You are on page 1of 79

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

.......................

BÀI THẢO LUẬN


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài: Phân tích những cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh; chỉ ra tiền đề lý luận giữ vai trò quyết định trong việc hình thành, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.

Giảng viên hướng dẫn: Vũ Thị Thu Hà


Lớp học phần: 2241HCMI0111
Nhóm thực hiện: 05

Hà Nội, 2022

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
NỘI DUNG..................................................................................................... 2
Phần I: Cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.........2
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh...............................................................2
1.2. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................2
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam trong thời gian cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX......2
1.2.2. Thực tiễn thế giới trong thời gian cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX........3
1.3. Cơ sở lý luận.................................................................................................4
1.3.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam..............................................4
1.3.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại....................................................................5
1.3.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin...........................................................................6
Phần II: Chủ nghĩa Mác - Lênin: Tiền đề quyết định trong việc hình thành,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh...........................................................................8
2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin...............................................................................8
2.1.1. Khái niệm................................................................................................8
2.1.2. Các bộ phận cấu thành lên chủ nghĩa Mác-Lênin..................................8
2.1.3. Những nội dung chủ yếu thể hiện tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin...............................................................................................9
2.2. Tiền đề quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh12
2.2.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới
về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh.................................................................12
2.2.2. Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguyên nhân và quyết định trực tiếp đến bản
chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh..................................26
2.2.3. Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát
triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới...................29
Phần III: Liên hệ thực tiễn việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào Việt Nam
..................................................................................................................................37
3.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác nghiên cứu, phát triển
sáng tạo lý luận trong giai đoạn hiện nay..........................................................37

2
3.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta............................42
KẾT LUẬN.............................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................52
BIÊN BẢN HỌP NHÓM.......................................................................................53
BẢNG ĐÁNH GIÁ THẢO....................................................................................55
BẢN ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN...........................................................................56
ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN PHỤ...........................................................58

3
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) khẳng định: “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nên tảng tư tưởng, kim chi nam cho
hành động của toàn Đảng”. Đảng ta chỉ rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tạo điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của dân tộc”. Để có được hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại như vậy, Bác đã
trãi qua một quá trình lịch sử để hình thành và củng cố trở nên ngày càng hoàn thiện.
Hiện nay đất nước ngày càng đổi mới và phát triển, khoảng thời gian đất nước phong
kiến và bị xâm lược đã kết thúc mở ra một thời kì mới. Nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh mãi
còn thấm nhuần trong Đảng, nhà nước và người dân dường như nó là một giá trị cốt lõi,
cơ sở để đưa ra một quyết định. Nhằm mục đích vận dụng linh hoạt, sáng tạo Tư tưởng
Hồ Chí Minh chúng ta cần tìm hiểu cơ sở hình thành và tiền đề tư tưởng. Từ đó tìm hiểu
rõ hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu chuyên sâu để thực hiện các mục tiêu của
Đảng và nhà nước, khai thác hết tiềm năng của Đất nước
Chính vì vậy nhóm chúng em quyết định lựa chọn nội dụng: “Phân tích những cơ sở
khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh; chỉ ra tiền đề lý luận giữ vai trò
quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.” làm chủ đề thảo luận
môn tư tưởng Hồ Chí Minh.

1
NỘI DUNG
Phần I: Cơ sở khách quan hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô
cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.
Định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh như trên thể hiện bốn nội dung chủ yếu
sau:
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt
hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực tiễn Việt Nam trong thời gian cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình phong kiến đầu hàng. Việt Nam từ
một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, trong

2
xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều mâu thuẫn, đặc biệt mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với
giai cấp địa chủ phong kiến cam tâm làm tay sai cho Pháp.
Các phong trào đấu tranh chống thực dân pháp theo hệ tư tưởng phong kiến và
tư sản đã liên tục nổ ra trong cả nước nhưng tất cả đều thất bại. Ý thức hệ tư tưởng
phong kiến và tư sản thể hiện rõ sự lỗi thời, bất lực trước nhiệm vụ lịch sử.
Yêu cầu lịch sử cần phải có tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, phải có một con đường
mới cho phong trào cứu nước giải phóng dân tộc đã trở thành vấn đề cấp thiết.
Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời.
Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến.
Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ.
“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan
góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân". Phong trào công nhân và các phong trào
yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin
xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta.
Chính Hồ Chí Minh là một người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận
chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự
khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản
tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
1.2.2. Thực tiễn thế giới trong thời gian cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước đế quốc
đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa, biến các nước châu Á, châu Phi và khu
vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.

3
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ngày
càng phát triển gay gắt đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát
triển.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một thời đại mới trong lịch
sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế
giới.
Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong
trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh
việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các
đảng cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế
Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu
và con đường cứu nước.
1.3. Cơ sở lý luận
1.3.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của Việt Nam
Trước hết Chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tình cảm cao quý nhất, là cội
nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm của người Việt Nam, là chuẩn mực
đạo đức cơ bản của xã hội được hình thành trong quá trình hơn bốn nghìn năm
dựng nước và giữ nước 
Chính là chủ nghĩa yêu nước đã đưa Người đến Chủ nghĩa Cộng sản, tin theo
Lenin, quốc tế; tìm thấy con đường cứu nước cứu dân. Thứ hai, truyền thống đoàn
kết cộng đồng, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách trong hoạn nạn, khó khăn
trở thành cội nguồn sức mạnh dân tộc Việt Nam. Thứ ba, tinh thần lạc qua, yêu đời.

4
Tinh thần lạc quan ấy có niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào tất
thắng của chân lý, của chính nghĩa. Thứ tư, dân tộc có truyền thống hiếu học, có
tinh thần cầu thị, sẵn sàng đón nhận những tinh hoa văn hóa thế giới làm giàu thêm
nền văn hóa dân tộc mình.
1.3.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu
của văn minh phương Tây là nét đặc sắc trong nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
 Tinh hoa văn hóa phương Đông
Nho giáo: Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo là: đề cao
vai trò của đạo đức, hiếu học. Người cũng chỉ ra một số hạn chế như coi thường lao
động chân tay, trọng nam khinh nữ...cần kiệm liêm chính chí công vô tư
Phật giáo: Người tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, nếp sống có đạo đức, giản dị, tinh
thần bình đẳng, đề cao lao động; chủ trương sống gắn bó với nhân dân. Đồng thời,
Người thấy hạn chế là thái độ an bài với số phận của Phật giáo
Người tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn - Tân Hợi và thấy trong đó
có những điều thích hợp với điều kiện của nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền
tự do, dân sinh hạnh phúc; phù hợp với nhu cầu phát triển của dân tộc ta
 Tinh hoa văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ và Cách
mạng phương Tây (văn hóa Pháp, tìm hiểu các cuộc Cách mạng ở Pháp và Mỹ).
Tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại Cách
mạng Pháp; các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của
bản Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ 1776. Ngoài tư tưởng dân chủ, Hồ Chí Minh còn
tiếp thu ưu điểm của Thiên chúa giáo tiêu biểu nhất là lòng bác ái cao cả (yêu
thương con người). Đồng thời, Người lên án bọn đế quốc đã tiến hành chế độ cai trị
độc đoán, phản dân chủ, phản bội lý tưởng Tự do- Bình đẳng- Bác ái mà ông cha
họ đã đề ra

5
Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt
động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân loại tại
những trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế giới như
Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, … bằng chính ngôn ngữ của các nước đó.
1.3.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin 
Chủ nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định
trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và thời đại mới cũng như chủ nghĩa
Mác– Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, khiến người vượt lên những người yêu nước cùng thời. Trong rất
nhiều học thuyết, Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin trước tiên và đã
giải quyết được cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước và người lãnh đạo cách
mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vì vậy đối với người, Chủ nghĩa
Mác - Lênin là thế giới quan, phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động cách
mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất, những mâu thuẫn cố hữu
nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đoán chính xác xu hướng vận động
của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là
chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân
văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó.
Kế thừa, đổi mới và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước
và thế giới hình thành lên một hệ thống quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng
Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã không rập khuôn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa đựng
những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng không “phủ định sạch trơn” vì

6
những tư tưởng ấy còn có cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy Hồ Chí Minh
đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh trở thành cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
những đã vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ
nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước nhảy vọt
trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

7
Phần II: Chủ nghĩa Mác - Lênin: Tiền đề quyết định trong việc hình
thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin
2.1.1. Khái niệm
Chủ nghĩa Mác-Lênin là:
 Hệ thống quan điểm và khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực hiện sự
nghiệp giải phóng con người - được xét từ góc độ đối tượng của nó
 Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được sáng lập bởi c. Mác, Ph. Ăngghen và
sự phát triển của V.I. Lênin - được xét từ góc độ chủ thể sáng tạo và phát triển
của nó
 Hệ thống quan điểm và học thuyết đó được hình thành và phát triển trên cơ sở kế
thừa những giá trị tư tưởng tiến bộ của nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại -
được xét từ góc độ mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với lịch sử phát
triển tư tưởng nhân loại và với thực tiễn
 Hệ thống quan điểm và học thuyết đó đóng vai trò là thế giới quan, phương pháp
luận phổ biến cho sự sáng tạo trong nhận thức khoa học (nghiên cứu phát hiện và
sáng tạo ra cái mới) và thực tiễn cách mạng - được xét từ góc độ mối quan hệ
của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách
mạng nói chung: muốn thực hiện sự sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn thì nhất định cần phải vận dụng thế giới quan, phương pháp luận đó
2.1.2. Các bộ phận cấu thành lên chủ nghĩa Mác-Lênin
Có 3 bộ phận cấu tạo lên chủ nghĩa Mác-Lênin:
 Triết học Mác-Lênin: Triết học Mác-Lênin là hệ thống tri thức chung nhất về thế
giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy
 Kinh tế chính trị Mác-Lênin: Kinh tế chính trị Mác-Lênin là hệ thống tri thức về
những quy luật chi phối quá trình sản xuất và trao đổi tư liệu sinh hoạt vật chất

8
trong đời sống xã hội mà trọng tâm của nó là những quy luật kinh tế của quá
trình vận động, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội tư bản
chủ nghĩa cũng như sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ
nghĩa
 Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ thống tri thức chung
nhất về cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình hình thành, phát triển của hình
thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp xây dựng hình thái kinh tế – xã hội đó.
 Mặc dù ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin có đối tượng
nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống lý luận khoa
học thống nhất, đó là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải
phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng loài
người.
2.1.3. Những nội dung chủ yếu thể hiện tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin
 Chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống lý luận khoa học, thể hiện trong toàn bộ
các nguyên lý cấu thành học thuyết, trước hết là các nguyên lý trụ cột:
Trong chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn liền
với nhau. Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa
duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học.
Chính nghĩa duy vật lịch sử, mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, là
một thành tựu vĩ đại của triết học mác-xít. Học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội
đã chỉ rõ sự chuyển biến từ một hình thái kinh tế – xã hội này sang một hình thái
kinh tế – xã hội khác diễn ra không phải một cách tự động mà phải trải qua quá
trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt.

9
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất thể hiện sự vận động của phương thức sản xuất. Đó là cơ sở để khẳng định
sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Học thuyết Mác về giá trị thặng dư đã vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã
hội tư bản – quy luật giá trị thặng dư – từ đó vạch ra bản chất bóc lột của quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chỉ rõ giai cấp công nhân là
người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa, giải phóng giai cấp mình và đồng thời giải phóng xã hội.
 Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan khoa học và phương pháp luận mác-xít
trong chủ nghĩa Mác – Lênin:
Bản thân các quy luật, nguyên lý trong chủ nghĩa Mác – Lênin vừa có ý nghĩa
thế giới quan, vừa có ý nghĩa phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp con người hiểu rõ bản chất của thế giới là
vật chất. Thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy vận động, biến đổi theo những quy luật
khách quan. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có thể nhận thức, giải thích,
cải tạo thế giới, làm chủ thế giới.
Phương pháp luận đúng đắn giúp xem xét sự vật, hiện tượng một cách khách
quan, phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng. Sự thống nhất giữa thế giới quan
và phương pháp luận đã đưa chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành một hệ thống lý luận
mang tính khoa học sâu sắc và cách mạng triệt để.
 Là học thuyết duy nhất nêu lên mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người với con đường, lực lượng, phương thức đạt mục tiêu đó:
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ quần chúng nhân dân là chủ nhân của xã hội, là
người sáng tạo ra lịch sử. Điều đó đem lại cho loài người, đặc biệt là giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới.

10
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là vũ khí lý luận sắc
bén của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, giải phóng
toàn xã hội và giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường, những
phương tiện cải tạo thế giới.
Ra đời trong thực tiễn đấu tranh của phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác –
Lênin khẳng định mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực
tiễn cách mạng. C. Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế
được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”.
 Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, không ngừng tự đổi mới, tự phát
triển trong dòng trí tuệ của nhân loại:
Mang bản chất khoa học, nên chủ nghĩa Mác- Lênin không phải là một hệ thống
các nguyên lý giáo điều, bất biến mà gắn với quá trình phát triển của tri thức nhân
loại và phong trào cách mạng trên thế giới. Chính C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin
đã nhiều lần khẳng định học thuyết của các ông không phải là cái đã xong xuôi hẳn,
còn nhiều điều các ông chưa có điều kiện, thời gian, cơ hội nghiên cứu. Phát triển
lý luận Mác – Lênin là trách nhiệm của các thế hệ kế tiếp sau, của những người
mác-xít chân chính. Ngay bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin
trong quá trình nghiên cứu và hoạt động trong phong trào công nhân cũng đã điều
chỉnh một số luận điểm của mình.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở. Vì vậy, nó không bao giờ là một
học thuyết lý luận cứng nhắc và giáo điều. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác tiếp thu,
vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm cho
học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin ngày càng được bổ sung và hoàn
thiện.

11
Toàn bộ học thuyết Mác – Lênin có giá trị bền vững, xét trong tinh thần biện
chứng, nhân đạo và hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó. Đó là những kết tinh trí tuệ
của nhân loại qua các thế hệ nối tiếp nhau, để ngày càng phát triển và hoàn thiện.
2.2. Tiền đề quyết định trong việc hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh
2.2.1. Chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở lý luận quyết định bước phát triển mới về
chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn
không phải ngẫu nhiên, đó là hành động đáp ứng nhu cầu của lịch sử dân tộc và xu
thế thời đại, một tất yếu lịch sử.

Nguyễn Ái Quốc sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên
quê hương giàu truyền thống đấu tranh cách mạng. Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ tư tưởng
phong kiến và tư sản của nhân dân Việt Nam diễn ra sôi nổi nhưng đều thất bại,
mặc dù rất khâm phục tinh thần quả cảm của các sĩ phu yêu nước nhưng Nguyễn Ái
Quốc không tán thành đường lối giải phóng dân tộc của những người lãnh đạo các
phong trào yêu nước đương thời. Bằng nhãn quan chính trị, sớm nhận thức được
hoàn cảnh đất nước, Người đã quyết chí ra đi tìm đường cứu nước. Người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã không chọn con đường của các bậc tiền bối
trước đó, mà Người tìm sang nước Pháp, các nước Phương Tây. Đây là quyết định
dũng cảm, sáng tạo; là sự khước từ cái chưa đúng để đi tìm cái đúng; từ bỏ cái lạc
hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến phù hợp với bản lĩnh dân tộc Việt Nam và thực
tiễn của thời đại mới. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi. Trước
khi ra đi nước ngoài, Nguyễn Tất Thành được trang bị một vốn học vấn chắc chắn,
một năng lực trí tuệ sắc sảo, một tâm lý của người đi tìm hiểu, khám phá nền văn
minh Pháp và Phương Tây kết hợp chặt chẽ với lòng yêu nước và bản lĩnh độc lập,

12
tự chủ, sáng tạo, Nguyễn Tất Thành đã đến tận nước Pháp và các nước Âu, Mỹ nơi
có chủ nghĩa thực dân đang chà đạp lên quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc của đồng bào để khám phá và làm quen với các nền văn minh, dùng nó
làm vũ khí để chống lại thực dân.

Về mục đích ra đi của mình, năm 1923, Nguyễn Ái Quốc trả lời một nhà báo
Nga rằng: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng,
Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã
nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
hiểu xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Một lần khác, trả lời một nhà văn
Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này
thường tự hỏi nhau ai sẽ là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp.
Người này nghĩ là Anh, có người cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem
cho rõ. Sau khi xem họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.

Sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng
Việt Nam khi bắt gặp Luận cương của Lê-nin:

“Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
được V.I.Lê-nin viết vào tháng 6-1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế cộng sản.
Luận cương được đăng trên Tạp chí Quốc tế cộng sản số 11, ngày 14-7-1920 và
trên báo Nhân đạo (L’Humanite) – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số
ngày 16 và 17-7-1920, đề cập những vấn đề cơ bản:

Thứ nhất, giai cấp tư sản đã giải quyết một cách trừu tượng và hình thức vấn đề
dân tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Đó là một sự dối trá, thủ tiêu đấu
tranh giai cấp nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Thực chất chủ nghĩa dân tộc
của giai cấp tư sản là vị kỷ, hẹp hòi, cá lớn nuốt cá bé. Nó tạo ra những quốc gia
độc lập về phương diện chính trị, nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào CNTB về phương
diện kinh tế, tài chính và quân sự.

13
Thứ hai, V.I.Lê-nin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính nguyên lý và những
phương hướng giải quyết các vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong
sáng. Ở đó các dân tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về vận mệnh của
dân tộc mình trên tinh thần hợp tác và xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Đây là sự
phát triển, hoàn thiện lý luận Chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc của Lê-nin.

Nếu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” 1848 với các Lời tựa do Ph.Ăng-ghen
viết cho các lần tái bản 1892 và 1893 khẳng định: Giải phóng dân tộc là điều kiện
để đoàn kết quốc tế chống CNTB, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Thì “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa” của V.I.Lê-nin đã chỉ ra những nguyên tắc liên quan trực tiếp đến cách mạng
Việt Nam và ảnh hưởng đến Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam: Một là, phải phân biệt rõ lợi ích của các giai cấp bị áp bức, bóc lột với lợi ích
của giai cấp thống trị. Phân biệt rõ quyền lợi của dân tộc bị áp bức với quyền lợi
của các lực lượng đi áp bức. Nhờ giác ngộ được nguyên tắc này mà Hồ Chí Minh
đã khác với tất cả các lãnh tụ yêu nước khác của Việt Nam, Người phân tích một
cách sâu sắc các giai cấp, tầng lớp xã hội ở Việt Nam; phân tích mâu thuẫn giai cấp
và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam mà tìm ra phương pháp đúng nhằm giáo dục, tập
hợp, tổ chức và lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mẫu số chung của đường
lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh là tinh thần yêu nước và ý thức dân
tộc. Đây là một nguyên tắc tư duy chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh, có giá trị to
lớn đối với sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc của cách mạng Việt Nam. Hai là,
gắn kết phong trào công nhân với phong trào giải phóng dân tộc là vấn đề sống còn,
là điều kiện tiên quyết trong sự nghiệp đấu tranh chống CNTB. Nhận thức được
nguyên tắc này, mà năm 1924, trong tác phẩm “Lênin và các dân tộc phương
Đông” Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Lênin là người đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết
tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào phong

14
trào cách mạng. Lê-nin là người đầu tiên chỉ rõ rằng, nếu không có sự tham gia của
các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được”.

Nguyễn Ái Quốc trong điều kiện lịch sử mới đã phân tích sâu sắc tình hình thuộc
địa, nhất là tình hình cách mạng Việt Nam mà khẳng định và thực hiện: “Cách
mạng giải phóng dân tộc nếu được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo thì có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc”. Từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực
tế, dần dần Nguyễn Ái Quốc hiểu được rằng “chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”. Người hiểu V.I.Lênin là người đầu tiên kiên quyết lên án mọi
thành kiến đối với nhân dân các nước thuộc địa, những thành kiến ăn sâu trong
xương tủy nhiều công nhân và nhiều nhà hoạt động chính trị Âu, Mỹ. Bên cạnh đó,
V.I.Lênin là người đầu tiên nêu bật ý nghĩa quan trọng của việc giải quyết đúng đắn
vấn đề thuộc địa đối với cách mạng thế giới; là người đầu tiên chỉ ra rằng, nếu
không có nhân dân các nước thuộc địa tham gia thì không thể có cách mạng xã hội,
vạch rõ sự kết hợp cuộc đấu tranh của nhân dân và vô sản thuộc địa với cuộc đấu
tranh của nhân dân và vô sản chính quốc. V.I.Lênin đã tạo bước ngoặt trong lịch sử
đau khổ của nhân dân các nước thuộc địa. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy sự
ủng hộ, tìm thấy chỗ dựa, tìm thấy nguồn sức mạnh để vươn tới cái đích của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, những điều này đã giải đáp băn khoăn thắc mắc trước
câu hỏi: đứng về Quốc tế nào trong cuộc đấu tranh trong cuộc họp của Đảng Xã hội
Pháp.

Ra đi tìm đường cứu nước với tuổi đời còn rất trẻ và từ một xã hội thuộc địa, nửa
phong kiến, lúc đó Nguyễn Ái Quốc chưa có một khái niệm rõ ràng về giai cấp, đấu
tranh giai cấp, đảng chính trị, Chủ nghĩa Mác - Lênin... Hành trang của Người
mang theo khi xuất dương chính là lòng yêu nước và thương dân, trước khi Người

15
đến với Chủ nghĩa Mác như chính Người đã khẳng định: Lúc đầu, chính là chủ
nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin
theo Quốc tế thứ ba. Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng Tháng Mười chỉ là theo
cảm tình tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu
Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình; trước
đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin.

Từ hoạt động thực tiễn và đọc “Luận cương của Lê-nin” đăng trên báo
L’Humanite tháng 7-1920, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong bối
cảnh lúc bấy giờ, có nhiều tri thức Việt Nam sống tại Pháp, nhưng Người đã thể
hiện sự vượt trội trong tư tưởng khi nhận ra được chân lý lớn của thời đại. Luận
cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc
lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và
mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc... Như vậy, sau khi bắt gặp bản Luận cương V.I.Lê-nin thì tất
cả những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc từng trăn trở, tìm kiếm bao lâu nay đã được
giải đáp. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam, đó là
vững bước đi theo con đường cách mạng vô sản. Từ đây lịch sử cách mạng Việt
Nam chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng, Tư tưởng mà Nguyễn Ái
Quốc tiếp nhận được coi như “kim chỉ nam” soi sáng con đường đi tới thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Sau này, nhớ lại thời điểm lịch sử ấy, Người cho biết:
“Trong Luận cương ấy có chữ chính trị rất khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều
lần, cuối cùng tôi cũng đã hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng

16
ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”! Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lê-nin, tin
theo Quốc tế thứ ba”.

Như vậy Luận cương của V.I.Lênin đã tác động mạnh mẽ và tạo sự chuyển biến
trong tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam.
Đây là sự kiện mang tính chất bước ngoặt đối với Nguyễn Ái Quốc, là mốc Người
tìm được con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Nhu cầu đang đặt
ra của lịch sử lúc bấy giờ là xác định một con đường đúng đắn cho cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc Việt Nam nói riêng và các dân tộc thuộc địa nói chung. Nguyễn
Ái Quốc chính là người đảm nhận nhiệm vụ lịch sử đó. Đây cũng chính là cơ sở để
Người truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, gieo hạt giống cộng sản và
trực tiếp chuẩn bị những điều kiện cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lê-nin, cùng với
những hoạt động sát cánh với các tầng lớp công nhân, trí thức Pháp và các đại biểu
thuộc địa là tiền đề có tính quyết định việc Người bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản (Quốc tế III) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Người
đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đây là một sự kiện chính trị vô
cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Người đã rút ra những lý luận cách mạng phù
hợp với con đường cách mạng Việt Nam.

Thứ nhất, Người đã xác định rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc và phải
chĩa ngọn cờ cách mạng vào kẻ thù. Nội dung bản Luận cương của V.I.Lê-nin đã
đánh giá đúng tình hình lịch sử cụ thể; phải phân biệt rõ lợi ích giai cấp của những
người lao động, những người bị bóc lột, làm sáng tỏ bức tranh của chế độ TBCN.
Chính giai cấp TBCN áp bức, bóc lột nhân dân lao động chính quốc đồng thời đô
hộ áp bức các nước thuộc địa.

17
Thứ hai, bản Luận cương của V.I.Lê-nin giúp Nguyễn Ái Quốc thấy được động
lực to lớn và lực lượng chính của cách mạng đó là giai cấp công nhân và nông dân.
Từ ý chí tìm lại độc lập, tự do cho nhân dân, từ thực tiễn hoạt động cách mạng,
thấy được sức mạnh to lớn của nhân dân trong các cuộc đấu tranh nhất là cuộc
Cách mạng Tháng Mười Nga, được lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường,
Nguyễn Ái Quốc đã xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp công
nhân, nông dân. Đồng thời công nông cũng là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc tìm thấy hướng đi của cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa mà Luận cương của V.I.Lênin vạch ra, đó là: Con đường cách
mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc gắn liền
với giải phóng con người. Đây cũng là nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Tất cả
những điều mà Người trăn trở dày công tìm kiếm nay đã được trả lời.

Thứ tư, Luận cương của V.I.Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc
địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc với các nước thuộc địa.
V.I.Lênin viết: “…Đối với các quốc gia, dân tộc chậm tiến hơn… nhất thiết phải có
sự giúp đỡ của các đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc dân chủ tư
sản của những nước ấy; công nhân của một nước đang thống trị một dân tộc chậm
tiến về mặt thuộc địa hoặc về mặt tài chính phải có nhiệm vụ trước tiên ủng hộ tích
cực nhất phong trào giải phóng của dân tộc ấy!”. V.I.Lê-nin là người đã phát hiện
ra vai trò to lớn của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận một cách
sâu sắc đó là vô sản các nước đoàn kết lại.

Luận cương của V.I.Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với
Chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn
bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của
Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Người

18
đến với Luận cương của Lê-nin không dừng lại ở sự cảm nhận đơn thuần mà nó
được truyền tải tới Người bằng cả khối óc và trái tim - Tình cảm đặc biệt dành cho
Lê-nin, cho Quốc tế III – Quốc tế cộng sản cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt
Nam nói riêng mà còn cho tất cả nhân dân các nước thuộc địa.

2.2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin – Cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của
tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, mà hạt nhân lý luận là
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác-
Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người đã vận dụng thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng trong
việc tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại và chuyển hóa được những điều
hiểu biết quý báu đó để xây dựng được hệ tư tưởng riêng của mình.
Hồ Chí Minh đã không rập khuôn những tư tưởng cũ bởi chúng có chứa đựng
những yếu tố duy tâm, lạc hậu nhưng Người cũng không “phủ định sạch trơn” vì
những tư tưởng ấy còn có cả những yếu tố duy vật, tích cực, như vậy Hồ Chí Minh
đã tiếp thu một cách có kế thừa và phát triển, theo đúng tinh thần của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học tập,
tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch sử.
Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giê-su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là
phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính
sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta…". Hồ Chí Minh đã phê phán, gạt bỏ tư
tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ,…của Nho giáo nhưng
Người cũng đã tiếp thu triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời,
…; trong nội dung xây dựng nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều khái
niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước, nhất là đạo đức Nho giáo
như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính,… và đạo đức phương Tây từ

19
thời cổ đại Hy Lạp – La Mã, như: dân chủ, tự do, công bằng, bác ái,…, nhưng đã
đưa vào đó những nội dung mới, cùng là “Trung”, “Hiếu” nhưng nếu trong tư
tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, trung là trung với vua,
hiếu là hiếu với cha, mẹ thì với Hồ Chí Minh, trung là trung với nước – trung thành
với sự nghiệp giữ nước và dựng nước của dân tộc, hiếu là hiếu với dân – gắn bó với
dân, kính trọng dân, giúp đỡ dân, phục vụ và hướng dẫn nhân dân. Người dẫn lời
của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những
điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại.”
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước chuyển trong nhận thức của Hồ Chí Minh,
từ đó Người tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn các vấn đề
thực tiễn đặt ra của cách mạng Việt Nam.
Đối với Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng có nghĩa là đến với con
đường cách mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước
chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Sơ thảo lần thứ nhất nhưng
luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin đã diễn đạt một cách đầy
đủ và sâu sắc những điều mà Hồ Chí Minh lúc bấy giờ đang nung nấu, đã giúp
Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
Đó là bước chuyển lịch sử trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc mình trong sự nghiệp giải phóng tất cả các dân tộc, đồng thời
cũng đánh dấu bước ngoặt mới của cách mạng nước ta, mở ra bước chuyển biến
cho bao thế hệ người Việt Nam: từ người yêu nước thành người cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác-Lênin, những phạm trù cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của lý luận

20
Mác-Lênin, đó là quan điểm về vấn đề dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, chủ
nghĩa xã hội, con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, về Đảng Cộng sản, về Nhà
nước,…
2.2.1.2. Tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn
Mác đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra.
Lênin khẳng định: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã
nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào”. Muốn trở
thành người cộng sản, nhất là đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải không ngừng
học tập, nghiên cứu để có tri thức toàn diện, phong phú và sâu sắc. Lênin nhấn
mạnh: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của
mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Theo
chỉ dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu, đã kế thừa toàn bộ
tri thức nhân loại sáng tạo ra, trên cơ sở đó lựa chọn con đường phát triển đúng
đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản nhằm giải
phóng dân tộc và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930 và kiên định
thực hiện, kể cả khi hệ thống CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ, đặt CNXH trước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng.
Trong muôn vàn khó khăn đó, tại Đại hội VII, Đảng ta đã quyết nghị và thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991):
Khẳng định ý chí sắt đá, không gì lay chuyển nổi mục tiêu CNXH mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm
theo đuổi đến cùng con đường dẫn tới mục tiêu ấy.
Nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng, phát huy cao độ truyền thống anh hùng bất
khuất của dân tộc, đã chiến đấu hy sinh ròng rã mấy chục năm trời, hoàn thành về
cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển

21
sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không có lý gì nay
lại rẽ sang con đường khác ngược với mục tiêu đã lựa chọn. Hai là, trên cơ sở phê
phán những khuyết điểm, hạn chế, Mác đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri
thức nhân loại. Đây là đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của
Mác. Lênin nhấn mạnh: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác
đã nghiền ngẫm lại, đã phân tích, phê phán và đã căn cứ phong trào công nhân để
kiểm tra lại”. Thật vậy, Mác đã phê phán những hạn chế, khuyết điểm mà tri thức
nhân loại đã sáng tạo ra, nhất là những tiền đề lý luận trực tiếp lúc bấy giờ là triết
học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và CNXH không tưởng Pháp để
xây dựng nên học thuyết mới hoàn chỉnh với ba bộ phận cấu thành gồm triết học,
kinh tế chính trị học và CNXH khoa học.
Con đường tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh
động cho phương pháp kế thừa tri thức nhân loại. Người rất khâm phục tinh thần
yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ,
bởi phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư
sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Người chọn con đường khác để
tìm ra và đi theo Chủ nghĩa Mác, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo
cách mạng giành độc lập dân tộc, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên
CNXH. Con đường đi lên CNXH ở nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản là sáng tạo đặc sắc của Việt Nam. Bỏ qua ở đây là bỏ qua quan hệ sản
xuất bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bỏ
qua những thói hư, tật xấu của xã hội tư bản. Còn tiếp thu những thành tựu phát
triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, tiếp thu văn minh mà
nhân loại đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đồng chí
Nguyễn Đức Kiên-Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ khẳng
định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau và chúng ta lựa chọn

22
con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng CNXH. Ở đây nó sáng tạo
ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu của trí tuệ con người để chúng
ta đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ
qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập để tiến thẳng lên CNXH thì nó
chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho
người điều hành trực tiếp có động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”.
Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ sở hiểu biết sâu sắc kho tàng tri
thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Về việc đó, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương
pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của
nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải
đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người,
mưu phúc lợi cho xã hội". Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại
một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những
người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy". Tổng kết kinh
nghiệm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng tôi
giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà
không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành
được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ
nghĩa Mác - Lênin".
2.2.1.3. Nhờ có chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu
nước, giải quyết được bài toán của cách mạng Việt Nam và vượt hẳn so
với các bậc tiền bối đương nhiệm
Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình
nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của
thực dân Pháp. Sau Điều ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp đã hoàn thành về cơ

23
bản quá trình bình định và chính thức xác lập ách thống trị trên đất nước Việt Nam.
Nước ta trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc bị giày xéo
dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn
vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ càng
gay gắt. Đây là trở lực lớn, kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Chỉ có giải
quyết thành công những mâu thuẫn trên đây - đồng nghĩa tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn, thì xã hội Việt Nam mới tiếp tục phát triển.
Các nhà yêu nước đương thời đã dự lập nhiều con đường, cách thức hành động
khác nhau để cứu nước và giải phóng dân tộc. Đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng
của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và
tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần
cải cách: Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909); Phong
trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh
Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,… Tất cả các cuộc khảo nghiệm
tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của các nhà yêu nước tiền bối đều
không thành công. Cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng, bế tắc
về đường lối cứu nước. Yêu cầu khách quan, cấp bách của cách mạng Việt Nam là
phải tìm được con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại để mở đường cho dân tộc Việt Nam phát triển đi lên.
Mặc dù rất khâm phục lòng yêu nước và đánh giá cao những cống hiến của các
bậc cách mạng tiền bối cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng bằng dự cảm
chính trị thiên tài, Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) đã nhận thấy
những hạn chế và bế tắc về mục tiêu và phương pháp cách mạng của các nhà yêu
nước đương thời nên khó đi đến thành công. Người quyết định đi tìm con đường
cứu nước mới. Khác hẳn với các nhà yêu nước tiền bối, Người đã chọn hướng con

24
đường cứu nước của mình sang phương Tây với bến đỗ đầu tiên trong hành trình là
nước Pháp. Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát của Người, mà là sự
lựa chọn, trăn trở; một quyết tâm lớn, nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách
mạng Việt Nam. Nguyễn Tất Thành lại chọn hướng sang phương Tây mà không
chọn sang Nhật Bản hay Trung Hoa dân quốc như một chí sĩ yêu nước đương thời?
Chính từ những nhận thức về bối cảnh đất nước, về văn minh phương Tây, văn hóa
Pháp. đã thôi thúc Người muốn tìm hiểu về nước Pháp để xem đằng sau những từ
“Tự do - Bình đẳng - Bác ái” là cái gì. Người cho rằng: “Muốn đánh hổ thì phải
vào hang hổ!”. Mặt khác, chính chủ nghĩa thực dân Pháp đang thống trị Việt Nam,
cho nên Người quyết chí đến Pháp để trực tiếp xem xét, nghiên cứu. Như vậy, việc
chọn hướng đi đúng trong hành trình tìm đường cứu nước là sự đột phá mới trong
tư duy chính trị, thể hiện bản lĩnh độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở
ra cơ hội lớn cho dân tộc Việt Nam với việc tích hợp tinh hoa văn hóa nhân loại,
mở đường cho dân tộc phát triển đi lên.
Mục đích sang phương Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện tầm nhìn
vượt trội so với các nhà yêu nước đương thời. Qua quá trình học tập, làm việc và
tìm hiểu Người hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và rút ra những
nhận xét rất sâu sắc: Ở đâu, chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man. Vì thế, chủ nghĩa đế
quốc ở đâu cũng là thù, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn.
Phương thức để đạt được mục đích cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với
các nhà cách mạng tiền bối và đương thời cũng có sự khác biệt và độc đáo. Cụ
Phan Chu Trinh sang nước Pháp nhờ cậy vào Hội nhân quyền của Pháp. Cụ Phan
Bội Châu sang Nhật Bản mưu cầu vào lòng “hằng tâm hằng sản” của nhiều người
trợ giúp. Nhưng Người ra đi tìm đường cứu nước bằng chính bàn tay lao động và
trí tuệ của mình; thông qua con đường “vô sản hóa” đi đến nhiều nước. Qua sự kiện
gửi tới Hội nghị Véc – xây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đó càng khẳng

25
định sự nhạy cảm về chính trị, tính chủ động, khôn khéo, sắc bén trong đấu tranh
cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vượt lên trên tầm nhìn của các nhà chí sĩ
yêu nước đương thời; đồng thời, đánh dấu sự tiếp cận gần hơn chủ nghĩa Mác -
Lênin của Người.
Trong bóng tối dày đặc của chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp
được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo
(L’Humanité) Pháp, Người được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Bản Luận cương của V.I. Lênin
như luồng ánh sáng mặt trời chiếu rọi vào trí tuệ và tâm hồn của Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh, đem đến cho Người một nhãn quan chính trị mới.
Nếu như cuộc đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Véc-xây năm 1919
mới là phát pháo hiệu thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực
dân Pháp, thì việc Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đánh
dấu một bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận
thức tư tưởng và lập trường chính trị từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác
- Lênin. Sự lựa chọn và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi đó hoàn toàn phù
hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa
cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân chính đi theo chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, chủ nghĩa Mác - Lênin bắt đầu thâm nhập vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt Nam từ đây đã
có một phương hướng mới. Người đã rút ra một luận điểm hết sức khoa học và
cách mạng triệt để: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây chính là điểm khác biệt căn bản giữa
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với những người Việt Nam yêu nước tiền bối. Thực
tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, con đường cứu nước của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở

26
nước ta, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản vào nửa cuối năm 1929 và Đảng
Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.
2.2.2. Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguyên nhân và quyết định trực tiếp đến bản chất
cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở vạch ra được các quy
luật vận động, phát triển của xã hội loài người giúp chúng ta lựa chọn đúng đắn con
đường phát triển của dân tộc - độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lần
đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải thích được quy luật
phát triển của xã hội loài người một cách khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử -
cụ thể. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh một cách khoa học rằng, từ trong
lòng của chủ nghĩa tư bản sẽ ra đời phương thức sản xuất mới, một xã hội mới, một
hình thái kinh tế - xã hội mới là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Quá trình
này diễn ra một cách lịch sử - tự nhiên. Do vậy, sự ra đời cũng như diệt vong của
chủ nghĩa tư bản là một tất yếu khách quan như nhau và đều do tất yếu kinh tế quy
định. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho Đảng
ta, dân tộc ta: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” - là sự lựa chọn đúng
đắn con đường phát triển của Việt Nam. Bởi lẽ, độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện,
tiền đề cho chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho độc lập dân
tộc thực sự trọn vẹn, bền vững.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc nhận thức chủ nghĩa tư
bản hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thế giới quan duy
vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư
bản nhất định bị thay thế bởi chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa tư bản tạo ra những
điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội ra đời. Mặc dù hiện nay, chủ nghĩa tư bản
đã đạt được những thành tựu nhất định về một số lĩnh vực: kinh tế, khoa học, công
nghệ... Nhưng chính chủ nghĩa tư bản cũng là kẻ đã gây ra không ít tai họa cho con
người như chiến tranh, nghèo đói, bất công xã hội, sự nô dịch áp bức... Những mục

27
tiêu phục vụ con người, về hình thức và so với trước đây, có vẻ được quan tâm,
nhưng thực chất ngày càng bị xa rời. Tiền lương thực tế của phần lớn công nhân
Mỹ hầu như không tăng trong nhiều thập kỷ. Chủ nghĩa tư bản về bản chất không
thể giải quyết được vấn đề công bằng xã hội nhất là trong lĩnh vực phân phối nguồn
của cải xã hội. Xu hướng giàu nghèo và phân tầng xã hội ngày càng diễn ra trầm
trọng. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản không tương thích với dân chủ. Đúng như
Đảng ta đã nhận định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng
về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng
những không được giải quyết mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra”. Đây là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy
nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng quá trình toàn
cầu hóa kinh tế cũng là quá trình làm cho mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của
lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa mang tính toàn cầu. Quá
trình này nhất định sẽ làm sâu sắc hơn mâu thuẫn cơ bản nội tại của chủ nghĩa tư
bản, đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản đến giới hạn cuối cùng của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giải quyết quan hệ giữa
tính phổ biến và tính đặc thù đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta phương pháp nhận thức khoa học, đúng đắn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là mang tính phổ biến. Nhưng, mỗi dân tộc, quốc gia
căn cứ vào tình hình thực tiễn của dân tộc, quốc gia mình mà lựa chọn hình thức
quá độ trực tiếp hay gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đó là tính đặc thù và quan trọng
là, không được vận dụng giáo điều những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời phải chống việc tuyệt đối hóa những điều
kiện cụ thể của dân tộc, quốc gia và hạ thấp những nguyên lý chung của chủ nghĩa

28
Mác - Lênin, của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, khi ấy sẽ rơi vào dân tộc cực đoan, xét
lại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho chúng ta
phương pháp nhận thức điều kiện cụ thể để thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng và Nhà nước ta có cơ sở lý luận để thực hiện đổi mới kinh tế - xã hội là trọng
tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh
thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn cung cấp cho chúng ta cơ sở lý luận để tổng kết
rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trên cơ sở đó đưa ra được
tám đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội; tám phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chín mối quan hệ lớn cần giải quyết. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng cung cấp cho chúng ta phương pháp luận để giải quyết tốt
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát
triển kinh tế thị trường với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập quốc tế... Nói tóm lại, chính chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận cho
chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới thành công.
Tất cả những điểm trên cho thấy Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguyên nhân và quyết
định trực tiếp đến bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
2.2.3. Hồ Chí Minh không những đã vận dụng sáng tạo mà còn bổ sung, phát triển
và làm phong phú chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại mới
Qua luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã thấy được cái cần thiết cho dân tộc
Việt Nam – con đường giải phóng dân tộc. Từ nhu cầu thực tiễn của cách mạng
Việt Nam, từ những hiểu biết sâu sắc văn hóa phương Đông, văn hóa phương Tây,
Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác – Lênin, Người xem chủ

29
nghĩa Mác – Lênin như một kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc và luôn nhấn mạnh rằng cần phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó.Từ
phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học trong kế thừa và phát triển
học thuyết Mác – Lênin, đồng thời bám sát thực tiễn Việt Nam và thế giới, Hồ Chí
Minh đã có những luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa
Mác – Lênin trong vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ
mới và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa
nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
2.2.3.1. Vận dụng, phát triển sáng tạo về việc giành độc lập dân tộc
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết được nhiều điều quan
trọng, trong đó đáng chú ý:
Thứ nhất, khi phân chia các thứ cách mạng, nếu lấy tư tưởng làm tiêu chí thì có
ba loại: tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục
tiêu của từng dân tộc và nhân loại thì có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới
cách mạng.
Thứ hai, lý luận do phân tích kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước
ta từ trước đến nay kết luận thành. Vì vậy, “Học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải
nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác-
Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt
Nam là nói đến chủ trương chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác-Lênin không
phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết”. Nếu thấy người ta làm
thế nào mình cũng bắt chước một mực làm theo thế ấy, thì đó vừa là lý luận suông,
vô ích, vừa chưa biết khéo lợi dụng kinh nghiệm: “nghe người ta nói giai cấp đấu
tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước
mình như thế nào để làm cho đúng”.
Những nhận thức nêu trên là hết sức quan trọng giúp chúng ta hiểu vì sao đối
với dân tộc Việt Nam thì trước hết phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc; là làm

30
dân tộc cách mạng chứ không phải giai cấp cách mạng như Cách mạng Pháp năm
1789 hay Cách mạng Nga năm 1917. Tư bản cách mạng thì phải có tư bản ở thành
phố (tư bản mới) và tư bản ở hương thôn (địa chủ). Việt Nam chưa đủ những điều
kiện này.
Nói cách khác, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta phải làm dân tộc cách mạng là
vì mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam sống thân phận nô
lệ với một bên là bọn cướp nước là mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu của xã hội
Việt Nam thuộc địa. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập, tự do là nhiệm
vụ hàng đầu, không giành được độc lập dân tộc thì không có gì hết.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc đế quốc
chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc... Các thuộc địa trở
thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”. Cách mạng ở các nước thuộc địa
có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại
thúc đẩy cách mạng chính quốc. Chủ nghĩa tư bản chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn
khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng của lâu đài đế quốc chủ nghĩa. Vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và
cách mạng ở chính quốc, Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm chủ nghĩa đế quốc là “con
đỉa hai vòi”, để khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa là một trong những
“cái cánh” của cách mạng thế giới. Những luận điểm của Hồ Chí Minh không chỉ
là sự vận dụng, phát triển sáng tạo mà còn góp phần bổ sung, phát triển, làm phong
phú chủ nghĩa Lênin về cách mạng thuộc địa.
2.2.3.2. Vận dụng, phát triển sáng tạo về việc độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã
hội
Hồ Chí Minh chỉ rõ giải phóng dân tộc trước hết nhưng theo con đường cách
mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Cách làm này vừa tránh được “vết xe đổ” của con đường phong
kiến và tư sản ở Việt Nam vừa không trở thành người bắt chước. Thực chất đây là

31
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin trong giải quyết mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể
của nước ta. Kết hợp sáng tạo giữa “quy luật nhất định” và “con đường khác nhau”,
Hồ Chí Minh cho thấy có nhiều con đường để đi tới mục tiêu duy nhất là chủ nghĩa
xã hội (cộng sản). Đó là “sự gặp gỡ giữa dân tộc và thời đại”.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng. “Nếu nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Nước độc lập là điều kiện tiên quyết để đi lên chủ nghĩa xã hội. Còn chủ nghĩa xã
hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
2.2.3.3. Vận dụng, phát triển sáng tạo về Đảng Cộng sản
V.I.Lênin đưa ra quan điểm Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa xã
hội khoa học và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Theo Người, “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng
thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so
với chủ nghĩa Lênin không chỉ bổ sung yếu tố phong trào yêu nước vào sự ra đời
của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy phong trào yêu nước có khả năng kết hợp với
phong trào công nhân, vì cả hai phong trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trước
mắt là chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Sự xuất hiện một yếu tố mới là
phong trào yêu nước không những không hạ thấp vai trò của chủ nghĩa xã hội khoa
học, ngược lại tỏ rõ rằng ở các nước thuộc địa như Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin
có một mảnh đất màu mỡ, “lực lượng vật chất” không chỉ là phong trào công nhân
mà còn có cả phong trào yêu nước. Ngược lại, phong trào yêu nước phải được tiếp
nhận lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới thành phong trào yêu nước
triệt để. Sáng tạo ở vế “đồng thời là Đảng của dân tộc” ở chỗ: Thứ nhất, cơ sở xã
hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà là toàn thể dân tộc. Thứ hai,
Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà vì lợi ích cả dân tộc. Thứ ba,

32
Đảng không chỉ trong tim của người đảng viên đảng cộng sản, mà phải “gần gũi tận
trong lòng của mỗi đồng bào ta”.
Đảng Cộng sản từ trong xã hội mà ra, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới xây dựng tư
cách của một người cách mạng của một Đảng chân chính cách mạng, đạo đức và
văn minh. Từ những chỉ dẫn quan trọng của Lênin phải luôn quan tâm tới lợi ích
của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ
quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần, giữ vững đạo đức cách mạng, “cao
nhất là chí công vô tư”. Người nhấn mạnh: “Hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí hăng
hái vui vẻ hy sinh tính mệnh của mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc, cho loài
người, đó là nguyên tắc tối cao, đạo đức tối cao của mỗi đảng viên”.
Liên quan tới tư cách của người cách mạng, theo định hướng của Lênin chống
tha hóa quyền lực, Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn sớm rất cụ thể về vấn đề này.
Ngay sau cách mạng thành công, Người đã chỉ ra “Những người trong các công sở
đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì
dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”. Theo Người, cán bộ có quyền phải
đặc biệt chú trọng thực hành chữ “liêm”: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các
đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà
thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.
Về quan liêu, nếu Lênin tập trung chỉ ra nguy hại của bệnh này, thì Hồ Chí Minh
vạch rõ biểu hiện, tác hại và quan hệ với tham ô, lãng phí. Theo Người, những
người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu là “có mắt mà không thấy
suốt, có tai mà không nghe thấy, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà
không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô,
lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng
phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh
quan liêu”.

33
2.2.3.4. Vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách mạng
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh đoàn
kết và khả năng thành công. Người chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho
nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng
quyết”. Khái niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh chứa
đựng một hàm lượng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lượng cách
mạng, chính xác là xây dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc
Việt Nam bị áp bức đồng tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp, “thà chết được tự
do hơn sống làm nô lệ”. Người cũng luôn khẳng định tinh thần “bốn phương vô sản
đều là anh em”.
2.2.3.5. Vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ
Việt Nam cùng loại hình phương thức quá độ gián tiếp như nước Nga, nhưng
với những đặc điểm một nước thuộc địa, tiến trình cách mạng Việt Nam từ giải
phóng dân tộc đến dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự kế tục một
cách mật thiết, đan xen, đồng thời, mặt này trong mặt kia trong cùng một quá trình
vận động các mặt kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên có
trọng tâm, ở mỗi bước có mặt nổi lên chi phối, không thể “vượt bỏ giai đoạn”,
nhưng cũng không thể “từ từ từng bước”. Đặc điểm đó của chế độ dân chủ nhân
dân, đồng thời cũng liên quan đến đặc điểm của thời kỳ quá độ của một thứ cách
mạng điển hình. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là như thế và nhất định
phải như thế. Chế độ dân chủ nhân dân có thể gọi là “quá độ của quá độ”. Nó

34
không phải là một chặng đường của thời kỳ quá độ, nhưng là một chế độ có tính
chất quá độ, ít nhiều làm chức năng của thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Nói đặc điểm to nhất có thể hiểu là khó khăn, phức tạp
nhất, một cuộc chiến đấu khổng lồ. Nói tiến thẳng là theo tinh thần của chủ nghĩa
Lênin về con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong những điều
kiện lịch sử cho phép. Nhưng bỏ qua không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, chủ
quan, nóng vội, phiêu lưu làm ẩu, duy ý chí.
Đặc điểm to nhất chứa đựng trong đó mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ ở
nước ta là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của chủ nghĩa xã hội
phải có một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học tiên
tiến với một bên là trình độ thấp kém, lạc hậu do thực dân, phong kiến để lại. Thực
tế lạc hậu của xã hội Việt Nam cho thấy thời kỳ quá độ ở nước ta xuất hiện hệ
thống mâu thuẫn đan xen, phức tạp, vừa mang tính đối kháng vừa mang tính không
đối kháng, xét đến cùng đó là mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con
đường tự phát tư bản chủ nghĩa.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong điều kiện đồng thời tiến hành hai
chiến lược cách mạng, thực hiện hai quy luật trên một ý nghĩa nào đó là “trái
ngược” nhau: xóa bỏ và xây dựng. Chúng ta phải vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa sản
xuất vừa chiến đấu. Điều này chưa có tiền lệ. Theo Giáo sư Nhật Bản, Singô
Sibata, “một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng
Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn
tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam
là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận này”.
2.2.3.6. Bổ sung, phát triển đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội

35
Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy có hai đặc trưng bản chất của xã hội xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là đặc trưng kinh tế và đặc trưng văn hóa. Sáng tạo
của Hồ Chí Minh là cụ thể hóa quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của
V.I.Lênin trong điều kiện cụ thể của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém
phát triển.
Về đặc trưng kinh tế: Theo V.I.Lênin, bản chất của chủ nghĩa xã hội trước hết
phải làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no, tức phải đặt yếu tố kinh tế lên
hàng đầu. Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh cho thấy rõ điều này: “Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn
hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi
trước”. “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm
được ấm no và sống một đời hạnh phúc”.
Về đặc trưng văn hóa: Dân chủ và dân làm chủ là vấn đề cốt tử của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, trong một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân; bao nhiêu
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người đã làm sáng tỏ quan hệ giữa dân với
Đảng, Chính phủ và cán bộ, đảng viên. Nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu của
mình, còn những người trong bộ máy cách mạng đều được phân công làm đày tớ
cho dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. “Đảng
không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và
phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít”.
Hồ Chí Minh bàn nhiều đến mối quan hệ giữa người với người và công bằng,
bình đẳng. Công bằng và bình đẳng không hoàn toàn có sự phân biệt rạch ròi, mà
thể hiện sự ngang bằng về bổn phận và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ. Người
chỉ rõ “chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng
ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được
Nhà nước giúp đỡ chăm nom”. Khi bàn về công bằng, Hồ Chí Minh chỉ rõ lòng tin

36
của nhân dân là điều đáng quan tâm nhất: “- Không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng; - Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Khía cạnh “văn minh” trong đặc trưng văn hóa cũng hàm chứa một tư duy sâu
sắc. Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ chính trị một đảng cầm quyền duy nhất lãnh
đạo, muốn xã hội văn minh thì Đảng phải văn minh. Từ văn minh của Đảng lan tỏa
ra toàn xã hội. Chính sức mạnh văn minh của Đảng, của dân tộc, mỗi con người và
toàn xã hội với hạt nhân là lòng dạ trong sáng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ
làm nên thắng lợi của cách mạng.
Những phân tích nêu trên chứng minh, làm rõ khẳng định của Đảng: “Trong khi
giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp
phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc”.
Phần III: Liên hệ thực tiễn việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào Việt
Nam
3.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác nghiên cứu, phát triển sáng
tạo lý luận trong giai đoạn hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng xây dựng
đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân giành
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu vĩ đại của dân tộc cho thấy, công tác lý luận luôn đóng vai trò
định hướng sự phát triển của cách mạng nước ta trong cả hiện tại lẫn tương lai. Chỉ
bằng cách không ngừng nghiên cứu, phát triển lý luận mới có thể làm cho chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng tư tưởng của
Đảng, là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng, tiếp tục phát huy vai trò tiên
phong của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

37
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát
triển nhanh chóng, quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ. Ở trong
nước, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tiềm ẩn; tệ quan liêu, nạn
tham nhũng và nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu; các thế lực thù địch không
ngừng chống phá với âm mưu “diễn biến hòa bình”... Hàng loạt vấn đề đặt ra đòi
hỏi Đảng ta phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng cho được một nền
tảng lý luận phù hợp, với ba yêu cầu cơ bản, đó là: Đáp ứng nhu cầu phát triển của
quảng đại quần chúng nhân dân; tạo động lực phát triển xã hội; gắn kết với thực
tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Thực tế cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và không ngừng vận
dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ chức lực lượng cách
mạng, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Muốn
đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đảng đã vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nghiên
cứu, phát triển lý luận, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể để làm rõ
hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với quyết tâm khắc phục cách nghĩ, cách làm giản đơn, giáo điều, duy ý chí, xóa
bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, tôn trọng quy luật khách quan, Đảng cũng xác định rõ
mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với 8 đặc trưng cơ bản, trong đó nhấn mạnh
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp, nhằm thực hiện thành công mục tiêu xây dựng được về cơ bản nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng,
văn hóa phù hợp.

38
Đảng cũng đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: Động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo. Trên tinh thần đó, các Đại hội sau này của Đảng đều
tiếp tục khẳng định vai trò, tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông
dân và đội ngũ trí thức đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đối
với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có bổ sung những quan
điểm, định hướng và giải pháp mới phù hợp với thực tiễn đất nước và bối cảnh
quốc tế.
Lý luận về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của Đảng ta ngày càng hoàn
thiện hơn. Qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Cương lĩnh chính trị của
Đảng (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc; Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Dân chủ phải được thực thi một cách
toàn diện, đầy đủ trong thực tế cuộc sống; gắn với kỷ luật, kỷ cương xã hội và phải
được thể chế hóa và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm
bảo đảm các quyền con người, cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi
người dân. Nhân dân là chủ và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua hoạt
động của Nhà nước, hệ thống chính trị. Nhận thức về Đảng và công tác xây dựng
Đảng ngày càng đầy đủ, khách quan và khoa học, thể hiện sự thấm nhuần sâu sắc
và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ xây dựng Đảng trở thành

39
khâu then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta và cũng là
yêu cầu tất yếu phù hợp với thực tiễn cách mạng trong giai đoạn mới.
Đảng đã có những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận về tính chất, đặc
điểm của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
quan điểm về đối tác, đối tượng là một nhận thức mới, phù hợp với tình hình thế
giới với những mối quan hệ chính trị, lợi ích phức tạp; trong đó, nhấn mạnh, những
ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi là đối tác. Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng thế trận quốc
phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh. Về lĩnh vực đối ngoại, Đảng nêu cao đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Trong bối cảnh thế giới biến
động khôn lường, các mối quan hệ lợi ích đan xen, chồng chéo lẫn nhau, Đảng giữ
vững quan điểm đa phương, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế nhằm nâng cao vị thế của đất nước; đồng thời, là bạn, là đối tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào hòa bình,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, để tiếp tục nghiên cứu và phát triển lý luận
của Đảng, chúng ta cần thống nhất nhận thức đối với một số nội dung cụ thể:
Thứ nhất, kiên định và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong mối quan hệ không tách rời với thực tiễn đổi mới và hội
nhập của đất nước hiện nay. Kiên định nền tảng lý luận của Đảng là kiên định với
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thể
hiện ở lập trường cách mạng triệt để của giai cấp công nhân; ở quan điểm khoa học,
xuất phát từ thực tiễn, phát hiện quy luật và làm theo quy luật; và ở phương pháp
biện chứng để giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội. Cần tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa văn hóa và những kinh nghiệm có giá trị phù hợp; làm rõ tinh hoa văn hóa và
những những luận điểm nào của chủ nghĩa Mác - Lê-nin cần phải bổ sung, phát

40
triển cho phù hợp với điều kiện mới; từ đó, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, đánh giá
đầy đủ, chính xác thực tiễn, tập trung nghiên cứu lý luận, giải đáp kịp thời những
vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra.
Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu đối với công tác nghiên cứu, phát triển lý
luận. Phát huy hơn nữa vai trò nền tảng của lý luận đối với công tác lãnh đạo của
Đảng và vai trò của lý luận đối với cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm
công tác nghiên cứu lý luận và hoạch định đường lối, chính sách. Chỉ có nghiên
cứu và phát triển lý luận mới tạo ra tiềm lực lâu dài, sức mạnh nội sinh của Đảng;
xây dựng Đảng về lý luận là nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu, phát triển lý luận
trên sơ sở phát huy tối đa dân chủ trong hoạt động lý luận. Nghiên cứu phát triển lý
luận phải bảo đảm thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, giữa hiểu biết và
thực hành, đó cũng là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trong
quá trình nghiên cứu, phát triển lý luận và thực hành phải bảo đảm tính khoa học,
cách mạng và nhân văn với yêu cầu về tính khách quan, toàn diện, phát triển và lịch
sử - cụ thể. Đồng thời, quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để đào tạo, bồi dưỡng
những con người có đủ phẩm chất, năng lực, đạo đức và lý tưởng, phát huy dân chủ
và trí tuệ tập thể để kế tục sự nghiệp nghiên cứu và phát triển lý luận cách mạng.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới cơ chế, kiện toàn hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý
luận và mở rộng hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu lý luận. Đổi mới việc
tổ chức, triển khai nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ cũng như đánh
giá, nghiệm thu sản phẩm nghiên cứu, bảo đảm tính khoa học, khách quan, trung
thực. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lý luận với cơ quan tư vấn, hoạch
định chính sách, cơ quan tham mưu, cơ quan chỉ đạo thực tiễn. Tăng cường mở

41
rộng quan hệ hợp tác quốc tế về lý luận theo hướng đa dạng hóa các hình thức hợp
tác và các tổ chức hợp tác, nâng cao hiệu quả hợp tác, từ đó tìm ra và giải quyết
đúng đắn những vấn đề thực tiễn đất nước đặt ra.
Thứ năm, tăng cường các biện pháp đấu tranh trên lĩnh vực lý luận chống lại các
luận điệu xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần chủ động, tích cực
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; nhận thức và cảnh giác trước
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, tăng cường sự
thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần phải nghiêm
túc nhìn nhận, đánh giá lại chính mình trước những biến đổi nhanh chóng của thực
tiễn để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh lên
một tầm cao mới, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới và bối cảnh mới của
Việt Nam hiện nay.

3.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống yêu nước, kiên cường bất
khuất; từ tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý thức đoàn kết cộng đồng
và ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn thử thách của con người Việt Nam; là sự
kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đông với các thành tựu hiện
đại của văn minh phương Tây.
Nếu như chủ nghĩa yêu nước là nguồn gốc ra đời thì Chủ nghĩa Mác - Lênin là
nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất cho sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bằng thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhìn
nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách

42
mạng một cách khoa học và kết hợp chúng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
của mình để tìm ra con đường cách mạng đúng đắn, cứu nước và giải phóng dân
tộc ta. Giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm
khác nhau, giữa biết bao tình huống đa dạng và phức tạp, phẩm chất thông minh, tư
duy độc lập, lòng ham hiểu biết và tính nhạy bén với cái mới đã tạo tiền đề cho
Người tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng
đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của
Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi.”
Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011) khẳng định, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa. Theo đó, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được cụ thể hóa đầy đủ
như sau: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh.... Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên, xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới, hoạt động lập pháp phải
đáp ứng 6 yêu cầu như sau:

43
Thứ nhất, hoạt động lập pháp phải bảo đảm tạo hành lang pháp lý để Nhà nước
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Để làm được
như vậy, hoạt động lập pháp phải tạo được những bước đột phá thực sự về thể chế
để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, rất thiết thực và cụ thể, bảo đảm
sự bao phủ của pháp luật đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa,
hệ thống pháp luật này phải bảo đảm dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở để
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, hoạt động lập pháp phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và
công dân, giữa Nhà nước và xã hội; đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực
hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp
quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự
tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện
quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân
và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình
đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc:
Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân
được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm. 
Thứ ba, hoạt động lập pháp phải bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và
thực hiện theo các nguyên tắc: phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền
lực. Tính chất và cách thức phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước
rất đa dạng tùy thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có
điểm chung là quyền lực nhà nước phải được phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các
cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài
bộ máy nhà nước. 

44
Thứ tư, hoạt động lập pháp phải bảo đảm một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống
pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật
luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp
luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương
thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau,
nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của
Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ
thuộc vào chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, đòi hỏi
phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong
sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và
xã hội.
Thứ năm, hoạt động lập pháp phải bảo đảm thích ứng với những tác động của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, hoạt động lập pháp phải tạo cơ
sở pháp lý để tận dụng tối đa những thành tựu, những tác động tích cực của Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư để đem lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và xã
hội; hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
bảo vệ người dân, doanh nghiệp và nhà nước trước những hệ lụy có thể xảy ra.
Hoạt động lập pháp cũng phải đảm bảo được vai trò của nhà nước trong việc xây
dựng hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo với những tư duy mới, phù
hợp với xu thế tiến bộ của thế giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
Thứ sáu, hoạt động lập pháp phải bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, thể hiện
rõ nét nhất đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là phải gắn liền và dựa trên cơ
sở đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đảng lãnh đạo nhà nước là đề ra đường lối, chủ

45
trương, chính sách lớn; chăm lo công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, bố trí cán bộ
trong các cơ quan Đảng và nhà nước, kiến nghị và giới thiệu cán bộ với các cơ
quan dân cử một cách dân chủ; thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra. Đảng
lãnh đạo nhà nước xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nhà nước, lãnh
đạo việc đổi mới bộ máy nhà nước, thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách
của Đảng thành pháp luật của nhà nước, cụ thể hóa chiến lược thành chương trình,
kế hoạch, cơ chế, chính sách quản lý của nhà nước…
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
nói chung, về hoạt động lập pháp nói riêng là nền tảng, yêu cầu bắt buộc để xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, góp phần thực
hiện thành công mục tiêu đưa nước ta phát triển nhanh, bền vững. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong bối cảnh ngày nay không chỉ trong
xây dựng pháp luật đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn mà pháp luật cần phải có tầm
nhìn, có chiến lược để dẫn dắt, định hướng thực tiễn.
Theo đó, cùng với việc tham gia nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 nhằm xây dựng hệ thống pháp luật
đồng bộ, thống nhất, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận
với chi phí tuân thủ thấp, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát
triển nhanh và bền vững; tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và hội nhập quốc tế.
Trong đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội trong thời gian tới cần tập trung vào
một số lĩnh vực quan trọng như sau:

46
Thứ nhất, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chủ quyền, biên giới quốc
gia: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững
môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước. Tiếp tục luật hóa để làm cơ sở
pháp lý thực hiện thành công các chiến lược như: Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc
gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không
gian mạng... Trong đó, chú ý đến việc xây dựng cơ sở pháp lý để bảo vệ Chủ quyền
quốc gia về vùng trời như khẳng định trang trọng ngay tại Điều 1 của Hiến pháp
2013. Nghiên cứu để hoàn thiện cơ sở pháp lý khẳng định và bảo vệ chủ quyền
quốc gia trên không gian mạng. Tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm
của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân: Tập trung xây dựng cơ sở pháp lý để
xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở
các nguyên tắc pháp quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực hiện tốt chức năng của Nhà
nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà
nước tập trung vào quản lý vĩ mô, nâng cao chất lượng xây dựng thể chế, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch. Hoàn thiện hệ thống pháp luật để đẩy mạnh phân cấp,
phân quyền, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp
quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh
bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Thể chế hóa bằng luật để
xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân,
gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm.

47
Thứ ba, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công
dân: Hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế pháp lý để hiện thực
hóa nội dung mới được bổ sung tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng là " dân giám sát,
dân thụ hưởng" để thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm "Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Xây dựng và hoàn thiện cơ chế
giám sát của nhân dân. Tạo cơ sở pháp lý để làm cho người dân trao quyền mà
không mất quyền, các cơ quan nhà nước và cá nhân được trao quyền mà không
tiếm quyền của dân; đây là vấn đề quyết định nhất bảo đảm quyền lực nhà nước
thực sự thuộc về nhân dân. Phát huy mạnh mẽ và đặt yêu cầu lắng nghe nhân dân,
phục vụ nhân dân là yêu cầu tối cao trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thành trọng trách mà nhân dân
giao. Hoạt động lập pháp phải hướng đến mục tiêu con người, tức là giải phóng
mọi tiềm năng của dân, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát triển sức dân lại phải tiết
kiệm sức dân. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các luật cụ thể hóa quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp 2013.
Thứ tư, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phát triển bền vững kinh tế -
xã hội - môi trường: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ và những thành tựu
của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng pháp luật để phát huy đổi mới
sáng tạo, tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu tối đa rủi ro, hướng đến việc giải
quyết hiệu quả hàng loạt các vấn đề đặt ra trong Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư. Xây dựng các “sandbox” về mô hình đầu tư kinh doanh mới, trong đó, có mô
hình như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, du lịch thông minh, fintech.... Tiếp tục
hoàn thiện thể chế về quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng và bố trí nguồn lực
nhằm phát huy lợi thế vùng, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Hoàn thiện pháp
luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công

48
khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng
phí. Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đồng bộ,
minh bạch các yếu tố thị trường để có khả năng vốn hóa các nguồn lực tài nguyên,
phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với bảo vệ môi trường.
Thứ năm, trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hội nhập quốc tế: Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiều hình thức hội
nhập quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất
nước trong từng giai đoạn. Nội luật hóa đầy đủ và phù hợp những điều ước quốc tế
và cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tích cực và có trách nhiệm trong
việc tham gia các hoạt động xây dựng các điều ước quốc tế. Theo đó, cần chủ động
chuyển từ việc tham gia các luật chơi định sẵn thành chủ thể thiết kế luật chơi trên
trường quốc tế, từng bước đề xuất các điều ước quốc tế từ thực tiễn Việt Nam. Để
làm được điều này phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vừa am hiểu sâu về
điều kiện trong nước vừa có kiến thức sâu về luật pháp quốc tế, nhất là về thương
mại, đầu tư, lao động quốc tế; có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, tham
gia giải quyết tranh chấp quốc tế.
Thứ sáu, trong quy trình lập pháp: Tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, mở rộng
dân chủ trong xây dựng pháp luật để các quy định của luật có tính khả thi, phù hợp
với thực tiễn, có căn cứ khoa học. Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây
dựng và thẩm tra luật. Đổi mới mạnh mẽ về cách thức, phương thức lấy ý kiến của
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, huy động sự tham vấn của các
chuyên gia, nhà khoa học, đồng thời, đánh giá thực tiễn đầy đủ, lắng nghe ý kiến
của nhân dân, của đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của dự luật để bảo đảm tính
phản biện, khách quan. Nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp luật để điều chỉnh hoạt
động vận động chính sách trong xây dựng pháp luật bảo đảm khách quan, minh

49
bạch, có kiểm soát, giám sát chặt chẽ. Đây là biện pháp cần thiết, hữu hiệu để mở
rộng dân chủ trong hoạt động lập pháp, chống lợi ích nhóm trong hoạt động lập
pháp.
Thứ bảy, trong tổ chức thi hành pháp luật: Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp
luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa cơ
quan ban hành pháp luật, cơ quan tổ chức thi hành pháp luật và cơ quan bảo vệ
pháp luật. Tập trung nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng
cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối,
bỏ cấp trung gian trong thi hành pháp luật. Tăng cường và đa dạng hóa hình thức
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn, trợ giúp pháp lý để pháp luật
được triển khai thực hiện trong cuộc sống. Thường xuyên tiến hành giám sát, đánh
giá, tổng kết thi hành pháp luật, rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật, kịp thời
phát hiện và khắc phục những điểm bất cập, thiếu sót, mâu thuẫn, chồng chéo trong
hệ thống pháp luật.
Thứ tám, trong tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa, phát huy tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trong hoạt động lập pháp nói riêng, quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta nói chung: Tiếp tục nâng cao nhận
thức cho các đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật
về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh về hoạt động lập pháp; xác định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với Chủ nghĩa
Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động lập pháp. Đổi mới
mạnh mẽ nội dung, phương pháp, hình thức học tập, tuyên truyền về tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân. Đẩy mạnh việc phát hiện, bồi dưỡng, biểu dương, tuyên truyền, nhân
rộng các tấm gương, điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo Bác trong xây
dựng pháp luật. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát

50
triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động lập pháp đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; góp
phần nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực
tiễn và xây dựng pháp luật để giải quyết hiệu quả những vấn đề đang đặt ra trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hội nhập
quốc tế.
Tóm lại, vận dụng, phát huy những thành tựu vô giá của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong hoạt động lập pháp cùng với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa hoạt
động của Quốc hội, nâng cao vai trò của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta là nền tảng, yêu cầu
bắt buộc để hoàn thiện hệ thống pháp luật góp phần xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là, phát triển về kinh tế đi đôi với tiến
bộ và công bằng xã hội; xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn; phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm
môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai với một hệ thống
chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích
của nhân dân.

KẾT LUẬN

Qua sự tìm hiểu ở trên, chúng ta thấy được để có được một hệ thống tư tưởng
sâu sắc như vậy phải trải qua một quá trình khó khăn, mang tính lịch sử lâu dài của
Bác, làm cho chúng ta – mỗi người dân tộc Việt Nam càng trở nên trân trọng và

51
trân quý những giá trị to lớn mà Bác Hồ để lại. Vì vậy nên Đảng ta coi tư tưởng Hồ
Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi
mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta giành thắng lợi.
 Từ đó, cho chúng ta phương pháp nhận thức điều kiện cụ thể để thực hiện công
cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Đảng và Nhà nước ta có cơ sở lý luận để thực
hiện đổi mới kinh tế - xã hội là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng
văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là
trọng yếu, thường xuyên; còn cung cấp cho chúng ta cơ sở lý luận để tổng kết rút
kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trên cơ sở đó đưa ra được tám
đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội; tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chín mối quan hệ lớn cần giải quyết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho hệ đại học không chuyên lý luận
chính trị), Bộ giáo dục và đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia Sự Thật, xuất bản 2021.
2. Đại tá, T. N. (26/5/2011). Hành trình tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con
đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. (https://giaoducthoidai.vn/thoi-
su/hanh-trinh-tiep-can-chu-nghia-mac-lenin-va-tim-ra-con-duong-cuu-nuoc-cua-
nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-21546.html)

52
3. "Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam" của PGS, TS Bùi Đình Phong (2020)

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM


Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, Ngày 13 tháng 03 năm 2022

BIÊN BẢN HỌP NHÓM


Nhóm thực hiện: Nhóm 5

53
Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Thời gian: 20h
Địa điểm: Trực tuyến qua Google meet
I. Thành phần tham gia
- Chủ trì: Tạ Ngọc Trâm (Nhóm trưởng)
- Thành viên tham dự:
45. Nguyễn Thị Hồng Trang
46. Phạm Thị Thu Trang
47. Vũ Thị Huyền Trang
48. Lê Đức Trọng
49. Trần Hải Trung
50. Phạm Thị Uyên
51. Nguyễn Thị Phương Vy
52. Hồ Hải Yến
53. Nguyễn Thị Yến
- Vắng mặt: 0
II. Nội dung cuộc họp
- Nhóm trưởng giới thiệu phần thảo luận của nhóm bao gồm tên đề tài và các nhiệm
vụ cần làm.
- Các thành viên trong nhóm nêu ý kiến và chốt sườn bài làm của đề tài.
- Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ và hạn nộp cho từng thành viên. Cụ thể như
sau:

Thành viên Nhiệm vụ Hạn


nộp

Tạ Ngọc Trâm Phân chia nhiệm vụ 19/03

54
- Đề tài chính: 2.2.1.1 + 2.2.1.2
- Đề tài phụ: 1.1

Nguyễn Thị Hồng - Đề tài chính: 2.2.1.3 +1.3.3 19/03


Trang - Đề tài phụ: 1.2

Phạm Thị Thu - Đề tài chính: Phần III 3.2 19/03


Trang - Đề tài phụ: 1.3

Vũ Thị Huyền - Đề tài chính: 2.2.2 19/03


Trang - Đề tài phụ: 1.4

Lê Đức Trọng - Đề tài chính: Phần I (Trừ 1.3.3) 19/03


- Đề tài phụ: 2.1

Trần Hải Trung - Đề tài chính: 2.1 19/03


- Đề tài phụ: 2.2

Phạm Thị Uyên - Đề tài chính: 2.2.3 19/03


- Đề tài phụ: 2.3

Nguyễn Thị - Đề tài chính: Phần III 3.1 19/03


Phương Vy - Đề tài phụ: 3.1

Hồ Hải Yến - Đề tài chính: Powerpoint 28/03


- Đề tài phụ: 3.1

Nguyễn Thị Yến -Word + Mở đầu + Kết luận 23/03


- Đề tài phụ: 3.2

55
Cuộc họp kết thúc vào 22h00 cùng ngày
III. Mức độ hoàn thành công việc
- Các thành viên đều có ý thức tham gia đầy đủ, đúng giờ họp. Tất cả thành viên
đều
có ý kiến đóng góp trong buổi họp.
- Các thành viên hoàn thành công việc rất tốt, có sự đóng góp và trao đổi về nội
dung
thảo luận sôi nổi.
- Chủ động hoàn thành công việc của mình đúng hạn, đúng yêu cầu.
- Đóng góp ý kiến tích cực cho việc hoàn thành bài tập cuối cùng của nhóm.

Hà Nội, Ngày 13 tháng 03 năm 2022

      Thư ký        Nhóm trưởng

Yến Trâm
BẢNG ĐÁNH GIÁ THẢO
Nguyễn Thị Yến Tạ Ngọc Trâm

56
BẢN ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN

Điểm
Chức
STT Họ và tên Nhiệm vụ Nhận xét đánh
danh
giá
44 Tạ Ngọc Nhóm - Đề tài chính:
Trâm trưởng 2.2.1.1 + 2.2.1.2
- Đề tài phụ: 1.1
45 Nguyễn Thành viên - Đề tài chính:
Thị Hồng 2.2.1.3 +1.3.3
Trang - Đề tài phụ: 1.2
46 Phạm Thị Thành viên - Đề tài chính: Phần
Thu Trang III 3.2
- Đề tài phụ: 1.3
47 Vũ Thị Thành viên - Đề tài chính: 2.2.2
Huyền - Đề tài phụ: 1.4
Trang
48 Lê Đức Thành viên - Đề tài chính: Phần
Trọng I (Trừ 1.3.3)
- Đề tài phụ: 2.1
49 Trần Hải Thành viên - Đề tài chính: 2.1
Trung - Đề tài phụ: 2.2
50 Phạm Thị Thành viên - Đề tài chính: 2.2.3
Uyên - Đề tài phụ: 2.3
51 Nguyễn Thành viên - Đề tài chính: Phần

57
Thị III 3.1
Phương - Đề tài phụ: 3.1
Vy
52 Hồ Hải Thành viên - Đề tài chính:
Yến Powerpoint
- Đề tài phụ: 3.1
53 Nguyễn Thư ký - Word + lời mở đầu
Thị Yến + kết luận
- Đề tài phụ: 3.2

58
ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN PHỤ
Đề tài: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực, nguyên tắc
đạo đức cách mạng. Liên hệ tới sự nghiệp đổi mới hiện nay ở Việt Nam.

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực của đạo đức cách
mạng.
1.1. Trung với nước, hiếu với dân.
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức
quan trọng nhất, bao trùm nhất.

Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ,
phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận
dụng và đưa vào nội dung, mới đạo đức cách mạng: Trung với nước hiếu với dân,
đồng thời người đã loại bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ. 

Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là
của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của
Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng
chính trị- đạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó
là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với

59
dân, phải tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là
người lãnh đạo của dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân
tình, hiểu rõ dân tâm, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền
và trách nhiệm của người chủ đất nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
 Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
 Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
 Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là:
 Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
 Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực
hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
 Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
 Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân

1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi
người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên
nhất, phản ánh ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh đến bản Di chúc.

 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể của
phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.
 “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ
trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội
dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của
cách mạng.

60
o “Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai’’. “Muốn
cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công
việc”. Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
o “Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí,
không bừa bãi. CẦN với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai châm
của con người”. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ,
tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; không phô
trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết kiệm không
phải là bủn xỉn.
o Liêm “là trong sạch, không tham lam… Chữ LIÊM phải đi đôi
với chữ KIỆM. Cũng như chữ KIỆM phải đi với chữ CẦN. Có KIỆM
mới LIÊM được”; là liêm khiết, “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công,
của dân”, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không
tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham
học, ham làm, ham tiến bộ”.
o “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều
gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong
ba mối quan hệ: “ĐỐI VỚI MÌNH - Chớ tự kiêu, tự đại”. “ĐỐI VỚI
NGƯỜI:… Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái
độ phải chân thành, khiêm tốn,… Phải thực hành chữ Bác – Ái”. “ĐỐI
VỚI VIỆC: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”;
“việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh”.

61
➔ Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người
thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân.

o Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là


hết sức công bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi
ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết
vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô
tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem lòng chí công vô tư
mà đối với người, với việc”; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ
đến mình trước,… khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”.

Tóm lại:

 Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một
dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến
bộ”
 Cần, kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong
trào thi đua yêu nước.
 Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần,
kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính
cơ bản của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất;
“Thiếu một đức, thì không thành người”.

1.3. Yêu thương con người


Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa
với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua
nhiều thế kỷ, qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương

62
con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Quan niêm này cho thấy Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói về lòng yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất cao
đẹp nhất.

Đó là tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động
bị áp bức, bóc lột. Bác viết: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Chỉ có tình yêu thương con
người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Tình yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh có phạm
vi rất rộng lớn, đó là tình thương bao la dành cho những người cùng khổ, những
người lao động bị áp bức, bóc lột không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới.
Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó
cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tưởng nhân văn của Người.

Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả
những ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp
trong mỗi con người. Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong
lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân
và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Người coi tính cách
như một phẩm chất được nảy sinh, hình thành và phát triển thông qua môi trường
xung quanh. Nhân cách là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp và từ đó cũng hình
thành nên tính cách xấu hay tốt. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập
cho tơi bời. Chính vì vậy, trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn

63
Đảng: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn
chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.

1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung


Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân,
nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia – dân tộc.

Nội dung của chủ nghĩa đế quốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu
sắc:

 Sự tôn trọng, hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn
thế giới, với tất cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người
tiến bộ trên toàn cầu.
 Là đấu tranh chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt
chủng tộc; chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, biệt lập và chủ nghĩa bành
trướng bá quyền.
Hồ Chí Minh nêu cao tình thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường nhưng luôn luôn
kêu gọi phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ
và giúp đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

 Đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần quốc tế Trong sáng.
 Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra một kiểu quan hệ quốc tế
mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo 1 nền văn hoá hòa bình
cho nhân loại.

64
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc đạo đức của cách mạng.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Người khẳng định: Có tài mà không có đức là
người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Xuất phát từ thực tiễn
cách mạng Việt nam, với tư duy độc lập sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn
lọc tư tưởng đạo đức truyền thống và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhân văn của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin. Người đề xuất tư tưởng đạo đức mới, tư tưởng đạo đức cách
mạng.

2.1. Nói đi đôi với làm


Nói đi đôi với làm

 Là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ Chí Minh
nâng lên một tầm cao mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, nó đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và
là nền tảng triết lý sống hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc của Người. Hồ
Chí Minh là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm.
 Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng
làm một nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm.
 Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới đem lại hiệu
quả thiết thực cho chính bản thân và có tác dụng đối với người khác. Nếu
nói nhiều, làm ít, nói mà không làm, hơn nữa, nói một đằng, làm một nẻo
thì chỉ đem lại hiệu quả phản tác dụng mà thôi. Nói mà không làm gọi là
đạo đức giả. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh
quan liêu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì

65
nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan chủ”, làm trái ngược
với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và chinh sách của
Đảng và Chính phủ, làm tổn hại uy tín của Đảng của chính phủ trước
nhân dân.
Nêu gương về đạo đức

 Là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
 Hồ Chí Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu
tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm
bài diễn văn tuyên truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các
thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách mạng tiền
phong mà còn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
 Theo Hồ Chí Minh phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình
“người tốt, việc tốt” rất gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao
động, sản xuất, chiến đấu, học tập, nghiên cứu… 

2.2. Xây đi đôi với chống


Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền đạo
đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng;
xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các
biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức

Để xây dựng một nền đạo đức mới cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Những cái xấu - tốt, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức thường đan xe
với nhau, đối chọi với nhau. Theo Bác “không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng
hay” thế nên việc xây và chống trong vấn đề đạo đức là không hề đơn giản, xây
phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây
làm chính.

66
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức
của mình, như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc sự trau dồi đạo đức cách
mạng là việc làm “sung sướng và vẻ vang nhất trên đời”. Tiếp nhận sự giáo dục đạo
đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi đạo
đức ở mỗi người còn quan trọng hơn.

Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục đạo đức mới
phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa
tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi
dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người.

Bác cho rằng: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất
dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm
chất đạo đức cao quý đối với mỗi người và mỗi tổ chức, trước hết là đối với đảng
viên, cán bộ

Bác cho rằng trên con đường tiến tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có
thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế
quốc, chống lại những thói quen và thủ tục lạc hậu, phải loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Đây thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ, sâu sắc giữa tiến
bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Muốn giành được thắng lợi
trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền,
vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh,
trong sạch về đạo đức, phải chú trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường tính
nghiêm minh của pháp luật

67
Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và hàng triệu, hàng triệu con
người, trước tiên phải chăm lo bồi dưỡng những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức
mới ngay từ trong gia đình, đến nhà trường và xã hội; chống lại cái xấu, cái sai, cái
vô đạo đức

Trong bài Chống quan liêu, tham ô, lãng phí, Bác chỉ rõ: “Quan liêu, tham ô,
lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần kiệm liêm chính”. Nguồn gốc
của mọi thứ tệ nạn là chủ nghĩa cá nhân. Trong bài Nâng Cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Người viết: “do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai
lầm… Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng,
bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”. Tuy
nhiên, Người lưu ý: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo
lên lợi ích cá nhân”

2.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời


Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng
trường kỳ,
gian khổ. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu
dưỡng đạo đức của mỗi người.

Hồ Chí Minh thường nhắc lại luận điểm “chính tâm, tu thân để trị quốc bình
thiên hạ” để vận dụng vào rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Không thể chỉ
trong một thời gian ngắn mà mỗi người có thể “chính tâm, tu thân”, bởi nó là cuộc
cách mạng trong bản thân mỗi con người để bỏ con người cũ mà trở thành con
người mới, bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ. Việc rèn luyện bền
bỉ và luôn có ý thức trau dồi đạo đức cách mạng là việc làm cần thiết và là nguyên
tắc quan trọng bậc nhất đối với con người. Theo Hồ chí Minh, đã là người thì ai

68
cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ tốt, chỗ xấu, ai cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn
đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ
cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy rõ cái dở, cái xấu để khắc phục.

Thứ hai, tu dưỡng đạo đức là đòi hỏi mỗi người phải tự giác rèn luyện thông
qua hoạt động thực tiễn, qua công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn
thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái
thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc
phục; phải kiên trì rèn luyện liên tục, tu dưỡng suốt đời, trong đó, thời tuổi trẻ đặc
biệt quan trọng.

Thứ ba, Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và
tự giáo dục về mặt đạo đức.

Đạo đức không phải là cái gì đó có tính “nhất thành bất biến”, mà nó được
hình thành, phát triển do môi trường giáo dục, do sự rèn luyện, phấn đấu và tu
dưỡng bản thân của mỗi người. Từ thực tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng
luyện càng trong”. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc
rửa mặt hàng ngày; phải làm kiên trì, bền bỉ, suốt đời. Bởi đạo đức cách mạng
không phải từ trên trời sa xuống, không phải tự nhiên có được, nó không phải là
“tính sẵn” mà là do quá trình nhận thức, tiếp thu kế thừa và sàng lọc từ cuộc sống,
từ thực tiễn sống động của cách mạng, “gian nan rèn luyện” mà có, do giáo dục mà
nên.

3. Liên hệ thực tiễn.


3.1. Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

69
3.1.1. Những thành tựu đạt được
 Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.

Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập
trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao
động có việc làm. Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng
mới ở cả nông thôn và thành thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự
nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật,
thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt
động xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.
Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp
lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong
tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với nước được toàn dân
hưởng ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng
mở rộng, đang trở thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà
nước được nâng lên.

 Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.

Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa
bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh
chiến lược quốc phòng, an ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải
thiện đời sống lực lượng vũ trang được đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến
đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế trận quốc phòng toàn dân và an

70
ninh nhân dân được củng cố. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội được tăng cường.

 Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.

Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng
cố Đảng và chính trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong
xã hội; đã ban hành Hiến pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới
nhiều văn bản pháp luật quan trọng, tiến hành cải cách một bước nền hành chính
Nhà những, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị, xã hội từng bước đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn. Quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa được
phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đoàn kết, gắn bó trong sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở nước
ngoài cũng ngày càng hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.

 Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia
tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt với Trung Quốc; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt với
Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với các nước trong
khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu
nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới quan hệ với Liên bang Nga,
các nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và các nước Đông Âu; mở rộng
quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hóa quan hệ với Mỹ;

71
thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước Nam Á, Nam Thái Bình dương, Trung
Đông, châu Phi và Mỹ latinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các
tổ chức quốc tế và khu vực.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản
và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ
trên thế giới; thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng
hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ
với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.
Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ
buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu
tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta viện trợ
không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần giữ
vững hòa bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước
ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân ta vào sự nghiệp chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
3.1.2. Khó khăn

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ
lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà
nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi
đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình",
thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ
nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu
vai trò lãnh đạo của Đảng”. 

72
Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên
đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. 

Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các
nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến
nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm
chiếu lệ. 

Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị
buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công
tác kiểm tra, giám sát. 

Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng
với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa
kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.

Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát
hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay
thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém. 

Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách
mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương
người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán,
xử lý nghiêm minh. 

Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp
chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không
nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao

73
3.1.3. Giải pháp 
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên.
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp,
nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng; luôn
lắng nghe, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc trong cán
bộ, đảng viên và Nhân dân. Các cấp ủy cần đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo
đức vào sinh hoạt chi bộ định kỳ hằng tháng. Trong sinh hoạt chi bộ, ngoài đánh
giá tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị nên lựa chọn những vấn đề
trọng tâm về công tác xây dựng Đảng, nhất là những hạn chế, khuyết điểm sau
kiểm điểm hằng năm.
Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị các cấp cần phải
gương mẫu, nói đi đôi với làm. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh trở thành công việc thường xuyên, hàng ngày của mỗi tổ
chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực, gắn với chức
trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đổi mới phong cách làm việc, nói đi
đôi với làm, thực hiện nghiêm túc Quy định số 37-QÐ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương về “Những điều đảng viên không được làm”.
Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
trong cán bộ, đảng viên, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực hiện nghiêm túc, có nền nếp việc học tập, quán
triệt các chỉ thị, quy định của Trung ương. Không ngừng đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các hình thức tuyên
truyền.
Cần thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, kịp thời phát hiện và
kiên quyết ngăn chặn biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bên

74
cạnh đó, ủy ban kiểm tra các cấp cần xây dựng và thực hiện nghiêm túc kế hoạch
kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên. Tập trung kiểm tra, giám sát việc thi
hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao và giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, chấp hành kỷ luật của
cán bộ, đảng viên. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng với giám sát của
Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội để phát huy sức
mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp. 

3.2. Liên hệ bản thân.


 Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức của Hồ Chí Minh thể hiện qua:
Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chú nghĩa xã hội, yêu khoa học và kỉ luật
 Học tập và rèn luyện thật tốt để hình thành nên năng lực, làm chủ trong
tương lai vì đất nước. Mỗi sinh viên chúng ta cần phải có đức và tài. Thiếu
một trong hai cái thì sẽ không có nghĩa gì cả
 Tham gia các hoạt động tình nguyện để hiện thực hóa bằng hành động từ
những đạo đức tốt đẹp
 Tham gia tích cực các hoạt động của Nhà trường ví dụ như; công ích…
 Phải biết học tập, say mê nghiên cứu, áp dụng các kiến thức khoa học nâng
cao đời sống vật chất tinh thần cho bản thân => góp phần xây dựng đất nước
 Rèn luyện tính kỉ luận, trung thành, tận tụy, thành thật…
 Học tập phải đi đôi với thực hành
 Nêu cao tinh thần ý thức về đạo đức cách mạng, đồng thời chấn chỉnh kịp
thời những hành vi biểu hiện nào không đúng đắn.
 Noi theo những tấm gương sáng trong lớp, trường và đời sống hằng ngày để
bản thân trở nên tốt, hoàn thiện hơn.
 Tuyên truyền về đạo đức cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh,... đến mọi người

75
 Không chỉ nghiêm khắc xử lý những người có hành vi đạo đức cách mạng
công minh mà việc khen thưởng đối với những cá nhân, tổ chức gương mẫu
về đạo đức, lối sống cũng rất cần thiết. Từ đó, tạo ra động lực để mỗi chúng
ta cố gắng noi theo, phát huy những chuẩn mực đáng học hỏi.
 Phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương không kéo bè, kéo cánh để
làm rối loạn kỷ cương, để cầu danh, trục lợi hoặc chuyên quyền, độc đoán,
đứng trên tập thể, đứng trên quần chúng
 Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động và tài sản
của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình
thức
  Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng, trong cơ
quan, đơn vị; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ
của các thế lực thù địch, cơ hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân. 

76

You might also like