You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
BỘ MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI
ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thành phố Hồ Chí Minh - tháng 5 năm 2022

DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN

HỌC KÌ II, NĂM HỌC 2021-2022


Nhóm số 06 (Lớp thứ 4, tiết 3, 4)

Tên đề tài: Quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng vào thực
hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo ở nước ta hiện nay.

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm:

Nhận xét của giáo viên:


..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
..............................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Ngày … tháng 5 năm 2022
Giáo viên chấm điểm

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................................................4
2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC................................5
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc........................................5
1.1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.. .5
1.1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin..........................................................................2
1.1.3 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách mạng
Việt Nam và thế giới...................................................................................................................2
1.2. Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo.................3
1.2.1 Đại đoàn kết toàn dân tộc:....................................................................................................3
Thứ nhất: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng..........4
Thứ hai: Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng..................................5
Thứ ba: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.................................................................5
Thứ tư: Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận dân tộc
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng..........................................................................................6
1.2.2 Đại đoàn kết tôn giáo:............................................................................................................7
1.3. Ý nghĩa của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc................................................................................8
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......10
2.1 Tổng quan về tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay................................................................10
2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo ở nước ta
hiện nay.............................................................................................................................................14
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo ở nước ta hiện
nay.....................................................................................................................................................15
KẾT LUẬN...........................................................................................................................................18
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
PHỤ LỤC
KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG TIỂU LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực
dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh
thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập
hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, được tất cả mọi lực lượng cần tập hợp, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại
đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược , cơ bản nhất quán và lâu dài, xuyên suốt
tiến trình cách mạng. Trong thời đại ngày càng phát triển, vị trí tôn giáo đang ngày càng
được nâng cao thì vấn đề đoàn kết giữa các tôn giáo với nhau càng trở nên quan trọng .
Điều đó càng được ý nghĩa hơn khi vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo
hiện nay.
Để làm rõ thêm những điều trên, nhóm chúng em chọn đề tài: “Quan điểm của Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và vận dụng vào vận dụng vào thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc nước ta hiện nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu và phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tìm hiểu việc vận dụng quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực hiện chính
sách đại đoàn kết tôn giáo ở nước ta hiện nay, nêu lên những hạn chế, rút ra những kinh
nghiệm, đồng thời đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc tổ chức
thực hiện đoàn kết các tôn giáo.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tìm nguồn tài liệu từ giáo trình và Internet, chọn lọc những thông tin phù hợp, tổng
hợp, phân tích, nghiên cứu và đưa ra nhận xét, đánh giá.
Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Kết hợp với việc sử dụng các phương pháp cơ bản như: phương pháp phân tích tổng
hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp điều tra xã hội học và một số
phương pháp khác.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC.
1.1. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo,
chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong
từng giai đoạn cách mạng.
1.1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt
Nam.
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng
cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở
thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào
vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý
chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người
Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi
cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nước, đoàn
kết của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua
hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc
của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt
Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc.
1.1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân
là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách mạng
phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của
cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải
phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân
với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng
nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên
phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Đó là
những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự
đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản truyền
thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các
nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc.
1.1.3 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới.
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng này còn xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba khảo nghiệm ở nước ngoài của
Hồ Chí Minh.
a. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh
thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với
tư tưởng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động
mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình
thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu
nước, chống Pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí
Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà
yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai
đoạn này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng
Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
b. Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên
kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa
biết tổ chức…”.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước
ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân
chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã
nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài
học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách
mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần
chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
1.2. Những nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo.
1.2.1 Đại đoàn kết toàn dân tộc:
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây
dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Thứ nhất: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của
cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự
mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng
cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được
Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất
quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là
then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ
mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn
kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức
độ của thành công.
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại
phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng
bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn dân Việt Nam
chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước.
Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ
quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường
đó, chúng cũng phải thất bại”. Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên
thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “ Vì sao có
cuộc thắng lợi đó? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực
lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn
giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng
toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào
dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân
ta xin nhớ chữ đồng, đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đây chính là con
đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
Thứ hai: Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng “Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn
kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có
sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc
đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
Thứ ba: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” là mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không
phân biệt già trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải
tập hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói
rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn kết
để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phụng sự
nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân
nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác
định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn
đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền
tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn
kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối
đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư: Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm
lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất
lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. hương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí
Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái
khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Người vạch
rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người nêu rõ: “Đoàn kết là
một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai
có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với
họ”. Người còn nhấn mạnh: “Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền
có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết
phải chống hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”.
Cũng tại Đại hội đó, Người chỉ rõ: “Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết
thúc lễ khai mạc của Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là
của chung toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không
thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đoàn kết
toàn dân. Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của
nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai “trường xuân bất
lão”. Vì vậy cho nên lòng tôi sung sướng vô cùng”. Người đã nói lên không chỉ niềm vui
vô hạn trước sự lớn mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải
mở rộng và củng cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại
đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam.
1.2.2 Đại đoàn kết tôn giáo:
Có thể nói, không một quốc gia đa tôn giáo nào trên thế giới mà các tôn giáo lại
sống bình đẳng như ở Việt Nam, một đất nước không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn
giáo. Tự nó bác bỏ mọi sự xuyên tạc, kích động hòng chia rẽ tôn giáo với chính quyền,
chia rẽ những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo trước hết, phải lấy mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội làm điểm tương đồng, dùng cái tương đồng để khắc phục sự dị biệt.
Giải phóng dân tộc ở nước ta là mục tiêu trước nhất, là nền tảng cho sự giải phóng giai
cấp, là điều kiện để có độc lập, tự do cho các tôn giáo, Người nói: “Nước không độc lập
thì tôn giáo không được tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã. Độc lập rồi
phải quan tâm đến đời sống người dân, vì nước độc lập, mà dân không được hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập chẳng nghĩa lý gì. Sự đoàn kết và phát triển theo xu hướng
tích cực, tiến bộ của tôn giáo sẽ góp phần giành và giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc,
đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân”.
Để đại đoàn kết tôn giáo thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra nguyên tắc cụ
thể trong thực hiện.
- Lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm mẫu số chung. Nguyên tắc này dựa trên
phương châm “Dân tộc trên hết - Tổ quốc trên hết” và “tất cả do con người, tất cả vì
con người”. Lợi ích của từng tôn giáo gắn chặt với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc,
muốn đoàn kết được đồng bào tôn giáo vào trong khối đại đoàn kết dân tộc thì phải đặt
lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Vì đây là lợi ích của cả cộng đồng, trong đó có lợi
ích sống còn của các tôn giáo.
- Không chạm đến đức tin của tôn giáo nói chung và của từng tôn giáo nói riêng.
Hồ Chí Minh chú ý nhiều đến việc chỉ ra cái chung, cái thống nhất của các tôn giáo với
mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Người viết “Mục đích cao cả của Phật Thích
Ca và Chúa Giê-su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới
đại đồng”. Đồng thời nhấn mạnh, lòng yêu nước và đức tin tôn giáo không có gì mâu
thuẫn, trái lại còn gắn bó chặt chẽ với nhau. Một người dù theo tôn giáo nào thì trước hết
người đó phải là công dân, có nghĩa vụ với dân tộc, đất nước.
- Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết, là nguyên tắc cơ bản để có thể đoàn kết
được đồng bào tôn giáo vào khối đại đoàn kết chung của dân tộc. Bởi, tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo tức là tôn trọng nhân dân, tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ
phận nhân dân, tôn trọng một yêu cầu về tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh
thần của xã hội.
1.3. Ý nghĩa của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc.
Trong toàn bộ những bài báo bài viết của Hồ Chí Minh theo thống kê có đến 40%
bài báo, bài viết, bài nói về đại đoàn kết, qua đó ta thấy được tầm quan trọng của đại
đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên trong bản di chúc của Hồ Chí Minh
cũng như lời cuối cùng trong bản di chúc thì Hồ Chí Minh đều nhắc tới đại đoàn kết .
Lời đầu tiên Người nói: “Trước khi tôi qua đời tôi để lại vài lời dặn dò như sau: Trước
hết nói về đoàn kết các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải gìn giữ sự đoàn kết
như gìn giữ con ngươi của mắt mình” còn lời cuối cùng của người: “ Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là toàn Đảng toàn dân toàn quân ta đoàn kết xây dựng một nước Việt
Nam giàu mạnh dân chủ độc lập đóng góp xứng đáng vào cách mạng vô sản thế giới”.
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách
mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện tập trung ở những điểm chính
sau:
- Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành công.
Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn kết, chia rẽ là thất bại.
- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không đoàn kết một
chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
- Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá
nhân và đoàn kết tổ chức không tách rời nhau.
- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng
thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương
lai.
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát
huy sức mạnh của Đảng, của toàn dân tộc.
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng – đoàn kết toàn dân – đoàn kết quốc
tế.
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên cơ sở
bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1 Tổng quan về tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay.
2.1.1 Giới thiệu tổng quan về tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam có ước tính khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo. 16 tôn
giáo với 43 tổ chức được Nhà nước công nhận, trong đó Việt Nam hiện nay có 6 tôn
giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo với số tín đồ
khoảng 20 triệu. Hơn 26,5 triệu người theo các tôn giáo, chiếm 28% dân số cả nước
cùng hàng vạn cơ sở tín ngưỡng, thờ tự. Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện cho các tổ chức tôn giáo giao lưu, hợp tác quốc tế. Việt Nam còn quan tâm, tạo
điều kiện thuận lợi để hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng
được mở rộng. Hằng năm, có hàng trăm đoàn của tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước
tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài; nhiều chức sắc nước ngoài vào Việt Nam
hoạt động tôn giáo. Với những thành tựu về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, Việt Nam đã chủ
động thông tin cho các nước, các tổ chức quan tâm thông qua các buổi làm việc, diễn
đàn song phương, đa phương và kênh đối thoại nhân quyền thường niên với các nước
Mỹ, EU, Úc, Na Uy. Bên lề Hội nghị Hội nghị COP26 tại Anh vào tháng 11 vừa qua,
Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng đã khẳng định: “Tôi sẵn sàng đối thoại với bất kỳ ai
về vấn đề nhân quyền”. Điều này thể hiện thiện chí cũng như sự cởi mở của Việt Nam.
2.1.2 Thành tựu, hạn chế về công tác đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết tôn
giáo
* Thành tựu:
Nhìn lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước trên mọi lĩnh vực,
không thể không nói đến thắng lợi của sự đổi mới tư duy, đường lối và chính sách tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, đánh dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt
phát triển nhận thức về tôn giáo. Nghị quyết này đề ra hai luận điểm mang tính đột phá,
khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn
giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới. Tiếp đó, Đảng ta còn ra
nhiều văn kiện khác thể hiện sự đổi mới tư duy về tôn giáo, đặc biệt là Chỉ thị
37-CT/TW ngày 2-7-1998 của Bộ Chính trị “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”
và Nghị quyết số 25 –NQ/TW ngày 12-3-2004 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 7, khóa IX “Về công tác tôn giáo”. Gần đây nhất, Đại hội X của Đảng còn khẳng
định : “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc”.
Điều đó cho thấy, tôn giáo ở nước ta không chỉ được xem là một “thực tại xã hội”, mà
còn là một lực lượng xã hội quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, của dân tộc.
Từ tinh thần đổi mới tư duy về tôn giáo, hàng loạt các chính sách về tôn giáo đã lần
lượt ra đời. Có thể nói, chúng ta đã có những bước tiến vững chắc trong việc thể chế hóa
các quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Tiếp theo những đạo luật và văn bản pháp quy
về vấn đề tôn giáo đã được Nhà nước ta ban hành trong thời kỳ trước, ngày 21-3-1991,
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; tiếp
đó, năm 1993, Chính phủ ra Nghị định quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo: Ban Tôn giáo Chính phủ. Sau đó là nhiều văn
bản khác rất quan trọng: Nghị định số 26/CP của Chính phủ “Về các hoạt động tôn
giáo”; Quyết định số 125/2003 ngày 18-6-2003 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê
duyệt chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương
lần thứ 7, khóa IX “Về công tác tôn giáo”. Đặc biệt, tháng 7-2004, việc Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo; tháng 2-2007, Ban Tôn giáo
Chính phủ cho công bố Sách trắng “Tôn giáo và Chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là
những sự kiện quan trọng, được dư luận rộng rãi trong nước và quốc tế hết sức quan tâm.
Căn cứ vào Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành “Hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo”; trong đó, công tác tôn giáo được coi là công tác vận
động quần chúng (thuộc phạm trù công tác dân vận), với luận điểm quan trọng: “Thực
chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng”.
Quan điểm đổi mới và những chủ trương, chính sách phù hợp của Đảng, Nhà nước
ta về tôn giáo và công tác tôn giáo đã đem lại hiệu quả tích cực. Xét ở tầm vĩ mô, những
năm gần đây, mối quan hệ giữa Nhà nước và các tôn giáo (Giáo hội, Hội thánh, Ban Trị
sự, Hội đồng Giáo xứ,...) ngày càng được cải thiện. Điều này phù hợp với đời sống tôn
giáo Việt Nam trong bối cảnh đất nước phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới; vì thế, được đông đảo đồng bào
có đạo và không có đạo hoan nghênh và bước đầu được thế giới nhìn nhận theo hướng
tích cực. Trên cả 3 khâu: theo đạo, hành đạo và quản đạo đều đã được thể chế hóa và cơ
bản phù hợp với thực tiễn. Đáng chú ý, mối quan hệ giữa “hoạt động tôn giáo” và
“công tác tôn giáo” cũng được giải quyết tốt hơn. Mối quan hệ này vốn không hề đơn
giản, vì các “hoạt động tôn giáo” là lợi ích sống còn của các chủ thể tôn giáo, còn
“công tác tôn giáo” lại là vấn đề thuộc phạm trù quản lý nhà nước. ở đây, tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng như các quan điểm của Đảng ta nhấn mạnh các điểm tương đồng, tính
tích cực và đồng thuận xã hội hướng tới mục tiêu “Giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ
quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” có ý nghĩa hết sức
quan trọng.

Về mặt vi mô, có thể thấy, tôn giáo ở nước ta những năm gần đây có nhiều đổi thay
quan trọng cả trong sinh hoạt cũng như quan hệ Đạo - Đời. Đến nay, Nhà nước ta đã
công nhận tư cách pháp nhân của 16 tổ chức tôn giáo. Một số tôn giáo, hệ phái khác sẽ
được đăng ký và công nhận trong thời gian tiếp theo. Cả nước hiện có 25 ngàn cơ sở thờ
tự, 56 ngàn chức sắc, nhà tu hành và gần 20 triệu tín đồ thuộc 6 tôn giáo chính (Phật
giáo, Công giáo, Tin Lành, Islam giáo, Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo). Các sinh hoạt
tôn giáo, nghi lễ tập thể được tôn trọng; một số lễ hội tôn giáo được tổ chức với quy mô
lớn như Lễ hội Nô-en, Lễ Phật Đản, Lễ hội La Vang,... không chỉ là sự kiện quan trọng
trong đời sống tâm linh của người có đạo, mà còn là ngày hội tinh thần chung của đông
đảo nhân dân, lôi cuốn hàng vạn người tham gia. Phần lớn các tôn giáo ở nước ta hiện
nay đều thể hiện đường hướng đồng hành với dân tộc qua các khẩu hiệu khác nhau, như:
“Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” (Công giáo); “Phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ
quốc” (Tin Lành); “Đạo Pháp, dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội” (Phật giáo); “Nước vinh -
Đạo sáng” (Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo);v.v. Điều quan trọng hơn cả là, đến nay,
nhận thức về vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo của cán bộ, đảng viên và nhân dân
ngày càng đúng đắn, sâu sắc hơn.

*Hạn chế:
Tổng quan tình hình tôn giáo nước ta có phần khá khởi sắc, song đó vẫn còn tồn tại
một bộ phận chức sắc, tín đồ có nhận thức lệch lạc, tiêu cực được sự cổ xúy, xúi giục
của các thế lực thù địch dẫn đến có cái nhìn sai lệch về Nhà nước, về chế độ, thậm chí
hình thành tư tưởng thù địch, chống đối với chính quyền.
Một số chức sắc cực đoan như: Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn
Văn Toản, Nguyễn Ngọc Nam Phong… lợi dụng buổi sinh hoạt tôn giáo đã lồng ghép
các thông tin sai lệch, xuyên tạc, kích động các tín đồ chống đối chính quyền, xuyên tạc
việc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước,
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ngoài ra, còn xuất hiện các hoạt động mang màu
sắc tôn giáo trái pháp luật của Hà Mòn, Tân Thiên địa, Hội thánh của Đức Chúa Trời
mẹ, trái với văn hóa truyền thống của dân tộc, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu
trục lợi; các hoạt động của các tổ chức chống đối như “Hội Ái hữu tù nhân chính trị và
tôn giáo Việt Nam”, “Phật giáo Hòa hảo đối lập”, “Văn phòng Công lý & Hòa bình
thuộc dòng Chúa Cứu thế TP. Hồ Chí Minh”, “Hội Anh em Dân chủ”…
Trong những năm qua, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã nỗ lực thực hiện một
cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đến việc triển khai thực hiện việc
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân. Như vậy, quan điểm nhất quán
của Đảng ta không chỉ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào mà còn đánh giá cao vai trò, vị trí của các tôn giáo đối với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Điều này đã phản bác các luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam là vô thần và chủ trương diệt trừ tôn giáo.
Tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề mang tính văn hóa, tư tưởng, sự vận động và phát
triển của nó gắn liền với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, lịch sử, hệ tư tưởng, văn
hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng một số thành phần lợi dụng điều đó để vu cáo
chính quyền đàn áp tôn giáo như đối với Việt Nam là điều không thể chấp nhận được.
Nhân đây, cũng cần nhắc lại rằng, nhiều năm qua, vấn đề tự do tôn giáo luôn được các
thế lực thù địch và những kẻ cực đoan trong nước triệt để lợi dụng để chống phá Đảng
và Nhà nước Việt Nam. Vì ý đồ đen tối đó, chúng sẽ còn xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự
thật nhiều vấn đề khác nhằm bôi đen và hạ uy tín của Việt Nam. Song sự thật về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm đã và sẽ là một
trong những thứ vũ khí sắc bén, lâu bền, vững chắc nhất đập tan những luận điệu xuyên
tạc của chúng.
2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo
ở nước ta hiện nay.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong tình hình hiện nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục
khẳng định quan điểm, chính sách tôn giáo nhất quán là: “Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy
những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo…”, đồng thời động viên nhau
thực hiện mục tiêu "Độc lập thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Sau khi có các quan điểm, đường lối, Nghị quyết về công tác tôn giáo của Đảng,
Nhà nước đã thể chế hóa trong các quy định của pháp luật. Trước hết phải kể đến Điều
70 chương V Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã khẳng
định “công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các Tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Cùng với việc khẳng định trong Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
69/NĐ-CP ngày 21/3/1991 về các hoạt động tôn giáo. Nghị định số 26/NĐ-CP ngày
19/4/1999 để cụ thể hóa các hoạt động tôn giáo theo khuôn khổ pháp luật. Đặc biệt là Ủy
ban Thường vụ Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo ngày
18/6/2004 sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng
dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/NĐ-CP
ngày 08/11/2012, quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo. Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của TTCP về một số công tác đối với đạo Tin lành. Chỉ
thị 1940/CT-TTg của TTCP về nhà đất liên quan đến tôn giáo. Căn cứ “Điều 24 Hiến
pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do Tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc
không theo một tôn giáo nào”. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc Hội khóa XIV
ngày 18/11/2016 kỳ họp thứ 2 thông qua có hiệu lực ngày 01/01/2018 và Nghị định số
162/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã thể chế hóa các đường lối, chủ
trương, quan điểm của Đảng bằng chính sách pháp luật của Nhà nước tạo hành lang
pháp lý cho các tôn giáo hoạt động và là công cụ để Nhà nước quản lý.
Tóm lại: Ta có thể khẳng định Pháp luật về Tín ngưỡng, tôn giáo và các Nghị định,
Chỉ thị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về Tín ngưỡng, tôn giáo đã thể hiện nhất
quán, xuyên suốt về chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta về quyền tự do Tín
ngưỡng, tôn giáo. Đây là một trong những quyền cơ bản của con người đã được bảo hộ
bằng pháp luật
2.3 Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đoàn kết tôn giáo ở
nước ta hiện nay.
- Tăng cường đoàn kết tôn giáo:
+ Nâng cao nhận thức tư tưởng về vấn đề đoàn kết tôn giáo trong tình hình mới.
+ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và vai trò lãnh đạo
của Đảng, quản lý của nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh hiện nay.
+ Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo.
+ Thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo.
+ Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và đập tan
âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng của lực lượng thù địch.
- Nhằm tăng cường công tác tôn giáo:
+ Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào
tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn
giáo. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật trong vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo.
+ Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo.
+ Bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
+ Cần tiếp tục quan tâm việc tổ chức cho cán bộ, nhân dân nói chung, đồng bào
tôn giáo nói riêng học tập các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với tôn
giáo. Các ngành, các cấp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật trong vùng giáo, nhất là trong các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn
giáo.
+ Tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm, trách nhiệm của hệ
thống chính trị và toàn xã hội đối với công tác tôn giáo.
+ Các ngành các cấp đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu
nước , ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, làm cho các tôn giáo gắn bó
với dân tộc, với quê hương đất nước, tăng cường sự đồng thuận giữa người có tín
ngưỡng, tôn giáo và những người không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như giữa những
người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
+ Cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là
công tác vận động quần chúng, thông qua công tác vận động nhằm giúp đồng bào các
tôn giáo phát huy những ưu điểm, khắc phục tồn tại, giữ gìn và phát huy những truyền
thống văn hóa của dân tộc, tôn vinh những người có công với Tổ quốc, với nhân dân
đồng thời chủ động đấu tranh chống lại các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo
để hành nghề mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, lợi
dụng, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc
gia.
+ Quan tâm xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo đủ mạnh
tạo điều kiện về mọi mặt nhằm góp phần tham mưu ngày càng tốt hơn cho cấp uỷ, chính
quyền giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo theo đúng chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước .
+ Trong tình hình hiện nay, bộ máy tham mưu, giúp việc về công tác tôn giáo ở
tỉnh ta , nhất là cấp cơ sở chưa được quan tâm đúng mức vì vậy chưa đáp ứng được yêu
cầu tham mưu cho cấp ủy, chính quyền giải quyết các vấn đề nảy sinh từ cơ sở . Vì vậy ,
trong thời gian tới cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của
cấp uỷ , chính quyền , mặt trận và các đoàn thể quần chúng tạo sự thống nhất và có tính
"liên hoàn" cao nhằm phát huy sức mạnh và hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình
mới .
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền Luật tín ngưỡng, tôn giáo:
+ Cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên
truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
+ Tăng cường bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
+ Lựa chọn nội dung, đổi mới phương pháp, hình thức tuyên truyền, phổ biến
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng.
+ Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, lực lượng trong tuyên truyền, phổ biến
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có
một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán
của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá
trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống
kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn
kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối
chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình
cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng
của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ
qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán
triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được
thắng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và
tổn thất.
Tư tưởng về đoàn kết tôn giáo là nội dung quan trọng nhằm xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân rộng lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện thực tiễn
Việt Nam và sự nhìn nhận giá trị nhân văn, tốt đẹp của tôn giáo.
Bên cạnh đề cao các giá trị đạo đức, văn hóa của tôn giáo, đặc biệt nhấn mạnh vai
trò của tôn giáo “vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời
sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội”, Đảng nêu ra
các giải pháp giải quyết vấn đề tôn giáo và phát huy sức mạnh của tôn giáo để xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; gắn chặt chẽ với yêu cầu tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
hoàn thiện hệ thống pháp luật.

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

Nguồn: https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/xay-
dung-phat-huy-suc-manh-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-nhin-tu-van-kien-dai-
hoi-xiii-132481
Hình 1: Ngày Đại hội Đại đoàn kết dân tộc
Nguồn: https://binhdinh.dcs.vn/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-
minh/-/view-content/124150/van-dung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-
ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii
Hình 2: Đại đoànPHỤ
kết tôn
LỤCgiáo trong văn kiện XIII

KẾ HOẠCH PHÂN CÔNG VIẾT TIỂU LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1]. Bộ giáo dục và đào tạo (2012), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia – sự thuật, trang 105-112.
[2]. Đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng,
tôn giáo-Sở nội vụ Tỉnh Khánh Hoà - 20/09/2021
[3]. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII
- Tạp Chí Tôn Giáo - 21/2/2022
[4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.
H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021, tr.110, 111, 170, 170-171, 171, 117, 89, 171,
171, 188.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập
II. H. NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2021, tr. 229.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.9, tr. 244.

You might also like