You are on page 1of 36

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ-LUẬT
-----o0o----

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN:TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

TÊN ĐỀ TÀI :PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .LIÊN HỆ VIỆT NAM TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY.

NHÓM: 1

Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 12 năm 2022


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ-LUẬT
-----o0o----

TÊN ĐỀ TÀI : PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP DÂN
TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI .LIÊN HỆ VIỆT NAM TRONG
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY.

Nhóm :1 Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lợi


Trưởng nhóm: Nguyễn Thị Phương Nguyên
1.Nguyễn Ngọc Ánh
2.Lê Thị Ngọc Mỹ
3.Võ Nguyễn Huỳnh Giang
4.Đinh Thị Huyền Mai
5.Nguyễn Thị Xuân Tâm
6.Nguyễn Thị Tố Trinh
7.Nguyễn Kim Bảo Ngân
8.Nguyễn Hoàng Trúc

Thành phố Hồ Chí Minh,tháng 12 năm 2022


Lời cam đoan
Chúng em xin cam đoan đề tài này do nhóm nghiên cứu và thực hiện.
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của đề tài là trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập của
nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Ngan
NT.Nguyễn Thị Phước Ngân
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 2


PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 4
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC ................... 4
1. Vấn đề độc lập dân tộc ........................................................................... 4
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
dân tộc .............................................................................................................. 4
1.1.1. Cách tiếp cận từ quyền con người ........................................................ 4
1.1.2. Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập,
tự do ấy.............................................................................................................. 4
1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân .......................................................................................... 5
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để 6
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ............................................. 6
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. ....................................... 6
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ............................ 6
2.1.1. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan ........................... 7
2.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa.......................... 7
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam8
2.2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .................................................. 8
2.2.2. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .......................................... 8
2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên ....................................... 8
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội ...................................................................................................... 8
3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội ......... 8
3.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện vững chắc để bảo đảm nền độc lập
dân tộc .............................................................................................................. 9
3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội........................................................................ 10
3.4. Điều kiện để bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội …………………………………..12
4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay .. 12
4.1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã
xác định .......................................................................................................... 12
4.2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa ................................ 13
4.3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của
toàn bộ hệ thống chính trị ............................................................................ 14
4.4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị;
suy thoái đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội
bộ. 14
4.5. Ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong thời đại hiện nay ................................................................................. 16
4.5.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa dẫn đường
cho sự phát triển bền vững của dân tộc .......................................................... 16
4.5.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng và
nhân dân ta xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế................... 17
4.5.3. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quốc tế sâu
sắc 17
5. Liên hệ thực tiễn Việt Nam trong công Cuộc đổi mới hiện nay. ..... 18
5.1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ................................................ 18
5.2. Mối liên hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .................... 20
5.3. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. ............................................ 22
PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................ 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 30
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Chiến tranh đã qua hơn 30 năm, đất nước ta đang từng ngày đổi mới, nhân dân ta
đang có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chúng ta không được quên những người đã làm
nên cuộc sống của nhân dân ta ngày hôm nay. Đúng vậy, Hồ Chí Minh đã hiến dâng cả
cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước và nhân loại, giải
phóng con người lao khổ, thoát khỏi mọi áp bức, bất công, mưu cầu cuộc sống ấm no,
tự do và hạnh phúc. Khác với con đường cứu nước trước đây, nơi độc lập dân tộc gắn
liền với chế độ phong kiến hay chủ nghĩa tư bản của cha ông ta, con đường độc lập dân
tộc của Hồ Chí Minh gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng sau khi giành
được độc lập, phải xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, như Người đã
từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng tự do ấm no sung sướng, thì
độc lập cũng trở nên vô nghĩa." Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề cần thiết đối với những
chủ nhân tương lai của đất nước như chúng ta.

2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài:


 Mục đích của đề tài:

Tiểu luận góp phần làm làm sáng tỏ những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ đó chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và rút ra kinh nghiệm, góp phần vào công cuộc đổi mới hiện nay.

 Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 1930 tới nay.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Tiểu luận “Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tiễn
Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay” được nghiên cứu theo phương pháp tư duy

2
logic kết hợp với lịch sử là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng
hợp, phân tích…

5. Kết cấu đề tài:

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc

Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam

Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội

Chương 4: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay

Chương 5: Liên hệ thực tiễn Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay

3
PHẦN NỘI DUNG

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC


1. Vấn đề độc lập dân tộc
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc

Đối với người dân mất nước, khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa là độc
lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối vớicác dân
tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

1.1.1. Cách tiếp cận từ quyền con người

Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, tiếp thu
những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ,
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình
đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. “Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát lên chân lý
bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do Độc lập,
tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa có độc lập thì
phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.”

1.1.2. Khi đã giành độc lập, tự do, phải kiên quyết giữ vững quyền độc lập, tự do
ấy

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng
tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân đồng bào rằng: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.

Ý chí và quyết tâm trên còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ.

4
Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định:
“Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai,
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 – 12 – 1946, Người ra lời hiệu triệu,
thể hiện quyết tâm b ằng được nền độc lập dân tộc – giá trị thiêng liêng mà nhân dân
Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

1.2. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc của
nhân dân

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Người đánh giá cao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước
nhà được độc lập, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người
nói: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì”. Dân chúng chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ
được ăn no, mặc ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ,
quyền và nghĩa vụ của người công dân.

Ngoài ra, theo Hồ Chí Minh, độc lập cũng phải gắn với cơm no, áo ấm và hạnh
phúc của nhân dân. Ngay sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong hoàn cảnh
nhân dân đói, rét, mù chữ,... Hồ Chí Minh yêu cầu Chính phủ phải:

“Làm cho dân có ăn.

Làm cho dân có mặc.

Làm cho dân có chỗ ở.

Làm cho dân có học hành”.

Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn
coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng bộc
bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước

5
ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn và thấm đượm
tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh.

1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để

Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệtđể
trên tất cả các lĩnh vực. Người nhấn mạnh: độc lập mà người dân không có quyền tự
quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng..., thì độc
lập chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng
Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn, nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo
vệ nền độc lập thực sự mới giành được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện
Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ ngày 6 – 3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công
nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình,
Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình”. Đây là thắng lợi bước đầu
của một sách lược ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng có nguyên
tắc, một phương pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là một minh chứng cho
tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Hồ Chí Minh cho rằng: Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích
cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được thỏa mãn, còn lợi ích cá
nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo. Trái lại, trong chế độ xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ
phận của của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã
hội.

6
Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể,là một bộ phận của lợi
ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có
điều kiện được thỏa mãn. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội thuộc
giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản - một xã hội không còn áp bức, bóc lột, do nhân
dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của
cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bỏ chặt chẽ với nhau.

2.1.1. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan

Học thuyết Hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã chỉ ra rằng, sự phát triển của
xã hội loài người là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự phát triển này không tuân theo ý
muốn chủ quan của con người mà tuân theo những quy luật khách quan, trong đó, trước
hết và quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật về kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ
tầng. Theo đó, “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu
như nhau.”

2.1.2. Một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa

Với cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu, khái niệm chủ nghĩa xã hội được Người tiếp
cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra đặc trưng ở một lĩnh vực nào đó (như
kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật động lực, nguồn lực, v.v...) của chủ nghĩa
xã hội, song tất cả đầu hướng đến mục tiêu cơ bản của nó mà theo Người "Nói một cách
tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn
bán cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được âm ho và sống một đời hạnh
phúc”, là làm sao cho dân giàu nước mạnh.

Một số đặc trưng cụ thể của chủ nghĩa xã hội theo từ tưởng Hồ Chí Minh:

 Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu .
 Thứ hai, chủ nghĩa xã hội thực hiện nền chuyên chính dân chủ nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
 Thứ ba, chủ nghĩa xã hội có trình độ phát triển cao về văn hóa và đạo đức.

7
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do cho
dân tộc; hạnh phúc cho nhân dân. Từ mục tiêu chung, Hồ Chí Minh nêu lên những mục
tiêu cụ thể trên các lĩnh vực:

o Về chế độ chính trị: Phải xây dựng được chế độ dân chủ
o Về kinh tế: Phải xây dựng được nền kinh tế phát triển cao gắn bó tthiết với mục
tiêu về chính trị
o Về văn hoá: phải xây dựng được nền văn hóa mang tính dân tộc, khoa học, đại
chúng và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại.
2.2.2. Động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Theo Hồ Chí Minh, có hai động lực để góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đó là động lực bên trong và động lực bên ngoài. Động lực bên trong bao gồm
các yếu tố: động lực con người, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục,... Động
lực bên ngoài bao gồm các yếu tố: chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, cần sử dụng tốt thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế
giới. Hồ Chi Minh không xem nhẹ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, song Người khẳng
định: động lực quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định là nội lực dân tộc, là nhân tố con
người Việt Nam.

2.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên

* Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.

 Thứ nhất, mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lênin.
 Thứ hai, phải giữ vững độc lập dân tộc.
 Thứ ba, phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội
3.1. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội

8
Xuất phát từ hai mâu thuẫn đối kháng, cơ bản tồn tại khách quan dưới thời thực
dân - phong kiến: mâu thuẫn dân tộc và giai cấp, Người chỉ rõ cách mạng dân tộc dân
chủ có hai nhiệm vụ chiến lược: đánh đồ thực dân Pháp đề giải phóng dân tộc, đánh đồ
địa chủ phong kiến để mang lại ruộng đất cho nông dân, trong đó nhiệm vụ giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, còn nhiệm vụ dân chủ: đánh đổ địa chủ phong kiến phải
phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu
đầu tiên của cách mạng, là cơ sở, là tiền đề cho mục tiêu tiếp theo: xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930), Hồ Chí
Minh đã khẳng định lại đường lối chiến lược của cách mạng nước ta: “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Khi đó giải phóng
dân tộc và độc lập dân tộc sẽ là mục tiêu hàng đầu của cách mạng, là cơ sở, tiền đề cho
mục tiêu tiếp theo là đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Độc lập dân tộc là tiền đề, là nguồn sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, độc
lập phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, và hơn nữa độc lập
dân tộc cũng phải gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân.

Cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là tiền đề của cuộc cách mạng tiếp theo,
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu rộng, triệt
để thì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân càng sâu rộng, triệt để, điều kiện thuận lợi,
động lực to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, cách mạng giải phóng dân
tộc được Hồ Chí Minh khẳng định là con đường của cách mạng vô sản nên bản thân
cuộc cách mạng này ngay từ đầu đã mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh đúng đắn và sáng tạo bởi nó không chỉ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cụ thể của Cách
mạng Việt Nam mà còn phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

3.2. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện vững chắc để bảo đảm nền độc lập dân tộc

Chủ nghĩa xã hội trước hết là một chế độ dân chủ, là điều kiện quan trọng nhất
để đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức xã hội bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu của thời đại và phủ hợp với lợi ích của nhân dân Việt
Nam. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ

9
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Năm 1960, Người khẳng định:
chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Một nước độc lập mà dân không
được tự do, hạnh phúc thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì, nên sau khi giành được độc
lập năm, chúng ta phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và một xã hội “hòa bình, độc lập, thống
nhất, dân chủ, dân giàu, nước mạnh”, đem lại cho nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc,
bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc… Ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội
trước hết là một chế độ dân chủ, do nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chế
độ dân chủ thể hiện trong tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và được thể chế hóa bằng
pháp luật, đây là điều kiến quan trọng nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc, tạo ra nền
tảng ý thức xã hội bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm
mưu thôn tính, đe dọa nền độc lập tự do của dân tộc. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn và triệt để.

Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh, còn là một xã hội tốt đẹp, không còn chế
độ áp bức bóc lột. Đó là một xã hội bình đẳng, công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, bảo cảm phúc lợi xã hội cho người gia
trẻ em và những người còn khó khăn trong cuộc sống, mọi người đều có điều kiện để
phát triển như nhau.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã nội là xây dựng tiềm lực,
khả năng phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Với một chế độ xã hội như:
trên, chủ nghĩa xã hội sẽ có khả năng làm cho đất nước phát triển hoàn thiện, sẽ tạo nền
tảng vững chắc để bảo và nền độc lập dân tộc và hơn thế nữa, sẽ là một tấm gương cho
các quốc gia trên thế giới, nhất là các dân tộc đang phát triển đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội hiện thực sẽ góp phần hạn chế những cuộc chiến tranh phi
nghĩa, bảo vệ nền hòa bình trên thế giới, độc lập dân tộc sẽ được giữ vững.

3.3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội

10
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa xã hội ra đời
và phát triển trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi thế giới. Hồ Chí Minh ra đời từ đầu những năm 1920 và đến mùa xuân năm 1930 với
sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội năm đã trở thành ngọn cờ chỉ đạo của thời đại. Giai cấp công
nhân và cả dân tộc Việt Nam đã liên tục giành được những thắng lợi lịch sử hơn 90 năm
qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được phản
ánh trong thực tiễn cách mạng miền Nam Việt Nam qua ba thời kỳ:

Thời kỳ 1930 - 1945: Hồ Chí Minh xác định tính chất cách mạng Việt Nam là
con đường cách mạng vô sản, kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động và giải phóng cả dân tộc bị nô lệ dưới ách đô hộ đế quốc Pháp
và tay sai. Xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam "làm cách mạng tư
sản dân quyền và cách mạng thổ địa để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Dưới sự lãnh
đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi, đó là
thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng
dân tộc trong phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ 1945-1954: thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng những cơ sở đầu
tiên của chủ nghĩa xã hội, tiến hành “kháng chiến, kiến quốc”. Trong thời kỳ này, Hồ
Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách mạng
Việt Nam. Để đạt được mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên định phát huy cao độ
tinh thần độc lập, tự lực, tự cường, đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế.
Đường lối ấy phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc, xây dựng quê hương
đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, từng bước xây dựng chế độ
mới; đó là nguyên nhân quyết định thắng lợi của cuộc Kháng chiến chống thực dân
Pháp.

Thời kỳ 1954 - 1975: Hồ Chí Minh chắt lọc, bổ sung và phát triển tư tưởng độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Trong thời kỳ này, Người
đã sáng tạo ra học thuyết Hồ Chí Minh, trong đó tập trung xây dựng và chỉ đạo đường

11
lối thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và Người đã hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc và
lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền,
Người đã xác định rất rõ vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mình. mạng lưới từng miền và
sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau của cách mạng hai miền; đây là sự cụ thể hóa nội dung của
con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với
chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh kiên trì đề ra và bảo vệ. Về hợp lực, Hồ
Chí Minh đã có tư tưởng và cách làm sáng tạo trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò
của chiến lược Đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng; Từ đó Người đặt nền móng
vững chắc cho “Ba mặt trận” của cách mạng Việt Nam: Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Mặt trận ba nước Đông Dương chống Mỹ, Mặt trận Bình
dân Thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba lớp mặt trận” đã
tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.

3.4. Điều kiện để bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Theo Hồ Chí Minh, cần phải có những điều kiện cơ bản sau:

 Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản trong suốt
tiến trình cách mạng.
 Hai là, phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc mà khối nền tảng
là khối liên minh công – nông – trí.
 Ba là, phải đoàn kết, gắn bó chặt chẽ với cách mạng thế giới.

Ba điều kiện trên gắn bó chặt chẽ với nhau góp phần giữ vững nền độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay
4.1. Kiên định mục tiêu và con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã xác định

12
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù hợp với
khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa
chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng đã xây dựng Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định các. Những
đặc trưng đó có mối quan hệ mất thiết với nhau,
là nền tảng, là cơ sở vững chắc để cách mạng Việt Nam có thể thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc
gia, tranh chấp địa phận, không phận, hải quân và tài nguyên,... tiếp tục diễn ra gây gắc
và phức tạp, cần quán triệt đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó chặt chẽ, ổn định để phát triển đất
nước là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi tìm đường, mở đường, dẫn đường cho sự phát
triển của dân tộc Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là
mục tiêu và con đường duy nhất đúng ở Việt Nam sau khi các phong trào yêu nước theo
tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản bị thất bại. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm trí
tuệ, luôn luôn đổi mới sáng tạo, không bao giờ từ bỏ mục tiêu, con đường mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn phải luôn luôn là quan điểm nhất quán của Đảng, trở thành
hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc đổi mới. Đây là nội
dung khởi đầu trong quá trình vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

4.2. Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy sức mạnh bản chất ưu
việt của chế độ xã hội; là bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; là dân

13
chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
để nhân dân tham gia vào tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên
quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân trên phương châm “Dân biết, dân làm, dân
kiểm tra”.

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa không tách rời quá trình hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công
dân theo tinh thần của Hiến pháp hiện hành.

Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường pháp chế, đề
cao trách nhiệm công dân và đạo đức xã hội, phê phán những biểu hiện dân chủ cực
đoan, dân chủ hình thức và xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như tất cả những hành vi vi phạm quyền
dân và quyền làm chủ của nhân dân.

4.3. Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn bộ
hệ thống chính trị

Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính nhất nguyên và tính thống
nhất: Nhất nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; thống nhất dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, thống nhất về mục tiêu chính trị. Các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở Việt Nam có tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động
khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau tạo nên một thể thống nhất, phát huy sức
mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả các
lĩnh vực. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ qua hoạt động của Nhà nước, của các hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.

4.4. Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; suy thoái
đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “ tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thu được nhiều thành tựu vĩ đại trong cách
mạng dân chủ nhân dân, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong sự nghiệp
đổi mới. Song, chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử của Đảng, tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán

14
bộ, đảng viên đã xuất hiện và trở nên nghiêm trọng. Nếu không ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái này sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của
chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Hội nghị thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương


Đảng khóa XII đã ban hành nghị quyết về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “ tự diễn biến”, “ tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trong giai đoạn này là phải tích cực thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đảng,
trong đó có các nghị quyết về xây dựng Đảng, vì xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt
trong sự nghiệp đổi mới. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ là những hành động cụ thể, đặt trong bối cảnh cụ thể mà Đảng tiếp tục thực hiện
tư tưởng Hồ Chí Minh để Đảng xứng đáng là Đảng cầm quyền,thực hiện được nhiệm
vụ lãnh đạo trong sự nghiệp xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh để giữ vững nền độc lập dân tộc trên con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Cần thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng có vững, cách mạng mới
thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phải xây dựng Đảng ta
“là đạo đức, là văn minh” để Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong mọi lĩnh
vực, phải là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải
nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng ta là con đẻ của dân,
không có mục đích tự thân; do đó Đảng phải có trách nhiệm hiếu với dân. Trong công
cuộc đổi mới, nói đến xây dựng hệ thống chính trị còn phải nói đến xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xây dựng các

15
tổ chức chính trị - xã hội khác. Đảng, với vị trí, vai trò hạt nhân của hệ thống chính trị
không thể trong sạch, vững mạnh nếu Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của
nhân dân yếu kém. Vì vậy, để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay,
cần chú ý xây dựng một Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân thật sự
vững mạnh.

4.5. Ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời
đại hiện nay
4.5.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa dẫn đường cho sự phát
triển bền vững của dân tộc

Tư tưởng, đạo đức, phong cách là tổ


hợp các thành tố nói lên toàn bộ cuộc đời và
sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là
những giá trị văn hóa trường tồn, dẫn đường
cho dân tộc ta đi lên. Toàn Đảng, toàn dân ta
tìm thấy trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh những giá trị của sự phát triển, của khát
vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những
yếu tố truyền cảm hứng cho nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân trong công
cuộc đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tức là bước vào “một cuộc
chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi” đúng như Người đã tiên lượng trong Di chúc. Chính vì thế, Cương lĩnh năm
1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, hành động
với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng sáng tạo và phát triển những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện khi
đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đang phát triển mạnh.

16
4.5.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng và nhân dân ta
xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Trong tất cả các nguồn lực để phát triển thì nguồn lực con người Việt Nam là
quan trọng nhất. Hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng trong sự nghiệp cách mạng
nói chung và trong công cuộc đổi mới giai đoạn hiện nay chính là những nội dung trên
cơ sở bắt nguồn từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đất nước đang cần có
những con người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu phát
triển nhanh và bền vững. Đó là những người yêu nước nhiệt thành, có đủ phẩm chất đạo
đức cách mạng, có tầm cao trí tuệ trong một đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Giá trị
con người đó có trong di sản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà toàn
Đảng, toàn dân cần học tập và làm theo. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong
giai đoạn cách mạng hiện nay cũng là xuất phát từ sự nghiệp giải phóng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và mục tiêu
cuối cùng là giải phóng con người. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh chính là xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo tấm gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.

4.5.3. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc

Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản


của một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong
phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào
vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế
giới. Di sản đó không chỉ là tài sản quý báu
của dân tộc Việt Nam, mà còn là tài sản của
nhân loại tiến bộ. Những vấn đề toàn cầu
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tất cả mọi người Việt Nam cũng như những người có
lương tri trên thế giới thực hiện đã góp phần xây dựng một thế giới tiến bộ, văn minh.
Do đó, UNESCO đã đánh giá rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất

17
về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Người là hiện thân của những khát
vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc
thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một thế giới với nét chủ đạo
là hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, nhưng vẫn còn đó những bất an hiện tại
và tiếp tục có những rủi ro khó lường trong tương lai. Thế giới luôn đổi thay nhưng tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi với ý nghĩa truyền cảm hứng cho sự
phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, làm cho các dân tộc, mọi người thoát khỏi sự
áp bức, bất công, vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.

5. Liên hệ thực tiễn Việt Nam trong công Cuộc đổi mới hiện nay.

Phân tích giữa mối quan hệ dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam

5.1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được thể hiện xuyên
suốt trong các tác phẩm của Người, từ “Đường cách mệnh” đến “Chánh cương vắn tắt”
và những tác phẩm sau này. Đó là quá trình cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vậy, nước ta sẽ trải qua hai giai
đoạn cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã đặc biệt dành sự quan tâm đến vấn đề dân
tộc, độc lập dân tộc qua các tác phẩm kinh điển và đã chỉ rõ con đường đấu tranh để giải
phóng dân tộc. V.I.Lênin đã phát triển luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen "vô sản
toàn thế giới liên hiệp lại" thành "vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại", trở thành khẩu hiệu của phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước bị
áp bức trên toàn thế giới.

Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng về dân tộc và giải phóng dân tộc là một
trong những vấn đề bản chất nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã nêu rõ
mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ

18
nghĩa, đặt nền tảng cho sự quá độ từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa.

Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc tổ
chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…
trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối, thao túng
của nước ngoài. Độc lập dân tộc phải trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế, được luật pháp quốc tế thừa nhận và trên
thực tế phải được khẳng định. Độc lập dân tộc là thành quả của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Đối với Việt Nam, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở độc lập dân tộc
dưới chế độ phong kiến, bởi vì vị trí của những người lao động vẫn không thay đổi. Vì
vậy, độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc lập thật sự.

Người nhấn mạnh: phải đấu tranh giành cho được độc lập thật sự, độc lập hoàn
toàn, chứ không phải là thứ "độc lập giả hiệu", "độc lập nửa vời", "độc lập hình thức".
Người đã kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới
để giành độc lập thật sự cho dân tộc, cho đất nước. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí
Minh bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ và ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, đặc biệt
nhân dân lao động; gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã trở thành
mục tiêu của cách mạng, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Học thuyết về chủ nghĩa xã hội của C.Mác,Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đề cao các
giá trị độc lập dân tộc; khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của độc lập dân tộc. Hồ
Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào vào hoàn cảnh cụ thể của
cách mạng Việt Nam. Người chỉ rõ: tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, là bước phát
triển tất yếu, khách quan ở Việt Nam sau khi đã giành được độc lập dân tộc. Người viết:
"Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no"; "chủ nghĩa xã hội là
làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ".

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, lý tưởng mà còn là
động lực của cách mạng Việt Nam, Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nguyên tắc
chỉ đạo tiến trình cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên định,
quán triệt trong Cương lĩnh, đường lối, chủ trương; Nhà nước thể hiện nguyên tắc này

19
trong chính sách, pháp luật. Toàn thể hệ thống chính trị, mọi cán bộ, đảng viên phải nắm
vững và thực hiện đúng nguyên tắc, mục tiêu này. Đây là lý tưởng, định hướng chiến
lược của Đảng, tâm nguyện của nhân dân, vì chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao cả của
độc lập dân tộc, độc lập dân tộc là điều kiện then chốt để bảo đảm cho dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở, có học hành, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi tầng lớp
nhân dân; dân chủ được mở rộng, người dân thực sự trở thành chủ nhân của đất nước
mình.

5.2. Mối liên hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của một
tiến trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai mục
tiêu cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu chính của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc, dân chủ, làm tiền đề để thực hiện
các mục tiêu khác, như quyền lực chính trị, dân chủ, vấn đề ruộng đất, bảo đảm đời sống
vật chất và tinh thần, nâng cao trình độ dân trí… xây dựng một thể chế chính trị do dân
làm chủ, xây dựng nền dân chủ nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội….
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai đoạn tiếp theo của tiến trình cách mạng Việt
Nam, sau khi kết thúc giai đoạn trước là cách mạng dân tộc, dân chủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mối liên hệ biện chứng giữa đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này là cơ sở quá độ từ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã kế thừa, khẳng định và bảo đảm vững chắc thành quả của cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Sự phát triển này là quy luật tất yếu của lịch sử. Các giai đoạn của
tiến trình cách mạng là những bước đi không thể tách rời nhau dù mỗi giai đoạn có
những mục tiêu cụ thể riêng.

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng và thực tiễn cách mạng nước ta là minh
chứng lịch sử cho mối liên hệ biện chứng trên:

20
Giai đoạn 1930 - 1945: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, thông qua cương lĩnh
vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong
đó, Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và
cách mạng ruộng đất, đấu tranh xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền,
phổ cập giáo dục. Đảng xác định mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến,
lấy ruộng đất chia cho dân nghèo.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 triệu nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, đỉnh cao là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, chấm dứt sự đô hộ
của thực dân Pháp sau gần một thế kỷ. Thắng lợi vĩ đại này của dân tộc Việt Nam đã
đưa nước ta bước sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.

Giai đoạn 1945 - 1954: Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu.

Mục tiêu của giai đoạn này là tiến hành thành công cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giành độc lập, tự do, cụ thể hóa tư tưởng của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mục tiêu này mới chỉ thực hiện được ở miền
Bắc. Sau hiệp định Giơnevơ (20/7/1954) nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền
Nam - Bắc. Sau khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
trở thành hậu phương lớn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Đường lối
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền
Nam.

Giai đoạn 1954 - 1975: cả nước dốc lòng cho sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc đã khơi dậy truyền thống dựng
nước và giữ nước của ông cha, truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc. Cả
nước xuống đường, cả nước hướng về miền Nam ruột thịt theo lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta "Tất cả cho tiền tuyến". Lịch sử Việt Nam chưa lúc nào được

21
chứng kiến sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên phạm vi, quy mô
lớn như thời điểm này của cách mạng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh trong cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống
nhất, cả nước bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi cả nước - kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.

Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đất nước gặp muôn vàn khó
khăn, thách thức to lớn: đất nước bị chiến tranh tàn phá; Mỹ và phương Tây tiến hành
bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam; các thế lực phản động quốc tế phát động kiểu "chiến
tranh phá hoại nhiều mặt"chống phá Việt Nam; nền kinh tế nước ta lâm vào cuộc khủng
hoảng nghiêm trọng kéo dài nhiều năm. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã từng
bước hồi sinh đất nước về mọi mặt. Trước những bối cảnh mới của tình hình, Đảng ta
luôn xác định phải giương cao ngọn cờ "Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Công
cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương chiến lược đúng đắn,
phù hợp với quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tạo điều
kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng
ta vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mối liên hệ gắn kết
biện chứng.

5.3. Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Luận điệu của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và các phần tử
chống chủ nghĩa xã hội ít nhiều đã tác động vào các giai tầng xã hội, làm xuất hiện sự
hoài nghi trong nhận thức của những người non kém về chính trị, những người có thái
độ mặc cảm với chế độ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt ra là phải chủ động đấu tranh vạch
rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; nâng cao cảnh
giác cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; vô hiệu hóa luận điệu của chúng;
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

22
Để có cơ sở đấu tranh, cần xây dựng luận cứ cho cuộc đấu tranh này.

Thứ nhất, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử
dân tộc, là chiến lược, bước đi của cách mạng Việt Nam.

Học thuyết C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội luôn đề cao các
giá trị của độc lập dân tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của độc lập dân tộc.
Học thuyết đồng thời chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong việc thành lập
Đảng chính trị và vai trò của Đảng trong lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
đập tan xiềng xích, áp bức, bóc lột của giai cấp thống trị, giành độc lập dân tộc, tạo tiền
đề cho con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Học thuyết về chủ nghĩa xã hội của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho giai cấp vô sản toàn thế
giới.

Đối với Việt Nam, các sĩ phu yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều
hướng các phong trào cách mạng vào mục tiêu giành độc lập dân tộc, nhưng cuối cùng
đều thất bại do sai lầm về chủ trương, đường hướng cách mạng, không gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội, tức là làm cách mạng nửa vời. Khác với các chí sĩ cách mạng,
sĩ phu yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đi tìm đường cứu nước đã sớm tìm đến học thuyết
Mác - Lênin, đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để xác định phương hướng, đường
lối cho cách mạng Việt Nam, đó là kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Người khẳng định cách mạng Việt nam không thể dừng lại ở đôc lập
dân tộc; đồng thời chỉ rõ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tìm ra con
đường đúng đắn dựa trên học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối. Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng (2-1930) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là giành độc
lập cho dân tộc để đi tới xã hội cộng sản, gắn tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân tộc
với chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã là sự lựa
chọn tất yếu, khách quan của lịch sử nước nhà, là đường lối, bước đi chiến lược của
Đảng ta từ khi mới thành lập.

23
Thứ hai, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là định hướng chính trị,
mục tiêu xuyên suốt của tiến trình cách mạng Việt Nam.

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã đi qua những giai đoạn đầy cam go trong các
cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và kháng chiến chống ngoại xâm. Tiến trình đó
được phân kỳ lịch sử theo bốn giai đoạn: (1) Giai đoạn đấu tranh giành chính quyền
(1930-1945); (2) Giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tiến trình kháng chiến
chống thực dân Pháp thắng lợi (1945-1954); (3) Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và tiến trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi (1954-1975); (4) Giai
đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975 đến nay).

Trong suốt các chặng đường lịch sử của cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý
luận và hoạt động thực tiễn của Đảng, là ngọn cờ cách mạng mà Đảng ta luôn giương
cao. Đây là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân
tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai
đoạn cách mạng. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam đã được
thể hiện rõ trong các cương lĩnh, văn kiện Đại hội Đảng. Đường lối của Đảng về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được cụ thể hóa trong chính sách, thể chế hóa
thành pháp luật của Nhà nước; được quán triệt vận dụng trên tất cả các lĩnh vực: chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Ngày nay, quan điểm, mục
tiêu đó được Đảng ta khẳng định trong đường lối đổi mới, thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng trong giai đoạn mới là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".

Thứ ba, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có mối liên hệ biện chứng,
trở thành động lực, nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch
sử.

24
Dân tộc Việt Nam đã sống dưới ách đô hộ của phong kiến, thực dân, đế quốc
hàng ngàn năm, luôn khát vọng độc lập dân tộc. Khát vọng đó tập hợp được lực lượng,
đoàn kết được các giai tầng xã hội, trở thành động lực cách mạng, tạo nên sức mạnh vô
biên đánh thắng mọi loại kẻ thù, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc thắng lợi đã đem lại cho mọi người dân cơm no, áo ấm, hạnh phúc, ai
cũng được học hành. Khi độc lập dân tộc được gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp thêm
luồng sinh khí mới cho tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của dân tộc, cho động lực
và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch sử. Bởi lẽ, độc lập dân
tộc là tiền đề, là nền tảng và điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội; ngược lại,
chủ nghĩa xã hội là điều kiện bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc đạt được những
chân giá trị đích thực của nó, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Phải đấu tranh
giành cho được độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn chứ không phải là thứ "độc lập giả
hiệu"; "độc lập nửa vời"; "độc lập hình thức". Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội là mục tiêu, tư tưởng, nguyên tắc để Đảng định hướng, chỉ đạo, dẫn dắt tiến trình
cách mạng Việt Nam ngay từ những đêm dài tăm tối của lịch sử dân tộc cho đến sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Mối liên hệ biện chứng không thể tách
rời giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta luôn luôn khẳng định trong
các cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng và trong
các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nội dung độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội đã được Đảng ta từng bước hoàn thiện cả trong tư duy, lý luận và thực tiễn cách
mạng; cả hệ thống chính trị, các đoàn thể, tổ chức, mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân đều quán triệt vận dụng, thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn được Đảng ta giương cao. Đó là lập
trường, quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, đạo đức cách mạng của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta, đã kết tinh thành sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí quật cường dân tộc,
làm nên sức mạnh, động lực của cách mạng Việt Nam trong tiến trình lịch sử dựng nước
và giữ nước hơn 90 năm qua.

Thứ tư, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là phù hợp với ý Đảng, lòng
dân.

25
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: "Đẩy
thuyền đi là dân mà lật thuyền cũng là dân", lấy dân làm gốc là hòn đá tảng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người sớm nhận ra vai trò to lớn của nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng và xác định mọi tiến trình cách mạng của dân tộc phải là của dân, do dân tiến
hành và mưu cầu hạnh phúc cho dân. Song, Hồ Chí Minh cũng khẳng định sự nghiệp
cách mạng của quần chúng muốn giành thắng lợi phải do Đảng cộng sản - Đảng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động lãnh đạo. Người đã sớm chỉ rằng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Để Đảng
vững được "phải có chủ nghĩa làm cốt", "Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ Nam". Người rút ra kết luận: cách mạng Việt
Nam muốn thành công phải đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời "phải làm cho dân
giác ngộ". Dân phải được tổ chức và được lãnh đạo thì mới trở thành lực lượng to lớn,
mới là chủ, là gốc cách mạng được.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn lấy học thuyết Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội làm kim
chỉ Nam cho nhận thức và hành động; đồng thời tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, giác
ngộ để quần chúng nhân dân hiểu rõ và hành động theo mục tiêu, lý tưởng đó. Đảng đã
vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh giành chính quyền, hoàn thành sự nghiệp độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lịch sử ra đời, xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức cho thấy rõ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần
chúng nhân dân. Dân tin Đảng, theo Đảng, thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mà nền tảng của mọi chủ trương, chính
sách là vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy sự nhất
quán trong tư duy, nhận thức và hành động của Đảng và nhân dân. Cơ sở của sự nhất
quán thống nhất đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, sự lãnh đạo của Đảng và vai trò
của nhân dân trong tiến trình cách mạng; về cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Trong đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vừa là mục
tiêu, tư tưởng; vừa là nguyên tắc để mang lại độc lập dân tộc, dân chủ, giải quyết vấn đề
quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, vấn đề ruộng đất, đời sống ấm no hạnh phúc,
nâng cao dân trí…Đây là tâm nguyện của ý Đảng, lòng dân.

26
Thứ năm, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tâm điểm của phong
trào công nhân và phong trào cộng sản quốc tế mà Việt Nam được tôn vinh là ngọn cờ
đầu.

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội, trong
đó đề cao các giá trị độc lập dân tộc, phù hợp với khát vọng của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động bị áp bức trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội chính là mục tiêu hướng tới
của độc lập dân tộc, là bó đuốc dẫn đường cho phong trào công nhân, phong trào cộng
sản thế giới trong đấu tranh giải phóng dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm tìm đến, giác ngộ và vận dụng học
thuyết Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 cũng như trong các cuộc kháng chiến trường kỳ, oanh liệt của dân tộc
Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc ngày nay là những minh chứng hùng hồn cho thắng lợi của đường lối
cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã nêu gương
cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nhiều phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc của các nước châu Phi, châu Mỹ - La-tinh, châu Á, châu Âu
đều lấy Việt Nam làm tấm gương, bài học lịch sử để noi theo. Với mục tiêu và thắng lợi
của đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã thực sự trở
thành điểm sáng, là ngọn cờ đầu trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
loại tiến bộ. Nhiều nước đã giành được độc lập dân tộc, lựa chọn con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội đang tạm thời lâm vào khủng hoảng,
Đảng ta vẫn kiên định đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã đạt được những
thành tựu to lớn, càng khẳng định đường lối của Đảng ta là đúng đắn. Vai trò, vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao như đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay". Đó là thắng lợi của đường lối độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Đây đồng thời là đóng góp to lớn, có hiệu quả nhất của Đảng, Nhà

27
nước và nhân dân ta đối với chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản quốc tế trong thời
đại mới.

28
PHẦN KẾT LUẬN

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng ấy đã thể
hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp
ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy
độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách
thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa
dân tộc ta đến độc lập, tự do ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng
một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh,Nhà xuất bản Khoa học
xã hội Hà Nội 2021
[2]Nghi Mai (2020-2021) “Chương 3 - TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI” https://www.studocu.com/vn/document/dai-
hoc-quoc-gia-thanh-pho-ho-chi-minh/ho-chi-minhs-thoughts/chuong-3-tu-tuong-ho-
chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-va-chu-nghia-xa-hoi/15489051
[3]. TS. Nguyễn Thị Tú Trinh- TS. Mai Quốc Dũng (Đồng chủ biên)- TS. Nguyễn Thị
Thu Thoa- ThS. Nguyễn Thị Tươi- ThS. Nguyễn Thị Lợi- ThS. Hoàng Ngọc Kiên- ThS.
Nguyễn Văn Dương- ThS. Nguyễn Phước Trọng. Năm xuất bản: 2022 Những vấn đề cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhà xuất bản khoa học xã hội.
[4]. GS, TS Mạch Quang Thắng 16/05/2022. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh. Truy cập: 07/12/2022. http://dukcqtw.dcs.vn/van-dung-va-
phat-trien-sang-tao-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-su-nghiep-doi-moi-dat-nuoc-va-y-
nghia-to-lon-cua-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-chi-minh-
duk15584.aspx?fbclid=IwAR11WDa2Yof53Lriiod_i07JDNTMmI11254JTUWoNJTl
oFzjdoddAr90L9E
[5] https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-quoc-gia-thanh-pho-ho-chi-
minh/ho-chi-minhs-thoughts/chuong-3-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doc-lap-dan-toc-va-
chu-nghia-xa-hoi/15489051

30
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM

(V/v Phân công công việc /Đánh giá hoàn thành /Họp nhóm định kỳ....)

1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.

1.1. Thời gian: 12 giờ 30 phút

1.2. Địa điểm: Lớp học 502 tại trường Đại Học Công nghiệp thực phẩm

1.3. Thành phần tham dự:

+ Chủ trì: Nguyễn Thị Phương Nguyên

+ Tham dự: Các thành viên nhóm 1

+ Vắng: 0

2. Nội dung cuộc họp

2.1. Nhóm trưởng phân công công việc cho các thành viên như sau:

Họ tên STT Nhiệm vụ Ghi chú

Nguyễn Ngọc Ánh 04 Soạn nội dung phần mở đầu


Võ Nguyễn Huỳnh Giang 13 Soạn nội dung phần 1
Đinh Thị Huyền Mai 48 Tổng hợp Word
Lê Thị Ngọc Mỹ 52 Soạn nội dung phần kết luận
Nguyễn Kim Bảo Ngân 54 Soạn nội dung phần 2
Nguyễn Thị Phương Nguyên 61 Soạn nội dung phần 4
Nguyễn Thị Xuân Tâm 83 Tổng hợp Word
Nguyễn Thị Tố Trinh 104 Soạn nội dung phần 3
Nguyễn Hoàng Trúc 107 Soạn Nội dung phần 5

2.1.Nhóm trưởng đánh giá mức độ hoàn thành công việc cho các thành viên như sau:

31
Họ tên STT Nhiệm vụ Đánh giá hoàn Ghi chú
thành
Nguyễn Ngọc Ánh 04 Soạn nội dung phần mở 100%
đầu
Võ Nguyễn Huỳnh Giang 13 Soạn nội dung phần 1 100%

Đinh Thị Huyền Mai 48 Làm Word 100%

Lê Thị Ngọc Mỹ 52 Soạn nội dung phần kết 100%


luận
Nguyễn Kim Bảo Ngân 54 Soạn nội dung phần 2 100%

Nguyễn Thị Phương Nguyên 61 Soạn nội dung phần 4 100%

Nguyễn Thị Xuân Tâm 83 Làm Word 100%

Nguyễn Thị Tố Trinh 104 Soạn nội dung phần 3 100%

Nguyễn Hoàng Trúc 107 Soạn Nội dung phần 5 100%

2.2. Ý kiến của các thành viên: Mọi thành viên trong nhóm đều đồng ý với ý kiến và sự sắp
xếp của nhóm trưởng, với các ý kiến của các thành viên khác trong quá trình làm việc nhóm và
học tập cùng nhau.

2.3. Kết luận cuộc họp

Thống nhất lại nội dung cuộc họp sau khi có ý kiến của từng thành viên

Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc 15 giờ 10 phút cùng ngày.

Thư ký Chủ trì

Đinh Thị Huyền Mai Nguyễn Thị Phương Nguyên

32

You might also like