You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH

KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN – Y HỌC CƠ SỞ


BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Tên nhóm: Nhóm 1


Lớp: Dược 2022
Niên khóa: 2022 - 2023

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 6 NĂM 2023


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL

i
Nhóm/Lớp: Dược 2022. Tên nhóm: Nhóm 1. HKII. Năm học: 2022-2023
Đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

Kết quả
STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ
(100%)
1 Phan Nguyễn Trúc Giàu 2252010018 Chương II, 2.1 100%

2 Trần Thị Xuân Mai 2252010037 Chương I, 1.1 100%

3 Đặng Thị Thuỷ Tiên 2252010062 Phần mở đầu 100%


Chương II, 2.3
4 Nguyễn Duy Thủy Tùng 2252010068 Chương II, 2.1 100%

5 Phạm Thị Phương Thảo 2252010071 Chương I, 1.2 100%

6 Lê Thị Thanh Thuận 2252010077 Phần kết luận 100%


Chương II, 2.4

Bài làm gồm:…. trang

Điểm Cán bộ chấm thi


(Ký và ghi rõ họ tên)
Bằng số Bằng chữ
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc ...................................... 2

1.1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc ... 2

1.2.1 Những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc........................................................................................................ 4

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế ............................................ 5

1.2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế .......... 5

1.2.2 Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đoàn kết quốc tế . 7

CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế trong tình hình hiện nay.............................. 8

2.1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng ................. 8

2.1.2 Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công –
nông – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng ........................................................... 9

2.1.3 Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế ......... 10

2.2. Một số biện pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc và đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay.......................................... 13

2.3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế .................................................. 15

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................. 18


TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 19
PHẦN MỞ ĐẦU
Muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để
chiến thắng kể thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách
mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là
nhân tố bảo đảm cho thắng lợi cách mạng.

Như Hồ Chí Minh đã nói: “sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân
tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Có như vậy đất nước ta mới
hoàn toàn thống nhất, dân tộc ta mới có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Ngày
nay nước ta đang trên con đường đổi mới, với nhiều thách thức đặt ra. Như vậy,
chúng ta chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh
mới có thể đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh , xã
hội công bằng văn minh, dân chủ. Vì vậy, việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hiện
nay là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn.

Đó là lý do nhóm chúng em chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đoàn
kết dân tộc và đoàn kết quốc tế”. Đây là một đề tài hay có nội dung và ý nghĩa to
lớn, nó còn là bài học sâu sắc cho mỗi thế hệ. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là
chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp. Đồng thời,
Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý luận
và hoạt động thực tiễn, không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền,
trong phạm vi một dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là
đoàn kết quốc tế.

1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất
của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá,
một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng
nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của toàn
nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận và trong
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của
Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
1.1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và
củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời
gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá
nhân gắn chặt vào vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân
tộc. Nó là cơ sở của ý chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân,
vì nước của mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát
triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước,
làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng

2
to lớn của cách mạng. Rằng nếu không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân
dân lao động với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô
sản không thể thực hiện được. Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để
Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng
như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ
đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới.
Thứ nhất là trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu
tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông
cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và
“Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của
lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được ghi nhận thành bài học
lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Tuy nhiên vào năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các
phong trào yêu nước, chống Pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều
thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực
lượng của các nhà yêu nước. Đây là lý do Người ra đi tìm đường cứu nước.
Thứ hai là thực tiễn cách mạng thế giới:
Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước ngoặt
quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ
cho nhân dân. Người đã nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách
mạng Tháng Mười và những bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng
quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.

3
1.2.1 Những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược vì đó không phải là một thủ
đoạn chính trị nhất thời mang tính sách lược mà là chính sách dân tộc, là vấn đề
chiến lược của cách mạng: tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, hình thành
sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc, giai cấp.
Đại đoàn kết dân tộc quyết định thành công của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh,
cách mạng muốn thành công phải có lực lượng, lực lượng đó phải đủ mạnh để
chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Muốn có lực lượng phải
thực hành đoàn kết, vì “đoàn kết là lực lượng”, đoàn kết tạo ra sức mạnh, là then
chốt của sự thành công. Đoàn kết với thắng lợi có mối quan hệ sâu sắc với nhau.
Tính chất, quy mô, mức độ của thành công phụ thuộc vào tính chất, quy mô của sự
đoàn kết. Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần thế kỷ qua đã chứng minh, nhờ đại
đoàn kết dân tộc mà nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn, vẻ vang
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu hàng đầu vì có thực hiện được đại đoàn kết
dân tộc thì mới có thể thực hiện được các mục tiêu khác. Hồ Chí Minh còn coi đây
là mục tiêu lâu dài của cách mạng, xem như tôn chỉ hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Từ đó, dẫn đến đại đoàn kết dân tộc không phải là một chủ trương xuất
phát từ sự cần thiết, từ ý muốn chủ quan của lực lượng lãnh đạo cách mạng mà
xuất phát từ nhu cầu khách quan của bản thân quần châng nhân dân trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng.
Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết toàn dân
tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, nhiệm vụ này phải được
quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực
tiễn của Đảng. Đồng thời Đảng phải thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những
đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, có tổ chức,

4
thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân
dân, hạnh phúc cho con người.
Đại đoàn kết dân tộc là đoàn kết toàn dân
Đại đoàn kết dân tộc tức là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối thống
nhất trong cuộc đấu tranh chung. Theo Hồ Chí Minh, lực lượng làm nền tảng cho
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông - lao động trí óc, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nền tảng này càng được củng cố vững chắc thì khối
đại đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể
làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, những lời kêu gọi,
mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta. Tổ chức thể hiện khối đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận
dân tộc thống nhất được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông. Mặt trận dân
tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, không chỉ là người ở
trong nước mà cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài phấn đấu vì mục
tiêu chung độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.Lực lượng toàn dân được
tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất được đề cao về số lượng và chất lượng,
điều mà phong trào yêu nước trước đây không làm được. [1]
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh đã xác định
cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được
thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
1.2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ
Ra đi từ bến Nhà Rồng tháng 6-1911, 10 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành đã
tới nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa, ở cả châu Âu, châu

5
Phi, châu Mỹ. Qua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước
ở Người có những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng
lên thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp
bức như dân tộc mình. Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều
nước, Nguyễn Ái Quốc cũng rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra
sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... họ thiếu sự tin cậy lẫn
nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”. Vì vậy, Người chỉ ra sự cần
thiết của việc xây dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị đọa đày, đau
khổ. Người kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp rằng: "Chúng tôi yêu cầu
các bạn giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ đó, vì các bạn và chúng tôi, chúng ta
cùng chung một lợi ích… Mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn sẽ là những mối
quan hệ đoàn kết và liên minh".
Sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa
Là người dân từ một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy được khả năng tiềm
tàng của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi
của cuộc đấu tranh của họ. Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính
quốc và nhân dân lao động thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu các Đảng Cộng sản
và giai cấp công nhân ở chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự
giúp đỡ thiết thực đối với những người anh em thuộc địa. Trên tinh thần đó, Người
đã nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có chính sách và hành động
tích cực giúp đỡ các thuộc địa. Trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia
tích cực phong trào cách mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng
bước xây dựng nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông (1925)... là nhà cách mạng hoạt động tích
cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế Nông dân, Thanh niên,
Phụ nữ... thường xuyên mở rộng với nhiều chính khách, các nhà hoạt động xã hội...
Tất cả hoạt động nói trên của Người đều hướng vào mục tiêu tăng cường thêm bạn
bè, đồng chí cho cách mạng Việt Nam. [2]

6
1.2.2 Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đoàn kết quốc tế
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Thực hiện đoàn kết Quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ và sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng Việt Nam. Trong đó, sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật
chất và tinh thần, song trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự
lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh
dũng, bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh thời đại là sức mạnh của phong
trào cách mạng thế giới, đó còn là sức mạnh của chủ nghiac Mac-Lênin được xác
lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Do đó, thực hiện đại
đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đại đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc là cơ
sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thực hiện đoàn kết Quốc tế không vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì
sự ngiệp chung của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động quốc tế vì các mục tiêu cách mạng của thời đại.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời
kì tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ Quốc tế ngày càng sâu rộng
cho các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh
chung của cả loài người.
Gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới; kiên trì đấu tranh không mệt
mỏi để củng cố và tăng cường đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng thế giới đấu
tranh cho mục tiêu chung, hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. [3]

7
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế trong tình hình hiện nay
2.1.1. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế trong hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng
Hơn 90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc,
nhất là trong hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận dụng một
cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với tình hình,
yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ được
coi là “chìa khóa vạn năng” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn kết và
phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối thực hiện đại đoàn kết
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng thời điểm, giai đoạn đặt ra. Sức mạnh của
đoàn kết toàn dân đã được Đảng cụ thể hoá, thể chế hoá thành những nghị quyết,
chỉ thị, kết luận sát hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện của mỗi vùng, miền gắn
với quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của các giai cấp, giai tầng xã hội, như: Nghị
quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 của Ban Chấp
hành Trung ương khoá X về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn... [4]

8
Đồng thời, Đảng thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp,
tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh. Cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng ta
xác định thông qua chiến dịch “đốt lò” do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi
xướng năm 2013 là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, đồng thuận giữa nhà nước
và nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2.1.2 Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công –
nông – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng
Đảng ta luôn luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lenin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam chúng ta. Lịch sử đã chứng minh rằng Mặt trận dân tộc
thống nhất, càng rộng rãi thì liên minh công – nông – tri thức càng mạnh, sự lãnh
đạo của Đảng càng vững chắc. Đồng thời, khối liên minh này càng được củng cố,
sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng
được mở rộng và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được nhân lên.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận
động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày
càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên,
hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt vai
trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
và hệ thống chính trị, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước”.
Tỉnh Bến Tre trong những năm qua, thực hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của
Người, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh đã phát huy tốt vai trò của mình, huy động
sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp Nhân dân, các tôn giáo, nhân sĩ trí thức, người
Bến Tre ở nước ngoài tích cực góp phần xây dựng tỉnh nhà ngày càng giàu đẹp,
văn minh, nổi bật đó là tuyên truyền, vận động, đoàn kết Nhân dân xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh nhà ngày càng thể hiện

9
được vai trò của mình là cầu nối tin cậy giữa Nhân dân với các cấp ủy đảng, chính
quyền các cấp, thật sự là khối đại đoàn kết toàn dân của tỉnh nhà.
Bên cạnh đó, các chính sách giảm nghèo, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo vệ
chăm sóc sức khỏe Nhân dân; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu;
phòng, chống tội phạm, ma túy và các tệ nạn xã hội cùng với cuộc vận động xã hội,
các phong trào “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người
nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây
dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” đã có
tác dụng thiết thực, tạo sự gắn kết cộng đồng, làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn
dân tộc thấm sâu vào các tầng lớp Nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất
nước nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. [5] [6]
2.1.3 Đại đoàn kết toàn dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế
Trong tính thế giới hiện nay có những biến đổi khó lường, những biến chuyển khó
lường, nhanh chóng và sâu sắc của tình hình quốc tế mà trong nước đặt ra những
điều kiện mới, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải rút ra những bài học trong chiến
lược đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng cho phù hợp với từng
điều kiện, từng giai đoạn cụ thể:
Thứ nhất, cần làm rõ đoàn kết để thực hiện mục tiêu cách mạng trong giai đoạn
hiện nay là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ hai, mở cửa hội nhập quốc tế là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển.
Thứ ba, phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế
giới.
Thứ tư, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, làm hạt nhân đoàn kết toàn dân
tộc, đoàn kết quốc tế; tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng cho ngang tầm nhiệm vụ của dân tộc và của thời đại.

10
Điều đó cho thấy, những quan điểm cơ bản cùng những giá trị thực tiễn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là những bài học quý báu cần được nhận
thức, vận dụng sáng tạo cho phù hợp với cách mạng Việt Nam và thế giới tiến bộ. [6]

Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các tổ
chức kinh tế quốc tế
Trong khuôn khổ WTO:
Chủ trương nhất quán của Việt Nam là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và ủng
hộ một hệ thống thương mại đa phương mở, minh bạch, công bằng và dựa trên luật
lệ với WTO đóng vai trò trung tâm.
Chia sẻ về những thành công của Việt Nam theo đề nghị của Tổng giám đốc WTO,
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Việt Nam có đường lối đúng đắn về phát
triển đất nước dựa trên 3 trụ cột chính là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xuyên suốt trong quá trình đó, Việt Nam lấy nguồn lực bên trong là
chiến lược, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; lấy con người
là trung tâm, chủ thể, động lực và nguồn lực của sự phát triển; không hy sinh công
bằng, tiến bộ xã hội, môi trường lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Cùng với đó,
Việt Nam kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổng Giám đốc Ngozi Okonjo-Iweala cho rằng
thành công của Việt Nam đã truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho nhiều nước trên
thế giới, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại phục vụ phát triển đất nước. [7] [8]
Trong khuôn khổ ASEAN:
Trong suốt hành trình 27 năm tham gia ASEAN với phương châm “tích cực, chủ
động và có trách nhiệm”, Việt Nam đã có nhiều đóng góp cho một ASEAN thống
nhất, đoàn kết, hòa bình, ổn định và phát triển, có tiếng nói ở khu vực và được các
nước lớn công nhận.

11
Hội nhập ASEAN giúp Việt Nam từng bước nâng tầm đối ngoại đa phương, nâng
cao vị thế quốc tế của đất nước. Thành công trong tham gia ASEAN đã và đang
giúp Việt Nam thực hiện tốt nhiều nhiệm vụ đối ngoại đa phương quan trọng, như:
Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009,
2020-2021), đăng cai Cấp cao APEC (năm 2006, năm 2017), tích cực tham gia xây
dựng các “luật chơi” quốc tế, hợp tác đối phó với các thách thức toàn cầu như biến
đổi khí hậu, đối phó với đại dịch COVID-19...
Trong bối cảnh phòng, chống dịch Covid-19 hiện nay: những di huấn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học
và thực tiễn; là cơ sở để Đảng, Nhà nước vận dụng vào thực hiện đoàn kết, ủng hộ
quốc tế. Trong bối cảnh tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, Đảng và cả hệ
thống chính trị cùng toàn thể đồng bào ở trong nước và ngoài nước đã đoàn kết,
chung sức đồng lòng, quyết tâm “chống dịch như chống giặc”. Qua đó, còn thể hiện
tinh thần đoàn kết, sẻ chia, cộng đồng trách nhiệm của nhân dân với Đảng và Chính
phủ. Điều đó giúp cho Việt Nam tiếp tục được thế giới đánh giá cao trong việc phát
huy được sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc chiến chống đại dịch.
Một là, cần làm rõ mục tiêu của đoàn kết, hợp tác quốc tế trong cuộc chiến chống
dịch Covid-19 hiện nay là cùng Nhân dân thế giới chiến thắng đại dịch. Thực tiễn
cho thấy, Việt Nam đã thể hiện rõ trách nhiệm kép là phòng, chống dịch tốt ngay
tại nước mình; đồng thời tích cực, chủ động hợp tác với các đối tác kiểm soát, ngăn
chặn lây lan, giảm thiểu tác động kinh tế - xã hội do dịch bệnh. Trong đó, Việt Nam
đã phối hợp với các nước, vừa chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, đồng thời khẳng định
quyết tâm hợp tác khu vực, quốc tế trong chống dịch, nhằm cùng nhau sớm đẩy lùi
dịch bệnh.
Hai là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 cần
xác định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách về tăng cường hợp tác đa
phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong cuộc chiến chống lại đại
dịch toàn cầu, Việt Nam xác định không thể đi một mình mà cần phải có sự đoàn

12
kết, chia sẻ, phối hợp, cập nhật thông tin, kinh nghiệm chống dịch, kết quả nghiên
cứu vaccine với các nước trên thế giới, triển khai chiến lược “ngoại giao vaccine”.
Ba là, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế cần nhất quán thực hiện
phương châm "giúp bạn là tự giúp mình" và tinh thần chia sẻ quốc tế.
Với sự trân trọng tình hữu nghị anh em truyền thống, Việt Nam đã tặng các nước
Lào, Campuchia, Cu Ba các trang thiết bị y tế gồm quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế,
khẩu trang kháng khuẩn, hệ thống xét nghiệm cùng bộ xét nghiệm virus Sars-Cov-2,
gạo. Những sự giúp đỡ thiết thực, kịp thời của bạn bè quốc tế trong cuộc chiến đấu
chống đại dịch Covid-19 nêu trên là minh chứng cho mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt
Nam với các đối tác, bạn bè quốc tế; thể hiện sự chia sẻ trong lúc khó khăn, quyết
tâm cùng chung sức đồng lòng đẩy lùi đại dịch Covid-19 trên toàn cầu. [9] [10]

2.2. Một số biện pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Một là, thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân về
tinh thần đoàn kết của dân tộc.
Đây là nhiệm vụ mang tính thường xuyên, liên tục và được tiến hành có trọng tâm,
trọng điểm, nhất là vào những thời điểm quyết định đến tương lai, vận mệnh của
đất nước. Tuyên truyền, giáo dục để cho mỗi người dân thấy được tinh thần đoàn
kết là vốn quý của dân tộc cần phải được bảo tồn và lan toả rộng khắp. Theo đó,
cần đa dạng hoá nội dung, hình thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để
mọi người được tham gia, phát huy năng lực, sở trường, thế mạnh của mình, vận
động các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng vào các phong trào thi đua do
Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.
Hai là, đa dạng hoá các nội dung, hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn
kết của con người Việt Nam.
Về nội dung, cần hướng vào những vấn đề thiết thực gắn với cuộc sống đời thường
của người dân, như gia đình khá giả, có điều kiện giúp đỡ gia đình nghèo, không có
điều kiện; huy động các doanh nghiệp, doanh nhân thành đạt ủng hộ cho người

13
nghèo, không có công ăn, việc làm, ốm đau, bệnh tật không có khả năng lao động,
thông qua hoạt động từ thiện, ủng hộ; tổ chức phát động chương trình chung tay
quyên góp cho nhân dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh; xây dựng đức tính
nhân ái, bao dung, độ lượng giữa con người với con người trong hoạn nạn, khó
khăn ;không có sự ganh đua, cạnh tranh, đố kỵ giữa con người với con người...
Như trong tình hình dịch bệnh còn diễn biến phức tạp Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã ra lời kêu gọi cả nước chống dịch. Đáp lại lời kêu gọi đó, chúng ta không
khó để bắt gặp hình ảnh người dân nhường cơm sẻ áo cho nhau trong những ngày
quyết chiến với dịch bệnh. Đó là những suất cơm miễn phí, hay những cây ATM
gạo, ATM mì và những siêu thị 0 đồng…; những đội xung kích tình nguyện “đi
từng ngõ, gõ từng nhà” để nắm bắt tình hình và hỗ trợ kịp thời cho người dân yếu
thế. Sự tự nguyện của đội ngũ y, bác sĩ , công an, quân đội xung phong ra tuyến
đầu chống dịch. Sự đoàn kết của những chiến binh áo trắng các tỉnh thành không
quản ngại hiểm nguy, nơi không có dịch tăng cường lực lượng hỗ trợ nơi có dịch để
tổ chức xét nghiệm, cách ly, chăm sóc, cứu chữa cho bệnh nhân… Tất cả đều đáng
trân trọng và góp phần lan tỏa tinh thần đoàn kết, góp sức cho cuộc chiến đẩy lùi
dịch bệnh Covid-19. Cuộc chiến với dịch bệnh Covid-19 vẫn còn cam go và nhiều
thử thách. Do đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tiếp tục đoàn kết một
lòng để phát huy hết sức mạnh phòng, chống dịch bệnh với quyết tâm cao nhất.

Về hình thức, phương pháp khơi dậy tinh thần đoàn kết được thực hiện thông qua
công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức; các hội nghị để kêu gọi mọi người nêu cao
tinh thần đoàn kết, khí phách ngàn đời của dân tộc; thông qua xây dựng những
gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; thông qua hệ thống thông tin
truyền thông ở các địa phương, nhất là đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở trong việc thực
hành, nêu gương trước quần chúng nhân dân.

Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở trong hướng dẫn,
đồng hành cùng với nhân dân tham gia vào các hoạt động chung của xã hội.

14
Cán bộ là “cái gốc” của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay xấu. Theo đó, đội ngũ cán bộ các cấp đặc biệt là người đứng đầu ở
cơ quan, đơn vị, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình là hạt nhân đoàn kết,
bám địa phương phải sát mọi hoạt động của quần chúng nhân dân, biết lắng nghe,
chia sẻ với khó khăn, vất vả của người dân, tuyệt nhiên không được khinh thường
nhân dân, người lao động chân tay; gắn việc học tập làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong mọi hoạt động của
mình, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu phải luôn đặt chữ “Tâm” để
giải quyết các mối quan hệ, ứng xử, xây dựng tác phong gần gũi, chân thành giữa
cán bộ với cán bộ và giữa cán bộ với nhân dân. Đó không chỉ góp phần đưa nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc
sống, mà còn tạo tinh thần, khí thế thi đua sôi nổi trong toàn xã hội. [4]

2.3. Trách nhiệm của sinh viên trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế
Liên hệ với tinh thần dân tộc:
Đoàn kết dân tộc được thể hiện là giá trị qua nhiều đời. Mang đến các ý nghĩa trong
chống chiến tranh xâm lược của ông cha ta. Cũng như cải thiện và xây dựng bộ
máy nhà nước. Với các cơ quan trong chức vụ quyền hạn cụ thể. Thực hiện trên
tinh thần thống nhất vì lý tưởng chung đã trở thành một động lực to lớn để dân tộc
ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm. Từ đó mang đến các giá trị lịch sử hào hùng,
đáng tự hào dân tộc để tiếp cận với tồn tại và phát triển bền vững.
Chính vì thế, đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của Đảng, của toàn dân và của mỗi cá
nhân. Đến với hoạt động trong tập thể, trong cộng đồng. Mang đến các mối quan hệ,
trách nhiệm xác định khác nhau. Từ sinh hoạt, lao động và tính chất việc làm. Tinh
thần đoàn kết dân tộc được thể hiện rõ nhất trong khi cần đến sự giúp đỡ, hỗ trợ, lá
lành đùm lá rách. [11]
Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế:
Tự rèn luyện bản thân:

15
Trước tiên phải đến từ các nhận thức và thay đổi của chính bản thân. Điều đó mới
làm nên quyết tâm và định hướng thực hiện mục tiêu. Đẩy mạnh việc tự học, tự bồi
dưỡng. Bản thân phải chủ động trong tìm tòi, khám phá. Mang đến các tiếp cận
trong nội dung học tập, phấn đấu.
Để góp phần nâng cao chuyên môn của bản thân. Từ đó có các cống hiến trong
phạm vi đặc thù của hoạt động kinh tế, xã hội. Tuyên truyền về đường lối chính
sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Mang đến các phổ biến, để mọi người có
thể tiếp cận và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chung. Chống các biểu hiện suy thoái
về phẩm chất đạo đức.
Mỗi cá nhân cần có ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức: Trước khi thực hiện bất cứ
công việc chuyên môn gì, các đòi hỏi về giá trị đạo được cần xác lập đầu tiên. Đảm
bảo mang đến nền tảng trong lối sống, phong cách và tinh thần ham học hỏi. Cần
gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn những nhiệm vụ được giao. Từ
đó mang đến các sức ảnh hưởng và giá trị làm gương trong xã hội.
Tích cực tham gia các hoạt động, phong trào bên ngoài:
Thẳng thắn, trung thực với thực hiện công việc, giao tiếp và đối xử với mọi người
xung quanh. Bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng. Gắn với các
chức danh, các ý nghĩa trong vận động và phát triển. Bảo vệ người tốt, chân thành,
khiêm tốn, không bao che khuyết điểm,… Mang đến các trách nhiệm, ý nghĩa thực
hiện phân công trong nhiệm vụ Đảng.
Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết trong tập thể, trong cơ quan đơn vị. Không chia rẽ,
cũng như có cách lời nói, hành động thiếu chuẩn mực. Một tập thể vững mạnh
được đảm bảo bằng các tinh thần đoàn kết và xây dựng. Cùng hướng đến các mục
tiêu và trách nhiệm lớn nhất của tổ chức. Vì các lý tưởng và lợi ích tìm kiếm, triển
khai trong đơn vị. Thay vì thực hiện với lối sống đi lùi trong tổ chức, đơn vị.
Bản thân cần tự đặt mình trong tổ chức, trong tập thể. Với các trách nhiệm tham gia
vào việc chung của tập thể. Đóng góp ý kiến, quan điểm và thực hiện công việc
được giao. Phối hợp với tổ chức trong chính lợi ích chung cần tìm kiếm. Muốn thế
phải thấy được và cùng chí hướng trong thực hiện mục tiêu của tổ chức.

16
Phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, nội quy của tổ chức. Mang đến các tuân thủ
trong quyền lợi và nghĩa vụ xác định cho từng cá nhân cũng như với tập thể. Từ đó,
đảm bảo cho các quyền và lợi ích của các chủ thể khác được tôn trọng, thực hiện.
Không chia bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.
Học hỏi, tự nhận thức về ý nghĩa tư tưởng:
Cần có ý thức coi trọng việc tự phê bình và phê bình học tập theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Trong đó, các nhận thức đánh giá đối với công việc thực hiện. Phê phán
những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Các biểu hiện không đảm bảo
trong chuẩn mực và tuân thủ quy định, nguyên tắc chung, ủng hộ các chính sách
của Đảng và Nhà nước. Điều đó giúp cho tinh thần của tổ chức với tư tưởng được
quán triệt thống nhất.
Đồng thời, tuyên truyền nhận thức đối với mọi người xung quanh. Hòa nhập, thân
thiện, sẵn sàng hỗ trợ các bạn bè gần xa trong nước hay ngoài nước, thể hiện tính
đoàn kết quốc tế. Việc tiếp xúc mang đến kinh nghiệm giá trị thể hiện để học tập,
rèn luyện. Các tấm gương ngay từ xung quanh chúng ta. Để mọi người cùng giữ
gìn đạo đức lối sống, thực hiện xây dựng gia đình, xã hội văn minh - văn hóa.
Để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và đoàn kết thế giới. Các giá trị nhận thức
về tư tưởng cần mang đến hiệu quả. Hiện nay, mỗi cá nhân không chỉ cần rèn luyện,
tu dưỡng đạo đức, là nền tảng cần thiết đối với hoạt động của cá nhân trong tập thể,
trong tác động đến mọi người xung quanh. Mà còn cần phải không ngừng học hỏi
nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi kĩ năng sống năng động, tích cực, sáng tạo.
Tài và đức phải song hành trong mục tiêu, lý tưởng về tinh thần đại đoàn kết dân
tộc và đoàn kết thế giới. [11]

17
PHẦN KẾT LUẬN

Qua những phân tích trên, có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có
một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài
toán của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ
nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh
hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành
sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con
người Việt Nam, xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ
chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công
nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của
tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có
giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp
thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay. Ở thời điểm dân tộc ta đã bước sang thế kỷ
XXI trước những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động
đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta
phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, phải
vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những
biến đổi của tình hình mới, tăng cường mở rộng hợp tác đoàn kết quốc tế phát triển
con người, đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
thế giới sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn biến đổi của đất
nước. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng
Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ [1] “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”

[Trực tuyến]. Available: https://ldld.quangbinh.gov.vn/3cms/Ban-in-507.htm?art=13969217229087

&fbclid=IwAR1UimNsxzXxeEdPUblUwqCTqDa4ecBmLx_9ArrO17sGJyaSE-uQKRotB3s.

[2] “Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế”

[Trực tuyến]. Available: https://luatminhkhue.vn/quan-diem-cua-chu-tich-ho-chi-minh-ve-doan-ket-

quoc-te.aspx.

[3] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, HN.

[4] “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay”

[Trực tuyến]. Available: https://giaoduclyluanhcma.vn/Default.aspx?portalid=33&tabid=19&distid

=151&name=Van%20dung%20tu%20tuong%20Ho%20Chi%20Minh%20ve%20dai%20doan%20ket%

20dan%20toc%20o%20Viet%20Nam%20hien%20nay.

[5] “Vài suy nghĩ: Học tập, vận dụng tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay”

[Trực tuyến]. Available: http://mttq.bentre.gov.vn/noi-dung/vai-suy-nghi-hoc-tap-van-dung-tu-tuong-dai-doan-ket-


toan-dan-toc-cua-chu-tich-ho-chi-minh.

[6] “Đảng đã vận dụng tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế vào hiện nay như thế nào?”

[Trực tuyến]. Available: https://www.youtube.com/watch?v=J6vzQ3YU2ng.

[7] “Việt Nam luôn nỗ lực phát huy vai trò chủ động, tích cực tại các khuôn khổ hợp tác của WTO”

[Trực tuyến]. Available: https://baochinhphu.vn/viet-nam-luon-no-luc-phat-huy-vai-tro-chu-dong-tich-cuc-tai-cac-


khuon-kho-hop-tac-cua-wto-10223051818161811.htm.

[8] “Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm của WTO”

[Trực tuyến]. Available: https://dangcongsan.vn/thoi-su/viet-nam-la-mot-thanh-vien-co-trach-nhiem-cua-wto-


638136.html.

[9] “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vào thực hiện đoàn kết, hợp tác quốc tế trong phòng, chống
dịch Covid-19 ở Việt Nam”

[Trực tuyến]. Available: http://m.tapchimattran.vn/dai-doan-ket/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-quoc-


te-vao-thuc-hien-doan-ket-hop-tac-quoc-te-trong-phong-chong-dich-covid19-o-viet-nam-42701.html.

[10]“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong công tác phòng chống dịch Covid 19,” [Trực
tuyến]. Available: https://binhdinh.dcs.vn/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/-/view-
content/60081/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc-trong-cong-tac-phong-chong-dich-covid-
19.

[11]“Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”

[Trực tuyến]. Available: https://luatduonggia.vn/lien-he-ban-than-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc/.

19
20

You might also like