh niên, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước.

Nhận thức được điều đó, nhiều SV đã chủ động, thẳng thắn đấu tranh với những luận điệu
xuyên tạc, sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc, phê phán nhận thức lệch lạc và hành vi tiêu
cực, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây cũng là lực lượng đông đảo, có đời

4
sống văn hóa, tinh thần phong phú, đa chiều, thường xuyên sử dụng Internet và mạng xã
hội qua các kênh Zalo, Facebook, YouTube, Messenger,...

Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, các
thế lực thù địch, phản động tìm mọi thủ đoạn chống phá, nhất là trên môi trường không
gian mạng và các phương tiện truyền thông xã hội. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 35-
TW/NQ, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đây là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ thường
xuyên và lâu dài của cả hệ thống chính trị.

Để phát huy được vai trò hạt nhân chính trị của SV, TN nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới,
cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho SV, TN.
- Hai là, tổ chức Đoàn, Hội SV chủ động, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động TN, SV
tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
- Ba là, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội.

- Bốn là, xây dựng lực lượng nòng cốt trong SV, TN.
Năm là, phát huy vai trò “nêu gương” của cán bộ Đoàn, Hội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng.

5
4.1 Phân tích TTHCM về vấn đề độc lập dân tộc

 Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tộc

Đối với mỗi người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của bản thân
và của dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch HCM đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng
bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.

Năm 1919, nhân dịp các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất
họp hội nghị ở Vécxây (Pháp), thay mặt những người VN yêu nước, HCM đã gửi tới hội
nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam, bao gồm 8 điểm với hai nội dung chính là đòi
quyền bình đẳng về pháp lý và đòi các quyền tự do, dân chủ. Căn cứ vào quyền những
quyền tự do, bình đẳng và quyền con người – “những quyền mà k ai có thể xâm phạm đc”,
HCM tiếp tục khẳng định những giá trị thiêng liêng, bất biến về quyền dân tộc: “tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do….Đó là những lẽ phải k ai chối cãi đc”.

Cách mạng Tháng Tám thành công, trong tuyên ngôn độc lập năm 1945, thay mặt Chính
phủ lâm thời HCM trịnh trọng tuyên bố rước quốc dân đồng bào và trước thế giới: “Nước
VN có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành 1 nước tự do độc lập. Toàn thể
dân tộc VN quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy”.

Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ giành được thắng lợi, đất nước được hòa bình, thống nhất. Trong các bức thư và
điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian đó, Người đã trịnh
trọng tuyên bố rằng: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân
chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất:
toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp xâm lược VN
lần 2, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang
dậy núi sông: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu đất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”.
Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Chủ tịch HCM lại đưa ra 1 chân lý bất
hủ, có giá trị cho mọi thời đại” “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Được sự cổ vũ của
tinh thần đó, Nhân dân ta ở 2 miền Nam – Bắc đã kiên cường chiến đấu, hy sinh, buộc Mỹ
phải ký Hiệp định Paris, cam kết tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân VN, rút quân
về nước Mỹ.

 Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của Nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người đánh giá cao
học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền
tự do và dân sinh hạnh phúc. Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng

6
Document continues below

Discover more from:


Tư tưởng Hồ Chí Minh
SSH1151
61 documents

Go to course

Tthcm xay dung nen van hoa moi trong loi song sinh vien
hien nay
18
Tư tưởng Hồ Chí Minh None

Bài tập tuần 38 - Bt tuần 38

3 Tư tưởng Hồ Chí Minh None

Đề cương câu 1-4 - Đề cương 1-4

6 Tư tưởng Hồ Chí Minh None

Bài tập tuần 34 - Bt tuần 34

4 Tư tưởng Hồ Chí Minh None

Câu-6-Vai-trò-tư-tưởng-về-đại-đoàn-kết-toàn-dân-tộc-
của-Hồ-Chí-Minh-đối-với-cách-mạng-giải-phóng-dân-…
8
Tư tưởng Hồ Chí Minh None

BÀI TẬP Tthcm - No description for this reference

2 Tư tưởng Hồ Chí Minh None


phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. “Đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Người
nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”.
Ngoài ra, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh phúc của Nhân dân. Ngay sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong hoàn cảnh Nhân dân đói rét, mù chữ,
v.v.., HCM yêu cầu: “Chúng ta phải…

Làm cho dân có ăn,

Làm cho dân có mặc,


Làm cho dân có chỗ ở,
Làm cho dân có học hành”.

Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của HCM, Người luôn
coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho Nhân dân, như Người từng bộc bạch đầy
tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

 Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, gắn liền với hòa bình

Trong quá trình đi xâm lược các nước, bọn thực dân đế quốc hay dùng chiêu bài mị dân,
thành lập các chính phủ bù nhìn bản xứ, tuyên truyền cái gọi là “độc lập tự do” giả hiệu cho
nhân dân các nước thuộc địa, nhưng thực chất là để nhằm che đậy bản chất “ăn cướp” và
“giết người” của chúng.

Theo HCM, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để trên tất cả các lĩnh
vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao,
không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng, v.v.. thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa
gì.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình: Chỉ có độc lập dân tộc thực sự mới có một nền
hòa bình chân chính, và chỉ có hòa bình chân chính mới có độc lập dân tộc hoàn toàn. Đấu
tranh cho độc lập của dân tộc mình, đồng thời cũng tôn trọng độc lập của các dân tộc khác
và góp phần vào việc giữ gìn hòa bình thế giới. HCM luôn giương cao ngọn cờ hòa bình,
hòa hợp đoàn kết dân tộc; kiên quyết đấu tranh xây dựng 1 thế giới hòa bình, ổn định và
phát triển.
 Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu chia cắt
đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia đất nước ta ra 3 kỳ, mỗi
kỳ có chế độ cai trị riêng. Tháng 2/1958, Người khẳng định: “Nước VN là một, dân tộc VN
là một”. Trong Di chúc, Người cũng đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào sự thắng lợi của
cách mạng, vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất

7
định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất
định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Có thể khẳng định
rằng, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là tư
tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.

4.2 Trách nhiệm của sinh viên trong việc bảo vệ độc lập dân tộc
Hiê Œn nay, nước ta đang sống trong thời kỳ hòa bình nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh về đô Œc
lâ Œp dân tô Œc vẫn giữ nguyên giá trị to lớn. Trong thời kỳ công nghiê Œp hóa, hiê Œn đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hô Œi chủ nghĩa thì nô Œi dung của đô Œc lâ Œp dân tô cŒ
được thể hiê Œn là xây dựng được nền kinh tế đô Œc lâ Œp, tự chủ, không phụ thuô cŒ vào quốc gia
khác; đảm bảo được cuô Œc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân; giữ vững được lãnh thổ và
chủ quyền biển đảo của quốc gia; chống lại các thế lực thù địch, phá tan các âm mưu chia
rẽ của chúng… Nhận thức rõ về độc lập dân tộc, sinh viên cần đặt sự tôn trọng và bảo vệ
quyền con người lên hàng đầu, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người.
Đồng thời sinh viên cần luôn tìm cách đối thoại và hợp tác với các quốc gia và dân tộc khác
trong khu vực và trên thế giới, để xây duwbgj một thế giới hòa bình, chính trị ổn định và
phát triển bền vững.

Trách nhiêm của sinh viên


 Có nhận thức, hiểu biết về những vấn đề có liên quan đến sự nghiệp bảo vệ tổ quốc:
hiểu biết về đất nước và con người, các dân tộc và tôn giáo ở VN, hiểu biết về lịch sử,
truyền thống, bản sắc văn hóa, hiểu biết về Đảng, Nhà nước xhcn của dân do dân và vì
dân và chế độ xhcn mà ta đang xd, hiểu biết bản chất âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trong
và ngoài nước,…
 Sinh viên cần cảnh giác, tích cực trong đấu tranh với những hành động sai trái, k để các
thế lực thù định, các phần tử chống đối lợi dụng. Tố cáo những hành vi tuyên truyền lôi
kéo sinh viên tham gia các hoạt động trái quy định của pháp luật nhằm chống đối đảng,
nhà nước.

 Tích cực tham gia các hoạt động để bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn an toàn trật tự xã
hội. Tham gia xd nếp sống văn minh trật tự nagay trong trường học, khu vực dân cư mà
mình sinh sống, bảo vệ môi trường.

 Tăng cường rèn luyện thể lực, học tập tốt môn giáo dục quốc phòng an ninh, góp phần
chuẩn bị cho lực lượng sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

 Trung thành với Tổ quốc, với chế độ xhcn, cảnh giác trước âm mưu chia rẻ, xuyên tạc
của các thế lực thù địch, phê phán, đấu tranh với những thái độ làm việc gây tổn hại đến
an ninh quốc gia, xâm phạm chủ quyền.

 Tích cực học tập ể nâng cao hiểu biết về toàn vẹn lãnh thổ, tuyên truyền những điều
đúng đắn cho m.n. Mỗi sv cần phải nắm chắc đường lối quan điểm của Đảng, chính sách
pháp luật cảu Nhà nước.

8
9
6.1. Tại sao Đảng Cộng sản VN lấy chủ nghĩa Mác lênin làm nền tảng tư tưởng
Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động vì:
Về tầm quan trọng của lý luận, trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), HCM khẳng
định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nan. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”. Đảng không có chủ nghĩa
làm cốt ví như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Toàn Đảng, ai cũng phải
hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy.
HCM luôn luôn nhấn mạnh phải trung thành với chủ nghĩa Mác Lênin, nhưng đồng thời
phải luôn luôn sáng tạo, vận dụng cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, từng lúc từng nơi,
không được phép giáo điều.
Hồ Chí Minh yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải hiểu và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Đối với cơ quan và tổ chức Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam cho hành động chứ không phải là kinh thánh.
Phải nắm vững phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phải căn cứ vào thực tiễn để
xác định đúng quan điểm, đường lối chính sách, pháp luật; phải vận dụng sáng tạo, không
máy móc, giáo điều, rập khuôn.
+ Phải tìm các giải pháp, biện pháp thực hiện, phải có quyết tâm, “đường lối 1, biện pháp
phải 10, quyết tâm phải 20”
+ Phải tổng kết kinh nghiệm của Đảng mình, các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn để rút ra
những bài học thành công, chưa thành công.
+ Phải tổ chức việc học tập, bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên phù hợp, đồng thời
phải tuyên truyền vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách.
– Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh yêu cầu:
+ Học lý luận, hiểu lý luận là phải vận dụng vào thực tiễn, “học mà không hành là cái hòm
đựng sách”, “để lòe thiên hạ”, để “ra vẻ ta đây”. Phải chống các biểu hiện kém lý luận, coi
thường lý luận, lý luận suông, lý luận giáo điều + Phải tin tưởng, nhất trí với quan điểm,
đường lối của Đảng, Nhà nước và quyết tâm thực hiện; phải bảo vệ quan điểm đường lối
chính sách, giữ vững kỷ luật Đảng và kỷ luật cơ quan đoàn thể.
+ Phải lấy hiệu quả công tác, hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo sự hiểu và vận dụng
chủ nghĩa Mác – Lênin; công việc bê trễ thì không thể nói là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin
được.
+ Phải coi việc thường xuyên học tập lý luận là nhiệm vụ và tiêu chuẩn đảng viên.

10
+ Phải sống với nhau có tình có nghĩa.

6.2 Liên hệ vai trò của sinh viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn kiện các kỳ Đại hội
Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng
Việt Nam qua 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó đến nay, cùng với việc xây dựng
và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng nhất là đối với thanh niên, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước.
Nhận thức được điều đó, nhiều SV đã chủ động, thẳng thắn đấu tranh với những luận điệu
xuyên tạc, sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc, phê phán nhận thức lệch lạc và hành vi tiêu
cực, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây cũng là lực lượng đông đảo, có đời
sống văn hóa, tinh thần phong phú, đa chiều, thường xuyên sử dụng Internet và mạng xã
hội qua các kênh Zalo, Facebook, YouTube, Messenger,...

Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, các
thế lực thù địch, phản động tìm mọi thủ đoạn chống phá, nhất là trên môi trường không
gian mạng và các phương tiện truyền thông xã hội. Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 35-
TW/NQ, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đây là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng, vừa là nhiệm vụ cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ thường
xuyên và lâu dài của cả hệ thống chính trị.
Để phát huy được vai trò hạt nhân chính trị của SV, TN nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới,
cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho SV, TN.

Hai là, tổ chức Đoàn, Hội SV chủ động, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động TN, SV
tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Ba là, tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả việc sử dụng mạng xã hội.

Bốn là, xây dựng lực lượng nòng cốt trong SV, TN.

11
Năm là, phát huy vai trò “nêu gương” của cán bộ Đoàn, Hội trong bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng.

12
5.1 Tư tưởng HCM về nhà nước: nhà nước pháp quyền
a. Nhà nước hợp hiến, hợp pháp

Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một nhà nước hợp pháp và hợp hiển, được Nhân
dân bầu ra bằng hình thức dân chủ, được xây dựng và hoạt động theo các nguyên tắc của
Hiến pháp

Hồ Chí Minh nêu ra và thực hiện điều này ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành
công, chính quyền đã về tay Nhân dân. Sau khi giành chính quyền trong cả nước, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Bác
đã đề nghị tổ chức tổng tuyển cử để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan
bộ máy khác. HCM đã đề nghị: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị
Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu
phiếu”.

Cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc ngày. 06/01/1946 đã thành công
tốt đẹp. Ngày 02/3/1946, Quốc hội khóa I nước Việt t Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên
đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đây
là chính phù hợp hiến đầu tiên do đại biểu của Nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách vá hiệu
lực trong việc giải quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của nước Việt Nam mới.

b. Nhà nước thượng tôn pháp luật

Trong tư tưởng HCM, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và nhiều biện pháp khác nhau,
nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp và bằng pháp luật nói chung. Muốn vậy,
trước hết cần làm tốt công tác lập pháp.

Cùng với công tác lập pháp, HCM cũng rất chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống,
bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế giám sát việc thi hành pháp luật.

Pháp luật là công cụ quyền lực của nhân dân, vì thế điều quan trọng là phải làm sao cho
nhân dân biết hưởng quyền dân ch, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.

HCM luôn nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Đòi hỏi pháp luật phải đúng và phải
đủ, tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho mọi người dân, người thực thi pháp
luật phải thực sự công tâm và nghiêm minh,..
HCM luôn luôn khuyến khích nhân dân ohee bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám
sát quá trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp,
các ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là cán bộ thuộc ngành
hành pháp và tư pháp.

c. Pháp quyền nhân nghĩa

13
“Pháp quyền nhân nghĩa” tức trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện đầy đủ
các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người.

Trong pháp quyền nhân nghĩa pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Tính nhân văn của
hệ thống luật pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ quyền con người, ở tính
nghiêm minh nhưng khách quan và công bằng, tuyệt đối chống đối xử với con người một
cách dã man. Đặc biệt, hệ thống luật pháp đó có tính khuyến thiện, bảo vệ cái đúng, cái tốt,
lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm căn bản. Với Hồ Chí Minh, việc
xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo
đức thấm sâu vào trong mọi quy định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong nhà
nước pháp quyền nhân nghĩa phải là pháp luật vì con người.
5.2 Liên hệ với việc xây dựng nhà nước XHCN VN hiện nay.

- Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”.

- Cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản
lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước.
Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

- Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân. Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi
quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là
thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm
của mỗi quyền.
- Chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác
cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp để thực thi đầy đủ trách nhiệm công vụ, đáp ứng
yêu cầu của giai đoạn mới.

- Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách
dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ,
công chức.

- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục nâng cao hiệu quả
thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng
lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực.

14
7.1 TTHCM về vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc

a. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của
cách mạng Việt Nam. Người nói: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết
muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị
nước ngoài xâm lấn”.
Trong từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách
và phương pháp tập hợp đại đoàn kết có thể và cần thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với
từng đối tượng khác nhau, song không bao giờ được thay đổi chủ trương đại đoàn kết toàn
dân tộc.
Hồ Chí Minh khái quát chân lý: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta “Đoàn kết là một lực
lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, “Bây
giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”
Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”.
Tóm lại, đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam, là
nhân tố quyết định thành bại của cách mạng

b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu
lâu dài của cách mạng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ
trương, chính sách, cho tới hoạt động của Đảng. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mục đích của
Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG
SỰ TỔ QUỐC”

Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đoàn kết là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân
dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, bởi nếu không đoàn kết thì chính họ sẽ thất bại
trong cuộc đấu tranh vì lợi ích của chính mình. Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, giác ngộ quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát
của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn
kết, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do cho
Nhân dân và hạnh phúc cho con người.
Tóm lại, đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ của Nhân dân, Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nhà nước Việt Nam.

15
7.2 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
giai đoạn hiện nay.

- Nhận thức rõ về vai trò của đại đoàn kết dân tộc, quán triệt tư tưởng đại đoàn kết là vấn đề
sống còn của dân tộc, từ đó ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, phát huy tính năng động của bản thân, tỉnh thần tự lực tự cường, vượt
qua mọi thách thức.

- Nâng cao nhân thức của bản thân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của từ tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05- CT/TW của Bộ Chính trị
và chuyên đề năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh”. Đại đoàn kết là sự nghiệp của cư dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân
lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức;
trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu.

- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân; tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân
trên địa bàn dân cư thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và các quy định của địa phương nơi cư trú nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân,
phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

- Tích cực tham gia các hoạt động tổ chức của Đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và an ninh quốc phòng, cương
quyết chống lại những ý kiến xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.

- Tham gia và vận động các thành viên trong gia đình tham gia các cuộc vận động, các
phong trào thi đua do địa phương phát động. Vận động gia đình và nhân dân xây dựng mối
quan hệ gắn bó đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

- Đẩy mạnh công tác làm việc tự học, tự tu dưỡng để nâng cao kỹ năng và kiến thức và
trình độ trình độ của bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng,
pháp lý của nhà nước đến quần chúng nhân dân.

- Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá thể luôn nâng cao niềm tin cẩn trọng, chống
những luận điệu xuyên tạc về Đảng, về quản trị Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao trình
độ của bản thân để hoàn toàn có thể thích ứng được với điều kiện kèm theo xã hội mới.

- Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của bạn bè
và thẳng thắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại bỏ dần
những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm túc,
chân thành, đúng nơi đúng lúc.

16
8.1. TTHCM về Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng.
Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng là đại đoàn kết toàn dân tộc thì phải
làm tốt công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, để phát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả năng
to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước, thì mọi cán bộ, đảng viên phải biết cách làm tốt công tác
giáo dục tuyên truyền, hướng dẫn, vận động Nhân dân thực hiện mọi chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; phải giúp Nhân dân hiểu đầy đủ, sâu sắc
về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc, với Đảng và với dân tộc,
từ đó họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Người dặn: “cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì
lợi ích cho họ mà phải làm”.
Theo Hồ Chí Minh mọi phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải phù hợp
với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế trình độ dân
trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng vànghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán và cụ thể
đối với từng địa phương, từng đối tượng của nhân dân.

Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần
chúng.

Theo HCM, Để tập hợp quần chúng nhân dân có hiệu quả, cần phải xây dựng những tổ
chức đoàn thể phù hợp với từng giai cấp, lứa tuổi, tôn giáo, giới tính, vùng miền, v.v. như
các tổ chức: Công đoàn, Hội Nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, v.v… Có như vậy
mới phát huy được hết sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Các đoàn thể, tổ chức ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo
dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia cách mạng, đấu tranh bảo
vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam,
xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức, đoàn thể không ngừng lớn mạnh về số lượng,
hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân
của khối đại đoàn kết toàn dân.

Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại
đoàn kết toàn dân tộc củng mạnh mẽ, cảng bền vững bấy nhiêu. Người khẳng định: "Những
đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của tàn, liên lạc mật thiết
nhân dân với Chính phủ". Như vậy, bản chất của đoàn thể nhân dân, các tổ chức quần
chúng là tổ chức của dân, do đó vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là phải vận
động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội tham gia vào các tổ chức
của mình.

Công tác vận động quần chúng phải dựa trên chiến lược: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công đại thành công!". Đối với các đoàn thể, tổ chức quần chúng. HCM
17
cho rằng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ
đạo trong công tác vận động, thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức
của mình.
8.2 Trách nhiệm của sinh viên trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong
giai đoạn hiện nay.
- Nhận thức rõ về vai trò của đại đoàn kết dân tộc, quán triệt tư tưởng đại đoàn kết là vấn đề
sống còn của dân tộc, từ đó ý thức được trách nhiệm của bản thân trong việc xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, phát huy tính năng động của bản thân, tỉnh thần tự lực tự cường, vượt
qua mọi thách thức.

- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân; tuyên truyền, vận động gia đình và nhân dân
trên địa bàn dân cư thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và các quy định của địa phương nơi cư trú nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân,
phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

- Đẩy mạnh công tác làm việc tự học, tự tu dưỡng để nâng cao kỹ năng và kiến thức và
trình độ trình độ của bản thân. Thực hiện tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng,
pháp lý của nhà nước đến quần chúng nhân dân.

- Tùy theo sức và vị trí của mình bản thân cá thể luôn nâng cao niềm tin cẩn trọng, chống
những luận điệu xuyên tạc về Đảng, về quản trị Hồ Chí Minh. Không ngừng nâng cao trình
độ của bản thân để hoàn toàn có thể thích ứng được với điều kiện kèm theo xã hội mới.

- Tích cực tham gia các hoạt động tổ chức của Đoàn thanh niên nhằm tuyên truyền tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc trong các lĩnh vực văn hóa, kinh tế và an ninh quốc phòng, cương
quyết chống lại những ý kiến xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.

- Mỗi cá nhân cần dám nhận những thiếu sót, những khuyết điểm của bản thân, của đồng
nghiệp và thẳng thắn góp ý để cùng xây dựng cùng chia sẻ những cái hay cái tốt và loại bỏ
dần những khuyết điểm, hạn chế còn tồn tại. Việc góp ý cần phải được thực hiện nghiêm
túc, chân thành, đúng nơi đúng lúc.

18
9.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng

a. Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức


Hồ Chí Minh coi nguyên tắc nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó
đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng triết lý sống của Người.

Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông. Sự gương
mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm không chỉ là cách thức để giáo dục đạo
đức cho quần chúng, mà còn là một phương pháp để tự giáo dục bản thân mình.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một nền tảng rộng lớn, vững chắc,
khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của mỗi người và của
toàn xã hội, mà những tấm gương đạo đức của những người tiêu biểu có ý nghĩa thúc đẩy
cho quá trình đó.
b. Xây đi đôi với chống

Hồ Chí Minh cho rằng, đây là đòi hỏi của nền đạo đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến
đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức là xây dựng, bồi dưỡng các giá trị, các
chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái
đạo đức. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp xây đi đôi với chống, muốn
xây phải chống chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính.

Xây dựng đạo đức mới theo Hồ Chí Minh phải được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình đến nhà trường và ngoài xã
hội, nhất là trong những tập thể – nơi mà phần lớn thời gian cuộc đời mỗi người gắn bó
bằng hoạt động thực tiễn của mình. Mặt khác, việc giáo dục đạo đức mới phải được tiến
hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giai
cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành
mạnh ở mỗi người.

Để xây và chống có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh phái tuyên truyền, vận động hình thành
phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh trong sạch về đạo đức, thôi
thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân để mọi người nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng
phải chú trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường tính nghiêm minh của pháp. luật.
Thực tiễn chứng minh những cuộc vận động đó đã mang lại kết quả rất lớn.

c. Tu dưỡng đạo đức suốt đời


Theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức là một cuộc cách mạng trường kỷ, gian khổ. Một nền
đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Người nhắc lại luận điểm của Khổng Tử: “chính tâm, tu thân”, “tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”.

19
Đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông qua các hoạt động thực
tiễn trong công việc, trong các mối quan hệ của mình; phải nhìn thẳng vào mình, không tự
lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay hại tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ
cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện liên tục, tu dưỡng suốt
đời, trong đó thời tuổi trẻ là đặc biệt quan trọng.

Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục về mặt
đạo đức. Thực hiện việc này phải kiên trì, bền bỉ. Có nên luyện như vậy, con người mới có
được phẩm chất đạo đức tốt đẹp và những phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao.

9.2 Liên hệ với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của thanh niên (trong đó có
sinh viên, học sinh) và xác định “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết”. Vì thế, bên cạnh việc coi trọng giáo dục chuyên môn, việc giáo
dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh nhằm xây dựng đội ngũ trí thức tương lai vừa “hồng” vừa “chuyên”, kế tục các
thế hệ cha anh trong sự nghiệp cách mạng mới là yêu cầu cơ bản lâu dài và cấp bách. Để
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải:

- Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, mỗi sinh viên phải trung thành với mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Thực hiện tốt “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh

- Có ý thức trong tự phê bình và phê bình; biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người
khác; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chia rẽ, bè phái.
- Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên các cấp.
Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên 5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt,
Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện tốt, Hội nhập tốt.

- Có ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua thử thách, nguy hiểm để đạt
được những mục đích sống cao đẹp, hoàn thành thử thách mới, chiến thắng chính mình và
trước những thử thách trong cuộc sống.

- Mỗi khi thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm,
đồng thời tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng,
càng có ý nghĩa lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.

20
10.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người

a. Ý nghĩa của việc xây dựng con người


Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, vừa cấp bách vừa lâu
dài, có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển đất nước, có mối hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội.

“Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” đã cho thấy đây là công việc lâu dài, gian khổ,
vừa vì lợi ích trước mắt vừa vì lợi ích lâu dài, là công việc của văn hóa giáo dục. “Trồng
người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý
nghĩa vừa là quyền lợi vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Công việc “trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã
hội kết hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.

“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ
nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con người xã hội chủ nghĩa
được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.

b. Nội dung xây dựng con người


Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là
những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, những
con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo đức xã hội chủ nghĩa và có
năng lực làm chủ. Xây dựng con người toàn diện với những khía cạnh chủ yếu sau:
+ Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người,
mọi người vì mình”.
+ Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.

+ Có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.

+ Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân; bồi dưỡng về năng lực, trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn hóa, khoa học kỹ
thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
c, Phương pháp xây dựng con người.

Mỗi người tự rèn luyện, tu dưỡng ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế, tính khoa
học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người đứng đầu, có ý

21
nghĩa rất quan trọng. Người nói rằng “lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục
lẫn nhau" là rất cần thiết và bổ ích.

Biện pháp giáo dục có một vị trí quan trọng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Hiền, dữ của con
người không phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Hồ Chí Minh luôn đánh giá
cao vai trò của nhà trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Nền giáo dục
đó phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cách mạng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước,
do đó, khi tình hình thực tiễn có sự thay đổi thì nền giáo dục cũng phải có sự điều chỉnh,
đổi mới cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Thông qua các
phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”, đặc biệt phải dựa vào
quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức
của ta”.
10.2. Sinh viên phải làm gì để xây dựng và phát triển con người toàn diện.

Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn coi trọng nhân tố con người, coi đó là yếu tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình
phát triển. Vấn đề phát triển con người toàn diện trong các văn kiện của Đại hội XII được
Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước. Với nhận thức
của mình, theo em muốn xây dựng và phát triển con người toàn diện, sinh viên cần thực
hiện một số giải pháp sau:

- Một là, sinh viên cần tự bồi dưỡng, rèn luyện tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo
đức, lối sống và nhân cách. Lấy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc là giá trị cơ bản,
cốt lõi đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy chuẩn mực đạo đức, lối sống và nhân cách làm thước đo đánh giá con người trong
quan hệ ứng xử với tự nhiên, xã hội, hưởng tới giá trị nhân văn.

- Hai là, sinh viên cần xây dựng cho mình thế giới quan khoa học, hưởng tới các giá trị
chân - thiên - mỹ. Sống trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng
quốc tế, đang diễn ra cuộc cách mạng 4.0, đòi hỏi sinh viên phải có thế giớimquan khoa học
trong nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng và xử lý các vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra.

- Ba là, sinh viên cần xây dựng và phát huy lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật; bảo vệ môi trường; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã
hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội; khẳng định, tôn vinh
cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; không ngừng nhân rộng các giá trị nhân văn…
- Bốn là, nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo dục
tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

22
- Năm là, đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi
sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người…

23

You might also like