You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN


Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh:
“Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”

Họ tên: Hoàng Thị Quỳnh Thơm


Mã sinh viên: 11194931
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh_32
Giảng viên: Nguyễn Thùy Linh

Hà Nội, tháng 11/2021


I. CƠ SỞ LUẬN ĐIỂM

1. Cơ sở lý luận.

1.1. Truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để
tồn tại, phát triển, ông cha ta đã kiên cường, bất khuất trong đấu chống giặc
ngoại xâm và chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ trong các cuộc đấu
tranh gian khổ đó, nhân dân ta đã sớm có ý thức đoàn kết cộng đồng, tương thân
tương ái, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, chung lưng đấu cật, đồng cam cộng khổ,
sống trọng nghĩa, trọng tình, thuỷ chung, độ lượng... Những đức tính tốt đẹp đó
được các thế hệ người Việt Nam kế thừa và bồi đắp từ đời này qua đời khác, trở
thành những giá trị đạo đức cao đẹp, bền vững của dân tộc ta. Trong đó, chủ
nghĩa yêu nước là nét đặc sắc, nổi bật nhất của thang giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc.

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình có nếp sống, phong cách
sinh hoạt gần gũi với người lao động, trọng tình người, sống có nghĩa khí và
trên quê hương giàu truyền thống yêu nước. Người còn được trực tiếp nhìn thấy
những cảnh đau lòng, bất công, bạo ngược của bọn thực dân, phong kiến đối với
nhân dân lao động. Lòng yêu nước, thương dân đã tiếp thêm nghị lực, sức mạnh
cho Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh nhằm thực hiện một mục đích cao cả,
“nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Những giá trị đạo đức truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương, gia đình đã được Hồ Chí Minh kế thừa,
phát huy, phát triển lên một tầm cao mới, của thời đại mới và được thể hiện một
cách sâu sắc trong tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng.

1.2. Tinh hoa đạo đức phương Đông, phương Tây


Trước khi đến với chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy và nhận thức được những giá trị nhân bản, hạt nhân hợp
lý trong đạo đức phương Đông, phương Tây. Song sự tiếp thu, kế thừa của Hồ
Chí Minh bao giờ cũng trên cơ sở có chọn lọc và phê phán.

Đối với đạo đức phương Đông, Hồ Chí Minh coi trọng và đánh giá cao
những giá trị tích cực, tiến bộ trong tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo. Đặc biệt
trong học thuyết của Khổng Tử, Người cho rằng, “Tuy Khổng Tử là phong kiến
và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những
điều hay trong đó thì chúng ta nên học”1. Đó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân,
nghiêm khắc với bản thân. Người cũng tìm thấy những điểm hợp lý trong tư
tưởng của Phật giáo, coi trọng và đề cao “cái thiện”, khuyên con người sống
hiền từ, không tham lam, có lòng vị tha, cảm thông sâu sắc với người nghèo
khổ, biết lo cho người hơn lo cho mình.

Đối với đạo đức phương Tây, Hồ Chí Minh rất coi trọng những “ưu điểm”
trong tư tưởng của Thiên chúa giáo, đó là lòng nhân ái cao cả của Chúa Giêsu,
khuyên con người sống trong sạch, thuỷ chung, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau,
biết hoà đồng và làm bạn với mọi người, kể cả làm bạn với bạn của kẻ hại mình.
Mặt khác, Người cũng chỉ ra những hạn chế lớn của Thiên chúa giáo. Nghiên
cứu về nền văn hoá phương Tây, Người đánh giá cao tinh thần nhân đạo, dân
chủ và nhân quyền được thể hiện trong các trào lưu triết học, văn học nghệ
thuật, nổi bật là tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái”. Người cho rằng, đó là một
tư tưởng tiến bộ có sức hấp dẫn đối với quần chúng nhân dân lao động, nhưng
đã bị giai cấp tư sản lợi dụng để mỵ dân, xúi dục quần chúng đánh đổ giai cấp
phong kiến để đoạt lấy quyền cai trị vào tay mình, rồi quay trở lại đàn áp nhân
dân.

Hồ Chí Minh đã kế thừa, tiếp thu được những giá trị đạo đức tốt đẹp của cả
phương Đông và phương Tây để mở rộng sự hiểu biết, làm phong phú, làm giàu
thêm trí tuệ của mình. Đó cũng là điều kiện khách quan, cần thiết để Người đến
với chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp cho Người có
được phương pháp tư duy biện chứng khoa học để không ngừng bổ sung, hoàn
thiện các giá trị về đạo đức bằng những quan niệm mới, cách mạng và tiến bộ,
phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại.

1.3. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức cách mạng.

Từ rất sớm, trong đời sống xã hội loài người đã xuất hiện và tồn tại các quan
niệm khác nhau về đạo đức, nhưng đó là những quan niệm đạo đức cũ. Chủ
nghĩa Mác ra đời đã đánh dấu bước ngoặt về một nền đạo đức mới, đạo đức
cộng sản, gạt bỏ tất cả những quan niệm duy tâm, phi lịch sử về đạo đức. Mác
cho rằng, “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế, của xã hội lúc bấy giờ”. Đồng thời, Mác
còn chỉ rõ, trong xã hội có sự đối lập về giai cấp, thì “đạo đức cũng là đạo đức
của giai cấp, hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị,
hoặc là khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy
chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người
bị áp bức”2. Đạo đức tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức
chính là đạo đức mới, đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, nó
khác hẳn với bản chất đạo đức cũ của giai cấp thống trị bóc lột. Bàn về vai trò to
lớn của đạo đức mới, Lênin đã khẳng định: “Đạo đức đó là những gì góp phần
phá huỷ xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao
động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra một xã hội mới của những
người cộng sản”3

Chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm đến vấn đề đạo đức và xây dựng đạo
đức cách mạng cho giai cấp vô sản. Hơn nữa, sức thuyết phục của tư tưởng đạo
đức trong học thuyết đó, không chỉ ở tính cách mạng và khoa học của nó, mà
còn ở tấm gương đạo đức mẫu mực, trong sáng, cao cả của các nhà kinh điển.
Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tác động ảnh
hưởng một cách sâu sắc đến cả nhận thức, tư duy, tình cảm và hành động của
Hồ Chí Minh. Đặc biệt khi nói về tấm gương đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh
viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa,
tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ
đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và
đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”[1].

2. Cơ sở thực tiễn.

2.1. Thực tiễn Việt Nam.

Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, do chính sách cai trị độc ác của chủ
nghĩa thực dân, đã để lại hậu quả hết sức nặng nề. Quần chúng nhân dân lao
động họ không những bị áp bức, bóc lột nặng nề về thể xác, mà còn bị nô dịch
về tinh thần. Đặc biệt, trên lĩnh vực văn hoá, đạo đức, sự ràng buộc khắt khe của
lễ giáo phong kiến và sự áp đặt “lối sống tư sản”, cơ hội, thực dụng chạy theo
đồng tiền, đề cao chủ nghĩa cá nhân của chủ nghĩa thực dân là nguy cơ đe dọa
đến những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và là một trở ngại to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Nhận thức rõ được điều đó,
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với cách mạng nước ta, muốn giải phóng triệt để cho
người lao động phải đồng thời giải phóng cho họ cả về tư tưởng, văn hoá, đạo
đức lối sống, thói quen lạc hậu có gốc rễ từ hàng ngàn năm nay.

Mặt khác, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền đã
thuộc về nhân dân, Hồ Chí Minh sớm phát hiện ra những hiện tượng sai lệch
của một bộ phận cán bộ, đảng viên như quan liêu, hách dịch, cậy chức, cậy
quyền tham ô, hủ hoá... Những tệ nạn đó, nếu không sớm được phát hiện, ngăn
chặn dễ trở thành nguy cơ làm tổn hại đến thanh danh của Đảng và toàn bộ sự
nghiệp cách mạng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền.

Đòi hỏi khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong quá
trình tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới, nhằm biến nước ta từ một nước
nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh, thì việc xây dựng
nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho nhân dân ta nói chung và cán bộ,
đảng viên nói riêng càng trở nên cấp thiết. Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến
Hồ Chí Minh và trở thành cơ sở quan trọng, hình thành nên tư tưởng của Người
về đạo đức cách mạng.

2.2. Thực tiễn tình hình thế giới.

Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới, Người đã nhận
thấy chủ nghĩa đế quốc một mặt thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân
dân lao động, mặt khác chúng thực hiện chính sách đầu độc về văn hoá, tuyên
truyền cho lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân, áp đặt các giá trị đạo
đức, luân lý tư sản vào các nước thuộc địa. Do đó, cuộc đấu tranh của các dân
tộc thuộc địa không chỉ nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, mà còn để bảo vệ những
giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.

Đặc biệt, từ khi Chủ nghĩa Mác - Lênin được xâm nhập vào các nước thuộc
địa đã làm cho cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc càng gắn bó mật thiết
với nhau hơn, quyền tự quyết của các dân tộc được coi trọng và đề cao. Đó là
những điều kiện thuận lợi lớn cho việc xây dựng tình đoàn kết quốc tế trong
sáng trên lập trường “hữu ái vô sản” giữa giai cấp vô sản, nhân dân lao động ở
các nước chính quốc với các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc. Trong cuộc đấu tranh đó, các quan
điểm về cái gọi “khai hoá văn minh” của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc
địa lần lượt bị vạch mặt, lên án; mục tiêu, lý tưởng cách mạng, niềm tin vào đạo
đức cộng sản không ngừng được củng cố, mở rộng trên phạm vi thế giới. Mặt
khác, sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) và cùng với
những thành tựu to lớn trong công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
quê hương đất nước của Lênin, nhất là trên lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá,
xây dựng đạo đức, lối sống mới đã tác động mạnh mẽ và chiếm được cảm tình
của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên thế giới. Thực tế đó đã được
Hồ Chí Minh nhận thức, tiếp thu một cách đúng đắn và trở thành một động lực
quan trọng để hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng.

Tuy nhiên, sự hình thành tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng bên
cạnh những điều kiện khách quan cần thiết, còn do những phẩm chất thuộc nhân
cách của Hồ Chí Minh. Với tư chất thông minh, tư duy độc lập sáng tạo và luôn
gần gũi gắn bó sâu sắc với con người, trước hết là người lao động, Hồ Chí Minh
đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tinh
hoa đạo đức của nhân loại, kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại, là
những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trực tiếp tác động đến việc hình thành nên
tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng. Chính vì vậy mà tư tưởng đạo đức
của Người không chỉ có sức hấp dẫn, thuyết phục to lớn đối với các thế hệ
người Việt Nam, mà còn cả đối với nhân dân lao động, yêu chuộng hoà bình và
tiến bộ trên thế giới.

II. NỘI DUNG LUẬN ĐIỂM

1. Giải thích luận điểm

1.1. Định nghĩa, khái niệm

“Cũng như thì có nguồn mới có nước, không nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có
đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân.” Trích Sửa
đổi lối làm việc (1947)

Câu nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong tác phẩm Sửa đổi làm
việc (1947), ký bút danh X.Y.Z. Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947) của Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết xong tháng 10 năm 1947, đây là tác phẩm quan trọng về
xây dựng Đảng, một tài liệu học tập của cán bộ để tu dưỡng tư tưởng, đạo đức,
phong thái làm việc.
Trong bài viết Đạo đức cách mạng, bút danh Trần Lực, đăng trên tạp chí Học
tập số 12 -1958, Hồ Chí Minh đã chỉ ra nội hàm của đạo đức cách mạng: “Nói
tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ
luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của
Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân. Hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn
dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác và cùng
đồng chí mình tiến bộ”

Đồng thời, trong câu nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định đạo
đức là cái gốc của người cách mạng. Người ví đạo đức cách mạng như gốc của
cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Theo Người, điều kiện tiên quyết để người
cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ là phải có đạo đức cách mạng. "Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo.” Đạo đức được coi như một yếu tố cần và rất
quan trọng để người cách mạng có thể đặt nền tảng và phát triển. Không có đạo
đức, người cách mạng không thể tồn tại và phát triển, như cây không có gốc,
suối không có nguồn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người luôn đề cao đạo đức,
đạo đức là cái cốt để phát triển, Người đã từng đề cập rất nhiều lần trong các
câu nói khác, nhưng nội hàm câu nói vẫn quy về lý tưởng đạo đức là cái gốc của
người cách mạng. Điển hình như câu nói: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng.”, hay là “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần
đạo đức cách mạng, hay là không"

Người cũng nói rõ trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947) “Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân". Đạo đức là cái gốc của người cách mạng, bởi vì nó liên
quan trực tiếp tới khả năng và quyết định hiệu quả "gánh vác" công việc của
Đảng cầm quyền.

Hơn thế nữa, Người còn đưa ra một lý do đáng thuyết phục để các nhà cách
mạng nhận ra được tại sao đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người nói:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức.”

Vậy ở đây, Người đã chỉ rõ đạo đức là nguồn cội, nền tảng, cơ sở, điều tiên
quyết, điều thiết yếu để trở thành một nhà cách mạng. Nhà cách mạng có đạo
đức mới có thể vì dân mà hi sinh, nhân dân nhìn nhận được người cách mạng có
đạo đức thì mới thuận lòng, ủng hộ, tôn trọng. Không thể không có đạo đức mà
đội lốt làm “cộng sản”, làm cách mạng.

1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân

Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất bao trùm quan trọng nhất và chi
phối các phẩm chất khác. Phẩm chất đạo đức “Trung với nước, hiếu với dân” đã
tạo nên một cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Người nói: “Đạo đức cũ
như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người
hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời”.

Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế
thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế
của truyền thống đó. Trong Thư gửi thanh niên(1965), Người viết: “Phải luôn
luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.””

1.2.2. Cần kiệm liêm chính chí công vô tư


Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi
người.

Cần, kiệm, chính, chí công vô tư là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền
thống dân tộc, được Hồ CHí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và
đưa những nội dung mới đáp ứng nhu cầu của cách mạng. Để hiểu rõ hơn về
quan điểm này về chuẩn mực đạo đức cách mạng, chúng ta cùng tìm hiểu sâu
xem thế nào là “Cần,kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.”

Cần tức là lao động siêng năng , cần cù, có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Kiệm tức là tiết
kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản
thân mình, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. Liêm
là trong sạch, không tham lam, là liêm khiết, luôn luôn tôn trọng giữ gìn của
công, của dân, liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài.Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Chính là thẳng thắn, đúng đắn, biết
điều gì không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi
ích chung, không vì tư lợi, là hết sức công bằng, không chút thiên tư, thiên bị,
công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết.

1.2.3. Thương yêu con người, sống có tình nghĩa

Thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc,rộng lớn, trước hết dành
cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp
bức, bị bóc lột phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, không có tình yêu
thương như vậy thì không thể nói đến cách mạng cũng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư
tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh. Tình yêu thương con người
theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân.

1.2.4. Tinh thần quốc tế trong sáng

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo
đức cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia dân tộc.

1.3. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng

1.3.1. Nói đi đôi với làm

Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được
Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan
trọng bậc nhất trong xây dựng nền đạo đức mới . Nguyên tắc cơ bản này là sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành phương pháp luận trong
cuộc sống và nền tảng triết lý sống hết sức bình dị và vô cùng sâu sắc của
Người.

Trong tác phẩm Đường cách mệnh khi đề cập tư cách một người cách mệnh
Hồ Chí Minh yêu cầu: “Nói thì phải làm.” Hồ Chí Minh là tấm gương trong
sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm. nói đi đôi với làm đối lập hoàn
toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một nẻo nói nhiều làm ít thậm chí
nói mà không làm.

Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp truyền thống văn hóa phương Đông .
Để đạo đức cách mạng thấm sâu bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền
tảng tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ Đảng viên trước hết
mình phải làm gương gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác có làm
gương cho dân làm gương về cả ba mặt tinh thần vật chất và văn hóa. Theo Hồ
Chí Minh hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo
đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”

1.3.2. Xây đi đôi với chống

Hồ Chí Minh cho rằng nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền
đạo đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng; xây là xây dựng các giá trị các chuẩn mực đạo đức mới; Chống lại chống
các biểu hiện các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.

Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo
đức lành mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm
đạo đức của mình, như Hồ Chí Minh đã nói cảm nhận thấy sâu sắc sự trau dồi
đạo đức cách mạng là việc làm “sung sướng và vẻ vang nhất trên đời”, tiếp nhận
sự giáo dục đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được nhưng sự tự giáo
dục, tự trau dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn. Xây dựng đạo đức
mới đạo đức cách mạng phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm
chất những tiêu chuẩn đạo đức mới việc giáo dục đạo đức mới phải được tiến
hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành
nghề, giai cấp tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau, phải khơi dậy được
ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.

1.3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời

Theo Hồ Chí Minh tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu
dưỡng đạo đức của mỗi người. Hồ Chí Minh Hằng quan tâm phải làm thế nào
để mọi người tự nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc
phải kiên trì thường xuyên liên tục.

Đạo đức không phải là cái gì đó có tính “nhất thành bất biến” mà nó được
hình thành, phát triển trong môi trường giáo dục, do sự rèn luyện phấn đấu và tu
dưỡng của bản thân mỗi người từ thực tiễn. Người tổng kết sâu sắc: “đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng vàng càng
luyện càng trong.”

2. Lý do hình thành luận điểm

Trong nước, cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 02/9/1945
tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Dân tộc Việt Nam
được tự do, được làm chủ vận mệnh đất nước. Tuy nhiên, cũng ngay sau đó đất
nước ta lại phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thử thách từ các thế lực đế quốc
muốn xâu xé, bóc lột mọi nguồn lực của đất nước. Là tổ chức lãnh đạo, Đảng ta
phải đối đầu với nạn nghèo nàn, lạc hậu, giặc đói, giặc dốt...; cộng với sự non
trẻ của chính quyền mới đã đặt cách mạng nước ta trong tình thế hiểm nghèo
“ngàn cân treo sợi tóc”.

Từ thực tiễn đó, đòi hỏi vai trò lãnh đạo của Đảng ta là vô cùng cấp thiết. Từ
đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, giữ vị trí là người lãnh đạo đứng đầu, Bác Hồ
sớm nhận ra các khiếm khuyết trong tổ chức, bộ máy cũng như các “tàn dư” của
chế phong kiến trong mỗi cán bộ, đảng viên ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
cả đời luôn hướng đến những tư tưởng vĩ đại, tính nhân văn cao cả, vậy nên tư
duy bị ảnh hưởng bởi tàn dư của chế độ phong kiến không thể nào cùng Người
hoàn thành được sứ mệnh thiêng liêng : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” .

Và cũng chính từ những ước muốn cao cả đó, Người muốn xây dựng chính
quyền cách mạng phải mang những phẩm chất tốt đẹp; cán bộ Đảng viên phải
có tư cách, đạo đức cách mạng, đó là tư tưởng, tình cảm tất cả vì nhân dân. Trăn
trở với công tác xây dựng Đảng, tháng 10/1947 tại Việt Bắc, với bút danh XYZ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” nhằm nâng cao
nhận thức lý luận, tư tưởng tình cảm, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong
của người cán bộ cách mạng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng.

Luận điểm được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra nhằm trang bị cho đồng đội
của mình về tư tưởng đạo đức làm cách mạng, để cán bộ cách mạng sửa chữa
những thói hư tật xấu thường có trong mỗi con người để rèn luyện và nêu cao
đạo đức cách mạng, đạo đức cách mạng của đảng cầm quyền. Lấy đạo đức làm
cái gốc của người cách mạng.

3. Dẫn chứng chứng minh

3.1 Câu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng có thể khái quát thành bốn
nội dung cơ bản là: Trung với nước, hiếu với dân; Yêu thương con người; Cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Tựu trung lại:
“Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng.
Đó là điều chủ chốt nhất. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên
trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra
sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”

Nói đi đôi với làm, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng ngời
sáng về đạo đức cách mạng, tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn đời cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân.

Với hai bàn tay trắng và lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, 5-6-1911, chàng trai
xứ Nghệ Nguyễn Tất Thành 21 tuổi đã vượt đại dương với nghề phụ bếp trên
tàu để đi khắp năm châu bốn biển, tự kiếm sống, học tập với hoài bão tìm ra con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau 30 năm bôn ba đặt chân đến gần 30
nước, ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc trực tiếp cùng Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, thể hiện rõ tinh thần “trung với Đảng, hiếu với dân”, Lòng
trung, hiếu ở Người là nhất quán, trước sau như một.

Bác cũng được xem là hiện thân của đức tính “cần, kiệm, liêm, chính”.
Chúng ta đều biết Bác làm việc bao nhiêu tiếng trong một ngày. Ngay cả những
ngày kháng chiến gian khổ, Bác làm việc rất khuya. Bác tự tay đánh máy tài
liệu. Bác đọc sách, viết sách, viết thư gửi cho các cháu thiếu nhi, các cụ phụ lão
đến thư động viên chiến sĩ ngoài mặt trận, thư thăm hỏi đồng bào và cả bạn bè
quốc tế, Bác làm việc như vậy là tấm gương về sự cần mẫn, chăm chỉ. Đời sống
của Bác rất thanh cao và giản dị. Ngay chuyện Bác mời chúng ta ăn cơm, Bác
dặn chúng ta ăn tự nhiên, ăn để làm việc và chiến đấu. Nhưng ăn món nào thì
hết món đó, đừng chọc đũa vào món khác mà mình không ăn. Là Chủ tịch nước
nhưng Bác vẫn mặc áo vá như người dân thường. Đôi tất Bác đi bị thủng ở ngón
chân cái, Bác bảo cán bộ khâu vào để Bác dùng 15 năm cuối đời, Bác sống ở
Phủ Chủ tịch, khi đó kinh tế còn khó khăn, đời sống nhân dân còn thiếu thốn.
Bác yêu cầu: Chiều thứ Bảy hằng tuần cho Bác ăn cháo để bớt phần gạo cho
dân và đề nghị với nhà bếp, cán bộ, nhân dân ăn cơm độn ngô, khoai, sắn bao
nhiêu phần trăm thì độn cho Bác bấy nhiêu phần trăm. Bữa ăn của Bác thanh
đạm như bữa ăn của bao gia đình người dân: Bát canh, quả cà, vài lát thịt kho.
Khi ăn cơm, Bác không bao giờ để rơi một hạt cơm, vì Người biết một hạt cơm
là một giọt mồ hôi của người dân. Cố Thủ tướng Phạm văn Đồng nói: Ăn cơm
với Cụ hàng trăm lần, lần nào cũng thấy Cụ tém vén không để rơi một hạt nào.
Bởi Cụ quý và tiết kiệm sức lao động của người làm ra lúa gạo.

Về thăm các địa phương, Người thường không báo trước. Bác dặn đồng chí
giúp việc chuẩn bị cơm nắm muối vừng mang theo để tránh đón rước linh đình,
phiền hà, tốn kém thời giờ và tiền bạc của nhân dân. Chúng ta luôn thấy hình
ảnh Bác quần nâu, áo vải đến với nông dân ngoài đồng ruộng, đến với công
nhân trong xưởng máy, đến với các cháu học sinh, sinh viên và trò chuyện với
các trí thức lớn, chính khách quốc tế Bác cũng mặc quần áo kaki giản dị. Với ai
Bác cũng toát lên vẻ giản dị, gần gũi, yêu thương đồng bào. Giữa bề bộn công
việc của đất nước, Bác không quên các em nhỏ, trong đó có những em bé bán
báo, đánh giày, không quên các cụ già… Người còn gửi thiệp chúc Tết, thư
mừng sinh nhật bè bạn gần xa; chia vui với niềm vui của đồng bào, đồng chí…
Niềm vui của Người chỉ trọn vẹn khi đất nước được độc lập, tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Thật hiếm có vị lãnh tụ nào lại
có tình thương mênh mông, dành cho bao số phận, mọi kiếp người như Bác.

Không chỉ luôn quan tâm đến con dân đất Việt, là một nhà yêu nước nhiệt
thành, ở Bác còn là một chiến sĩ quốc tế vĩ đại với tinh thần quốc tế trong sáng.

3.2. Câu chuyện về những tấm gương cách mạng

Một tấm gương sáng ngời, mẫu mực về phẩm chất đạo đức, suốt đời hy sinh,
phấn đấu quên mình cho đất nước và nhân dân: Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là tài sản vô giá trong giáo dục truyền thống
cách mạng, bồi dưỡng lập trường chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối
sống cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Kế thừa truyền thống yêu nước của gia đình, quê hương và sớm được tiếp
thu tư tưởng cách mạng vô sản, Võ Nguyên Giáp đã giác ngộ và tham gia hoạt
động cách mạng khi mới 14 tuổi (1925). Mười lăm năm sau, Võ Nguyên Giáp
được kết nạp Đảng khởi đầu quá trình phát huy tài năng, đức độ, cống hiến trọn
đời cho sự nghiệp cách mạng.

Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp có được sự yêu mến, kính trọng
của các tướng lĩnh đến những người lính bình thường trong toàn quân bằng tên
gọi gần gũi, thân thương “Anh Cả”, “Anh Văn”; nhân dân vinh danh là “Đại
tướng của nhân dân”; phía bên kia chiến tuyến dành sự tôn trọng, nể phục, gọi
là “Vị tướng huyền thoại”... Điều đó có được bởi trong Đại tướng đã hội tụ đầy
đủ các phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; các đức tính
của người làm tướng Trí, Dũng, Tín, Nhân, Liêm, Trung theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và xem đó là phương châm sống, phấn đấu, rèn luyện, tu
dưỡng suốt đời.

Khi đảm nhiệm Tư lệnh các chiến dịch, Đại tướng luôn sâu sát, cùng cán bộ,
chiến sĩ và nhân dân nghiên cứu, trinh sát nắm chắc tình hình chiến trường để
tìm ra phương án tác chiến tối ưu nhất. Trước, trong và sau mỗi trận đánh, Đại
tướng đều đến tận chiến hào để thăm hỏi, động viên, chia sẻ với cán bộ, chiến sĩ
và nhân dân, nhất là các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ; căn dặn bộ đội
quan tâm, giúp đỡ chính quyền, nhân dân địa phương ổn định tình hình, khắc
phục khó khăn, thực hiện tốt công tác chính sách hậu phương quân đội, đẩy
mạnh tăng gia, sản xuất, nâng cao đời sống đồng bào.

Đại tướng luôn đề cao công lao, sự hy sinh to lớn của nhân dân, quân đội,
những người trực tiếp chiến đấu trên chiến trường và chỉ nhận mình là “hạt
nước giữa đại dương” bình đẳng với mọi người lính. Đại tướng từng nói: “Vị
tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng như giọt nước trong biển cả. Chỉ có
nhân dân Việt Nam là người đánh thắng giặc Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng
thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng với những người lính của mình. Tôi
hoàn thành nhiệm vụ cũng như những người lính hoàn thành nhiệm vụ. Trên
bình diện nhiệm vụ thì tôi cũng là người lính bình đẳng, cho nên tôi rất tôn
trọng người lính”

Với người bên kia chiến tuyến, Đại tướng, Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo toàn
quân, toàn dân thực hiện nghiêm chính sách nhân đạo, khoan hồng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta về tù, hàng binh; qua đó, giác ngộ cho họ về cuộc
chiến tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam và bản chất phản động của chủ
nghĩa đế quốc, thực dân. Dù là người chiến bại, nhưng từ tướng lĩnh, sĩ quan
đến binh sĩ luôn dành cho Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp sự tôn
trọng, nể phục, như lời của Tướng Pháp De Castries: “Tôi hân hạnh được làm
đối thủ của Tướng Giáp, để được làm kẻ chiến bại trực tiếp của một người tài
giỏi như Tướng Giáp; tôi ngưỡng mộ và kính phục ông”.

Danh tiếng, uy tín, phẩm chất đạo đức, nhân cách của Đại tướng, Tổng Tư
lệnh Võ Nguyên Giáp không chỉ giới hạn ở Việt Nam mà đã trở thành biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, chống áp bức, bóc lột, bất
công ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, châu Mỹ - La tinh; được thế giới
vinh danh và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình ngưỡng mộ, cảm phục.

3.3. Những tấm gương đạo đức trong thời bình

Không chỉ bắt gặp những tấm gương đạo đức cách mạng tiêu biểu ở những
câu chuyện xa xưa. Mà ở đời thường ta có thể bắt gặp nhiều những câu chuyện,
những tấm gương đạo đức cách mạng luôn học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh.

Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh Covid, những chú bộ đội, những y bác sĩ,
tình nguyện viên chấp nhận xa ra đình hay phải ngủ tạm nơi rừng núi, với bữa
ăn là gói mì tôm, lương khô để hết mình vì người dân. Nếu không có tinh thần
Trung với Đảng, hiếu với dân và lòng yêu thương con người của họ thì có lẽ
Việt Nam ta sẽ không ổn định đến ngày hôm nay.

III. GIÁ TRỊ, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM

1. Giá trị

Nhìn lại quá khứ, suy ngẫm về hiện tại và hướng tới tương lai, chúng ta càng
hiểu rõ rằng, tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nói chung, quan
điểm của Người về "đạo đức là cái gốc của người cách mạng nói riêng" có ý
nghĩa sâu sắc cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác giáo dục, bồi
dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, cũng như đối với công tác xây
dựng Đảng trong điều kiện lịch sử mới: mở cửa, hội nhập, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

1.1. Giá trị lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với nội dung sâu sắc, toàn
diện và mới mẻ, bao quát các mặt hoạt động, các mối quan hệ,có ý nghĩa rất
quan trọng đối với sự nghiệp, tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng, đạo đức của con
người Việt Nam. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “Đạo đức là cái gốc của người
cách mạng", coi đạo đức là vấn đề sống còn của Đảng, , xây dựng đạo đức là
mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh đã có những đóng góp rất đặc sắc, không chỉ bổ sung mà còn
hoàn thiện tư tưởng đạo đức học Mácxít. Do nhiều nguyên nhân, C. Mác, Ph.
ăngghen và V.I. Lênin nói nhiều về đạo đức, song chưa có điều kiện bàn nhiều
về vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã phát
triển, làm phong phú thêm và hoàn thiện tư tưởng đạo đức học mácxít về vai trò
và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo đức cơ bản và những
nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với Việt Nam. Nhờ việc
kết hợp đạo đức của giai cấp công nhân với đạo đức truyền thống tốt đẹp của
tinh hoa nhân loại, đã tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam.

1.2. Giá trị thực tiễn

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, luận điểm “Đạo đức là gốc của người cách
mạng” là định hướng cơ bản và thực tiễn của cuộc vận động, là nội dung xuyên
suốt và tiêu chí hàng đầu trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.

Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa có tâm, có tầm, vừa có đức, có tài,
phát huy tốt vai trò "đầu tàu" gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cấp bách
hiện nay. Điều đó có ý nghĩa quyết định đối với việc giữ vững định hướng chính
trị, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, sự trong sạch, vững mạnh của từng tổ
chức Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Trong công
tác xây dựng Đảng, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, rất cơ bản và cấp bách.

Quán triệt và thực hiện lời dạy của Người, Đảng ta luôn đặc biệt chú trọng
bồi dưỡng tư tưởng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Chú trọng trẻ hóa và nâng
cao trình độ của Đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến
thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo”.

Thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cách
mạng, Đảng ta đã phát động cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh". Kết quả từ tổng kết đã cho thấy nhiều gương sáng của
cán bộ, đảng viên trong rèn luyện, xây dựng đạo đức cách mạng. Họ là những
đại diện tiêu biểu của Đảng trước quần chúng về sự cống hiến, về niềm tin và
lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc.

2. Ý nghĩa

Thể hiện những quan điểm sáng tạo, tư tưởng về một nền đạo đức mới - đạo
đức cách mạng, đồng thời bản thân Người đã nêu một tấm gương sáng tuyệt vời
của nền đạo đức đó. Đạo đức của Hồ Chí Minh là đạo đức của bậc “đại nhân,
đại trí đại dũng” của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng. “Hồ Chí Minh là tấm
gương sáng, là hiện thân của đạo đức cách mạng Việt Nam, mãi mãi là ngọn
đèn pha chiếu rọi con đường rèn luyện phấn đấu để trở nên “tốt” hơn, đạt đến
“chân thiện mỹ” của con người Việt Nam ngày nay và mai sau”.

Người đã nêu ra những nhiệm vụ cơ bản, chủ chốt và lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội ngày nay, phải bắt nguồn từ xây dựng đạo đức cách mạng, phải
áp dụng nguyên tắc xây đi đôi với chống, nói đi đôi với làm, tu dưỡng suốt đời.
IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG
THỜI KỲ HIỆN HAY

4.1. Liên hệ tới chính sách, đường lối Đảng hiện nay

Đảng ta luôn đặc biệt chú trọng xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Quán triệt và thực hiện lời dạy của Người .Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định: “Chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình
độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí
tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo”

Hồ Chí Minh dạy rằng, căn cứ vào nhiệm vụ của từng giai đoạn lịch sử, thời
kỳ cách mạng, Đảng cần phải có chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ của Đảng, sao cho họ có đủ phẩm chất và năng lực, đức và tài để đủ sức
gánh vác nhiệm vụ cách mạng tức là đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải
vừa "hồng", vừa "chuyên". Vì vậy, trong sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, nội dung, yêu cầu về phẩm chất đạo đức của
người cán bộ, đảng viên vừa mang những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc, của cách mạng, vừa đòi hỏi phải có sự phát triển mới.

4.2. Liên hệ tới việc thực hiện của các cán bộ, Đảng viên

Tuy nhiên, chủ trương là một chuyện và việc thực hiện nó tốt hay không lại
là một chuyện khác. Có thể nhận thấy chủ trương của Đảng ta là đúng đắn và
không phủ nhận rằng đã có rất nhiều các Đảng viên đã làm đúng theo chủ
trương đó, thực hiện rất tốt, luôn lấy Đạo đức là gốc của CM. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, ta cũng thấy không ít những cá nhân làm trái đi với tư tưởng đó. Đây
cũng chính là thách thức lớn của Đảng ta khi chúng ta đang trong thời kì “ Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - Khi mà chủ nghĩa cá nhân sẽ rất dễ
dàng nảy sinh trong bất cứ ai kể cả Đảng viên và gây ảnh hưởng xấu nếu không
có những biện pháp kìm hãm kịp thời và đúng đắn (VD: Tham nhũng, tham ô).
Từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa có một thực tế là, hệ thống thang giá trị chuẩn mực xã hội được hình
thành trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa đã và đang biến đổi: từ chỗ coi trọng đạo lý, đề cao nghĩa tình, đến
chỗ đề cao các giá trị vật chất, sùng bái đồng tiền. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa
thực dụng có điều kiện phát triển, mục tiêu làm giàu và coi trọng lợi ích vật chất
đã và đang trở thành cái đích hướng tới của không ít người. Do vậy, đối với cán
bộ, đảng viên, nhất là đối với một số người có chức, có quyền nếu thiếu tu
dưỡng đạo đức cách mạng, họ rất dễ bị cám dỗ và sa ngã bởi lợi ích vật chất
"che mắt", việc lợi dụng chức quyền, thu vén cá nhân, tham nhũng, làm giàu bất
chính dẫn đến suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, biến chất về phẩm chất
chính trị là hệ quả tất yếu.

Đây không phải là một nhận xét khách quan, phiến diện mà chính Đảng ta
cũng nhận thức được vấn đề này: Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nhấn
mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn
biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm
trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước. Nhiều cán
bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương
mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”.

4.3. Hậu quả của những mặt tiêu cực trong vấn đề xây dựng
Đảng

Mỗi người cần thấy rằng, những biểu hiện tiêu cực đó đã và đang cản trở
bước tiến của cách mạng và là một trong những thử thách nghiêm trọng đối với
sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là hậu quả của sự mâu
thuẫn giữa mục đích và cách thực hiện.
Một thực tế đáng buồn là khi nhắc về Đảng, về nhà nước thì sẽ có nhiều
người dân tỏ ra ngờ vực với quan chức và gắn họ với những từ “ Tham nhũng”
hay là “hạch sách”. Một khi người dân đã không còn tin tưởng chính quyền thì
đó là một điều rất đáng buồn cho một quốc gia.

4.4. Đề xuất những phương hướng giải quyết

Một là, giữ vững và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, đạo đức mới, đạo đức của người cách mạng

Hai là, cần nghiên cứu, xác định bổ sung, hoàn chỉnh định hướng chuẩn
mực, thang giá trị đạo đức người cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường; trước tác động của cơ chế thị
trường, sự biến đổi thang giá trị đạo đức và các chuẩn giá trị đạo đức của thời
mở cửa, hội nhập đang diễn ra nhanh chóng trong xã hội

Ba là, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng gắn với nâng cao
tính tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của từng cán bộ, đảng viên

Cuối cùng và theo tôi cũng là quan trong nhất, hiệu quả nhất, đó là thằng tay
trừng trị, thanh trừng và đưa ra các án phạt thích hợp cho các cán bộ, Đảng viên
có những sai phạm trong đạo đức, đặc biệt là các lãnh đạo, người mà chỉ cần
một quyết định sai của họ cũng ảnh hưởng tới biết bao người

Kết lại là, mặc dù Đảng ta có đường lối, chính sách đúng về đạo đức, nhận
thấy những mặt trái và luôn đề ra các cách giải quyết. Nhưng thực sự, chúng ta
cần một phương hướng giải quyết thật sự mãnh liệt và bùng nổ, để có được một
kết quả thực sự, chứ không phải là một sự tạp nham và mẫu thuẫn.

V. KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người
viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của
mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay
kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối
hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người
vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức
là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng.

Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng
những phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản
của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách
mạng.

Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc
Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .

Không chỉ là Đảng viên, bất cứ ai cũng nên lấy đạo đức làm gốc rễ cho bản
thân mình. Những người sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng
vậy, chúng ta làm kinh tế, nhưng không phải vì những lợi ích kinh tế mà sẵn
sàng đánh đổi bằng mọi thứ, để rồi đánh mất đi đạo đức của chính mình. Cũng
như trong một bài thơ Bác đã từng viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức thì không thành người.”

Có thể nói, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự,
soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền
đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

You might also like