You are on page 1of 37

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.

HCM
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ SỰ VẬN


DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Môn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Lớp: LLCT120314_22_1_19

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đỗ Thị Ngọc Lệ

SVTH:

1. Phan Thị Thanh Tuyền_21158061


2. Dương Thị Hồng Thắm_21158215
3. Trần Thị Vân Hương_21158039
4. Lê Ngọc Thảo Nguyên_21158049
5. Nguyễn Đình Hoàng_21158191

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

................................................................................................................................

Điểm: ……………………………..

KÝ TÊN
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1


1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 2
5. Kết cấu tiểu luận.......................................................................................... 2
NỘI DUNG ........................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ............ 3
1.1 Cơ sở lý luận ............................................................................................... 3
1.1.1. Những giá trị truyền thống tốt đẹp trong tinh hoa văn hoá dân tộc .... 3
1.1.2. Tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây .................................. 3
1.1.3. Lý luận Mác - Lênin về văn hoá ........................................................... 4
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 5
1.2.1. Thực tiễn thế giới .................................................................................. 5
1.2.2. Thực tiễn Việt Nam ............................................................................... 5
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ........................... 7
2.1 Khái niệm về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ................................ 7
2.1.1 Khái niệm .............................................................................................. 7
2.1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới ................................... 7
2.2. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa ....................... 8
2.2.1. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hóa ............................................. 8
2.2.2. Quan điểm về chức năng của văn hóa................................................ 9
2.2.3. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa ......................................... 10
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa .......... 11
2.3.1. Về văn hóa- giáo dục ......................................................................... 12
2.3.2. Về văn hóa- văn nghệ ........................................................................ 14
2.3.3. Về văn hóa- đời sống ......................................................................... 17
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ......................................... 21
3.1. Thực trạng nền văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam theo tư tưởng
Hồ Chí Minh ................................................................................................... 21
3.2. Thành tựu và hạn chế trong vận dụng nền văn hóa của Đảng cộng
sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh .................................................. 23
3.3 Một số giải pháp trong vận dụng nền văn hoá của Đảng CSVN theo
tư tưởng HCM ................................................................................................ 27
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 31
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng những di sản về tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng văn hóa
là một thứ có thể nói rằng vượt xa những gì mà chúng ta có thể cảm nhận được.
Nó mang những giá trị bền vững và phong phú sâu sắc nhất. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là sự kết tinh cũng như cô đọng tất cả những gì tinh túy nhất về
văn hóa của nhân dân Việt Nam, phản ánh cũng như định hướng các hoạt động
văn hóa của nhân dân ta trong quá trình giành độc lập dân tộc trong bao nhiêu
năm bị xâm lược cũng như chịu ách thống trị đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Những tư tưởng quý giá của Người chính là hiện thân của ý chí cũng như khát
vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam, là sự khẳng định một màu bản sắc riêng
biệt đồng thời nâng cao giá trị của dân tộc Việt Nam ta.

Chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu năm xâm lược, hành trình dựng
nước và giữ nước hết sức gian khổ và đầy mất mát. Nó không chỉ là giành độc
lập cho đất nước mà chính là giành độc lập cho bản thân mỗi người đang mang
trong mình dòng máu dân tộc Việt Nam. Trong đó, quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, xác định văn hóa là một mặt trận quan trọng, là
nền tảng của tinh thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế
- xã hội.

Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, bùng nổ thông tin và giao lưu văn
hóa diễn ra cực kỳ mạnh mẽ, chúng ta hiện đang sinh sống trong một thời kỳ có
thể nói là thời của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Nó đã mang đến những biến
đổi trong cuộc sống của chúng ta một sự thay đổi rất lớn trong tất cả mọi mặt
trong cuộc sống, trở thành động lực không thể thiếu với mỗi quốc gia. Nhưng đi
cùng với sự thuận lợi thì chắc chắn sẽ xuất hiện những điều tiêu cực về khủng
khoảng xã hội. Chính vì vậy, lúc này những tư tưởng về văn hóa trong tư tưởng
Hồ Chí Minh lại trở nên có ý nghĩa thời sự quan trọng một cách đáng kể.

Vì vậy, nhóm em đã lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa và sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam ’’.

1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề về đượng lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam của Đảng ta.

Làm sáng tỏ nhận thức về một số nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa giúp mọi người thấy được tầm quan trọng trong việc xây dựng nền văn
hóa hiện nay.

3. Đối tượng nghiên cứu


Tư tương Hồ Chí Minh về văn hóa

Đường lối xây dựng nền văn hóa của Đảng

4. Phương pháp nghiên cứu


Tìm hiểu, khái quát đề tài.

Thu thập những tài liệu về tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh

5. Kết cấu tiểu luận


Mở đầu :

Nội dung : 3 chương

Chương 1 : cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

Chương 2 : Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

Chương 3 : Sự vận dụng nền văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh vào
Đảng cộng sản Việt Nam
Kết luận
Tài liệu tham khảo

2
NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1. Những giá trị truyền thống tốt đẹp trong tinh hoa văn hoá dân tộc

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành- Hồ Chí Minh đã
tiếp thu vốn văn hoá gia đình, quê hương, dân tộc. Mỗi vùng có sắc thái văn hoá
khác nhau, nhưng điểm tương đồng là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường;
lạc quan, yêu đời và truyền thống nhân ái, nhân văn Việt Nam; tất cả đều sáng
ngời truyền thống yêu nước, đoàn kết; xu hướng cố kết cộng đồng dân tộc. Từ
vùng quê làng Chùa, làng Sen, mở rộng ra là quê hương Xứ Nghệ, qua kinh đô
Huế, đến Phan Thiết, Sài Gòn…Hồ Chí Minh có được những yếu tố văn hoá có
tính chất cội nguồn đó cùng với quá trình tiếp nhận và nâng cao các giá trị văn
hoá phương Đông. Nói cách khác, Người đã dân tộc hoá những tinh hoa văn hoá
được tiếp nhận từ bên ngoài và không bị hoà lẫn trong bất cứ một nền văn hoá
nào khác.

1.1.2. Tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây

Ở Ấn Độ văn hóa tiêu biểu là Phật giáo, ngoài mặt tiêu cực còn mang
những nội dung nhân đạo lớn như: Đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn... Khổng
giáo tức là đề cao văn hoá, với những tư tưởng coi trọng đạo đức, luân lý, người
hiền tài và kẻ sĩ... Trong môi trường văn hóa gia đình, quê hương Người sống,
Hồ Chí Minh không những nắm được những quan điểm cơ bản của Phật giáo,
Nho giáo mà Người còn am hiểu Lão giáo với những yếu tố văn hoá sống giản
dị, thanh bạch, hòa trộn với thiên nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí
Minh thường nhắc tới các lời nói của Khổng Tử, của Đức phật Thích Ca. Và ở
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về một cuộc sống thanh bạch, trong sáng,
giản dị, khiêm tốn, luôn chăm lo cho lợi ích của nhân dân, của cả cộng đồng dân
tộc.

3
Bên canh đó, ở văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh sớm có điều kiện tiếp
xúc với nền văn hoá phương Tây khi người còn học ở Huế. Người cũng nhấn
mạnh đến “quyền con người” “quyền tự do và bình đẳng” trong Tuyên ngôn độc
lập của nước Mỹ (1776). Người đã thấy sự thật đằng sau khẩu hiệu "Tự do -
Bình đẳng - Bác ái” là sự áp bức, bóc lột, đàn áp nhân dân lao động, phản bội lại
lý tưởng cách mạng, tức là phản văn hoá. Đến với phương Tây, Người được tiếp
xúc trực tiếp các tác phẩm của những nhà tư tưởng khai sáng: Rútxô,
Môngtétxkiơ... tư tưởng dân chủ của họ đã có ảnh hưởng đến tư tưởng của
Người.

Dù là văn hoá phương Đông hay phương Tây, Hồ Chí Minh đều chọn lọc
một cách kỹ lưỡng với một thái độ khách quan, khoa học, trân trọng với một tầm
nhìn văn hoá rộng mở.

1.1.3. Lý luận Mác - Lênin về văn hoá

Bước khởi đầu quan trọng và cần thiết để Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa
Mác - Lênin, đỉnh cao của nền văn hoá nhân loại đó là kế thừa những giá trị truyền
thống tốt đẹp trong văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Đông và
phương Tây.

Hồ Chí Minh tiếp nhận văn hoá mới và ra sức phát huy sức mạnh của ánh
sáng văn hoá ấy cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Trong tác phẩm “ Bàn về chế độ hợp tác”, Lênin đã viết: "Sau khi người
ta đã hoàn thành cuộc cách mạng chính trị lớn nhất chưa từng thấy trên thế giới,
thì những nhiệm vụ khác lại đặt ra cho chúng ta, những nhiệm vụ về văn hoá”
và “nâng cao trình độ văn hoá là một trong những nhiệm vụ bức thiết nhất” 1. Về
văn hoá, cách mạng văn hoá Người đã nghiên cứu tư tưởng của Lênin trong
nhiều tác phẩm quan trọng và cả qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền
văn hoá mới ở nước Nga. Đó là nền văn hoá xã hội chủ nghĩa thay thế nền văn
hoá tư bản chủ nghĩa. Cách mạng văn hoá theo Lênin gồm: Việc hình thành đội
1
Lênin, toàn tập, tập 44, Nxb Matxcowva 1978, tr211-212

4
ngũ tri thức mới xã hội chủ nghĩa, những chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, kỹ
thuật, phát triển văn hoá nghệ thuật xây dựng; pháp triển nền giáo dục phổ thông
và hình thành con người mới, đạo đức mới và hệ tư tưởng mới.

1.2. Cơ sở thực tiễn


1.2.1. Thực tiễn thế giới

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đặt chân lên khắp
các châu lục, hoà mình vào phong trào công nhân các nước tư bản phát triển
nhất thế giới, Hồ Chí Minh mới hiểu ra nhiều điều về bản chất của chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa đề quốc cũng như bản chất giai cấp công nhân, những người
cùng khổ trên thế giới và hiểu rõ sự thật ẩn dấu đằng sau cái gọi là "Khai hoá
văn minh" mà giai cấp tư sản phương Tây đã rêu rao để khai hoá các dân tộc mà
chúng cho là dã man.

Người viết sách, báo, tổ chức nhiều hội liện hiệp, tham gia nhiều hoạt động
văn hoá đều nhằm giác ngộ cách mạng cho nhân dân các dân tộc trong đó có
đồng bào của mình. Không chỉ hoà mình vào thực tiễn đấu tranh của phong trào
công nhân và các dân tộc bị áp bức mà Hồ Chí Minh còn hoà mình vào thế giới
văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng của các dân tộc, nhờ đó Người hiểu biết
nhiều sự kiện văn hoá và các phương pháp đấu tranh bằng văn hoá. Người muốn
đem ánh sáng văn hoá đến cho mọi người cùng khổ để soi đường.

1.2.2. Thực tiễn Việt Nam


Để dẫn tới sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, trước khi thực
dân Pháp xâm lược, Việt Nam vốn là một quốc gia phong kiến độc lập, kinh tế
chậm phát triển, văn hoá lạc hậu. Khi thực dân Pháp xâm lược làm cho đời sống
vật chất của nhân dân ta vốn đã đói nghèo càng đói nghèo, đời sống tinh thần
vốn lạc hậu ngày càng tăm tối, dốt nát với thủ đoạn "khai hoá văn minh” chúng
đã thực hiện những chính sách cực kỳ phi văn hoá như: Chính sách ngu dân,
chia để trị, đầu độc nhân dân ta, nhất là thanh niên bằng rượu và thuốc
phiện... Năm 1920 tại Đại hội XVIII Đảng xã hội Pháp, Người đã nói: "Chúng tôi

5
không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu
độc một cách thê thảm... Nhà tù nhiều hơn trường học... Chúng tôi phải sống trong
cảnh ngu dốt và tăm tối, và chúng tôi không có quyền tự do học tập”2. Đó là cơ sở
để Hồ Chí Minh vạch ra một đường lối mới.
Nhờ nắm vững phát triển văn hoá theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh đã có được cách xem xét đúng đắn và kế thừa những giá trị
truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc, tinh hoá văn hoá nhân loại và hình
thành nên tư tưởng văn hoá của mình.

2
Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, trang 22- 23

6
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

2.1 Khái niệm về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh

2.2 2.1.1 Khái niệm

Tháng 8-1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá
là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn”3. Quan niệm của Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguồn gốc động lực và
cấu trúc của văn hoá.
2.1.2. Quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới
Cùng với định nghĩa về văn hoá, Hồ Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn
định hướng cho việc xây dựng nền văn hoá dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế.4
Như vậy, ngay từ sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến văn hóa, đã thấy rõ
vai trò, vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội. Vì thế, ngay khi giành được độc
lập, Hồ Chí Minh đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở

3
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị- Sự thật, Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới, trang 234 – 235.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, trang 431.

7
Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm
lý con người, đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.5

2.2. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa
2.2.1. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hóa

Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đưa ra quan
điểm: “Văn hóa quan trọng ngang với kinh tế, chính trị, xã hội.”.Trong quan hệ
với chính trị, xã hội: Hồ Chí Minh cho rằng, chính trị, xã hội có được giải phóng
thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa
phát triển. Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển
văn hóa. Văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.
Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng phát triển kinh tế.6

Hồ Chí Minh từng nói đến “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, “phải
đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”, phải
“xúc tiến công tác văn hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công
cuộc kháng chiến kiến quốc”.

Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn
nhau. Với nhận thức như vậy, bằng sự nỗ lực hoạt động không mệt mỏi trên mặt
trận văn hoá thông qua sách, báo, văn thơ... Hồ Chí Minh làm cho các dân tộc
hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường cách
mạng chân chính cần phải thực hiện. Trong Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đồng chí Võ Chí Công nói: “Văn hoá là sợi dây có khả năng nối liền nhân
dân các nước và các dân tộc… Sự hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng
nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn hoá, nơi tập trung những biểu hiện
rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con người”.

5
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị- Sự thật, Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới, trang 235 – 236.
6
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị- Sự thật, Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới, trang 236 – 237.

8
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Văn hoá tạo sức mạnh để
chiến thắng ngoại xâm theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn”. Kinh tế nâng
cao đời sống vật chất, còn văn hoá có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân.

Nếu hiểu “văn hoá là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất
cả những gì do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con
người” thì khi chúng ta bàn tới con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thể
hiện rõ rệt nhất cả khái niệm văn hoá, cả bản chất của văn hoá theo ý nghĩa vừa
là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh dạy: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”
… Con người có đạo đức, trí tuệ, văn hoá, sức khoẻ vừa là động lực xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng.

2.2.2. Quan điểm về chức năng của văn hóa

Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho
rằng, văn hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:

Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp7. Tư tưởng và
tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của xã hội và con người.
Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để thực
hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm
cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm.

7
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị- Sự thật, Chương VII: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới, trang 241.

9
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí8. Văn hóa nâng cao dân trí theo
từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân
trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết viết. Tiếp đến là sự hiểu biết
các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, xã hội... Từng bước nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật, thực tiễn Việt Nam và
thế giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi người không chỉ
là chuyển biến dân trí mà còn nâng cao dân trí.

Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống
lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ, không ngừng hoàn
thiện bản thân mình9. Văn hóa giúp cho con người phân biệt cái tốt với cái xấu,
cái lạc hậu và cái tiến bộ.

2.2.3. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa

Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn
hóa dân chủ mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có ba
tính chất: Dân tộc - khoa học - đại chúng.

Tính chất dân tộc là cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa
dân tộc. Nó phân biệt, không nhầm lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Hiến
pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại”. Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa có
gốc rễ, cội nguồn từ truyền thống văn hoá dân tộc, thể hiện tâm hồn, cốt cách,
bản sắc của con người Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta đã và đang xây dựng
là một nền văn hóa “mở”. Một mặt, nó kế thừa và phát huy những giá trị trong
truyền thống dân tộc, mặt khác nó tự làm giàu mình bằng việc tiếp thu có chọn

8, 9
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị- Sự thật, Chương VII: Tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới, trang 242.

10
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho nền văn hóa mới ở Việt Nam vừa mang
những đặc trưng phản ánh cốt cách, bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc,
vừa bắt nhịp được với hơi thở của cuộc sống hiện đại.

Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của
tư tưởng hiện đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền văn
hóa mới phải phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy, tính khoa học phải thể hiện trên
nhiều mặt: cơ sở hạ tầng, nền tảng kinh tế phải khoa học, hiện đại; phải có chiến
lược phát triển văn hóa, xây dựng lý luận văn hóa mang tầm thời đại, phù hợp
với trình độ khoa học và trình độ văn minh mà nhân loại đã đạt được.

Tính chất đại chúng của nền văn hóa là phục vụ nhân dân, phù hợp với
nguyện vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa do đại chúng
nhân dân xây dựng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Cái văn hoá mới này cần phải có
tính khoa học, tính đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng
hiện đại. Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có
một nền văn hoá hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân”.
Tư tưởng đó của Người thể hiện quan điểm vì con người, coi con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.

2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hóa

Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú, nên ở đâu có con người, có
hoạt động của con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá thâm nhập vào mọi lĩnh
vực của đời sống con người, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần. Từ sự
am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hoá, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rõ ràng, sinh động đặc thù và sức mạnh của từng lĩnh vực của
văn hoá. ở đây tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về ba lĩnh vực chính như
sau:

11
2.3.1. Về văn hóa- giáo dục

Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều công sức
phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và nhất là nền giáo dục thực dân, đó
là một nền giáo dục "ngu dân", "nhồi sọ". Mục đích của nền giáo dục thực dân là
đào tạo ra những người phục vụ cho chính quyền thực dân, thông ngôn, viên
chức... Người đặt vấn đề: "Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo
dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan lại - cứ phụ trách giáo dục
bằng phương pháp của chúng"10, từ đó Người đã suy nghĩ về việc xây dựng một
nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập sau này.

Do vậy, sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng một nền giáo dục
mới được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài,
đồng thời là một nhiệm vụ cấp bách phải làm ngay, không thể để chậm trễ,
Người chỉ rõ: "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân
chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm,
yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"11.

Để xây dựng nền văn hoá giáo dục của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí
Minh nêu ra nhiều quan điểm rất quan trọng, được tập trung ở những quan điểm
cơ bản sau: Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn
hoá, có nghĩa là bằng dạy và học. Dạy và học là để mở mang dân trí, nâng cao
kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất
trong sáng và phong cách lành mạnh cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
"Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm
mục đích đào tạo ra những công dân và cán bộ tốt, những người chủ trương lai
tốt của nước nhà"12. Như vậy, việc học không phải để chạy theo bằng cấp, không
phải học để làm quan của xã hội cũ, mà theo Người: "học để làm việc, làm

10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, trang 28
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, trang 8
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, trang 80

12
người, làm cán bộ. Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân". Người đặt
việc học để làm cán bộ sau học để làm việc, làm người hàm chứa một ý nghĩa
hết sức sâu sắc, bởi "chính khách có thể ra đi, công việc vẫn còn đó". Mục tiêu
giáo dục còn được thể hiện trong quan điểm "trồng người" của Hồ Chí Minh.
Năm 1958 nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn
miền Bắc, Người đã nhắc lại câu nói nổi tiếng của Quản Trọng, như một cương
lĩnh hành động cho toàn Đảng, toàn dân ta: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"13.

Như vậy, Người đã đặt vấn đề "trồng người" cho chúng ta như một chân
lý tất yếu của cách mạng, khái niệm "trồng người" của Hồ Chí Minh với ý nghĩa
như khái niệm văn hoá là "trồng trọt" "vun trồng" cây cối. Hơn nữa, chương
trình, nội dung giáo dục phải khoa học, hợp lý phù hợp với những bước phát
triển của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh nội dung giáo dục phải toàn diện, bao
gồm cả văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ. Nói
chuyện với thanh niên, Người nhắc nhở: Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật,
văn hoá, chính trị... Về xây dựng chương trình giáo dục, Hồ Chí Minh lưu ý
rằng, nhà trường không phải là nơi nhồi nhét quá thừa kiến thức vô bổ, nhưng lại
không quá thiếu những kiến thức cần thiết cho xây dựng kinh tế, quản lý xã hội
và hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Phải luôn gắn chương trình, nội
dung giáo dục với thực tiễn. Phải từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn mà bổ sung,
phát triển, hoàn thiện nội dung, chương trình giáo dục. Học đi đôi với hành; giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, với cuộc đấu tranh xã hội; nhà trường gắn
liền với xã hội; coi trọng tự học, tự đào tạo. Đây thực sự là một cuộc cách mạng
trong công nghệ " trồng người" của Hồ Chí Minh, một đặc trưng rất cơ bản để
phân biệt nền giáo dục mới với nền giáo phong kiến, thực dân.

Ngoài ra việc giáo dục theo Hồ Chí Minh phải đặt trong mối quan hệ biện
chứng giữa học và hành, nói rộng ra là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập tập 9, tr 222

13
thực tiễn. Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn hết sức sâu sắc về vấn đề này,
Người viết: "Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức”14. Người chỉ
rõ: "Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình
và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn". Quá trình học tập đó bao
gồm: học tập ở trường lớp trong những giai đoạn nhất định và tự học trong cả
cuộc đời của mỗi người.

Hồ Chí Minh cho rằng còn sống thì còn phải học tập. Đây là biện pháp tốt
nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng với yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng: "Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái
bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà
không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình". Để
tự học đạt kết quả, Người cho rằng mỗi người phải xác định được mục đích,
động cơ học tập đúng đắn. Phải học với thái độ nghiêm túc, khiêm tốn, thật thà,
không dấu dốt, không được tự cho mình là đủ rồi, biết hết rồi. Người nhắc nhở:
Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập. Người còn cho rằng mỗi
người trong tự học là phải biết cách học: học ở thư viện, ở sách báo, học bạn bè,
đồng nghiệp. Đồng thời thực hiện phương châm: Học ở mọi lúc, mọi nơi...
Người chỉ rõ: "Học ở đâu? Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học
nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn". Những quan đểm của
Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục là một hệ thống quan điểm rất phong phú và
hoàn chỉnh. Những quan điểm ấy của Người đã được thực hiện và đem lại
những thành tựu và niềm tự hào cho nền giáo dục mới Việt Nam.

2.3.2. Về văn hóa- văn nghệ

Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời
sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Văn nghệ trở
thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Tư

14
Sđd, tập 5, trang 235

14
tưởng Hồ Chí Minh về văn nghệ là cả một kho tàng, ở tầm chiến lược và ngày
càng ngời sáng qua thực tiễn. Dưới đây sẽ trình bày những quan điểm chủ yếu
nhất: Trước hết, "Văn hoá văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ". Tư
tưởng này trước khi phát biểu thành lời đã thể hiện trong truyện và ký của
Người từ những năm 20 của thế kỷ XX như: Con Rồng tre; Bản án chế độ thực
dân Pháp... Những tác phẩm ấy đã thể hiện tinh thần chiến đấu không thoả hiệp,
chống chủ nghĩa thực dân và phong kiến, thức tỉnh nhân dân Việt Nam và các
dân tộc thuộc địa đứng lên tự giải phóng, đồng thời xây dựng niềm tin sắt đá vào
lý tưởng và thắng lợi của cách mạng.

Trong dòng tư tưởng ấy, Đề cương văn hoá Việt Nam 1943 xác định: Mặt
trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá). Trong kháng
chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh coi văn hoá cũng như mặt trận chính trị, quân
sự, Người viết: "Như thế thì về mặt trận văn hoá, chúng ta cũng sẽ thắng lợi như
các mặt trận khác trong cuộc trường kỳ kháng chiến"15. Theo Người, mặt trận
văn nghệ không gươm súng nhưng thường là mặt trận tiền tiêu, tác động to lớn,
lâu dài "Văn chương có sức mạnh của nghìn quân", "Văn chương làm đẹp cho
nước", "Văn chương có đủ sức để sửa sang việc đời". Văn nghệ cổ vũ tinh thần
và lực lượng trong kháng chiến kiến quốc. Văn nghệ không thể không vì một
mục tiêu chính trị-xã hội nhất định. Nó không thể đứng ở trên, ở ngoài mà" phải
ở trong kinh tế và chính trị". Nó phải đấu tranh cho cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ
thì nó cũng phải chống lại cái Giả, các ác, cái Xấu, ngòi bút trở thành " vũ khí
sắc bén trong sự nghiệp phò chính, trừ tà". "Nhà văn - chiến sỹ", "Nghệ sĩ -
chiến sĩ" là danh hiệu cao quý mà Hồ Chí Minh tặng cho những người làm văn
nghệ. Theo Hồ Chí Minh, để biết "xung phong", làm tròn trách nhiệm văn nghệ
sĩ - chiến sĩ, thì văn nghệ sĩ phải học tập chính trị, trau dồi đạo đức, nghệ thuật,
nghiệp vụ, đi sâu vào quần chúng, đi sát sự thật, nhưng trước hết cần phải có
"lập trường vững , tư tưởng đúng".

15
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, tr 182

15
Hai là, văn nghệ phải gắn với đời sống thực tiễn của nhân dân, phục vụ
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Với Hồ Chí Minh, văn nghệ phải luôn
luôn gắn với thực tiễn, phục vụ nhân dân, vì nhân dân "là gốc của nước nhà",
"công nông là người chủ của cách mạng". Quần chúng là những người sáng tạo,
văn nghệ "lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở" thì nó phải phản
ánh đời sống thực tiễn của nhân dân, vì nhân dân, "không thể nói nghệ thuật vị
nghệ thuật, mà cần phải nói rõ văn nghệ phục vụ công nông binh", tức là phục
vụ đa số nhân dân, Người nói: "Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu
vào đời sống của nhân dân. Như thế mới bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên
quyết của quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần
ấy"16. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này:
dân rất tốt... bất kỳ việc gì cũng từ lợi ích của nhân dân mà làm... Nói chuyện,
tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo. v.v. của chúng ta đều phải lấy câu này làm
khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng"17.

Ba là, văn nghệ phải phản ánh cho hay, cho chân thật và hùng hồn, phải
hấp dẫn và bổ ích. Hồ Chí Minh đã nói với văn nghệ sĩ: "Quần chúng mong
muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong
sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích" và "Miêu
tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn những người, những việc ấy, bằng
văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng các nghệ thuật khác...". "Để cổ vũ đồng bào ta
và để giáo dục con cháu ta". Tính nghệ thuật cao còn phụ thuộc vào nội dung,
tính chân thật, tính phong phú và hình thức của tác phẩm. Theo Người, nội dung
của mỗi tác phẩm nghệ thuật cụ thể là sự thống nhất giữa thế giới hiện thực và
thái độ của chủ thể sáng tạo đối với nó. Nhấn mạnh sự phong phú của thực tế
khách quan, coi đó là "kho tài nguyên vô tận" cho những tác phẩm mà nhân dân
đang mong đợi, Hồ Chí Minh cũng yêu cầu nghệ thuật không phải là sao chép
hiện thực mà phải phản ánh được bản chất, xu thế phát triển tất yếu của cuộc
16
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, trang 368
17
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, tập 5, trang 246 - 248

16
sống trong tất cả tính phong phú, phức tạp của nó; viết về mọi cái "đừng bỏ qua
ngóc ngách gay cấn nào hết, đừng làm ngơ im lặng chuyện gì hết", "có khen,
cũng phải có chê".

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh các tác phẩm nghệ thuật phải phong phú, đa
dạng, không thể đơn điệu, nghèo nàn. Có như vậy văn nghệ mới đáp ứng được
nhu cầu rất đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân. Người nhắc nhở: "Cần làm cho
món ăn tinh thần được phong phú, không nên bắt mọi người chỉ được ăn một
món thôi. Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa
đẹp"18. Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là một nhà văn nghệ, nhưng
thực tế Người là một cây bút bậc thầy. Những tư tưởng, chỉ dẫn của Người về
văn nghệ không chỉ có tầm chiến lược của một lãnh tụ chính trị vĩ đại mà còn có
cả uy tín bề dày kinh nghiệm sáng tác phong phú, đa dạng của một nhà văn, nhà
thơ, nhà báo lớn. Những chỉ dẫn ấy của Người luôn nhắc nhở trách nhiệm của
chúng ta rằng: "Nhân dân ta rất anh hùng", "Quần chúng đang chờ đợi những tác
phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta"

2.3.3. Về văn hóa- đời sống

Việc xây dựng đời sống mới được Hồ Chí Minh nêu ra từ rất sớm: Tháng
1.1946, Người phát động phong trào xây dựng đời sống mới; tháng 4.946,
Người ký sắc lệnh thành lập Uỷ ban Trung ương vận động đời sống mới; tháng
3/1947 Người viết tác phẩm "Đời sống mới" để hướng dẫn việc xây dựng đời
sống mới trong các tầng lớp nhân dân và trong toàn xã hội. Xây dựng đời sống
mới là một quan điểm, tư tưởng rất độc đáo của Hồ Chí Minh về văn hoá. Văn
hoá là bộ mặt tinh thần của xã hội, nhưng bộ mặt ấy không phải là những gì cao
xa, trìu trượng mà được biểu hiện rất cụ thể trong cuộc sống thường ngày của
mỗi con người, của mỗi tập thể, của xã hội, rất dễ hiểu, rất dễ thấy. Đời sống
mới theo Hồ Chí Minh bao gồm cả đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới.

18
Sđd, tập 12, tr551

17
Ba nội dung ấy có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức đóng vai trò chủ
yếu. Đạo đức gắn liền với lối sống và nếp sống và nói chung nó lại được thể
hiện, biểu hiện cụ thể trong lối sống, nếp sống.

Vì vậy chúng phải được xây dựng, tiến hành đồng bộ với nhau. Đời sống
mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết bao gồm đạo đức mới. Đó là: "Thực
hành đời sống mới là Cần, Kiệm, Liêm, Chính"19 và "Nêu cao và thực hành cần,
kiệm, liêm chính tức là nhen lửa cho đời sống mới". Đạo đức mới được Hồ Chí
Minh coi là "gốc" là "nền tảng" của mỗi con người và đặc biệt với người cán bộ.
Tiếp theo là lối sống mới theo Hồ Chí Minh- lối sống có lý tưởng, có đạo đức,
sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hoà giữa truyền thống tốt đẹp của dân tộc
với tinh hoa văn hoá của nhân loại. Việc xây dựng lối sống mới đòi hỏi phải
"sửa đổi những việc rất cần thiết, rất phổ thông, trong đời sống của mọi người,
tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, cách làm việc". Đó là năm
cái phải sửa đổi đối với mỗi con người cũng như với một tập thể, một cộng
đồng. Theo ngôn ngữ thường dùng hiện nay thì đây là phong cách sống (sinh
hoạt và ứng xử), phong cách làm việc, gọi chung là lối sống mới.

Hồ Chí Minh viết: "Bất kỳ ai, muốn sống thì có bốn điểm ăn, mặc, ở, đi
lại". Đó là những nhu cầu cần thiết trước hết để tồn tại của con người, song ăn,
mặc, ở thế nào cho đúng với đời sống mới mà chúng ta xây dựng, có nghĩa là
nói về mặt văn hoá của nó. Mặt văn hoá của ăn, mặc, ở không phụ thuộc vào
những thứ dùng để ăn, mặc, ở nhiều hay ít, sang trọng hay giản đơn, mà theo Hồ
Chí Minh lại phụ thuộc vào lối sống có văn hoá hay không có văn hoá của con
người, Người viết: "Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt
thượt, xa xỉ, loè loẹt". Không phủ nhận nhu cầu chính đáng của mỗi con người
ngày càng nâng cao điều kiện sinh hoạt ăn, mặc, ở, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng:
Người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp. Mong muốn đó là chính đáng, nhưng
phải đúng thời, đúng hoàn cảnh mới là con người có đạo đức.
19
Sđd, tập 5, trang 94

18
Theo Hồ Chí Minh, lối sống mới là phải xây dựng một phong cách sống
khiên tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, ít lòng
ham muốn về vật chất, chức - quyền - danh - lợi. Trong quan hệ với nhân dân,
đồng chí, bạn bè, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị; giàu lòng yêu
thương qúy trọng con người, đối với mình thì nghiêm khắc, đối với người thì
khoan dung, độ lượng, sẵn lòng giúp đỡ. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ phong cách
làm việc: "Phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì,
thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn. Chớ làm dối"20. Hồ Chí Minh chỉ rõ
nếp sống mới mà chúng ta xây dựng chẳng những phải kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống tinh thần, những thuần phong mỹ tục, tập quán tốt
đẹp lâu đời của dân tộc; đồng thời phải biết cải tạo những phong tục tập quán lạc
hậu, bổ sung những cái mới, cái tiến bộ mà trước đó chưa có.

Người viết: "Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải
cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì mà không xấu,
nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm". Việc sửa đổi những thói quen,
phong tục, tập quán không còn phù hợp, loại bỏ cái xấu, cái lạc hậu; xây dựng
cái tốt, cái tiến bộ là một công việc rất khó khăn, phức tạp, Người viết: " Thói
quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen
người ta cho là thường". Vì vậy, để xây dựng nếp sống mới Hồ Chí Minh chỉ rõ
các vấn đề cơ bản sau: Trước hết, Người chỉ rõ đối tượng, của việc xây dựng đời
sống mới có hai thứ: đời sống mới riêng với từng người- trẻ em hay người lớn,
người giàu hay người nghèo, người chủ hay người thợ, thầy giáo hay học trò,
cán bộ đảng viên với người dân, Chủ tịch Chính phủ với người chạy giấy, quét
dọn trong một cơ quan nhỏ. Đời sống mới chung với một nhà, một làng, một
trường học, một đơn vị bộ đội, một công sở, một xưởng máy. Đối với mỗi người
hay từng nhóm người Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn rất cụ thể.

20
Sđd, tập 5, trang 107

19
Hai là, việc thay đổi những thói quen, cải tạo những phong tục, tập quán
cũ lạc hậu không thể một sớm, một chiều, tuỳ tiện, giản đơn, thô bạo. Vì vậy,
Người chỉ rõ, trước hết phải tuyên truyền, giải thích để mội người hiểu được cái
lợi của việc xây dựng những thói quen, phong tục, tập quán mới, hướng dẫn
cách làm cụ thể để mọi người, mọi nhà, mọi làng, mọi cơ quan, đơn vị, xí
nghiệp hiểu để làm, để thực hiện cho được đời sống mới, Người viết: "Phải chịu
khó nói rõ cho mọi người hiểu đời sống mới có ích như thế nào, cách thi hành
đời sống mới thế nào". Người nhắc nhở "Tuyên truyền đời sống mới cũng như
tuyên truyền việc khác, phải hăng hái, bền gan, chịu khó, đồng thời phải cẩn
thận, khôn khéo, mềm mỏng" và tránh nôn nóng, ép buộc, trấn áp thô bạo sẽ làm
hỏng việc. Một biện pháp rất quan trọng khác theo Hồ Chí Minh là phải làm
gương, Người viết: "Tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác
bắt trước”; Trước hết là những người quản lý, lãnh đạo; cán bộ, đảng viên;
những người làm công tác tuyên truyền, vận động xây dựng đời sống mới: "Đời
sống cũng cần có những người làm gương, những nhà làm gương, những làng
làm gương. Khi trông thấy hiệu quả tốt tươi, thì chắc những nơi khác cũng hăng
hái làm theo. Nếu miệng thì tuyên truyền bảo người ta siêng làm, mà tự mình thì
ăn trưa, ngủ trễ; Bảo người ta tiết kiệm, mà tự mình thì xa xỉ, lung tung thì tuyên
truyền một trăm năm cũng vô ích".

Việc xây dựng đời sống mới theo Hồ Chí Minh phải bắt đầu từ từng
người, từng gia đình. Vì mỗi người là một cá thể để tạo nên gia đình, mỗi gia
đình là một tế bào để tạo nên xã hội, Người viết: "Do nhiều người nhóm lại mà
thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu,
người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì
thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc của làng nước. Nếu mọi người đều cố
gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường", và "Ai cũng
làm như thế thì tự nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn
minh".

20
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG NỀN VĂN HÓA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

3.1. Thực trạng nền văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam theo tư tưởng
Hồ Chí Minh

Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn mười năm
đổi mới, cùng với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt
Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong lĩnh vực tư tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi theo con
đường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con
đường đúng đắn mà nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển
nền văn hóa dân tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng
hướng. Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn
có ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách
nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn. Mỗi công dân được khuyến khích và có cơ
hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trường và năng lực cá nhân. Do đó,
không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh
những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và
kháng chiến, nhớ ơn các anh hùng dân tộc, quý trọng danh nhân văn hóa, đền ơn
đáp nghĩa những người có công với đất nước, lá lành đùm lá rách... trở thành
phong trào quần chúng. Mọi công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân, không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.

Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (năm 1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm

21
đà bản sắc dân tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các
nhân tố văn hóa, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị
quyết Trung ương 5, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về
văn hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước..." và
khẳng định rằng: "Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức
đảng và nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình".

Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng
cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm sức mạnh nội sinh.
Ứng dụng khoa học - kĩ thuật ngày càng phổ biến trong hoạt động sản xuất và
đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, hiệu quả sản xuất.
Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát
triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát huy và nhiều
bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước bạn bè trên
thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng
định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những
quan điểm sai trái. Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng.
Chúng ta có dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng
thời giới thiệu với nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của
văn hoá Việt Nam.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành
những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở
vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa được nâng cao, xây dựng thêm
nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui
chơi giải trí... và đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu mới.

22
3.2. Thành tựu và hạn chế trong vận dụng nền văn hóa của Đảng cộng sản
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong điều kiện đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa, trải qua hơn 30 năm
đổi mới, cùng với những thay đổi tích cực của nền kinh tế xã hội, văn hóa Việt
Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể.

Trong lĩnh vực tư tưởng, lối sống và đạo đức, chúng ta luôn đi theo con
đường chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là con
đường đúng đắn mà nước ta đã kiên định từ đầu, vận dụng sáng tạo để phát triển
nền văn hóa dân tộc, đảm bảo cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng
hướng. Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Các cán bộ, đảng viên luôn
có ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách
nhiệm và năng lực tổ chức thực tiễn. Mỗi công dân được khuyến khích và có cơ
hội phát huy tính năng động, tích cực, sở trường và năng lực cá nhân.

Do đó, không khí dân chủ trong xã hội ngày càng tăng lên. Thế hệ trẻ tiếp
thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lâp thân, lập nghiệp, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Sự nghiệp giáo dục thu được những thành tựu quan
trọng, góp phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tăng thêm
sức mạnh nội sinh. Ứng dụng khoa học - kĩ thuật ngày càng phổ biến trong hoạt
động sản xuất và đời sống giúp nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, hiệu
quả sản xuất. Trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước
phát triển mới. Các bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn, phát huy và
nhiều bộ môn nghệ thuật mới được sáng tạo thêm hoặc học hỏi từ các nước bạn
bè trên thế giới. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực,
khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước
những quan điểm sai trái. Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong
thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động

23
của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên
định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến
sĩ. Nhiều văn nghệ sĩ tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều
cố gắng tìm tòi cái mới. Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến
đáng kể. Đội ngũ những nhà văn hoá người dân tộc thiểu số phát triển cả về số
lượng, chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực
văn học, nghệ thuật.

Thông tin đại chúng phát triển nhanh cả về số lượng và quy mô, về nội
dung và hình thức, về in ấn, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò
quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin
trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả năng lựa chọn, khai thác các nguồn
thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng
đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.

Hoạt động giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở rộng. Chúng ta có
dịp tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu văn hoá nhân loại, đồng thời giới thiệu
với nhân dân các nước khác những giá trị tốt đẹp, độc đáo của văn hoá Việt
Nam. Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành
những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hoá. Cơ sở
vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa được nâng cao, xây dựng thêm
nhiều nhà văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui
chơi giải trí…và đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu quả.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền văn hóa nước ta vẫn còn tồn
tại. Trước hết là ở trong nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống của người
dân, ngay cả trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Trước những biến động chính trị
phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về con đường xã hội
chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, phủ

24
nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phủ nhận lịch sử cách mạng
hào hùng của nước Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.

Nhiều người còn sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá
dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến thuần
phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà
đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Hoạt động buôn lậu và nạn tham nhũng phát triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ
nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến, gây nghiều hậu quả
xấu cho nhân dân. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới xin,
tang lễ, lễ hội…Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền.
Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ
không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái mất đoàn kết khá phổ
biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của
Đảng, của Nhà nước. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo
làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bạn bè,
môi trường giáo dục xuống cấp, lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn chơi,
nghiện ma tuý…ở một bộ phận học sinh, sinh viên. Nhiều học sinh, sinh viên có
hiện tượng coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa
học xã hội và nhân văn, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Nhiều tác phẩm
được tạo ra chỉ với mục đích thương mại mà không mang tính nghệ thuật, nhân
văn. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, đã có lúc nảy sinh khuynh hướng phủ
nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính
trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân
khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó khăn, chưa hướng tới
được đông đảo nhân dân. Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn học, nghệ thuật
25
còn nhiều sơ sở. Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác
phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống.

Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp
thời phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa
biểu dương đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như
thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu chính
xác, làm lộ bí mật quốc gia. Xu hướng lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá
phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu
trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời
theo pháp luật.

Giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ
hở. Số văn hoá phẩm đồi trụy, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn,
trong khi đó, số tác phẩm văn hoá có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít.
Lực lượng hoạt động văn hoá - văn nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu, tác phẩm
văn học, nghệ thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu những biện
pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu văn hoá dân tộc, liên hệ mật thiết với
tổ quốc, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ quốc.

Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển văn
hoá còn chưa rõ. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu,vùng xa, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời
sống văn hoá còn quá nghèo nàn.

Để khắc phục được những yếu kém, phát huy những lợi thế đó, Đảng và
nhà nước ta phải có những chính sách đúng đắn, hợp lý, từ đó xây dựng một nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên cơ sở vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.
26
3.3. Một số giải pháp trong vận dụng nền văn hoá của Đảng CSVN theo tư
tưởng HCM

Xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ là
một quá trình dần dần, từ từ, không thể bằng mệnh lệnh hành chính và những
cách làm nóng vội, chạy theo phong trào. Nhưng cũng không vì thế mà chậm
trễ, thụ động ngồi chờ, phải bắt đầu ngay từ ngày hôm nay bằng những việc làm
cụ thể, có trách nhiệm, có lộ trình bước đi phù hợp. Để xây dựng văn hóa trong
công tác tư tưởng, trước mắt cần tiến hành một số biện pháp sau:
Đầu tiên, ngành Tuyên giáo phải thấm nhuần các quan điểm của Đảng về
văn hóa, nhất là tinh thần Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, cần quán triệt và thực hiện quan điểm
văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị. Ngành Tuyên giáo sớm
nghiên cứu làm rõ văn hóa trong công tác tư tưởng là gì, minh định hóa, giản dị
hóa thành các nội dung cụ thể. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
giáo dục làm cho mỗi cán bộ tư tưởng, mà trước hết là cấp ủy, cán bộ tuyên giáo
các cấp quán triệt sâu sắc, tạo sự nhất trí cao, đồng tâm, hiệp lực, tạo động lực từ
bên trong cho công cuộc xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng.
Hai là đầu tư nghiên cứu, tổng kết, hệ thống hóa thành hệ giá trị văn hóa
truyền thống của ngành Tuyên giáo trong hơn 90 năm qua. Đẩy mạnh nghiên
cứu xây dựng hệ giá trị văn hóa trong tương lai mà ngành cần phải hướng tới,
chẳng hạn như: Chân thực, thuyết phục, minh bạch, kịp thời, đối thoại… Với
những giá trị văn hóa mới, cần có sự quan tâm trợ giúp, bồi đắp, bảo vệ của cấp
ủy các cấp, tạo môi trường thuận lợi cho các giá trị đó đứng vững trong môi
trường không thuận lợi, từng bước kết tinh, lắng đọng thành các giá trị của lĩnh
vực tư tưởng và ngành tuyên giáo. Trên cơ sở các giá trị văn hóa chung của
ngành, cần hình thành các giá trị văn hóa trong từng lĩnh vực như: văn hóa trong
nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị; văn hóa trong tuyên truyền, cổ động
chính trị; văn hóa ứng xử của cán bộ, nhân viên cơ quan tuyên giáo…

27
Thứ ba là tổ chức một phong trào xây dựng môi trường văn hóa trong cơ
quan tuyên giáo, thông tin, truyền thông trên phạm vi toàn quốc. Văn hóa là
sáng tạo, đa dạng, phong phú, vì vậy cần khuyến khích những cách làm mới,
“trăm hoa đua nở”, trên cơ sở đó phát hiện, nhân rộng ra toàn ngành. Qua phong
trào, phải tạo ra những giá trị có thật, bền vững, có thể đo đếm, trải nghiệm
được. Kiên quyết khắc phục bệnh hình thức và bệnh thành tích, tư duy rập
khuôn, máy móc khi xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng.
Hơn thế nữa, chúng ta cần tiến hành tổng kết, xây dựng mô hình văn hóa
trong công tác tư tưởng cùng với tiếp thu những giá trị tốt đẹp từ nước ngoài, từ
các ngành khác, lĩnh vực khác. Tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện biểu
dương các tập thể và cá nhân tiêu biểu, đồng thời kiên quyết xử phạt, lên án
những hành vi, hiện tượng vô văn hóa, phi văn hóa trong nội bộ ngành với tinh
thần không sợ “vạch áo cho người xem lưng”, bởi thẳng thắn, trung thực với
chính mình cũng là một nét văn hóa của người làm công tác tư tưởng.
Và cuối cùng là xây dựng thiết chế công tác tư tưởng có văn hóa, bởi đó
là nơi sản sinh ra các giá trị văn hóa, lưu giữ và vận hành các giá trị văn hóa của
ngành. Phải làm cho văn hóa thấm sâu vào từng cơ quan làm công tác tư tưởng,
cán bộ tư tưởng. Đặc biệt là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
tốt đẹp, văn hóa liêm chính, văn hóa trọng dân trong công sở của các cơ quan tư
tưởng, tuyên giáo, tạo môi trường thuận lợi để nuôi dưỡng, bồi đắp các giá trị
văn hóa của công tác tư tưởng.
Chính vì điều đó mà xây dựng văn hóa trong công tác tư tưởng sẽ góp
phần xây dựng Đảng ta thực sự trí tuệ, đạo đức và văn minh, đưa nền văn hóa
Việt Nam vượt qua mọi khó khan, thách thức để chấn hưng và xây dựng thành
công một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp tục làm vẻ vang
thêm cho dân tộc, giống nòi. Văn hóa trong công tác tư tưởng sẽ tạo thành
nguồn lực và động lực ngày càng mạnh mẽ để xây dựng đất nước ngày càng
phồn vinh, hạnh phúc, xứng đáng với truyền thống ngàn năm văn hiến của dân
tộc ta.

28
KẾT LUẬN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã và đang là định hướng lớn cho việc
xây dựng và phát triền nền văn hóa nước ta. Nó sẽ luôn được xem là ánh sáng
soi đường cho công cuộc xây dựng cũng như phát triển nền văn hóa nước nhà.
Bác đã nói rằng : “ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó
phải làm tròn trách nhiệm và nhiệm vụ giải phòng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng.. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng
về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà
dạy bảo các cán bộ, đảng viên và Nhân dân…”21. Những tư tưởng quý báu của
Người về văn hóa đã trở thành kim chỉ nam dẫn lối cho Đảng, Nhà nước và
Nhân dân ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
để khẳng định nét riêng trên bản đồ thế giới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội
sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển
sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội
thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất
của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan
trọng nhất của đất nước”22. Điều này càng thể hiện rõ, cùng với việc làm tốt
công tác xây dựng Đảng, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, việc
thực hiện tốt định hướng phát triển văn hóa của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong tiến trình phát triển chung của đất nước. Để thực hiện có hiệu quả tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa như đã khẳng định “Văn hóa soi đường cho
quốc dân đi”, mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, địa phương phải nêu
gương để mọi người học tập và noi theo, “Muốn hướng dẫn Nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
21
Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2002, t.2 (1945-1954), trang 199-200
22
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
H.2021, t.II, trang 330

29
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa đã thể hiện tư duy và tầm nhìn
chiến lược trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, vừa là nguồn lực nội sinh, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tìm hiểu về Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ. Truy cập:23/06/2021
Link: https://luatminhkhue.vn/tim-hieu-ve-tuyen-ngon-doc-lap-nam-1876-cua-
hoa-ky.aspx
2. Lênin, toàn tập, tập 44, Nxb Matxcowva 1978, tr211-212
Link: https://thuvienso.quochoi.vn/handle/11742/47283

3.Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, trang 22- 23. Link:
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-
minh/book/ho-chi-minh/tac-pham/ho-chi-minh-toan-tap-tap-1-266

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và xây dựng con người mới, truy cập:
07/08/2019
Link: http://thachlong.thachthanh.thanhhoa.gov.vn/web/tam-guong-dao-duc-
hcm/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-van-hoa-va-xay-dung-con-nguoi-moi.html
5.Tạp chí của ban tuyên giáo trung ương. Truy cập:29/09/2018
Link: https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nghi-quyet-trung-uong-5-khoa-
viii-chien-luoc-van-hoa-cua-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-115273
6. Lê Phú Bão. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Truy cập:19/03/2014. Link:
https://sites.google.com/site/hochiminhk19/tu-tuong-ho-chi-
minh/tutuonghochiminhvevanhoa

7. Cổng thông tin điện tử ban tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa. Truy cập:
03/08/2022.

Links: https://btgtu.thanhhoa.dcs.vn/portal/pages/2022-8-2/Ban-ve-van-hoa-
trong-cong-tac-tu-tuongsk87y3q27cwr.aspx

8. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa – Đảng bộ tỉnh Quảng Trị. Truy cập:
01/11/2021. Link: https://tinhuyquangtri.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-van-hoa

31
9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa con người mới. Truy cập:
23/11/2022.
Link:http://huyenuy.namtramy.quangnam.gov.vn/Default.aspx?tabid=1292&Gr
oup=210&NID=3124&tu-tuong-ho-chi-minh-ve-xay-dung-van-hoa-con-nguoi

10. Một số vấn đề về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Truy cập:
17/09/2015. Link: http://www.baolamdong.vn/vhnt/201509/mot-so-van-de-ve-
van-hoa-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-2627296

11. Tiểu luận Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Truy cập: 19/10/2022. Link: https://thuvienhanhchinh.com/tieu-luan-xay-dung-
nen-van-hoa-viet-nam-tien-n100.html

32
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ ĐÁNH GIÁ HOÀN THÀNH CỦA CÁC
THÀNH VIÊN TRONG NHÓM

Đánh giá
Phân công công SĐT và
STT Họ và tên tỷ lệ hoàn
việc ký tên
thành
1 Phan Thị Thanh Tuyền Làm nội dung: 1.1 100% Tuyền
và 2.1
2 Trần Thị Vân Hương Làm word 100% Hương
3 Dương Thị Hồng Thắm Làm nội dung: 1.3 100% Thắm
và 2.3
4 Lê Ngọc Thảo Nguyên Làm nội dung: 1.2 100% Nguyên
và 2.2
5 Nguyễn Đình Hoàng Làm phần mở đầu 100% Hoàng
và kết luận

33

You might also like