You are on page 1of 18

Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................2
1. Lý do lựa chọn đề tài .........................................................................................................2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................................2
3. Cơ sở lý luận và phương pháp luận ..................................................................................2
4. Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................................2
5. Kết cấu bài báo cáo ............................................................................................................3
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC .......................4
1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng ..........................................4
1.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
cách mạng. ..........................................................................................................................4
1.1.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. .......4
1.2 Lực lượng đại đoàn kết dân tộc .......................................................................................4
1.2.1 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân Trong tư tưởng Hồ Chí Minh:.......4
1.2.2 Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc: ................................................................5
1.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc .................................................................5
1.3.1 Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất .5
1.3.2 Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống
nhất .....................................................................................................................................6
CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................................................................................ 11
2.1 Giá trị về mặt lý luận ..................................................................................................... 11
2.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bổ sung và phát triển cho chủ
nghĩa Mác – Lênin về lực lượng cách mạng .................................................................... 11
2.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trở thành nền tảng tư tưởng của
các đường lối cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản ...... 14
2.2 Giá trị về mặt thực tiễn.................................................................................................. 15
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................................. 17

1|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong
suốt thời gian đó, dân tộc ta đã đúc kết và gìn giữ nhiều truyền thống quý báu, những giá trị tinh
thần tốt đẹp. Một trong số đó chính là tư tưởng về đại đoàn kết giữa các dân tộc. Nhờ nó mà dân
tộc ta đã đánh bại những đế quốc hùng mạnh, bảo vệ độc lập cho dân tộc

Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành công đại thành công”
vấn đề đoàn kết là một trong những vấn đề quan trọng không chỉ trong thời kì kháng chiến giành
độc lập mà còn cả trong thời kì phát triển đất nước hiện tại. Để đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, các dân tộc trong nước cần nâng cao tinh thần đoàn
kết, quyết tâm đưa đất nước đi lên ngày càng phát triển.

Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách đúng đắng nhằm tăng cường
sức mạnh của khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta. Nhờ vậy mà đất nước đã đạt nhiều thành
tựu đáng ghi nhận, đời sống của người dân được cải thiện, giữ vững được an ninh quốc phòng,
kinh tế ngày càng đi lên… Tuy nhiên, Đảng và nhà nước vẫn gặp những hạn chế, bất cập trong
quá trình áp dụng những chủ trương, đường lối, chính sách. Hố Chí Minh cho rằng: “Đảng lãnh
đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng cách mạng là sự nghiệp của của quần chúng nhân dân. Sự
nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc”. Để
hiểu rõ hơn về vấn đế đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhóm quyết định chọn đề
tài “Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” cho bài tập lớn.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh, Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và đoàn kết dân tộc. Phạm vi nghiên
cứu:
⁻ Không gian: Lãnh thổ Việt Nam.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
Cơ sở lý luận: dựa vào Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và đoàn kết dân tộc. Phương pháp luận: kết
hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…

4. Mục tiêu nghiên cứu


Mục tiêu nghiên cứu đề tài này của nhóm bao gồm: Làm rõ các vấn đề liên quan đến Đại
đoàn kết dân tộc: Lực lượng bao gồm những ai? Có vai trò như thế nào, và hình thức tổ chức khối

2|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

đại đoàn kết là gì? Làm nổi bật giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề đại đoàn kết dân tộc
(Bao gồm sự vận dụng sáng tạo và phát triển của Chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn cụ
thể nước ta, và đó đã trở thành nền tảng cho công cuộc dựng nước, giữ nước và phát triển).

5. Kết cấu bài báo cáo


Bài báo cáo bao gồm có 3 phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Nội dung bài cáo
cáo bao gồm hai chương sau:

Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Chương 2. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay.

3|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC


1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
1.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng để đánh bại các thế lực thực dân đế quốc nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì chưa đủ. Cách
mạng muốn thành công và thành công tới nơi phải tập hợp được mọi lực lượng có thể tập hợp để
xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững → Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.

Để quy tụ mọi lực lượng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải có chính sách phù hợp với từng
đối tượng trong từng thời kì, song đại đoàn kết dân tộc luôn được nhận thức là vấn đề sống còn,
quyết định thành bại của cách mạng. Từ thực tiễn Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm
có tính chân lí về vai trò của đoàn kết “đoàn kết làm ra sức mạnh”, “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn
kết,thành công, thành công, đại thành công”.

1.1.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là sức mạnh, là mạch
nguồn của mọi thắng lợi. Đại đoàn kết dân tộc luôn được quán triệt trong mọi đường lối, chính
sách của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định mục đích của Đảng lao động Việt Nam là “đoàn kết toàn
dân, phụng sự tổ quốc”. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ Đảng viên phải thấm nhuần quan điểm
quần chúng “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đại đoàn kết dân
tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng, đồng thời còn là mục tiêu, nhiệm
vụ hàng đầu của cả dân tộc.

1.2 Lực lượng đại đoàn kết dân tộc


1.2.1 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân Trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Khái niệm dân và nhân dân, có biên độ rất rộng lớn; vừa được hiểu là một tập hợp đông
đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ “Mọi con dân
nước Việt”, mỗi một người “Con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số hay dân tộc
đa số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt “Già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý
tiện”. Như vậy, Dân và Nhân dân là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực
chất là đại đoàn kết toàn dân. Nói cách khác, đại đoàn kết dân tộc là tập hợp được mọi người dân
vào cuộc đấu tranh chung. Theo đó, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức,

4|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Mẫu số chung để
quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, là cuộc
sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng
thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là liên minh công-nông-lao động trí óc vì “Lực
lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông”.

1.2.2 Điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc:
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải Kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa
– đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Truyền thống đó là cội nguồn sức
mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước
được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững. Điều kiện tiếp theo là phải có lòng khoan dung,
độ lượng với con người. Trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm,
khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng cần phải có lòng khoan dung
độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng
rãi mọi lực lượng. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải
dùng tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai
chắc chắn sẽ vẻ vang”.

Để thực hiện đoàn kết rộng rãi còn cần có niềm tin vào Nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin
dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của Nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc
này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền và làm lật thuyền
cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mác xít “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô
địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt
trận.

1.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
1.3.1 Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là quan niệm, ở những lời
kêu gọi, những lời hiệu triệu mà còn phải trở thành một chiến lược cách mạng, khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật
chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.

5|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu
chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không thì quần chúng
nhân dân dù có đông tới mức nào cũng không đủ sức mạnh, được chứng minh bởi các thất bại của
các tổ chức yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời. Về phương diện
nào đó, có thể khẳng định rằng, quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình
tìm kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng
trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Nên ngay sau khi tìm thấy con
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước
phù hợp với từng giai cấp, từng ngành nghề, từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, phù hợp với
từng giai đoạn của cách mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội,
đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc,
Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn... Trong đó, bao trùm nhất là mặt trận dân tộc thống
nhất.

Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, mọi con dân nước Việt
trong nước và ngoài nước, dù ở bất cứ nơi nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước,
về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là thành viên của mặt trận. Tùy theo từng thời kỳ, căn cứ vào
yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng, cương lĩnh và điều lệ của mặt trận dân tộc thống nhất có thể có
những nét khác nhau, tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất theo đó, cũng có thể khác nhau: Hội
phản đế đồng minh (1930), Mặt trận Dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt trận
Việt Minh (1941 ), Mặt trận Liên Việt (1946), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
(1960), Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (1955,1976). Song bản chất vẫn giữ nguyên là tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn của nhân dân Việt Nam, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì
mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

1.3.2 Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
a. Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông
- trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Là một tập hợp quy tụ mọi con dân nước Việt, Mặt trận dân tộc thống nhất là một khối
đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng sản

6|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Trên thực tế
và theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của người VIệt Nam mà còn đã được xây
dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.

Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên
minh công nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ ràng, sở dĩ phải lấy
liên minh công - nông làm nền tảng. “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho
xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức bóc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng
của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”. Người căn dặn nhấn mạnh vai trò nòng cốt
của liên minh công nông đồng thời thấy vai cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác,
nhất là tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có trí thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đối với
cách mạng. Người nói “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa,
lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; công – nông - tri cần đoàn kết chặt chẽ thành
một khối”.

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố
và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là
vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu
lực trong thực tiễn. Bởi vì chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân mới đánh giá đúng được vai
trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng
đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong mặt trận. Chính vì vậy, Hồ Chí
Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có mặt
trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng. Không có
sự lãnh đạo của Đảng mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt
động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của mặt trận dân tộc
thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận.

Hồ Chí Minh còn cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có
điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan
của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo mặt
trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức
chính trị nào trong mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích của giai cấp và

7|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

lợi ích của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác. Mặc dù vậỵ, quyền lãnh đạo mặt trận của
Đảng không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Để lãnh đạo Mặt
trận, Đảng phải có chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách
mạng, phù hợp với quyền lợi và nguvện vọng của đại đa số nhân dân. Người viết: “Chính sách mặt
trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn
bộ công tác cách mạng”.Trong quá trình lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối quần
chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên trong mặt trận; phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi
gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành
viên khác trong mặt trận phải tuân theo.

b. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc,
quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân

Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, tuy nhiên sự
đoàn kết chỉ bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Nếu không suy
nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì đoàn kết không mang
nhiều ý nghĩa. Mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ
thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào
khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di bất dịch, là mục tiêu chung để quy
tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận. Tuy nhiên làm cách nào
tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối
cao đó lên trên hết, trước hết. Muốn đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc thì phải bảo đảm lợi ích
cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người. Hồ Chí Minh đã kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam dựa
trên các lợi ích tối cao của dân tộc những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân, đó là độc
lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi
thời kỳ lịch sử.

c. Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo
đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững

Hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vừa là nguyên tắc tổ chức vừa là phương thức hoạt động cơ bản của

8|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Theo đó, các hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ việc đề ra
chương trình phối hợp, thống nhất hành động giữa các thành viên, đến việc tổ chức thành lập các
cơ quan lãnh đạo của Mặt trận các cấp đều được thực hiện trên tinh thần bàn bạc, nhất trí, loại trừ
mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận vừa là thành viên
của mặt trận. Tất cả mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải trình bày trước mặt trận, cùng với
các thành viên khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp và thống
nhất hành động. Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai
cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và ích lợi giai cấp, lợi ích chung
và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt… , trong đó lợi ích chung, lợi ích tối cao của
dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết trước hết. Những lợi ích riêng chính đảng phù hợp với
lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không
phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thông qua lại ích
chung.

Trong quá trình hoạt động, mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý
mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên dựa trên nguyên tắc hiệp thương dân chủ. Giải quyết đúng
đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự
đồng thuận, nhất trí, tạo ra khối đại đoàn kết bền chặt và lâu dài, là cơ sở để mở rộng khối đại đoàn
kết bằng lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc thống nhất.

d. Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ

Mặt trận là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, nên có những sự
tương đồng và khác biệt giữa các thanhg viên. Hiệp thương dân chủ giúp thu hẹp những nhân tố
khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết.
Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn
dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt).; mặt khác, Người nêu rõ:
“Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn
dặn mọi người cần phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đồng thời phải có tấm lòng nhân
ái, khoan dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận, phải nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng khối
đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc

9|P a ge
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn
kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn
kết dân tộc.

Mối quan hệ giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt tổ chức xã hội mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Nguyên tắc đoàn kết của Hồ Chí Minh không tách biệt hoặc
nhấn mạnh một chiều vai trò của Mặt trận hoặc liên minh công nông. Tuyệt đối hóa vai trò của
liên minh công nông và hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan, “tả khuynh” và bệnh cô
lập, hẹp hòi. Ngược lại, sự đề cao một chiều vai trò của Mặt trận, xem nhẹ liên minh công nông sẽ
dẫn tới hữu khuynh, vô chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Trong chính sách đoàn kết cần phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”.

10 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Giá trị về mặt lý luận
2.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc bổ sung và phát triển cho chủ nghĩa
Mác – Lênin về lực lượng cách mạng
Cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trước Hồ
Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Theo
chủ nghĩa Mác – Lênin, lực lượng tham gia cách mạng sẽ là giai cấp công nhân, là lực lượng sản
xuất chính, là giai cấp vô sản. C. Mác và Ph. Ăngghen kêu gọi đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế
giới và thực hiện liên minh công nông trong đấu tranh lật đổ chế độ tự bản chủ nghĩa: Cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh
công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân tộc phải gắn với
đoàn kết quốc tế: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Tới V.I. Lênin,
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức giai cấp và dân
tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, V.I.Lênin nêu ra khẩu hiệu kêu gọi sự đoàn kết rộng lớn của
giai cấp công nhân toàn thế giới với các dân tộc bị áp bức: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc, tư tưởng về đoàn kết dân
tộc trong mặt trận thống nhất vẫn chưa được V.I. Lênin và Quốc tế Cộng sản đặt ra.

Xuất thân trong một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự chủ, Hồ Chí Minh
đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vận dụng chủ nghĩa dân tộc và các quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về mặt trận dân tộc thống
nhất, biểu hiện cụ thể của khối đại đoàn kết dân tộc với một hệ thống những quan điểm khá hoàn
chỉnh về công tác mặt trận, kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng
hợp, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Qua những bài học của các cuộc khởi nghĩa cuối thể kỷ XIX, đầu thể kỷ XX để lại, Hồ Chí Minh
thấy được rằng nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại có nguồn gốc từ sự bất đoàn kết của toàn dân
tộc. Người cho rằng muốn cách mạng thành công, phải có lực lượng cách mạng đủ lớn để chiến
thắng thực dân, đế quốc và bước tiếp trên con đường xây dựng xã hội mới. Để có được lực lượng
cách mạng lớn mạnh, cần sự tập trung, quy tụ, đại đoàn kết của tất cả lực lượng cách mạng riêng
lẻ thành một khối vững chắc. Vì thế, đoàn kết dân tộc trở thành chiến lược lâu dài, là vấn đề sống

11 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

còn, quyết định thành bại của cách mạng, Người nói: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn
kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm
trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”.

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích của dân tộc và quyền lợi cơ bản
của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và
toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục
được khẳng định: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số
nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”, và sau này Người
bổ sung thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, nông dân với trí
thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có
một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.

Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu
chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập, đối kháng và thù ghét giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về
những biện pháp nhằm “Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu
biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai, khối liên
minh này sẽ là một trong những các cánh của cách mạng vô sản. Thêm vào đó, để tăng cường đoàn
kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng
thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng mọi cách phải “Làm cho Đội tiền phong
của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”.
Người nói, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của giai cấp vô sản chính quốc và của nhân
dân các nước thuộc địa là thống nhất.

Đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với giai cấp, lứa tuổi, ngành nghề,
v.v là điều được Hồ Chí Minh chú tâm, trở thành mối bận tâm hàng đầu ngay khi Người tìm thấy
con đường cứu nước. Trong thực tiễn, đó là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội,
đoàn thanh niên hay hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc,
Công giáo yêu nước hay những nghiệp đoàn, v.v. Nơi hội tụ đầy đủ những yếu tố cốt lõi là Mặt
trận dân tộc thống nhất - nơi tập hợp mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, những người anh em cùng
chung một quê hương, kể cả những con dân Việt Nam lưu lạc nơi đất khách quê người, dù ở bất
cứ đâu, mọi miền đất nước, đều hướng về đất mẹ, về Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, Người cũng cố

12 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

gắng lấy sự đoàn kết làm yếu tố tiên quyết đối với các lực lượng tiến bộ, những con người cùng
chung chí hướng, muốn đem lại và giữ gìn nền hoà bình, độc lập, tự do và công lý. Đó cũng là
mục tiêu được Hồ Chí Minh gắn liền với cuộc đấu tranh, là động lực, là niềm tin, sự thức tỉnh dân
tộc gắn liền với thức tỉnh giai cấp và tận dụng thời điểm khi được sự ủng hộ của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới.

Bằng với sự nhạy bén của mình, ngay từ sớm ở phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí
Minh đã nhanh chóng phát hiện ra âm mưu chia rẻ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự biệt lập,
đối kháng, thù ghét giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Chính vì vậy, Người đã kiến nghị
Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “Làm cho các dân tộc thuộc địa,
từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên
minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những các cánh của cách mạng
vô sản. Thêm vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản chính
quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản bằng
mọi cách phải “Làm cho Đội tiền phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp công
nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”. Người nói, đứng trước chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của
giai cấp vô sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.

Ngoài ra, không chỉ quan tâm đến lực lượng cách mạng trong nước, lực lượng đoàn kết quốc tế
theo tư tưởng của Hồ Chí Minh rất phong phú song tập trung chủ yếu vào phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Hồ Chủ tịch đã thành công khi gắn cuộc
cách mạng ở Việt Nam đi kèm với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để kêu
gọi và tập hợp được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, trong việc mở
rộng lực lượng đoàn kết quốc tế, Người còn xác định rõ vai trò quan trọng của các quốc gia láng
giềng, các nước lớn. Tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã lên tiếng: “Nhân
danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi
kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”. Người tìm thấy các lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phong trào cộng sản và công nhân thế
giới: các nước xã hội chủ nghĩa và Quốc tế thứ ba. Từ đó, Người đã dành nhiều thời gian và tâm
lực, phấn đấu không ngừng nghỉ cho việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

13 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

2.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trở thành nền tảng tư tưởng của các
đường lối cách mạng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản
Thực tiễn đã và đang chứng minh những giá trị, bài học bền bỉ lâu dài của tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Do đó, thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới, Đảng
ta luôn tập hợp lực lượng phù hợp với thực tế phát triển của đất nước và thời đại nhằm phục vụ
cho mục tiêu chung.

Trong điều kiện hiện nay, trước hết phải xây dựng một Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh,
cán bộ, đảng viên là những người lãnh đạo, đồng thời là các đầy tớ trung thành của Nhân dân. Đẩy
mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân
và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm. Đề cao vai trò
nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền. Kiên quyết
chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tăng
cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong bộ máy công quyền trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá
nhân đối với những hành vi coi thường và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân,
xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà
nước.

Tiếp theo, trong khuôn khổ pháp luật, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xác định mục tiêu phấn đấu là giữ vững độc lập, thống nhất
của tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, xóa bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai. Đại đoàn kết hiện nay là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó
các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.

Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, miền núi và vùng
đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu
ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc, vùng tôn giáo.
Quan tâm chăm lo từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và
giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Qua đó, tăng cường
đoàn kết các dân tộc và sự đồng thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người
không tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời,

14 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín,
dị đoan, lợi dụng dân tộc, tôn giáo làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân cùng với Ðảng,
Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội; hợp tác và hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, tham gia tích
cực cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động: “Toàn dân đoàn
kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam” ... qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp
nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tăng cường các hoạt động đối ngoại nhân dân, tích cực vận động và có chính sách thu hút người
Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, để họ đóng góp trí tuệ, tài năng, tiền của xây dựng quê
hương, đất nước giàu mạnh, giữ gìn bản sắc dân tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam. Chủ
động phối hợp với các cơ quan chức năng nước sở tại có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

2.2 Giá trị về mặt thực tiễn


Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đại đoàn kết, Đảng ta luôn
xác định xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ phát triền đất
nước, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh công nghiệp và hội nhập quốc tế hiện nay. Trong thời đại
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, từng bước được thể
chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách theo như các giá trị mà tư tưởng Hồ Chí Minh mang lại.
Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm chăm lo
đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Điển hình như việc phòng chống đại dịch Covid-
19, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước đặc biệt nhờ vào tài lãnh đạo của Phó Thủ Tướng Vũ
Đức Đam thêm vào đó là ý thức của mỗi người dân mà đại dịch đã được đẩy lùi nhanh chóng, qua
đây chúng ta có thể thấy được mỗi công dân Việt Nam đã được thấm nhuần tư tưởng của Đảng đề
ra tạo thành một khối đại đoàn kết chung toàn dân. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được phát huy. Sự đổi
mới hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng vào việc động viên nhân dân và cán bộ hăng
hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát

15 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng. Đó là những nhân tố rất quan trọng, là
động lực chủ yếu bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Để đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, cần làm cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy đảng và
người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt
trận dân tộc đề xướng. Phải nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những định hướng về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đó là lợi ích cơ bản của nhân
dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã
hội. Lợi ích đó thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng. Củng cố tăng cường đoàn kết hiện nay không thể riêng biệt mà phải gắn chặt
với việc bảo đảm các lợi ích đó. Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đoàn
kết trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân cần được tôn trọng. Pháp luật
phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm chủ như Hiến pháp đã quy định.

Các cấp ủy đảng và người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc học tập,
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân vận, công tác mặt trận và các đoàn thể.
Đưa nội dung lãnh đạo các công tác này thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn
thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp. Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị xã hội và của toàn dân. Do đó, qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để góp
phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn luôn bền chặt, ý Đảng và lòng
dân là một. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước có tác dụng trực tiếp và quyết định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội cũng phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản
biện xã hội, để các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân dân, kiên trì
thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có thể khẳng định, bài
học đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng trở nên sống động và mang tính thời sự, ý nghĩa hết sức

16 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

quan trọng trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ để đón nhận những cơ hội cùng
thách thức lớn của quá trình hội nhập ngày một sâu, rộng.

“Để tăng cường củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay, cần thực hiện một số
nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy
đảng, người đứng đầu và cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, củng cố, phát triển khối đại đoàn
kết toàn dân tộc hiện nay. Các cấp ủy đảng và người đứng đầu thường xuyên tiếp xúc, đối thoại
trực tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải xung
phong, gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đoàn
kết và xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.

Thứ hai, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên
và các giai tầng, các giới trong toàn dân tộc.

Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đa dạng hóa các hình thức
tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở.

Thứ tư, tăng cường công tác dân vận của chính quyền các cấp. Tích cực phối hợp giữa chính quyền
các cấp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm công tác dân vận.

Thứ năm, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc”.

Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đảm bảo thế và lực cho đất nước
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới theo đúng giá
trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

PHẦN KẾT LUẬN


Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có một vai
trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng
vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Quả thật tư tưởng về
đại đoàn kết giữa các dân tộc là một truyền thống quý báu, giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc. Nó
có ý nghĩa chiến lược cơ bản, nhất quán và xuyên suốt, là vấn đề sống còn, là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng
17 | P a g e
Tư Tưởng Hồ Chí Minh_CC02_Nhóm 9 GVHD: Phan Duy Anh

minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Tư tưởng này đã ăn sâu vào tiềm thức của con người Việt Nam, từ đó mà họ có đươc động
lực để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử Việt Nam đã minh chứng rằng ờ
đâu có tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì nơi
đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi. Hiện nay khi mà đất nước đang phải
đối mặt nhiều thách thức có thế ảnh hưởng tới khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào hết, chúng
ta cần chủ động, sáng tạo và tiếp tục phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn biến
đổi của đất nước.

Trên đây là toàn bộ bài tập lớn với đề tài: “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”.
Vì đây là một đề tài khá rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh mà khuôn khổ bài tập học kỳ lại
có hạn nên có thể bài làm của nhóm không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được
sự góp ý từ thầy để bài làm này được hoàn thiện hơn.

Nhóm xin chân thành cảm ơn

18 | P a g e

You might also like