You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI

BÁO CÁO THẢO LUẬN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH – NHÓM 9

TRÌNH BÀY TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN


KẾT QUỐC TẾ. Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐÓ
TRONG XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện


Nguyễn Ngọc Hà Vi Mã sinh viên: 222600595 Lớp: QT33
Mai Trịnh Huyền Trang Mã sinh viên: 222600591 Lớp: QT33
Khuất Thị Kiều Trinh Mã sinh viên: 222600593 Lớp: QT33
Phạm Văn Toản Mã sinh viên: 222630590 Lớp: QT33

HÀ NỘI, 2023
2

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................2
1. Cơ sở lý luận.................................................................................................................................3
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?.............................................................................................3
1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam....................................................................................................4
1.3. Những nhân tố hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh......................5
2. Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đoàn Kết Quốc Tế.......................................................................6
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong tác phẩm “Đường Cách
mệnh”............................................................................................................................................6
2.2. Vai trò của đoàn kết quốc tế................................................................................................8
2.2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng....................................................................................8
2.2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng
lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại..................................................................................9
2.3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức............................................................11
2.3.1. Các lực lượng cần đoàn kết..........................................................................................11
2.3.2. Hình thức tổ chức.........................................................................................................13
2.4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế..............................................................................................14
2.4.1. Đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý,
có tình......................................................................................................................................14
2.4.2. Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với phong trào
cách mạng vô sản ở chính quốc.............................................................................................15
2.4.3. Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trên tinh thần bốn biển
đều là anh em..........................................................................................................................16
2.4.4. Đoàn kết giữa các đảng cộng sản và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa.....16
2.4.5. Đoàn kết với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. 17
2.4.6. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ..............................................................................18
2.5. Kết luận................................................................................................................................19
3. Ý nghĩa của tư tưởng hồ chí minh trong xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế ở nước ta
hiện nay...........................................................................................................................................20
3.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế
trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng.................................................................20
3.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế.........................................25
4. Kết luận......................................................................................................................................28
3

1. Cơ sở lý luận
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là gì ?
Thứ nhất, trước hết phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. “Hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” là nhiều quan điểm liên hệ chặt chẽ
với nhau, thể hiện rõ tính liên tục, nhất quán. “Toàn diện” là bao quát nhiều lĩnh vực. Đó
là tư tưởng về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quân sự, ngoại giao... Đại hội IX chỉ rõ,
đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân...”. Trong văn kiện của một Đại hội Đảng không thể nêu
hết hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ di sản Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu còn làm
rõ nhiều nội dung có giá trị to lớn khác không chỉ về cách mạng Việt Nam mà cả về cách
mạng thế giới như tư tưởng dân chủ tư tưởng ngoại giao; tư tưởng hội nhập, hòa bình, hợp
tác và phát triển; phương pháp cách mạng và phong cách; v.v.. Điều này hoàn toàn phù
hợp với Đại hội đồng UNESCO khi khẳng định Hồ Chí Minh để lại một dấu ấn trong quá
trình phát triển của nhân loại...; là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc,
đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”. “Toàn diện nhưng sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam”, nghĩa là không phải tất cả mọi vấn đề đều gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở đây
cần hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh như là những tư tưởng chính trị theo nghĩa rộng, gồm tư
tưởng về mục tiêu cách mạng: độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; về mục đích cách
mạng: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về lực lượng cách
mạng: toàn dân tộc lấy công-nông làm gốc, đoàn kết quốc tế về nền tảng lý luận: chủ
nghĩa Mác Lênin; về tổ chức cách mạng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận
đoàn kết toàn dân; về phương pháp cách mạng: động viên toàn dân, tổ chức toàn dân;
v.v.. Tóm lại, đó là “giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản”.
4

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lênin (hoặc là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin) vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Một số ý kiến cho rằng những vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng theo con đường
cách mạng vô sản như mục tiêu, lực lượng, lãnh đạo, phương pháp, đoàn kết, nền tảng lý
luận, v.v… đều đã được đề cập trong học thuyết Mác-Lênin; thậm chí đã được Khổng Tử,
Tôn Dật Tiên, ông cha ta trong lịch sử hàng nghìn năm bàn tới. Chúng ta không phủ nhận
nhiều vấn đề đã được Mác, Ăngghen, Lênin, Khổng Tử, Tôn Dật Tiên, cha ông ta đề cập;
thậm chí, nhiều vấn đề được đề cập sâu trong học thuyết mácxít như mục đích giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, giải phóng nhân loại, Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng,
đoàn kết, xây dựng nhà nước, vai trò lý luận, v.v… Khổng Tử bàn nhiều tới đạo đức và
ưu điểm của ông là tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn Dật Tiên xây dựng chủ nghĩa Tam
dân: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc... Nhưng chúng ta phải phủ
nhận quan điểm cho rằng hễ đã có người đi trước đề cập thì người sau chỉ là nói theo, nói
lại.
1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, nhìn từ thực tiễn lịch sử cho thấy, các phong trào yêu
nước ở Việt Nam đều nhận thức được rằng “có đoàn kết quốc tế mới mau thắng lợi”. Ngay
nhà yêu nước Phan Bội Châu, mặc dù thất bại nhưng ông cũng rút ra được kinh nghiệm là
“phải liên kết với những người đồng bệnh”, tức là những dân tộc cùng bị thực dân, đế
quốc áp bức, bóc lột như mình. Nhưng liên kết như thế nào, dựa vào ai, liên minh với ai?
Ai là bạn gần, ai là bạn xa? Đây đều là những câu hỏi mà các nhà lãnh đạo phong trào yêu
nước thời bấy giờ còn rất mơ hồ. Người thì muốn dựa vào thực dân Pháp để chống phong
kiến; người thì muốn dựa vào đế quốc này để chống đế quốc kia. Thậm chí, đến khi nhận
thức được sự cần thiết phải “liên kết với những người đồng bệnh” thì Phan Bội Châu lại
chủ trương dựa vào giai cấp tư sản dân tộc vô cùng yếu ớt của Trung Quốc để chống thực
dân Pháp.
Còn với người dân lao động Việt Nam thời đó cũng không thể phân biệt được người dân
Pháp chân chính với thực dân Pháp tàn độc, coi tất cả những ai “da trắng” đều là kẻ thù
của cách mạng Việt Nam. Sự mơ hồ, nhầm lẫn đó cần phải được nhìn nhận rõ, cần phải
chỉ ra rằng đâu là chỗ dựa quốc tế, ai là đồng minh của cách mạng Việt Nam trên thế giới
và chúng ta cần hướng tới một liên minh, đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng chống lại
kẻ thù chung. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh nói rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả
5

của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta”. Rõ ràng là khái niệm cho ta biết Hồ Chí Minh nắm chắc chủ nghĩa Mác-Lênin
và hiểu rõ điều kiện nước ta. Điểm chốt ở đây là “điều kiện cụ thể của nước ta”. Hồ Chí
Minh từng cảnh báo: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai
cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”. Điều
kiện nước ta không giống các nước khác, ít nhất trên hai điểm: Truyền thống lịch sử, văn
hóa, con người và nước thuộc địa thời cận đại. Hai điểm này không hoàn toàn tách bạch,
mà có sự tiếp nối. Nhưng cũng có nội dung chỉ có trong thời kỳ thuộc địa. Nhận thức như
vậy để thấy rằng Hồ Chí Minh không viết lại, nói lại các bậc thầy và những gì trong
truyền thống dân tộc; ngược lại, Người đã khắc phục những hạn chế của truyền thống và
thiếu hụt trong chủ nghĩa Mác Lênin.
1.3. Những nhân tố hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Một là, xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Ý thức quốc gia, dân tộc,
làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên
nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của
người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết
thống nhất, nhân ái khoan dung.
Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam, đó
cũng là nguồn sức mạnh thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu
nước của dân tộc được Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên
con đường bôn ba khắp năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao động trên
thế giới, đến với tình hữu ái vô sản và đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đến với con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc.
Tinh thần đoàn kết, tương ái, sống gắn bó trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có
nhau của người Việt Nam tạo thành sức mạnh đoàn kết của dân tộc, và đó cũng cái nôi để
hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát
triển trong con người Hồ Chí Minh. Ngoại giao truyền thống Việt Nam cũng là một nhân
tố quan trọng hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Lịch sử dựng nước
và giữ nước cha ông ta luôn phấn đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình, đúng như
nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất nước: “Trong việc trị
nước, hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”.
6

Hai là, xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đoàn kết quốc tế.Chủ nghĩa Mác
– Lênin đã đề cập đến đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản như là một điều kiện quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân. Sau khi Nguyễn Ái Quốc bắt
gặp luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người khẳng định “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”, gắn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đại hội lần thứ XVIII
Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành
Đảng ra nhập Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Bằng việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế. Từ
đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc và giai
cấp vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết những bài tham luận, phát biểu trong các kỳ
sinh hoạt đảng và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh đạo Ban
Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ....
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ
của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận đoàn kết quốc tế đối với sự
nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức với sự tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những khẩu
hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Lao động tất cả các nước đoàn kết lại” và
người khẳng định, chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô
sản thế giới sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng trong
phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế
quốc.

2. Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Đoàn Kết Quốc Tế


2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong tác phẩm “Đường Cách
mệnh”
Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, nhìn từ thực tiễn lịch sử cho thấy, các phong trào yêu
nước ở Việt Nam đều nhận thức được rằng “có đoàn kết quốc tế mới mau thắng lợi”. Ngay
nhà yêu nước Phan Bội Châu, mặc dù thất bại nhưng ông cũng rút ra được kinh nghiệm là
“phải liên kết với những người đồng bệnh”, tức là những dân tộc cùng bị thực dân, đế
quốc áp bức, bóc lột như mình. Nhưng liên kết như thế nào, dựa vào ai, liên minh với ai?
Ai là bạn gần, ai là bạn xa? Đây đều là những câu hỏi mà các nhà lãnh đạo phong trào yêu
nước thời bấy giờ còn rất mơ hồ. Người thì muốn dựa vào thực dân Pháp để chống phong
kiến; người thì muốn dựa vào đế quốc này để chống đế quốc kia. Thậm chí, đến khi nhận
thức được sự cần thiết phải “liên kết với những người đồng bệnh” thì Phan Bội Châu lại
chủ trương dựa vào giai cấp tư sản dân tộc vô cùng yếu ớt của Trung Quốc để chống thực
7

dân Pháp. Còn với người dân lao động Việt Nam thời đó cũng không thể phân biệt được
người dân Pháp chân chính với thực dân Pháp tàn độc, coi tất cả những ai “da trắng” đều
là kẻ thù của cách mạng Việt Nam. Sự mơ hồ, nhầm lẫn đó cần phải được nhìn nhận rõ,
cần phải chỉ ra rằng đâu là chỗ dựa quốc tế, ai là đồng minh của cách mạng Việt Nam trên
thế giới và chúng ta cần hướng tới một liên minh, đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng
chống lại kẻ thù chung.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Cách mệnh An
Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều
là đồng chí của dân An Nam cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có
nhau”. Người xác định rõ chỗ dựa quốc tế của cách mạng Việt Nam phải là cách mạng vô
sản thế giới, là cách mạng Nga và Đệ tam quốc tế (tức Quốc tế 3). Để trả lời câu hỏi về sự
tương quan giữa cách mệnh Nga đối với cách mệnh An Nam là thế nào, Người khẳng
định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến
nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do
và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh
Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp
bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế
giới. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân
chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống
nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Về vấn đề tập hợp lực lượng đồng minh trên thế giới của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế
giới: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế
giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)”. Người đưa ra những
dẫn chứng cụ thể, đầy sức thuyết phục để xác định lực lượng đồng minh quốc tế của cách
mạng Việt Nam. Với Đệ tam quốc tế (tức Quốc tế cộng sản), Người chỉ rõ: Cách tổ chức
của Đệ tam quốc tế “có đặt ra một bộ riêng, chuyên nghiên cứu và giúp đỡ cho cách mệnh
bên Á - Đông; khẩu hiệu “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”;
quy tắc nói rằng “Các đảng cộng sản, nhất là Đảng Cộng sản Pháp... phải hết sức giúp dân
thuộc địa làm cách mệnh”; “kế hoạch về thuộc địa là tự tay ông Lênin làm ra”. Từ đây,
Người khẳng định “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc
tế”. Với nhân dân lao động Pháp, cách mạng Pháp và mối quan hệ giữa cách mạng Pháp và
cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đó là đồng minh của cách mạng
Việt Nam, cách mạng Việt Nam cũng phải liên minh với cách mạng Pháp, có thể thành
8

công trước cách mạng Pháp và mang lại tác động tích cực đối với cách mạng Pháp. Người
phân tích: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu
thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp cách mệnh
thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do. Vậy nên cách mệnh An Nam với cách
mệnh Pháp phải liên lạc với nhau”.
Như vậy, về đoàn kết quốc tế và tập hợp lực lượng của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu ba vấn đề lớn:
Một là, cách mạng Việt Nam phải đứng về phía phong trào công nhân và phong trào giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới mới có thể “đạp đổ” tất cả chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế
giới, trong đó “Công nhân là nền cách mệnh”.
Hai là, xác định rõ mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc của cách mạng Việt Nam khi liên
minh với phong trào cách mạng thế giới; giữa quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế
của cách mạng Việt Nam; sự thống nhất biện chứng của các mối quan hệ đó.
Ba là, xác định rõ mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là mối
quan hệ có tác động qua lại, trong đó, cách mạng thuộc địa sẽ không “thụ động ngồi chờ”
cách mạng chính quốc.
Với những luận điểm trên, tác phẩm “Đường Cách mệnh” đã đặt nền tảng đúng đắn cho
con đường cách mạng của Đảng ta, đây chính là cơ sở cho sự giúp đỡ của quốc tế trong
giai đoạn thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.2. Vai trò của đoàn kết quốc tế
2.2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Việt Nam. Đây là một trong những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tếvà cũng là một trong những bài học quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu sắc
nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần
đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do…Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách,khó khăn trong dựng nước và giữ
nước.
9

Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt vào sức mạnh
dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng, Người vẫn bộc lộ niềm
lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh dân tộc.
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức mạnh của
chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh sáng
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm ẩn
trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các phong trào đó
nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Người cho rằng, cách mạng Việt Nam chỉ
có thể thành công khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế ; đại đoàn kết toàn dân
tộc là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói chuyện với
đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí Minh đã nói: “Có sức mạnh cả nước một
lòng…lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp cộng
với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi đến cách mạng
cuối cùng”.
Cùng với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với quốc
tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát triển
ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết
quốc tế; đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết
dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân tộc là
một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cỉa cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết quốc
tế cũng là một thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đoàn kết
10

quốc tế không vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân
loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc
tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời kỳ tồn
tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân
tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả loài
người.
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt
mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt để sức mạnh chủ
nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc mình
mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực
lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu chung, hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu
nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sân trong sáng. Trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội II (tháng 2-1951), Người chỉ rõ: "Tinh thần yêu nước chân chính khác
hẳn với tinh thần “vị quốc" của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần
quốc tế". Sau này, trong tác phẩm Thường thức chính trị (1953). Người nói rõ hơn: “Tinh
thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước
mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ
gìn hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc...
giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta... Đó là lập trường quốc tế cách
mạng".
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh
hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh… –
những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn kết, thống nhất các lực lượng cách
mạng thế giới. Nói cách khác, các đảng cộng sản trên thế giới phải tiến hành
có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa
quốc tế vô sản cho nhân dân.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung nguồn lực
11

mới. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình,
ủng hộ của quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho
sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to
lớn hơn mình về nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới
thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, nhân dân Việt
Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của
các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục
tiêu cao cả của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
2.3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức
2.3.1. Các lực lượng cần đoàn kết
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào hoà bình, dân
chủ thế giới, trước hết là phong trào chống chiến tranh của nhân dân các nước đang xâm
lược Việt Nam.
Với phong trào cộng sản và công nhân thế giới - lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế,
Hồ Chí Minh cho rằng, sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm vững chắc
cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Do đánh giá rất cao vai trò của khối đoàn kết của
giai cấp vô sản thế giới, tháng 12-1920, tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí
Minh đã lên tiếng: "Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội,
cả. phái hữu lần phải tả, chúng tôi kêu gọi Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi". Tiếp nhận
học thuyết Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, tìm thấy “cái cầm nang thần kỳ” cho sự nghiệp cứu nước của các dân tộc bị nô
dịch. Đồng thời, Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước. thuộc địa. Đó là phong trào cộng sản và công nhân thế giới,
là Liên Xô và sau này là các nước xã hội chủ nghĩa, là Quốc tế thứ ba và sau này là Cục
Thông tin quốc tế. Từ đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm lực, phấn đấu không mệt
mỏi cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng cộng sản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại
ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới. Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ
12

thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh của
sự đoàn kết, nhất trị, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới theo tinh
thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được những âm mưu thâm
độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của
nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự đồng tinh, ủng hộ, sự chi viện lớn lao của Liên
Xô. và các nước xã hội chủ nghĩa khác, của các đảng cộng sản và công nhân thế giới. Nó
khẳng định trên thực tế những giải trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa quốc tế vô sản mà
sinh thời Hồ Chí Minh đã kiên trì thực hiện và bảo vệ. Cho dù lịch sử có đổi thay, song sự
đồng tình, ủng hộ, sự chi viện về vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa, của các lực
lượng cộng sản và công nhân cho Việt Nam theo tinh thần quốc tế vô sản là không thể phủ
nhận.
Với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm
mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc,
chủng tộc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện
pháp nhằm "Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối
liên minh này sẽ là một trong những cái cảnh của cách mạng vô sản". Thêm vào đó, để
tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như hai
cái cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản. bằng mọi
cách phải "Làm cho đội tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mặt thiết với giai cấp
vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác
này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng". Người nói,
đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân
các nước thuộc địa là thống nhất.
Với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và công lý,
Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết. Trong xu thế mới của thời đại, sự
thức tỉnh dân tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì
độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp
và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Sau khi Việt Nam giành
được độc lập, thay mặt Chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố: "Chính sách ngoại
giao của Chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên
thế giới đê gìn giữ hòa bình"; "Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một
thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè”. Bên cạnh ngoại giao nhà nước,
13

Hồ Chí Minh đẩy mạnh ngoại giao nhân dân, cho đại diện các tổ chức của nhân dân Việt
Nam tiếp xúc, hợp tác với các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa của nhân dân thế giới, của
nhân dân Á - Phi..., xây dựng các quan hệ hữu nghị, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ thế
giới.
Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý, Hồ Chí
Minh đã khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh
mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh. Thật
hiếm có những cuộc đấu tranh giành được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi và lớn lao như
vậy. Đã nhiều lần, Hồ Chí Minh khẳng định: Chính vì biết kết hợp phong trào cách mạng
nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp bức mà
Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến
những thắng lợi vẻ vang như ngày nay.
2.3.2. Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là vấn đề sách lược, một thủ
đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt
trận thống nhất của nhân dân chính quốc và thuộc địa” chống chủ nghĩa đế quốc, đồng
thời kiến nghị Quốc tế Cộng sản cần có giải pháp cụ thể đến Đại Hội VI (1928), để quan
điểm này trở thành sự thật.
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lý - chính trị và tính chất chính trị - xã hội trong khu
vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí
Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Hồ Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt.
Cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử,
văn hoá và cùng chung một kẻ thù là thực dân Pháp. Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và
quyền tự quyết của mỗi dân tộc, theo đúng quan điểm của Hồ Chí Minh về tập hợp lực
lượng cách mạng, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi
tắt là Việt Minh); giúp Lào và Campuchia thành lập mặt trận yêu nước. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình thành
Mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương.
Mở rộng ra các nước khác, Hồ Chí Minh chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị,
hợp tác nhiều mặt theo tinh thần “vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc - nước
14

láng giềng có quan hệ lịch sử văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết với các
dân tộc châu Á và châu Phi đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc châu Á, Người chỉ rõ,
các dân tộc châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới thực hiện. Vận mệnh dân tộc
châu Á có quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt Nam. Do vậy, từ những năm 20
của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã
tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ
khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với việc tham gia sáng lập các
tổ chức này, Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á -
Phi đoàn kết với Việt Nam.
Những năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh tìm mọi cách xây dựng các
quan hệ với mặt trận dân chủ và lực lượng đồng minh chống phát xít, nhằm tạo thế và lực
cho cách mạng Việt Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ,
bằng hoạt động ngoại giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa,
của bạn bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà bình
Pháp trong kháng chiến chống Pháp và cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ trong kháng
chiến chống Mỹ, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế
quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng cho việc
hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt Nam –
Lào – Campuchia ; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực
rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
2.4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
2.4.1. Đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có
lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết quốc tế
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế, phải
tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân tộc, các lực lượng
tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự
tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại, kết hợp
lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ
của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
15

Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền tảng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình. Là một chiến sĩ cách
mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp củng cố khối
đoàn kết, thống nhất trong cách mạng thế giới, trước hết là phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
“Có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải xuất
phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động thực tế của mỗi
nước, mỗi đảng, tránh giáo điều.
“Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người
cùng chung lý tưởng, cùng chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng sôvanh,
"nước lớn", "đảng lớn"; không "áp đặt", "ức chế”, nói xấu, công khai công kích nhau, hoặc
dùng các giải pháp về chính trị, kinh tế... gấy sức ép với nhau. "Có tình" đòi hỏi trong mọi
vấn đề phải chờ đợi nhau cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của
mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó không được phương
hại đến lợi ích chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
"Có lý”, "có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn không chỉ trong
việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn củng cố tình đoàn kết
trong nhân dân lao động. Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương
cao ngọn cờ độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
2.4.2. Đoàn kết giữa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với phong trào
cách mạng vô sản ở chính quốc
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền
tảng của chủ nghĩa Mắc - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh cho sự
nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng thế giới, trước hết
là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên phong của cách mạng
thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
16

Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng mà điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm
cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai
tươi sáng của toàn thể loài người". Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ
nghĩa quốc tế vô sản.
2.4.3. Đoàn kết với các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Trên tinh thần bốn
biển đều là anh em
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do
và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất
quán, được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là "lẽ phải không ai chối cãi được". Hồ Chí Minh
không chỉ suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc minh mà còn đấu tranh cho
độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng
Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí
Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên
thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu
nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó. Những quan điểm trên được Người thể
chế hóa sau khi Việt Nam giành được độc lập.
Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S. Êli Mâysi, Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính sách đối
ngoại của nước Việt Nam là "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán
với một ai". Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không chỉ
là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các
dân tộc vị các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cắm cờ và là hiện
thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình,
đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc
trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
2.4.4. Đoàn kết giữa các đảng cộng sản và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Với trách nhiệm của người chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến
mối đoàn kết giữa các nước trong hệ thống XHCN. Trong Diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm
ngày Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1957), Người khẳng định:
“Chúng tôi đều nhất trí cần tăng cường đoàn kết trên tinh thần quốc tế chủ nghĩa, trên
17

nguyên tắc tương trợ hợp tác, tôn trọng chủ quyền của nhau giữa các nước anh em trong
đại gia đình xã hội chủ nghĩa”. Trong đoàn kết với các nước phe XHCN, Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý đến mối quan hệ đoàn kết giữa các đảng cộng sản cầm quyền. Người quan
niệm mối quan hệ này là gắn bó, tương trợ lẫn nhau trên tinh thần quốc tế vô sản chân
chính. Người cho rằng: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời
đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Với tư tưởng vô sản quốc tế triệt để và trong sáng
cùng sự khôn khéo tài tình vốn có, Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp to lớn trong hàn
gắn rạn nứt, xây dựng tình hữu nghị, đoàn kết giữa các đảng cộng sản và công nhân, các
nước XHCN anh em, phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết với các Đảng Cộng sản và các nước trong hệ thống
XHCN có ý nghĩa rất lớn đối với thành công của cách mạng thế giới nói chung, cách
mạng Việt Nam nói riêng. Vận dụng tư tưởng của Người, trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã nhận được sự viện trợ, giúp đỡ to lớn
của các nước trong phe XHCN, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, ngay cả khi
hai nước này nảy sinh bất đồng, mâu thuẫn. Ngày nay, khi quan hệ giữa các Đảng cộngản
và công nhân đang gặp nhiều khó khăn, tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị. Đây mãi mãi
là một bài học lớn về xây dựng khối đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh cho hòa bình,
tiến bộ xã hội và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội như C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
2.4.5. Đoàn kết với các lực lượng yêu chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới
Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hòa bình
trong công lý. Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất
di bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà là
"một nền hòa bình chân chính xấy trên công bình và lý tưởng dân chủ, chống chiến tranh
xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai cuộc kháng chiến,
quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự tôn trọng độc lập và
thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim
nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa, lôi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía
nhân dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình. Trên thực tế, đã hình
thành một Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ đoàn kết với
Việt Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí
Minh trong công tác tập hợp lực lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét
Chandra, nguyên Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới cho rằng: "Bất cứ nơi nào chiến đấu
18

cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu
chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay
cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao".
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ trên hầu khắp các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không chỉ là
nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của các dân
tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập và quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người cầm cờ và là hiện thân của
những khát vọng của nhân dân thế giới trong việc khẳng định cốt cách dân tộc, đồng thời
thúc đẩy sự đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới vì thắng lợi của cách mạng
mỗi nước.
2.4.6. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc tế
nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đã đặt
ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định, còn nguồn lực ngoại
sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, trong đấu
tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức
mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Trong
đấu tranh giành chính quyền, Người chủ trương “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh
sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Trong quan
hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái
tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc
lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài, Người nói: “Độc lập nghĩa là
chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”.
Trong quan hệ giữa các Đảng thuộc phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, Người xác
định: “Các Đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng, đồng thời đoàn kết nhất trí giúp
đỡ lẫn nhau”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với đường lối đúng đắn, sáng tạo
của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng giành thắng lợi. Trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, với đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp hài hoà giữa lợi
ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã tranh thủ được sự ủng của phòng trào nhân dân
thế giới đoàn kết với Việt Nam, nhận được sự giúp đỡ vô cùng to lớn của Liên Xô, Trung
19

Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ.
2.5. Kết luận
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh đề ra từ rất sớm, trở
thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh
làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một đóng góp quan trọng vào lý luận
cách mạng thế giới. Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đề
cập vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Do đặc điểm của thời đại mình, C. Mác và Ph. Ăngghen
mới chỉ kêu gọi đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế giới và thực hiện liên minh công nông
(sau Công xã Pari năm 1871) trong đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Tới V.I.
Lênin, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức giai
cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tư tưởng liên minh công nông của C. Mác
được V.L Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy mô toàn thế giới với khẩu hiệu
nổi tiếng: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại". Song, do chưa
đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong mặt trận dân tộc thống
nhất vẫn chưa được V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản đặt ra. Hồ Chí Minh sinh ra trong một
dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự chủ nên đã nhìn thấy sỨC
mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong dựng
nước và giữ nước. Sau khi tìm thấy con đường cứu nước và trước những đòi hỏi khách
quan của cách mạng, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về mặt trận dân tộc thống
nhất - biểu hiện cụ thể của khối đại đoàn kết dân tộc với một hệ thống những quan điểm
khá hoàn chỉnh về công tác mặt trận, được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu và đưa vào
thực tiễn ở Việt Nam, kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, tạo thành sức mạnh
tổng hợp, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một đóng góp quan trọng
vào kho tàng kinh nghiệm cách mạng thế giới, làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin về công tác vận động và tổ chức quần chúng của Đảng Cộng sån. Thực tiễn cách
mạng Việt Nam đã và đang chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh. Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết Hồ Chí Minh, nghiên
cứu để kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết của Người là một
trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn
thành nhiệm vụ, góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam độc lập, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
20

3. Ý nghĩa của tư tưởng hồ chí minh trong xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế ở nước
ta hiện nay
3.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc
tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
Có thể thấy, đoàn kết quốc tế là một trong những nội dung cơ bản mà “Đường Cách
mệnh” chỉ ra; là nền tảng và cơ sở khoa học cho đường lối quốc tế của Đảng ta, góp phần
quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác từ những năm
tháng đấu tranh giành độc lập, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, cho đến giai đoạn cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới
đất nước, Đảng ta tiếp tục vận dụng, sáng tạo quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng
Hồ Chí Minh để phù hợp với bối cảnh quốc tế mới và tình hình của đất nước hiện nay.
Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc, và sức mạnh quốc tế, trong
đó đặt lợi ích dân tộc, của đất nước lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở để xây dựng các chủ
trương, chính sách kinh tế - xã hội. Trước đây, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc là sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm. Hiện nay, sức mạnh ấy phải là sức mạnh
để chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Phải xuất phát từ lợi ích dân tộc mà mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát triển đất
nước.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, ngày 2-11-1993, Bộ
Chính trị Trung ương Đảng khóa VII đã ra Nghị quyết 07/NQ-TW “Về đại đoàn kết dân
tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất”. Nghị quyết này đã phản ánh tập trung
nhất sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi
mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), vấn đề đại đoàn
kết toàn dân tộc đã được đặt ở một tầm cao mới, nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI tiếp
tục bổ sung nhấn mạnh hơn vai trò, tầm quan trọng của đoàn kết dân tộc trong thời đại
mới. Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc”. Để phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XII đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát
huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng;
21

tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao
tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, nhờ vận dụng phù hợp, sáng tạo quan điểm đoàn kết
quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam từng bước hòa
vào dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn liền với phong trào giải phóng dân tộc trên
toàn thế giới, đồng thời đóng góp tích cực cho nền hòa bình và tiến bộ của nhân loại.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở thời kỳ
đổi mới, bằng việc xác định đúng các dòng chảy của thế giới trong xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên nguyên tắc bao
trùm và cũng là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống
nhất và chủ nghĩa xã hội. Chính từ chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc
tế, nước ta từng bước ra khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận và thiết lập quan hệ chính
thức với hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có cả các cường quốc; tham gia các tổ
chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp quốc (UN)..., phát huy vai trò
tích cực, chủ động trong mọi hoạt động tại các thể chế song phương và đa phương.
Thời gian đã trôi qua, nhưng lịch sử đã khẳng định tính đúng đắn những quan điểm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế để tận dụng sức mạnh của thời đại. Đây là
những quan điểm đi trước thời đại và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế mở cửa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Việt Nam hiện nay, thể
hiện qua những hoạt động mà nước ta đã và đang triển khai trong quá trình hội nhập vào
một thế giới toàn cầu hóa, như mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu, thu hút đầu tư nước
ngoài, tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến, khoa học quản lý hiện đại, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại,... Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua hơn 35
năm đổi mới, từng bước mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, được cộng đồng
quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của quan điểm
đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngay từ giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ trương
đúng đắn về đoàn kết quốc tế, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa, hội nhập quốc tế trên tinh thần giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc. Trong xu thế hòa
22

bình, hợp tác và phát triển của thời kỳ đổi mới, vận dụng quan điểm đoàn kết quốc tế trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện bài học kinh
nghiệm lớn “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế”. Hoạt động đối ngoại Việt Nam đã khơi dậy và phát huy cao độ yếu tố
quốc tế, yếu tố thời đại thành sức mạnh hiện thực. Với xu thế hòa bình, hợp tác đang diễn
ra mạnh mẽ, hoạt động đối ngoại của nước ta được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp
phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Công tác đối ngoại đã tạo điều kiện phá vỡ mọi
rào cản và đưa Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã trở
thành “mắt xích” quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu, tham gia
nhiều thỏa thuận thương mại tự do quan trọng, như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh
châu Âu (EVFTA)..., tạo ra động lực mới cho sự phát triển chung của đất nước. Qua đó,
từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, góp phần mở rộng thị trường, thu
hút đầu tư, tăng cường xuất, nhập khẩu; thế và lực của đất nước đã vững mạnh hơn nhiều;
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố, tạo tiền đề quan trọng
để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân.
Với phương châm chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, Việt Nam đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội.
Quy mô, trình độ của nền kinh tế nước ta đã phát triển vượt bậc. Nếu như năm 1989, quy
mô nền kinh tế Việt Nam là 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD.
Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, thu nhập bình quân
đầu người năm 1985 đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Điều này một lần nữa khẳng định, trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử, nếu có nhận thức
đúng đắn và nắm bắt được xu thế phát triển chung của các dòng chảy cách mạng trên thế
giới; gắn mục tiêu đấu tranh của dân tộc ta với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới; vì
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, mới có thể tranh thủ được sự
đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới; nếu đi ngược với
xu thế trên, cách mạng sẽ khó thành công.
Vận dụng quan điểm đoàn kết quốc tế trong điều kiện mới, từ đánh giá đúng cục diện và
xu thế phát triển chung của thế giới, Đảng ta đã đưa ra đối sách đúng đắn, phục vụ đắc lực
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chính sách đối ngoại của Việt Nam phải
tiếp tục kiên định, nhất quán tư tưởng “thêm bạn, bớt thù”, ra sức tranh thủ sự ủng hộ của
các nước bạn bè, anh em và cộng đồng quốc tế, với chính sách chuyển từ đối đầu sang vừa
23

hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại trong hòa bình, không phân biệt chế độ chính trị và
trình độ phát triển; chuyển hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang thúc
đẩy quan hệ chính trị, xã hội, mở rộng quan hệ kinh tế góp phần phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với đối sách đúng đắn trên, Đảng ta đã chuyển từ cách tiếp cận các vấn đề quốc tế và
đường lối đối ngoại chủ yếu dựa trên ý thức hệ sang cách tiếp cận sát với thực tế và toàn
diện hơn, trên cơ sở nhận thức rõ về lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay khi nhân tố lợi ích quốc gia - dân tộc ngày
càng nổi lên. Tuy nhiên, cần phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc trong mối quan hệ và sự
kết hợp hài hòa giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữa chủ nghĩa yêu nước chân
chính và chủ nghĩa quốc tế, với mục tiêu cao nhất là xây dựng nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây cũng là cơ sở cho sự hình thành, phát triển
và triển khai toàn diện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ đối ngoại mà Đảng ta đã và đang thực hiện.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng việc phát triển
quan hệ với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Với chủ trương rộng
mở quan hệ đối ngoại tại Đại hội VI của Đảng, những thành tựu đối ngoại trong thời kỳ
đổi mới đã củng cố một bước tiến vững chắc của Việt Nam trên con đường đưa phương
châm đối ngoại của Việt Nam “muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới”(9) của Đại hội VII (năm 1991), “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế”(10) của Đại hội IX (năm 2001), “là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên
có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(11) của Đại hội XI (năm 2011) và điều này tiếp tục
được khẳng định và nhấn mạnh trong các Văn kiện Đại hội XII và XIII của Đảng. Qua đó
có thể thấy được, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng được phát triển theo
cả bề rộng lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, hợp tác, phát triển trên toàn thế giới. Trong
quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu
tranh” trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Trong đó, hai mặt hợp tác và đấu tranh luôn
gắn bó và có tác động qua lại với nhau, một mặt, thúc đẩy hợp tác; mặt khác, vẫn phải đấu
tranh dưới mọi hình thức, mức độ thích hợp đối với từng đối tượng, trên từng vấn đề, để
vừa có thể ưu tiên bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, vừa thiết lập quan hệ với các nước trên
cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình. Chính sự kết hợp đúng đắn, linh hoạt
giữa vừa hợp tác, vừa đấu tranh đã tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ
24

ngày càng nhiều của các lực lượng tiến bộ trên thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh mới, nhận thức rõ sự chuyển dịch không ngừng trong quan hệ quốc tế,
nhất là quan hệ giữa các nước lớn, Đảng ta đã luôn xử lý linh hoạt các vấn đề tập hợp lực
lượng trong quan hệ quốc tế có liên quan trực tiếp đến nước ta. Đó là trong quá trình đấu
tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, Đảng tiếp tục vận dụng và phát
triển đường lối đoàn kết quốc tế, nêu cao ngọn cờ chính nghĩa làm cho nhân dân thế giới
hiểu rõ cơ sở lịch sử, cơ sở pháp lý về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam để cộng đồng
quốc tế hiểu rõ quan điểm nhất quán của nước ta về các giải pháp đối thoại hòa bình, dựa
trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982; đồng thời, qua đó tăng cường tình đoàn kết,
đồng thuận với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động đối ngoại theo hướng
trên là phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, thấm đượm quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, cũng là cơ sở để xác lập đường lối đối ngoại của Đảng ta từ “rộng
mở” đến “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ”, “là đối tác tin cậy và là thành viên tích
cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Thể hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo,
kiên định nguyên tắc và linh hoạt sách lược, gắn kết mục tiêu cách mạng và định hướng
phát triển đất nước ta với những xu thế phát triển của thời đại. Điều này lại càng có ý
nghĩa trong thời đại hiện nay khi đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế đã trở thành
nhu cầu khách quan của đời sống quốc tế và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Thực tế ngày nay cho thấy, quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được Đảng ta vận dụng linh hoạt và phù hợp với cục diện thế giới cùng xu thế quốc tế hiện
nay. Những quan điểm đó đã và đang được Đảng và Nhà nước ta quán triệt, vận dụng
trong đường lối và thực tiễn quan hệ đối ngoại, hướng tới mục tiêu tiếp tục tạo lập môi
trường hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới, góp phần vào sự phát triển chung của đất
nước, vì mục tiêu cao nhất là lợi ích quốc gia - dân tộc. Chính từ đây đã mở ra một trang
mới trong lịch sử đối ngoại của nước ta. Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 189/193
quốc gia thành viên của Liên hợp quốc. Quán triệt quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xử lý hài hòa các mối quan hệ quốc tế đa tầng, đan chéo,
biến động phức tạp khó lường hiện nay và đang hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn với thế
giới, qua đó góp phần xây dựng lòng tin chiến lược trong hợp tác, thúc đẩy phát triển với
các quốc gia, góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế.
Có thể khẳng định, quan điểm đoàn kết quốc tế trong “Đường cách mệnh” đã mang lại
hiệu quả to lớn, tận dụng được sức mạnh thời đại trong công cuộc đấu tranh giành độc lập
25

dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, góp phần tích
cực vào công cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân dân thế giới. Ngày nay, mặc dù
tình hình quốc tế, khu vực và Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản, nhưng những quan
điểm cơ bản về đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, có ý
nghĩa chiến lược và tiếp tục được quán triệt, thấm sâu vào mọi chủ trương, chính sách đối
ngoại của Đảng, Nhà nước ta, tạo nền tảng vững chắc cho Việt Nam hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng và hiệu quả.
3.2. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi cho phát
triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ
đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng
và các nước trong ASEAN được củng cố. Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng; tích cực, chủ động tham gia các diễn
đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước. Đối ngoại của Đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển
mới. Nhận thức đúng về xu thế của thời đại, về cục diện thế giới và khu vực, Đảng đã có
định hướng sáng suốt và Nhà nước đã có các chính sách đúng đắn và kịp thời trên cơ sở
bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Nhiều chủ trương, giải pháp xử lý các vấn đề quốc gia
- dân tộc - quốc tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư
luận quốc tế ủng hộ.
Trong giai đọan cách mạng hiện nay, việc phát huy bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, lợi ích dân tộc và nghĩa vụ
quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nhất quán coi cách mạng Việt Nam là một bộ
phận không thể tách rời của cách mạng thế giới, tiếp tục đoàn kết, ủng hộ các phong trào
cách mạng, các xu hướng và trào lưu tiến bộ của thời đại vì các mục tiêu hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chủ động hội
nhập kinh tế với khu vực và thế giới, Đảng, Nhà nước ta chủ trương nêu cao nguyên tắc
độc lập tự chủ, tự lực tự cường, chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh dân tộc- sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong mà tranh thủ và tận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi
của lực lượng bên ngoài.
Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ hội nhập quốc tế và phát triển của đất nước hiện nay
vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến
26

nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh chấp
lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy
cơ xung đột, mất ổn định. Xu hướng dân chủ hóa đời sống chính trị quốc tế, các vấn đề
toàn cầu, an ninh phi truyền thống,... đặt ra không ít vấn đề liên quan đến độc lập, tự chủ
của các nước, nhất là với những nước nhỏ, đang phát triển.
Trong bối cảnh đó, chúng ta càng phải nhận thức sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong đối ngoại, hợp tác và phát triển.
Thứ nhất, giữ vững và thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đặt lợi ích
quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết. Việc xác định lợi ích quốc gia - dân tộc và bảo vệ
lợi ích quốc gia - dân tộc của đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới được
coi là yêu cầu hàng đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước,
đồng thời là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm độc lập, tự chủ, dựa vào sức mình
là chính để quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa, đa phương hóa mang lại
hiệu quả cao, bền vững và không làm phương hại đến chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc,
hội nhập mà không hòa tan, độc lập nhưng không đóng cửa, biệt lập với hành trình phát
triển của nhân loại.
Thứ hai, ra sức phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, tạo
sức mạnh tổng hợp của quốc gia - dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái
chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(10). Người đặc biệt nhấn
mạnh: Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Thực lực của ta là sức mạnh tổng hợp mọi
mặt gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Theo đó, cần
tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố
quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân
tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững
chắc.
Thứ ba, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới, coi đây là quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, truyền
thống và hiện đại, là sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chính nghĩa dân tộc, sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
27

Yếu tố quyết định để phát huy sức mạnh dân tộc là giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường. Sức mạnh dân tộc Việt Nam được phát huy ở mức cao trong thời đại Hồ
Chí Minh đã đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách hiểm nghèo.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát huy triệt để những thế mạnh của
chính mình, tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các quan hệ quốc tế. Tham
gia vào những hình thức tập hợp lực lượng quốc tế có lợi vừa góp phần bảo đảm an ninh
quốc gia, vừa tranh thủ cao độ mọi nguồn lực từ bên ngoài để kết hợp và bổ sung cho nội
lực, phục vụ cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trong quá trình ấy, cần nêu cao chính
nghĩa, tính phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, gắn kết sự nghiệp của đất nước với
những mục tiêu tiến bộ của nhân loại, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc
tế trong sáng. Để tận dụng được sức mạnh thời đại nhằm bổ sung, hỗ trợ cho các tiềm
năng phát triển ở trong nước, cần tranh thủ mọi hình thức tập hợp lực lượng và khai thác
tính phụ thuộc và sự ràng buộc lẫn nhau về lợi ích để thêm bạn, bớt thù, hạn chế sự chống
phá và làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực bên ngoài gây mất ổn định và làm suy yếu
đất nước.
Tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn
bè quốc tế, cần nhìn nhận biện chứng trong sự đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối
tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có những mâu thuẫn với lợi ích của ta
cần phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận
cần hợp tác; tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế; đẩy mạnh hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa các nước, nhất là các
nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh
xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Thứ tư, tiếp tục đường lối ngoại giao rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, hợp tác nhiều
mặt với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi, giải quyết các vấn đề tranh chấp đang tồn tại bằng biện pháp hòa bình.
Giữ vững độc lập, tự chủ không chỉ bao gồm việc khắc phục sự lệ thuộc, chống sự áp đặt,
lôi kéo, chi phối mà còn là nêu cao và phát huy tính chủ động trong việc tham gia vào các
công việc chung của cộng đồng khu vực và quốc tế. Theo đó, để giữ được độc lập, tự chủ
trong đối ngoại, hội nhập, chúng ta phải có tầm nhìn chiến lược, khả năng bao quát và dự
liệu cả cơ hội và nguy cơ, đồng thời luôn chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác
28

quốc tế, đề xuất sáng kiến, đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng thể chế và kiến trúc
điều tiết quan hệ quốc tế.
Thứ năm, giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
trong quá trình hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch tranh
thủ mọi sơ hở của ta để chống phá, thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước càng cần được coi trọng. Đây là yếu tố bên trong quyết định sự thắng lợi
của cách mạng, sự phát triển của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để giữ vững sự lãnh
đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước trong hội nhập và phát triển
song song với kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thì phải tiếp tục tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đồng thời ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình
trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”;
củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

4. Kết luận
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, cơ hội và thách thức đan
xen lẫn nhau, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là cơ sở lý luận vững chắc, lâu
dài và bền vững cho cách mạng Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới luôn phát huy cao nhất tinh
thần đoàn kết quốc tế cao cả của Người, để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “…
tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu,
thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em” và cũng thực
hiện sự mong muốn của Người là “ Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát
triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. Tư tưởng ấy
vẫn mãi là sợi chỉ làm gắn kết tinh thần đoàn kết quốc tế và cũng là ngọn nguồn tạo nên
sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến vấn đề đoàn kết. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc về đoàn kết quốc tế là
29

định hướng quan trọng cho quan hệ Ngay từ khi tiếp cận với phong trào cách mạng thế
giới, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào
cách mạng thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, có một con người vĩ đại,đã gắn
cách mạng của đất nước mình với cách mạng thế giới và thời đại, trên cơ sở nhận thức
cách mạng Việt Nam là một bộ phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. Vì vậy, Người chủ
trương thực hiện đoàn kết sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc và hợp tác
cùngcó lợi. Đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện
làm chuyển biến lực lượng có lợi cho cách mạng trong nước. Đoàn kết quốc tế trở thành
một chân lý, một phương châm hành động tất yếu phù hợp với quy luật và sự phát triển
của cách mạng, sự tiếp nối của lịch sử.
Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa, do vậy được sự
ủng hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình thế giới, nhằm tăng cường nội lực và
sức mạnh tổng hợp để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược. Về phần mình, nhân dân Việt
Nam cũng có nghĩa vụ đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới. Hồ Chí
Minh – lãnh tụ vĩ đại đã hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước, cho nhân dân và nhân loại
tiến bộ. Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh để lại cho chúng ta. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc “về phong trào
cộng sản thế giới” là định hướng quantrọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta,
để Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm, đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn
định và phát triển của thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh giúp chúng ta thêm thấm nhuần bài học về quan hệ quốc tế để có định hướng
chiến lược đúng đắn, lâu dài cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, nhất là trong xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tóm lại, tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử mà cìn có
ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng khối đoàn kết quốc tế ở Việt Nam. Việc thực hiện
tư tưởng này mang lại lợi ích rõ ràng cho cả Việt Nam và cocongj đồng quốc tế, đồng thời
góp phần thúc đẩy sự phát triển và hòa bình không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.

You might also like