You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

LỚP: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH L05


NHÓM: 6
HỌC KỲ 211, NĂM HỌC 2021-2022

BÀI TẬP LỚN

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


ĐỀ TÀI:

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ. LIÊN HỆ


VỚI SỨC MẠNH CỦA CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC – CÔNG
NGHỆ TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHẢ NĂNG TIẾP THU, VẬN DỤNG
NHỮNG THÀNH TỰU KHOA HỌC ĐÓ VÀO HOẠT ĐỘNG CỦA
SINH VIÊN

GVGD: ThS. Phan Thị Thanh Hương

STT Họ và tên MSSV


1 Nguyễn Hoàng Bảo Long 1812904
2 Nguyễn Quang Long 1812917
3 Tạ Hoàng Nam 1813172
4 Trần Hoàng Hoài Nam 1813174
5 Nguyễn Thành Nghĩa 1810352

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 9 NĂM 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................1

NỘI DUNG....................................................................................................................2

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế........................................................2

1.1. Vai trò của đoàn kết quốc tế...............................................................................2

1.1.1. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng Việt Nam.........................................................................................2

1.1.2. Góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách
mạng của thời đại....................................................................................................3

1.2 Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức........................................................5

1.2.1 Các lực lượng cần đoàn kết............................................................................5

1.2.2 Hình thức tổ chức............................................................................................7

1.3 Nguyên tắc đoàn kết quốc tế................................................................................8

1.3.1 Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình................8

1.3.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường...................................11

2. Liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế với sức mạnh của các cuộc
cách mạng khoa học-công nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng
những thành tựu khoa học đó vào hoạt động của sinh viên...................................13

2.1. Thực trạng về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trên
thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt
động của sinh viên....................................................................................................13

2.1.1. Ưu điểm về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trên
thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt
động của sinh viên.................................................................................................13

2.1.2. Nhược điểm về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trên
thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt
động của sinh viên.................................................................................................16
2.2. Giải pháp để phát huy sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào
hoạt động của sinh viên...........................................................................................17

2.2.1. Giải pháp để phát huy sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó
vào hoạt động của sinh viên..................................................................................17

2.2.2. Giải pháp để khắc phục những khuyết điểm nhằm phát huy sức mạnh của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận
dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt động của sinh viên.........................19

KẾT LUẬN.................................................................................................................22

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................23


MỞ ĐẦU
Với chủ đề được giao, nhóm em được tiếp cận và nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế. Em thấy rằng đoàn kết quốc tế là vấn đề đã được nước ta
vận dụng rất tốt và là định hướng chiến lược quan trọng cho đường lối, chính sách đối
ngoại nói riêng, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam nói chung.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, tinh thần đoàn kết quốc tế
luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao và vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Dựa trên tình hình thực tế và nhiệm vụ cách
mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn
kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp
phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đi theo con đường
mà Người đã vạch ra, Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa và phát triển tư tưởng đoàn kết
quốc tế trong sáng đó để làm kim chỉ nam cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ
trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước xuất phát từ mong muốn giải
phóng dân tộc mình khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Trong hành trình qua các
châu lục, Người đã tận mắt chứng kiến và xúc động trước bao nỗi khổ cực của người
dân mất nước và người lao động lầm than. Cũng từ đây, Người nhận thức sâu sắc về
việc phải đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức thành một mặt trận chung, tạo nên sức
mạnh cả về vật chất và tinh thần, chống kẻ thù chung là thực dân, đế quốc, giành lại
quyền độc lập, tự do cho mỗi dân tộc.
Hiện nay, đất nước ta đang áp dụng sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ trên thế giới một cách hiệu quả để đất nước ta ngày một phát triển hơn. Khả
năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt động của sinh viên để
sinh viên có thể học tập hiệu quả hơn, như việc hiện tại sinh viên đang ứng dụng các
ứng dụng của khoa học – công nghệ như Google Meet, Zoom,… để học tập trong thời
kì dịch.
NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
1.1. Vai trò của đoàn kết quốc tế
1.1.1. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp
cho cách mạng Việt Nam
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
chiến thắng kẻ thù là một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh và
cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng nhất, mang tính thời sự sâu
sắc nhất của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh
thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường
dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho
độc lập, tự do...Sức mạnh đó đã giúp cho dân tộc ta vượt qua mọi thủ thách, khó khăn
trong dựng nước và giữ nước.
Là một nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh luôn có niềm tin bất diệt vào
sức mạnh dân tộc. Ngay trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng, Người
vẫn bộc lộ một niềm lạc quan tin tưởng rất mạnh mẽ và sâu sắc vào sức mạnh của dân
tộc.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh
sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại
tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ. Các trào lưu
đó nếu được liên kết, tập hợp trong khối đoàn kết quốc tế sẽ tạo nên sức mạnh to lớn.
Sức mạnh đó luôn được bổ sung những nhân tố mới, phản ánh sự vận động, phát triển
không ngừng của lịch sử toàn thế giới và tiến trình chính trị quốc tế sau thắng lợi của
Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt nam chỉ có thể
thành công và thành công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách
mạng thế giới. Cùng với quá trinh phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
quan hệ với tình hình quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã
được Hồ Chí Minh phát triển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
Đánh giá vai trò của đoàn kết quốc tế với cách mạng Việt Nam, trong buổi nói
chuyện với đại sứ nước ta tại Liên Xô năm 1961, Hồ Chí Minh nói: “Khí thế đang
lên, và mức độ, hình thức đấu tranh tới đây sẽ không dừng lại ở đó. Có sức mạnh cả
nước một lòng đó lại có sự ủng hộ của nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức
mạnh tổng hợp cộng với phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định nước ta sẽ đi
đến đích cuối cùng”1. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải
gắn liền với đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện
đoàn kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc là để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù. Nếu đại đoàn kết dân
tộc là một trông những nhân tố quyết định của cách mạng Việt Nam thì đoàn kết quốc
tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng việt
Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách
mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế;
thực hiện đoàn kết quốc tế không phải chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước, mà
còn vì sự nghiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt
thời kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu
rộng, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của cả
loài người.
Ngay khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động
không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt
Nam với cách Mạng thế giới. Trong suốt quá trình đó, Người không chỉ phát huy triệt

1
Dẫn theo Hà Bình Nhưỡng, Trái tim nhân ái, Tạp chí Nhà văn của Hội Nhà văn Việt
Nam, số 3-2000, tr.19-20
để sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc trong đấu tranh giành độc
lập, tự do cho dân tộc mình, mà còn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi để củng cố và
tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu tranh cho mục tiêu
chung: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: chủ
nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Trong Báo cáo chinh trị tại Đại hội II, người chỉ rõ: “tinh thần yêu nước chân chính
khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của
tinh thần quốc tế”2. Sau này, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người nói rõ hơn:
“tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn nền độc lập, tự do, và đất đai toàn vẹn của
nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước
khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến
tranh của đế quốc...giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta....đó là
lập trường quốc tế cách mạng”3.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì
mục tiêu chung, các đảng Cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm
của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc...những khuynh hướng làm suy yếu sức
mạnh đoàn kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các
đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân là nhân dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập niên qua là thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung thêm nguồn lực mới, trỏ thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ
giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ quốc tế, huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, làm cho sức
2
PGS. TS. Lưu Ngọc Tố Tâm (2020), Phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước Việt
Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, https://www.moha.gov.vn/nghi-quyet-tw4/tin-tuc-
su-kien/phat-huy-suc-manh-tinh-than-yeu-nuoc-viet-nam-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-
44092.html

3
Hồ Chí Minh (1953), Thường thức chính trị, báo Cứu quốc.
mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to
lớn hơn mình về nhiều mặt.
Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ,
chúng ta không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập,
tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ những lợi ích sống còn của dân tộc mình
mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội. Để làm được như vậy, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chống lại chủ nghĩa Xôvanh và mọi thứ chủ nghĩa cơ
hội khác.
1.2 Lực lượng đoàn kết và hình thức tổ chức
1.2.1 Các lực lượng cần đoàn kết
Thứ nhất là phong trào cộng sản và công nhân thế giới
Hồ Chí Minh cho rằng sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản quốc tế là một bảo đảm
vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Đánh giá cao về vai trò của khối đại
đoàn kết của giai cấp vô sản thế giới, tháng 12 – 1920, tại Đại hội Tua của Đảng xã
hội Pháp, Người đã lên tiếng: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các
đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu
chúng tôi”4. Tiếp nhận học thuyết Lê Nin, Người tìm ra được phương hướng đấu tranh
cho công cuộc giải phóng dân tộc, tìm thấy lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa - phong trào cộng sản và công nhân thế
giới – cũng chính là lực lượng nòng cốt của đoàn kết quốc tế.
Bác cũng cho rằng chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ
thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó, chỉ có sức mạnh
của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế giới
mới có thể chống lại được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân,
từ đó phong trào cộng sản và công nhân thế giới là lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công
cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa.

4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.1,tr.23-24.
Thứ hai là phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
Khi nhận ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc thì Người đã kiến
nghị lên Ban Phương Đông quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “ làm cho các
dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ
là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”5 .
Bên cạnh đó, để tăng cường sự đoàn kết của cách mạng thuộc địa và cách mạng
vô sản chính quốc thì Người còn đề nghị Quốc tế Cộng sản: “ Làm cho đội tiên phong
của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản Phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho
giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”6 .
Hai điểm trên đều là các điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, Người nhìn nhận các
vấn đề một cách tối ưu và xuyên suốt nhất.
Thứ ba là các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dan chủ, tự
do và công lý – nhân loại tiến bộ
Khi Việt Nam giành được độc lập, thay mặt chính phủ, Hồ Chí Minh đã nhiều
lần tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của chính phủ thì chỉ có một điều tức là thân
thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”7 , “Thái độ của
nước Việt Nam đối với những nước Á Châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường
là một thái độ bạn bè”8.
Dựa trên các tư tưởng của lực lượng tiến bộ gồm tư tưởng hòa bình, yêu
chuộng hòa bình, yêu tự do, dân chủ và công lý, Hồ Chí Minh gắn liền cuộc đấu tranh
vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng nhằm
khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ
chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người trên hành tinh.
Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và
nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp được sức

5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.2, tr.124.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.2, tr.124.
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.5, tr.30.
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.5, tr.136.
mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì
sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức khác. Từ lòng thương yêu và khát vọng
giải phóng dân tộc mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông cảm với nỗi thống khổ và số
phận của nhân dân các thuộc địa, mà có công thành lập các tổ chức: “Liên minh các
dân tộc thuộc địa”, “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”… Ngay từ khi tiếp
cận với phong trào cách mạng thế giới, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong
mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử
nước ta, có một con người vĩ đại, gắn cách mạng của đất nước mình với cách mạng
thế giới và thời đại.
1.2.2 Hình thức tổ chức
Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không phải là vấn đề sách lược,
một thủ đoạn chính trị nhất thời mà là vấn đề có tính nguyên tắc, một đòi hỏi khách
quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Mặt trận đầu tiên chính là mặt trận đại đoàn kết dân tộc, từ năm 1924, Hồ Chí
Minh đã đưa ra quan điểm về thành lập “Mặt trận thống nhất của nhân dân chính
quốc và thuộc địa”9 để chống chủ nghĩa đế quốc. Dựa trên cơ sở quan hệ về địa lý –
chính trị và tính chất chính trị – xã hội trong khu vực và trên thế giới cũng như tình
hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng
và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách
mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam và
rồi khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc.
Đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, Bác Hồ ưu tiên quan tâm vì các
điểm tương đồng về văn hóa, lịch sử và có kẻ thù chung là thực dân Pháp. Người
khẳng định: “Sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào,
Campuchia đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng”. Trong
thư gửi Hội nghị nhân dân Đông Dương, người khẳng định: “ Ý chí thống nhất của
nhân dân ba nước chúng ta là kiên quyết đấu tranh chống lại sự xâm lược của đế
quốc Mý và ra sức bảo vệ hào bình, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ”. Phát biểu
trong buổi gặp nhà vua Lào Xri Xavang Vastthana, Người cũng nhấn mạnh:

9
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.1, tr.282
“ Việt Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”10
Người thành lập riêng các Mặt trận độc lập đồng minh cho từng nước, tiến tới
thành lập Đông Dương đồng minh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ,
Người đã chỉ đạo việc hình thành Mặt trận đoàn kết Việt – Miên – Lào nhằm phối
hợp, giúp đỡ lẫn nhau cùng chiến đấu, cùng thắng lợi.
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu
nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh em với Trung Quốc,
nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá lâu đời với Việt Nam; thực hiện đoàn kết
với các dân tộc Châu Á và Châu Phi đang đấu tranh giành độc lập. Với các dân tộc
Châu Á, Người chỉ rõ, các dân tộc Châu Á có độc lập thì nền hoà bình thế giới mới
thực hiện. Vận mệnh dân tộc Châu Á quan hệ mật thiết với vận mệnh dân tộc Việt
Nam. Do vậy, từ những năm 20 của thế kỷ XX, cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp
thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức tại Trung Quốc . Từ đây mà Hồ Chí Minh đã góp phần đặt cơ sở cho sự ra đời của
Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam.
Với quan điểm chiến lược đúng đắn ấy và trên cơ sở quán triệt sâu sắc khẩu
hiệu lịch sử của Các Mác “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”, Hồ Chí Minh đã đưa
ra một luận điểm nổi tiếng:
“ Quan sơn muôn dặm một nhà.
Bốn phương vô sản đều là anh em”11.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bằng hoạt động ngoại
giao không mệt mỏi, Hồ Chí Minh đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của bạn
bè quốc tế và nhân loại tiến bộ, trong đó có cả nhân dân Pháp trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và nhân dân Mỹ trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hình
thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Người khẳng định: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào.
Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, Nhân dân Việt-Mỹ

10
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.11, tr.44
11
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị Quốc gia, 1995 -2002, tập 8, tr 362
nhất định sẽ thắng. Đó sẽ là thắng lợi vẻ vang của mặt trận thống nhất nhân dân hai
nước, mà cũng là thắng lợi chung của loài người yêu chuộng chính nghĩa và hòa
bình”12 .
Như vậy thì tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã
định hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận đoàn kết Việt – Miên – Lào; Mặt trận nhân dân Á – Phi đoàn kết với Việt Nam;
Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực
sự là sự phát triển rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng đại đoàn kết của
Hồ Chí Minh.
1.3 Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
1.3.1 Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Cũng như xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, muốn thực hiện được đoàn kết
quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động
quốc tế phải tìm ra được những điểm tương đồng về mục tiêu và lợi ích giữa các dân
tộc, các lực lượng tiến bộ và phong trào cách mạng thế giới. Đây là vấn đề cốt từ có
tính nguyên tắc trong công tác tập hợp lực lượng. Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã phát
hiện ra sự tương đồng này nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời
đại, kết hợp lợi ích của cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận
thức về nghĩa vụ của Việt Nam đối với sự nghiệp chung của loài người tiến bộ.
Để đoàn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế Hồ Chí Minh
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết
thống nhất trên nền tảng của chủ nghĩa Mác —Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình.
Là một chiến sĩ cách mạng quốc tế kiên định. Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu
tranh cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng
thế giới, trước hết là trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, lực lượng tiên
phong của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng
12
Hồ Chí Minh: Toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2011, t.11, tr.524.
nhất để bảo đảm cho phong trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu
tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực
hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, quán triệt sâu
sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
“Có lý” là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
phải xuất phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, việc trung thành
với chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào hoạt động
thực tế của mỗi nước, mỗi đảng, tránh giáo điều. “Có tình” là sự thông cảm, tôn trọng
lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người cùng chung lý tưởng, cùng chung
mục tiêu đấu tranh: phải khắc phục tư tưởng sôvanh, nước lớn, đảng lớn, không áp
đặt, ức chế, nói xấu, công khai công kích nhau, hoặc dùng các giải pháp về chính trị,
kinh tế... gây sức ép với nhau. “Có tình” đòi hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau
cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc,
mỗi đảng phải được tôn trọng, song lợi ích đó-không được phương hại đến lợi ích
chung, lợi ích của đảng khác, của dân tộc khác.
“Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn
không chỉ trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân mà còn
củng cố tình đoàn kết trong nhân dân lao động.
Để đoàn kết với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ
độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là
tư tưởng nhất quán được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là “lẽ phải không ai chối cãi
được”. Hồ Chí Minh không chỉ suốt đời đấu tranh cho tự do của dân tộc mình mà còn
đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với
các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc
Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả
các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên
thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Những quan điểm trên được Người thể chế hóa sau khi Việt Nam giành được
độc lập. Tháng 9-1947, trả lời nhà báo Mỹ S.ÊIi Mâysi.Hồ Chí Minh tuyên bố: Chính
sách đối ngoại của nước Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không
gây thù oán với một ai”.
Thời đại Hồ Chí Minh sống là thời đại bão táp của phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc trên hầu hết các châu lục của thế giới. Trong tiến trình đó, Người không
chỉ là nhà tổ chức, người cổ vũ mà còn là người ủng hộ nhiệt thành cuộc đấu tranh của
các dân tộc vì các quyền dân tộc cơ bản của họ. Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở thành người khởi xướng, người
cầm cờ và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định
bản sắc dân tộc của mình, đồng thời thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn
kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng
mỗi nước.
Để đoàn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ hòa bình trong công lý. Giương cao ngọn cờ hòa bình, chống chiến tranh xâm
lược là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng
đó bắt nguồn từ truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản và những giá trị nhân văn nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ
Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, đấu tranh cho hòa bình, một nền hòa
bình thật sự cho tất cả các dân tộc – “hòa bình trong độc lập tự do”.
Giương cao ngọn cờ hòa bình và đấu tranh bảo vệ hòa bình là tư tưởng bất di
bất dịch của Hồ Chí Minh. Nhưng đó không phải là một nền hòa bình trừu tượng, mà
là “một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”, chống
chiến tranh xâm lược vì các quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia. Trong suốt hai
cuộc kháng chiến, quan điểm hòa bình trong công lý, lòng thiết tha hòa bình trong sự
tôn trọng độc lập và thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã
làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác dụng cảm hóa lôi kéo các lực lượng tiến
bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam đòi chấm dứt chiến tranh, văn hóa hòa
bình. Trên thực tế, đã hình thành một Mặt trận nhân dân thế giới, có cả nhân dân Pháp
và nhân dân Mỹ đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược, góp phần kết thúc
thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Đánh giá vai trò và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp
lực lượng cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch
Hội đồng Hòa bình thế giới cho rằng: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở
đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa
bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở
đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có ngọn cờ
Hồ Chí Minh bay cao”.13 Quan điểm trên khẳng định rằng tính phổ quát của tư tưởng
Hồ Chí Minh - nhìn dưới giác độ văn hóa - cần phải nhận thức rằng Hồ Chí Minh là
con người của đối thoại, của hòa bình, hòa giải, góp phần thúc đẩy sự xích lại gần
nhau của các nền văn hóa. Lúc sinh thời, ước vọng và hành động của Hồ Chí Minh là
tôn trọng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, xóa bỏ những rào cản giữa các nền văn hóa
khác nhau.
1.3.2 Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường
Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực
lượng quốc tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
cách mạng đặt ra. Để đoàn kết tốt phải có nội lực tốt. Nội lực là nhân tố quyết định,
còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh.
Chính vì vậy trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình
phải tự giúp lấy mình đã”. Trong đấu tranh giành chính quyền. Người chủ trương
“đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người
chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập”14. Trong quan hệ quốc tế. Người nhấn mạnh: phải có
thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có
đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn. Trả lời một phóng viên nước ngoài. Người nói:
“Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự
can thiệp ở ngòai vào”. Trong quan hệ giữa các dân thuộc phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế Người xác định: “Các đảng dù lớn dù nhỏ đều độc lập và bình đẳng,
đồng thời đoàn kết nhất trí giúp đỡ lẫn nhau”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp của Việt Nam là thắng lợi của đường
13
Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb Lao động - Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1993 trang 90
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Sđd, t.7, trang 244
lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến
chống đế quốc Mỹ với đường tới độc lập, tự chủ, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, Đảng ta đã
tranh thủ được phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam, tạo ra được tiếng
nói chung và sự ủng hộ có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của
Liên Xô, Trung Quốc, giữa lúc hai nước này đang có những bất đồng sâu sắc cả về
đường lối quốc tế lẫn đường lối chống Mỹ của Việt Nam. Sự đoàn kết của Việt Nam
với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã góp phần quan
trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách
mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đánh
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.

2. Liên hệ tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế với sức mạnh của các cuộc
cách mạng khoa học-công nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng
những thành tựu khoa học đó vào hoạt động của sinh viên.
2.1. Thực trạng về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trên
thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt
động của sinh viên.
2.1.1. Ưu điểm về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trên
thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt
động của sinh viên.
Trải qua hơn nửa thế kỉ, nhất là từ sau những năm 70, cuộc cách mạng khoa
học-kĩ thuật đã thu được những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu.Trong
những lĩnh vực khoa học cơ bản, loài người đã đạt được những thành tựu hết sức to
lớn, những bước nhảy vọt chưa từng thấy trong lịch sử các ngành Toán học, Vật lí
học, Hóa học, Sinh học v…v…Dựa vào những phát minh lớn của các ngành khoa học
cơ bản. con người đã ứng dụng cải tiến kĩ thuật, phục vụ sản xuất và cuộc sống của
mình.
Những thành tựu này đã mở ra một kỉ nguyên mới cho y học và sinh học, với
những triển vọng to lớn, đấy lùi bệnh tật và tuổi già. Tuy nhiên, những thành tựu này
lại gây nên những lo ngại về mặt pháp lí như công nghệ sao chép con người hoặc
thương mại hóa công nghệ gen.
Trong lĩnh vực công nghệ, đã xuất hiện những phát minh quan trọng, đạt được
những thành tựu to lớn: những công cụ sản xuất mới (máy tính điện tử, máy tự động
và hệ thống hóa máy tự động, rôbốt v.v..); những nguồn năng lượng mới (năng lượng
mặt trời, năng lượng gió và nhất là năng lượng nguyên tử v.v ); những vật liệu mới
(như chất pôlime-chất dẻo với nhiều loại hình khác nhau, các loại vệt liệu siêu sạch,
siêu cứng, siêu bền, siêu dẫn,…) công nghệ sinh học với những đột phá phi thường
trong công nghệ di truyền, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh và công nghệ enzim,
…dẫn tới cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp với những giống lúa mới có năng
suất cao, chịu bệnh tốt; những tiến bộ thần kì trong thông tin liên lạc và giao thông
vận tải (cấp sợ thủy tinh quang dẫn, máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ
cao v.v.); chinh phục vũ trụ (vệ tinh nhân tạo, du hành vũ trụ v.v.).
Cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có những tác động tích cực về nhiều mặt
như năng suất lao động, không ngừng nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của
con người. Từ đó dẫn đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư, chất lượng nguồn
nhân lực, những đòi hỏi mới về giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, sự hình thành một
thị trường thế giới và xu thế toàn cầu hóa.
Thông tin và tri thức khoa học trở thành yếu tố đặc biệt quan trọng của sản xuất
và đời sống xã hội, ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các lực
lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, trở thành động lực của sự phát
triển của cả sản xuất, con người và xã hội. Cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra
môi trường xã hội đặc biệt. Đó là môi trường thông tin, trong đó lao động thể lực được
thay thế bằng lao động trí tuệ với những phẩm chất và năng lực tinh thần, đòi hỏi tính
chất sáng tạo, độc đáo, cá nhân hóa. Thông tin, tri thức khoa học trở thành điều kiện,
môi trường, nhân tố cấu thành và nội dung thiết yếu của quá trình sản xuất, là nguồn
tạo ra của cải vô tận, là nguồn lực đặc biệt của sự phát triển con người và xã hội.
Cách mạng khoa học - công nghệ đang là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự
phát triển không chỉ của công nghiệp, của sản xuất mà của cả con người lẫn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, quốc gia nào có được tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh
mẽ thì sẽ có tốc độ phát triển nhanh về mọi mặt, có điều kiện và cơ hội để phát triển
bền vững, đóng góp tích cực cho sự phát triển của nhân loại.
Cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ
quốc tế phát triển theo hướng ngày càng toàn diện hơn.Chính những sản phẩm của
cách mạng công nghệ đã giải quyết vấn đề thông tin liên lạc, giao thông vận tải giữa
các nước, giúp đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế, đưa kinh tế, văn hóa-xã hội
Việt Nam đi ra khỏi biên giới quốc gia.
Cách mạng khoa học - công nghệ không chỉ tạo ra những đột phá trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, mà điều quan trọng là nó làm cho sự phát triển của các lĩnh
vực đó diễn ra với những gia tốc khác nhau, trong các lĩnh vực và các quốc gia, các
khu vực khác nhau. Một mặt, nó vừa tạo ra cơ hội để các quốc gia đang phát triển có
thể nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển, nếu họ tận
dụng được các thành tựu của CMKHCN, biến nó thành động lực thực sự cho sự phát
triển kinh tế, xã hội và con người. Nhưng nó sẽ là một thách thức cực kì khó vượt qua,
làm tăng thêm nhanh chóng khoảng cách tụt hậu vốn đã có sẵn của các nước đang
phát triển, bởi các quốc gia phát triển có tiềm lực khoa học, kĩ thuật, công nghệ và
công nghiệp mạnh mẽ sẽ đi vào tương lai với tốc độ ngày càng nhanh. Các nước đang
phát triển khó có được những tiềm lực như vậy trong thời gian ngắn. Nghịch lí “rùa,
thỏ chạy đua” trở thành một thực tế ngày càng khắc nghiệt đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam chúng ta.
• Ưu điểm của việc tiếp thu, vận dụng thành tựu khoa học công nghệ vào
hoạt động của sinh viên.
Xu thế cách mạng công nghệ hiện nay đòi hỏi sinh viên phải là người chủ
động, tích cực học tập và rèn luyện bản thân, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của mình. Việc quản lí của giảng viên đối với sinh viên không còn bị gò bó, thậm chí
giảng viên chỉ là người hướng dẫn, định hướng việc học tập của sinh viên. Phương
pháp học tập của chính sinh viên cần phải thay đổi để thích ứng với thời đại số, dữ
liệu và vạn vật kết nối. Các em có thể học tập, lĩnh hội kiến thức bằng những phương
pháp mở rộng, tự do, sáng tạo và vô cùng linh hoạt, chủ động học ở bất cứ khi nào, bất
cứ nơi đâu, như vậy sẽ kích thích sự sáng tạo và trí tưởng tượng của sinh viên hơn là
việc học thuộc lòng để “trả bài” một cách hình thức.
Xây dựng một phương pháp học tập phù hợp với xã hội hiện đại là điều kiện để
các em tiếp cận với nhiều tri thức khoa học trong cùng một thời gian học tập. Nội
dung học tập của sinh viên cũng cần thay đổi, không còn gò bó, khép kín trong đề
cương môn học nặng về lí thuyết; được bổ sung, hoàn thiện và luôn luôn đổi mới, đáp
ứng được sự thay đổi về tri thức khoa học trên thế giới và ở Việt Nam. Đây cũng là
một trong những yếu tố khác biệt mà cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cho giáo
dục, mở rộng, tối đa các lĩnh vực giáo dục, tạo điều kiện cho việc thay đổi phương
pháp và nội dung học tập của sinh viên.
Tác động rõ ràng nhất của cách mạng công nghiệp 4.0 là trí tuệ nhân tạo và sự
xuất hiện của robot có thể thay thế con người về khả năng tính toán, ghi nhớ, phân tích
cùng hiệu suất công việc cao. Theo đó, nhu cầu về nguồn nhân lực có tay nghề cao, tư
duy sáng tạo, thực hiện những công việc phức tạp, làm chủ máy móc lại tăng lên. Điều
này sẽ tác động trực tiếp tới nguồn lao động trong những năm tới - chính là những
sinh viên đang học tập hôm nay.
Cách mạn công nghiệp 4.0 đã tác động mạnh đến nền giáo dục ở mỗi nước
khiến ranh giới giữa các ngành học sẽ không còn rõ ràng mà phải hỗ trợ, bổ sung lẫn
nhau. Vì vậy, đây là cơ hội để sinh viên chủ động tích lũy tri thức, làm chủ công nghệ,
cập nhật kịp thời những ứng dụng tiến bộ của khoa học kĩ thuật mới nhất để có thể
cạnh tranh về việc làm trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, giúp các em có nhiều trải
nghiệm để hoàn thiện bản thân, trở thành “những công dân toàn cầu” năng động, sáng
tạo và tràn đầy nhiệt huyết.
2.1.2. Nhược điểm về sức mạnh của các cuộc cách mạng khoa học-công nghệ
trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào
hoạt động của sinh viên.
Cách mạng khoa học - công nghệ cũng tác động ngày càng mạnh mẽ đến
những vấn đề toàn cầu. Một mặt, nó là công cụ, phương tiện hữu hiệu để có thể giải
quyết những vấn đề toàn cầu đã và đang xuất hiện ngày một thêm căng thẳng đối với
nhân loại. Mặt khác, nó cũng lại làm tăng thêm mức độ căng thẳng của một số vấn đề
toàn cầu, thậm chí theo một số học giả, có thể làm xuất hiện những vấn đề toàn cầu
mới. Những hậu quả tiêu cực do việc sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại (chủ yếu do chính con người tạo nên) như tình trạng ô
nhiễm môi trường trên hành tinh cũng như vũ trụ, hiện tượng Trái Đất nóng dần lên,
những tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới v.v. và nhất là việc chế
tạo những loại vũ khí hiện đại có sức công phá và hủy diệt khủng khiếp, có thể tiêu
diệt nhiều lần sức sống trên hành tinh.
• Những thách thức mà cách mạng công nghiệp 4.0 đề ra cho sinh viên.
Một trong những tác động của CMCN 4.0 đến SV là sự lựa chọn ngành nghề
theo học. Để thích ứng với thời đại CMCN 4.0 thì nhu cầu nhân lực về công nghệ
thông tin, an ninh mạng, công nghệ sinh học... sẽ tăng cao. Điều này là cơ hội cũng
như là thách thức đối với sinh viên, đòi hỏi sự nỗ lực cao của chính họ, bởi vì
ngoài kiến thức chuyên ngành, các em còn cần trang bị thêm các kĩ năng liên quan
khác, đồng thời phải thích ứng với những phương pháp học tập mới. Bên cạnh đó,
những nhóm ngành về xã hội - nhân văn, sáng tạo nghệ thuật... cũng có nhiều cơ hội
phát triển vì robot khó có thể thay thế hoàn toàn con người trong những lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, trau dồi ngoại ngữ là một điều không thể thiếu trong thời kì cách
mạng công nghiệp 4.0, giúp sinh viên dễ dàng tìm kiếm cơ hội học tập cũng như việc
làm hấp dẫn, đặc biệt là trong xu thế “đa quốc gia hóa” của các công ty lớn như hiện
nay.
2.2. Giải pháp để phát huy sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ
trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó vào
hoạt động của sinh viên.
2.2.1. Giải pháp để phát huy sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học đó
vào hoạt động của sinh viên.
Ngày nay với sự phát triến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học- công
nghệ trên thế giới đặc biệt là ở những nước phát triển nhanh như: Mỹ, Anh, Trung
Quốc, Nhật Bản,... Trên tinh thần đoàn kết quốc tế cùng nhau phát triển thì các nước
trên thế giới đã có những sự hỗ trợ giúp đỡ, chia sẽ lẫn nhau về các thành tựu khoa
học- công nghệ mà họ đã nghiên cứu và đạt được. Ví dụ cụ thể như: trong đại dịch
Covid-19 đã và đang hoành hành trên khắp thế giới trong có có Việt Nam, với cương
vị là nước tạo ra vaccine đầu tiên để ngăn ngừa và phòng chống lại dịch bênh này đó
là một thành tựu khoa học vô cùng to lớn, và với kinh nghiệm khả năng sản xuất được
vaccine nước Nga cũng đã chia sẽ phương pháp cho các nước khác trên thế giới. Từ
nền tảng đó và với tư duy nghiên cứu, tìm tòi một số nước cũng đã tạo ra những loại
vaccine khác nhau với công dụng ngày càng cao hơn. Ở Việt Nam, vaccine cũng được
nghiên cứu và đã tự chính mình sản xuất ra loại vaccine mới đó là Nanocoax vaccine
cũng đang được chuẩn bị đưa vào sử dụng. Cũng từ đây công cuộc cách mạng sản
xuất vaccine được hình thành và phát triển góp phần đẩy lùi dịch bênh, đưa cuộc sống
người dân trở lại trạng thái bình thường, giúp dần dần hồi phục sản xuất, kinh tế, xã
hội của nước nhà.
Qua đó ta thấy được sức mạnh vô cùng to lớn khi có sự đoàn kết quốc tế của
cuộc cách mạng khoa học- công nghệ. Nó đưa từng nước, từng quốc gia ngày càng
phát triển và từ đó đưa tất cả các nước trên toàn thế giới được tiếp cận với khoa học-
công nghệ. Do đó ta thấy giải pháp quan trọng ở đây để phát triển khoa học- công
nghệ trên thế giới đó chính là sự đoàn kết, giao lưu qua lại giữa các nước, các quốc
gia, cho phép trao đổi và nghiên cứu phát triển giữa các nước với nhau để tạo nên
những sản phẩm, thành tựu mới về khoa học- công nghệ giúp ích cho toàn xã hội, đặc
biệt là con người.
Là những sinh viên trong thời kì 4.0 chúng ta đã được trang bị một số kiến
thức, kỹ năng, những trang thiết bị tối ưu như laptop, phòng thí nghiệm... Giúp cho
sinh viên chúng ta có khả năng tiếp thu và có thể vận dụng để nghiên cứu, sử dụng và
phát triển. Đặt biệt ở thời kì 4.0 thiế bị công nghệ được phát triển kết hợp với internet,
hay nền tảng dữ liệu trên đám mây đây là một yếu mang lợi ích và hỗ trợ rất lớn cho
mỗi người có thể tìm hiểu, đọc, nghiên cứu với nhiều dạng ngôn ngữ khác nhau giúp
cho công cuộc phát triển khoa học- công nghệ ngày càng được nâng cao và nâng tầm
vị thế của nước ta trên thế giới. Ngoài ra, sinh viên còn có những cơ hội vô cùng lớn
như: có thể tiếp xúc, thấy trực tiếp những trang thiết bị, sẩn phẩm khoa học một cách
trực quan, đó cũng là một trong những lợi thế để mang lại tiền đề cho khả năng tiếp
thu, phát triển những thành tựu này.
Trên thực tế hiện nay, ta có thể thấy sinh viên đã có những khả năng tiếp thu và
vận dụng khoa học- công nghệ rất cao. Đặc biệt ở những trường đại học trên nước ta
đã tạo điều kiện rất tốt để sinh viên có thể phát huy hết khả năng của mình trong công
cuộc cách mạng này ở ngay chính môi trường đại học. Đọc trên các bài báo, các
website, hay cụ thể là từ những sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Hồ Chí Minh, ta
có thể tìm thấy rất nhiều những sản phẩm công nghệ mà tự chính tay những sinh viên
này tự làm ra như: robot, xe điều khiển tự hành, các loại máy cơ khí nâng cao khả
năng sản xuất, và rất nhiều những sản phẩm khoa học khác. Mới đây đó là Giải nhất
cuộc thi quốc tế về Tự động hóa được tổ chức bởi Hiệp hội Tự động hóa Trung Quốc
và Ban Chỉ đạo Giảng dạy Giáo dục Nghề nghiệp Công nghiệp Thông tin và Công
nghiệp Trung Quốc của sinh viên trường Đại học Bách Khoa Hồ Chí Minh với sản
phẩm “Smart Inspection for Smart Indoor Shrimp Farming”.
Qua những yếu tố trên, một phần cũng cho thấy sự tiếp thu, học hỏi những
thành tựu khao học- công nghệ trên thế giới của sinh viên là khá tốt. Tuy nhiên cần
phát huy và tuyên truyền đẩy mạnh hơn tinh thần ham học hỏi của mọi người không
chỉ những sinh viên mà còn là tất cả mỗi con người trên đất nước ta. Những bộ phận,
cơ quan chức năng cần tạo thêm những điều kiện thuận lợi nhất, dạy thêm những yếu
tố, kĩ năng và kiến thức thật sự vững vàng để tạo tiền đề cho sinh viên. Từ đó khơi dậy
lòng ham học hỏi, tìm tòi, phát triển những cái mới mang lại sự phát triển cho bản
thân, gia đình và đặc biệt là cùng chung tay phát triển quê hương đất nước giúp nước
ta sánh vai với các cường quốc khác.
2.2.2. Giải pháp để khắc phục những khuyết điểm nhằm phát huy sức mạnh
của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trên thế giới và khả năng tiếp thu,
vận dụng những thành tựu khoa học đó vào hoạt động của sinh viên.
Với sự phát triển mạng mẽ của khoa học- công nghệ hiện nay, nhưng cùng với
sự phát triển đó vẫn còn một số khuyết điểm làm cho sức mạnh của cuộc cách mạng
này vẫn chưa thực sự đạt được tối đa. Một số nước trên thế giới vẫn còn các chính
sách đóng cửa đặc biệt là Trung Quốc, nước này có những chính sách riêng biệt, giám
sát chặc chẽ các hoạt động về tiền tệ với việc Ngân hàng trung ương giám sát chặc chẽ
mọi hoạt động tài chính, đóng cửa công nghệ qua việc tách rời mạng internet Trung
Quốc và thế giới phương Tây. Do có sự bất cập này ở một số nước đã gây ra sự kiềm
hãm về sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ. Một số nước vẫn còn
chưa tuân theo nguyên tắc đoàn kết quốc tế, còn đặt lợi ích riêng và hưởng lợi chỉ cho
bản thân do đó có sự ảnh hưởng đến việc đoàn kết để phát triển.
Để công cuộc cách mạng khoa học- công nghệ phát huy được hết sức mạnh,
một số nước, quốc gia cần khắc phục một số khuyết điểm này và những yếu tố gây
ảnh hưởng đến sự đoàn kết để phát huy. Các nước, các quốc gia cần “ mở cửa” để cho
phép giao thương cả kinh tế, xã hội, công nghệ thì lúc này công cuộc các mạng cũng
sẽ phát triển và tăng sức mạnh. Theo Hồ Chí Minh nước ta cần thực hiện theo nguyên
tắc đoàn kết quốc tế: Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình;
Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường.
Đối với sinh viên một số đã có khả năng tiếp thu, vận dụng được những thành
tựu khoa học- công nghệ vào những hoạt động, phát triển trong quá trình học và
nghiên cứu. Tuy nhiên song song đó vẫn còn rất nhiều những sinh viên chưa thật sự có
khả năng tiếp thu và vận dụng vào hoạt động của mình. Với nền phát triển công
nghiệp cách mạng 4.0 như hiện nay để khắc phục những khuyết điểm mà làm cho khả
năng tiếp thu của sinh viên chưa đạt kết quả cao thì cần khắc phục một số điểm sau.
Thứ nhất, nâng cao khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào
thực tiễn. Ngày nay cả thế giới trong đó có Việt Nam đang tiến vào cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, cuộc cách mạng này ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, việc làm và sự
giao tiếp với thế giới bên ngoài hoàn toàn khác trước đây. Internet kết nối vạn vật
(IoT) giúp mọi thứ kết nối với nhau, giữa người với người, người với vật và nó sẽ
chiếm xu thế cho ngày sau đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ kiến
thức để ứng dụng nó vào thực tiễn. Chính vì thế là sinh viên chúng ta cần phải chủ
động tích lũy tri thức phù hợp với thời thế hiện nay như: kiến thức về công nghệ thông
tin, kiến thức về kỹ thuật công nghệ,... để mở rộng tầm hiểu biết của mình và cập nhật
kịp thời từ đó ứng dụng được vào những tiến bộ khoa học, kỹ thuật công nghệ trên thế
giới.
Thứ hai, các bạn sinh viên cần trang bị cho mình những kỹ năng mềm cần thiết.
Đây cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp thu, vận
dụng những thành tựu khoa học- công nghệ vào hoạt động của mỗi sinh viên. Kỹ năng
mềm quyết định cách bạn làm việc ra sao, vận dụng những kiến thức vào thực tiễn
như thế nào, từ đó cho thấy khả năng làm việc nhóm, hiệu quả công việc của mỗi
người làm ra có được hiệu quả cao hay thấp.
Các kỹ năng mềm bao gồm: làm việc nhóm, giao tiếp, quản lý thời gian, khả
năng thuyết trình ( bao gồm vận dụng trí tuệ, kiến thức công nghệ, bản lĩnh của
mình),... Các kỹ năng này thật sự rất cần thiết để các bạn sinh viên cần học hỏi, trao
dồi nó được coi là chìa khóa dẫn đến sự thành công của mỗi người. Là sinh viên,
chúng ta cần tích tham gia nhiều các hoạt động học thuật, các khóa học của trường
hoặc các trung tâm tổ chức từ đó tích lũy được các kiến thức, kinh nghiệm, các kỹ
năng dần được hình thành và chúng ta có thêm các mối quan hệ tốt đẹp
Thứ ba, sinh viên cần nâng cao khả năng ngoại ngữ nâng cấp trình độ của bản
thân. Theo nghiên cứu hiện nay ngôn ngữ được sử dụng phổ biến nhất đó là Tiếng
Anh với số lượng người sử dụng là 1.348.000.000 người nói và được sử dụng rộng rãi
ở 146 quốc gia. Do đó để nâng cao khả năng tiếp thu, hiểu được những thành tựu khoa
học- công nghệ của các nước thì yêu cầu ngoại ngữ là vô cùng quan trọng và cần thiết
trong thời điểm hiện tại. Trau dồi ngoại ngữ sẽ tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận với
các tin tức, thông tin, các sách báo, tài liệu nước ngoài và hơn hết là có thể giao tiếp
với bạn bè quốc tế nhằm mục đích giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong
nghiên cứu, học tập. Không chỉ là tiếng Anh, mà đối với sinh viên kỹ thuật chúng ta
tiếng Trung và Nhật cũng vô cùng quan trọng bởi vì đa số các công việc nghiên cứu
về công nghệ máy móc thì hai nước Nhật và Trung là hai nước đang có xu thế phát
triển vượt trội trong lĩnh vực này. Để có thể học hỏi và làm việc cho các công ty này,
yêu cầu về tiếng cũng là một yêu cầu hầu như bắt buộc đối với sinh viên. Nó là cơ hội
để các nhà tuyển dụng sẽ ưu tiên hơn cho các bạn sinh viên trong việc làm cũng như
nghiên cứu, phát triển.
Thứ tư, để nâng cao khả năng tiếp thu, vận dụng những thành tựu khoa học-
công nghệ thì yếu tố kinh nghiệm làm việc thực tế cũng là một yếu tố quan trọng mà
mỗi sinh viên cần có. Các doanh nghiệp thường có yêu cầu tuyển những ứng viên có
kinh nghiệm làm việc, chính vì thế để được tuyển vào các doanh nghiệp lớn, các công
ty lớn nghiên cứu khoa học, công nghệ thì sinh viên cần phải có những kinh nghiệm
cụ thể được tích lũy trong quá trình học tập, nghiên cứu trên giảng đường. Không chỉ
thế nếu muốn có cơ hội học tập, làm việc và nghiên cứu cho các công ty, tập đoàn lớn
các sinh viên cần phải tranh thủ thời gian rãnh trong quá trình học có thể đi làm thêm,
tìm kiếm những công việc phù hợp với bản thân với ngành học để nâng cao kinh
nghiệm, khả năng xử lý những tình huống,...
Tóm lại, để có thể tiếp thu và vận dụng những thành tựu khoa học- công nghệ
mới vào chính hoạt động thực tiễn, áp dụng vào cuộc sống thì đối với mỗi sinh viên
chúng ta cần phải thật sự nổ lực, nâng cao trình độ, cố gắng học hỏi, đúc kết những
kinh nghiệm thật vững vàng. Từ đó phát huy được tối đa sức mạng đoàn kết với các
nước, quốc gia khác trong cuộc cách mạng khoa học- công nghệ ở thời đại của cách
mạng 4.0.

KẾT LUẬN
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lenin, tư tưởng đoàn kết quốc tế của
chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến lược góp phần quan trọng, giúp cách mạng Việt
Nam thành công chống lại chủ nghĩa đế quốc, giải phóng dân tộc. Thực hiện đoàn kết
dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế nhằm mục đích kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo thành một sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam, cũng
như nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện các mục tiêu chung cách mạng
thời đại.
Trong tư tưởng của Người, việc tập hợp lực lượng đoàn kết quốc tế rất quan
trọng, phong phú nhưng tập trung chủ yếu vào phong trào Cộng sản và công nhân thế
giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Đồng thời, Người
còn tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế
giới, hình thành các tầng mặt trận, thiết lập quan hệ với các nước láng giềng, các nước
lớn. Người cho rằng đoàn kết quốc tế phải dựa trên nguyên tắc độc lập, tự do, bình
đẳng giữa các dân tộc, hợp tác cùng có lợi nhưng phải “ tự lực cách sinh, dựa vào sức
mình là chính”, có lý, có tình. Tư tưởng đoàn kết quốc tế là tư tưởng tiến bộ, tầm nhìn
vượt thời đại, là nền tảng, cơ sở lý luận, định hướng phát triển kinh tế, quan hệ ngoại
giao với các nước của Việt Nam trong thời đại mới.
Những phát kiến địa lý cùng với những phát minh vĩ đại đã thúc đẩy nền văn minh
nhân loại chuyển sang những giai đoạn mới thông qua các cuộc cách mạng công
nghiệp. Sức mạnh của các cuộc cách mạng công nghiệp làm ra những thay đổi to lớn
đến chính trị, văn hóa, xã hội của cả nhân loại. Với sự đổi mới không ngừng của các
cuộc cách mạng khoa học công nghiệp, Đảng và Nhà nước ta cũng phải không ngừng
hoàn thiện thể chế, chính sách mở cửa, giao lưu, hợp tác, củng cố khối đại đoàn kết
với mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới một cách chủ động tích cực vì mục tiêu hòa
bình, độc lập, dân chủ và phát triển. Để bắt kịp sự đổi mới các cuộc cách mạng công
nghiệp, việc quan trọng của Việt Nam là cần nâng cao trình độ, năng lực của người
lao động. Đối tượng dễ dàng tác động, tiếp thu nhất là thế hệ sinh viên. Nhà nước
cũng như nhà trường cần tạo thêm nhiều cơ hội để sinh viên hiểu biết, nắm được
những thành tựu khoa học, đồng thời sinh viên cần tích cực chủ động tìm hiểu, học
tập, từ đó vận dụng sáng tạo vào nền công nghiệp Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GVC.Ths Nguyễn Đề Thủy - TS Nguyễn Thị Minh Hương (2016), Môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Đại học Quốc Gia TP Hồ Chí Minh.
2. Trịnh Quang Dũng - Phạm Thị Hằng (2018), Cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư và sự tác động đến phương pháp dạy học ở đại học hiện nay,
http://danguy.vinhuni.edu.vn/hoat-dong-chuyen-de/seo/cuoc-cach-mang-cong-
nghiep-lan-thu-tu-va-su-tac-dong-den-phuong-phap-day-hoc-o-dai-hoc-hien-
nay-100441, truy cập ngày 1/10/2021.
3. https://loigiaihay.com/nguyen-tac-doan-ket-quoc-te-c124a20417.html, truy cập
ngày 1/10/2021.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2011)

You might also like