You are on page 1of 45

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA KINH TẾ
----------------

BÀI THẢO LUẬN


Học phần: Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề tài 2:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC. SINH VIÊN
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ
CHÍ MINH

Nhóm thực hiện : Nhóm 6


Lớp học phần : 2339HCMI0111
Giảng viên hướng dẫn : Ngô Thị Minh Nguyệt

Hà Nội, tháng 4 năm 2023


MỤC LỤC
Lời mở đầu................................................................................................................4
Chương I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.........................5
1.1 Cơ sở thực tiễn.................................................................................................5
1.1.1 Bối cảnh lịch sử trong nước (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX).............5
1.1.2 Bối cảnh lịch sử thế giới (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)...................6
1.2 Cơ sở lý luận....................................................................................................7
1.2.1 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam...................................7
1.2.2 Tinh hoa văn hóa nhân loại......................................................................8
1.2.3 Chủ nghĩa Mác Lê-nin..............................................................................9
1.3 Chủ quan Hồ Chí Minh................................................................................10
1.3.1 Phẩm chất đạo đức..................................................................................10
1.3.2 Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận......................11
Chương II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức..................................................13
2.1 Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng. 13
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng 16
2.2.1 Trung với nước, hiếu với dân..................................................................16
2.2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...................................................19
2.2.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa............................................22
2.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng..................................................................28
2.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức
cách mạng............................................................................................................29
2.3.1 Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức..............................................29
2.3.2 Xây đi đôi với chống.................................................................................32
Chương III. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.................................................................................................................37
3.1 Thực trạng đạo đức sinh viên hiện nay.......................................................37
3.1.1 Thực trạng................................................................................................37
3.1.2 Đánh giá...................................................................................................38

2
3.2 Giải pháp học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.....................................................................................................................39
Kết luận...................................................................................................................41
Tài liệu tham khảo.................................................................................................42

3
Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - một trong những nhà tư tưởng, nhà lãnh tụ cách mạng
thế giới, quan tâm nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức. Trong cuộc đời
hoạt động cách mạng, Người luôn xem trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng,
coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Chính vì vậy, tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh rất sâu sắc, phong phú, cả về lý luận và thực tiễn, đã trở
thành một bộ phận vô giá của văn hóa dân tộc và nhân loại, một sức mạnh to lớn
làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Không những bàn về đạo đức, mà
chính cuộc đời của Người là một tấm gương sáng phản ánh một cách mẫu mực
những tư tưởng và khát vọng đạo đức do chính mình đặt ra.

     Giáo dục đạo đức là một trong những vấn đề nổi bật trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo đức và luôn quan tâm đến
việc giáo dục đạo đức trong sự nghiệp trồng người. Công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay đang cần những thế hệ công dân tốt và đội ngũ cán bộ có đủ cả đức lẫn tài.
Cho nên, việc tăng cường công tác giáo dục đạo đức là một trong những yêu cầu
của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội, là đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp phát triển
con người trong giai đoạn mới ở nước ta.

    Vì vậy, nhóm 6 chúng em quyết định thực hiện tìm hiểu đề tài thảo luận về chủ
đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

4
Chương I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1 Cơ sở thực tiễn

1.1.1 Bối cảnh lịch sử trong nước (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX)

         Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều
đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai
của thực dân Pháp.
         Từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
thực dân Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở ba miền Bắc Trung Nam liên tục nổ ra
các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới ngọn cờ “Cần Vương” do các sĩ phu, văn thân
lãnh đạo nhưng cuối cùng đều thất bại.
         Sau khi hoàn thành căn bản việc bình định Việt Nam về mặt quân sự, thực
dân Pháp bắt tay vào khai thác thuộc địa Việt Nam một cách mạnh mẽ và từng
bước biến nước ta từ một nước phong kiến thành nước “thuộc địa nửa phong kiến”
dẫn tới sự biến đổi về cơ cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Từ đó, bên cạnh mâu
thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa
chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực
dân Pháp ngày càng gay gắt. Cùng với những biến đổi trên, đến đầu thế kỷ XX,
trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở
Trung Quốc và tấm gương Duy tân của Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong
trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu
nước có tinh thần cải cách như: Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng
(1905 – 1909); Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906 – 1908);
Phong trào Đông Kinh nghĩa thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số
nhân sĩ khác phát động (từ tháng 3 đến tháng 11/1907); Phong trào chống đi phu,
chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908,...
        Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất
bại. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân
trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào chưa có đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sôi trong lòng nhân
dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Trong bối
cảnh đó, sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất hiện

5
dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có
công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực lượng ít ỏi, không ổn định. Đầu thế kỷ
XX, công nhân phát triển hơn và trở thành một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1914 – 1918). Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực
dân, tư bản, phong kiến. Họ sớm vùng dậy đấu tranh chống lại giới chủ. Từ hình
thức đấu tranh thô sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới
đình công bãi công.
         “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan
góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân”. Phong trào công nhân và các phong trào
yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX tạo điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác –
Lênin xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta. Hồ Chí Minh là người đã dày công
truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam,
đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Sau đó chính thực tiễn Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi; lãnh đạo đất nước vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ
sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện.

Hồ Chí Minh sử đụng những khái niệm, những phạm trù đạo đức đã từng quen
thuộc với dân tộc Việt Nam từ lâu đời đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời
bổ sung những khái niệm, những phạm. trù đạo đức của thời đại mới. Chính vì vậy
mà những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc, làm cho mỗi người Việt Nam đều cảm thấy gần gũi Hơn nữa, những
giá trị đạo đức truyền thống lại được nâng lên tầm cao mới, làm cho Người thực
hiện được việc kết hợp truyền thống với hiện đại. Việc tiếp thu những tinh hoa đạo
đức của nhân loại đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên phong phú, đã được
đông đảo những người nước ngoài chấp nhận, tìm thấy một Việt Nam trong nhân
loại, cũng như nhân loại trong Việt Nam. Sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại,
giữa dân tộc và nhân loại cũng là một đặc trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực,
kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ
nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai
cấp công nhân cách mạng. Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh,

6
dâng hiến cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và giải phóng con người

Với tư duy độc lập và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ thực tiễn việt
Nam thực hiện một công việc kế thừa có chọn lọc, thâu hóa những giá trị đạo đức
của quá khứ, đề xuất những tư tưởng, đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới.     

1.1.2 Bối cảnh lịch sử thế giới (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)

         Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã phát
triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Một số nước
đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản,.. đã chi phối toàn
bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã
trở thành thuộc địa và phụ thuộc của các nước đế quốc.
         Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư
bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản;
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này
ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là
đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế; tình
hình đso đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Các
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa
Mác – Lênin ở một nước lớn, rộng bằng một phần sáu thế giới. Các mạng Tháng
Mười Nga đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Các mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời
đại mới trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp
bức trên thế giới. Nói về cách mạng tháng 10 Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm
châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất đứng lên
tự giải phóng… Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý
nghĩa to lớn và sâu xa như thế”

    Ngày 2/3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva trở thành Bộ tham
mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế

7
Cộng sản đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và kinh nghiệm Cách
mạng Tháng Mười Nga ra khắp thế giới, thúc đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng
mạnh mẽ của các đảng cộng sản ở nhiều nước. Các mạng Tháng Mười Nga thắng
lợi, sự ra đời của Nhà nước Xô Viết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí
Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước.

Từ những bối cảnh quốc tế và trong nước nêu trên, Hồ Chí Minh ra đi tìm
đường cứu nước và từng bước hình thành tư tưởng của mình, đáp ứng đòi hỏi bức
thiết của dân tộc và thời đại. 

1.2 Cơ sở lý luận

1.2.1 Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam

         Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam. Đó là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại
và vượt qua mọi khó khăn trong quá trình dựng nước và giữ nước mà phát triển.
Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc
đẩy Hồ Chí Minh tìm ra đường cứu.
         Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ chí
Minh hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam, đó là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, nhân
ái khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần
cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định
thành công của cách mạng; dân là gốc của nước; lấy nước dân làm gốc; gốc có
vững cây mới bền; xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân; đoàn kết dân tộc gắn liền
với đoàn kết quốc tế là một nguyên tắc chiến lược quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
         Trong truyền thống dân tộc Việt Nam thường trực một niềm tự hào về lịch sử,
trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán và những giá trị tốt đẹp khác
của dân tộc. Đó chính là cơ sở hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa
kiệt xuất Hồ Chí Minh với chủ trương văn hóa là mục tiêu, động lực của cách
mạng; cần giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa

8
nhân loại, xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam. Hồ Chí Minh chính là một
biểu tượng cao đẹp của sự tích hợp tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây.
1.2.2 Tinh hoa văn hóa nhân loại

-        Tinh hoa văn hóa phương Đông


         Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đông kết tinh trong ba học thuyết lớn
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở
phương Đông và ở Việt Nam trước đây.
            Về Nho giáo, Hồ Chí Minh phân tích: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy
trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay
trong đó thì chúng ta nên học. “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu
hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. Lênin dạy chúng
ta như vậy”.
            Hồ Chí Minh chú ý kế thừa và đổi mới tư tưởng dùng nhân trị, đức trị để
quản lý xã hội. Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một
xã hội lý tưởng trong đó có công bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được
coi trọng để có thể đi đến một thế giới đại đồng với hóa bình, không có chiến tranh,
các dân tộc có quan hệ hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa,
đổi mới, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức của con người, trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
            Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị
tha, yêu thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao
quyền bình đẳng của con người và chân lý; khuyên con người sống hòa đồng, gắn
bó với đất nước của đạo Phật. Những quan điểm tích cực đó trong triết lý của đạo
Phật được Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo để đoàn kết đồng bào theo đạo Phật,
đoàn kết toàn dân vì nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh. Tỏng thư gửi Hội Phật tử năm 1947, Người viết: “Đức Phật là đại từ đại bi,
cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh
đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng
chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn,
để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại
từ đại bi của Đức Phật Thích Ca, kháng chiến để đưa giống nòi ra khỏi cái khổ ải
nô lệ”. Hồ Chí Minh chú trọng kế thừa, phát triển những tư tưởng nhân bản, đạo
đức tích cực trong phật giáo vào việc xây dựng xã hội mới, con người mới Việt
Nam hiện nay.

9
          Đối với Lão giáo (Đạo giáo), Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng
của Lão Tử, khuyên con người nên gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên
nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ môi trường sống. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân ta
trồng cây, tổ chức “Tết trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc
sống của con người. Hồ Chí Minh chú ý kế thừa phát triển tư tưởng thoát mọi ràng
buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo. Người khuyên các bộ, đảng viên ít lòng
tham muốn về vật chất; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; hành động
theo đạo lý với ý nghĩa là hành động đúng với quy luật tự nhiên, xã hội. Hồ Chí
Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư tưởng, văn hóa phương Đông
để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam thời hiện đại.
-           Tinh hoa văn hóa phương Tây
            Ngay từ khi còn học ở Trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh
(năm 1905), Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng
Pháp năm 1789: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Đi sang phương Tây, Người quan tâm
tìm hiểu những khẩu hiệu nổi tiếng đó trong các cuộc cách mạng tư sản ở Anh,
Pháp, Mỹ. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền dân quyền
trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, bản Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự
do, hạnh phúc của các dân tộc.
            Trong hành trình đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã sống,
hoạt động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa nhân
loại tại những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa lớn ở các cường quốc trên thế
giới như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc,... bằng chính ngôn ngữ của các nước
đó. Người trực tiếp nghiên cứu tư tưởng nhân văn, dân chủ và nhà nước pháp
quyền của các nhà khai sáng phương Tây như Vonte, Rútxô, tìm hiểu chủ nghĩa
Tam dân của Tôn Trung Sơn,..; thích đọc sách văn học của William, Shakespeare
bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa, Hugo, Zola bằng tiếng Pháp; 

1.2.3 Chủ nghĩa Mác Lê-nin

         Đối với Hồ Chí Minh chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp
luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng. Trên cơ sở lập trường, quan điểm và
phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã triệt để kế thừa, đổi mới,
phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn
hóa nhân loại kết hợp với thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới hình thành
nên một hệ thống các quan điểm cơ bản, toàn diện về cách mạng Việt Nam. Chủ

10
nghĩa Mác – Lênin là tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trò quyết định trong
việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
         Tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản
với tầm vóc trí tuệ lớn như V.I. Lênin mong muốn: “Người ta chỉ có thể trở thành
người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho
tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản trên cơ
sở hiểu biết sâu sắc kho tàng tri thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ Đông sang
Tây. Người nhận định: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức
cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là
chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng phải đã có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn “mưu hạnh
phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội”. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời
này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn
mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vụ ấy”.
         Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không những đã
vận dụng sáng tạo, mà còn bổ sung, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại mới. Trong các vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc; chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; các vấn đề xây
dựng Đảng, Nhà nước, văn hoá, con người, đạo đức,...Hồ Chí Minh đều có những
luận điểm bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một bước nhảy vọt trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

1.3 Chủ quan Hồ Chí Minh

1.3.1 Phẩm chất đạo đức

         Hồ Chí Minh có lý tưởng cao cả và hoài bão lớn cứu dân, cứu nước thoát khỏi
cảnh lầm than, cơ cực để theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. Người có ý chí,
nghị lực to lớn, một mình dám đi ra nước ngoài khảo sát thực tế các nước đế quốc
giàu có cũng như các dân tộc thuộc địa nghèo nàn, lạc hậu, mà chỉ với hai bàn tay
trắng. Người đã làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, biết rất nhiều ngoại ngữ,
tự học hỏi và hoạt động cách mạng. Kết hợp học ở nhà trường, học trong sách vở,
học trong thực tế hoạt động cách mạng, học ở nhân dân khắp nơi Người đã đến, và
đã có vốn học thức văn hóa sâu rộng Đông Tây kim cổ để vận dụng vào hoạt động
cách mạng. Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn là người có bản lĩnh tư duy độc lập, tự chủ,

11
sáng tạo, giàu tính phê phá, đổi mới và cách mạng; đã vận dụng đúng quy luật
chung của xã hội loài người, của cách mạng thế giới vào hoàn cảnh riêng, cụ thể
của Việt Nam, đề xuất tư tưởng, đường lối cách mạng mới đáp ứng đúng đòi hỏi
thực tiễn; có năng lực tổ chức biến tư tưởng, đường lối thành hiện thực.
         Hồ Chí Minh là người có tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại, đã đưa cách
mạng Việt Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh là
người có năng lực tổng kết thực tiễn, năng lực dự báo tương lai chính xác để dẫn
dắt toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi tới bến bờ thắng lợi vinh quang.
         Hồ Chí Minh là người suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân; là người
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của
cách mạng thế giới. Những phẩm chất cá nhân đó là một nhân tố quyết định những
thành công của Hồ Chí Minh trong hoạt động lý luận và thực tiễn cho dân tộc Việt
nam và nhân loại.

1.3.2 Tài năng hoạt động, tổng kết thực tiễn phát triển lý luận

         Hồ Chí Minh là người có vốn sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi
thường. Trước khi trở thành chủ tịch nước, Hồ chí Minh đã sống, học tập và hoạt
động cách mạng ở gần 30 nước trên thế giới. Người hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân và chế độ thực dân không chỉ qua tìm hiểu tài liệu, sách,
báo, radio mà còn hiểu biết sâu sắc về chúng qua cuộc sống và hoạt động thực tiễn
tại các cường quốc đế quốc. Người đặc biệt xác định rõ bản chất, thủ đoạn của chủ
nghĩa đế quốc, thực dân; thấu hiểu tình cảnh người dân ở nhiều nước thuộc hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Người thấu hiểu về phong trào giải phóng
dân tộc, về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng Cộng sản,.. không chỉ
qua nghiên cứu lý luận mà còn qua việc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,
qua hoạt động ở Trung Quốc, qua tham gia phong trào cộng sản quốc tế ở nhiều
nước, qua nghiên cứu đời sống xã hội ở Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới,...
         Hồ Chí Minh là nhà tổ chức vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người đã hiện
thực hóa tư tưởng, lý luận cách mạng thành hiện thực sinh động; đồng thời tổng kết
thực tiễn cách mạng, bổ sung, phát triển lý luận, tư tưởng cách mạng. Cùng với
việc tìm thấy mục tiêu, phương hướng cách mạng Việt Nam ở chủ nghĩa Mác –
Lênin, Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp; chuẩn bị về nhiều mặt cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam - tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo
chủ nghĩa Mác – Lênin. Người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập Quân

12
đội nhân dân Việt nam; khai sinh Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Những phẩm
chất cá nhân cùng những hoạt động thực tiễn phong phú trên nhiều lĩnh vực khác
nhau ở trong nước và trên thế giới là nhân tố chủ quan hình thành nên tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.

13
Chương II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
2.1 Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng thế giới bàn
nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục, thực hành đạo đức. Trong tầm nhìn của nhân
loại tiến bộ, Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương sáng nhất về cuộc đời của
một con người “đầy tình yêu nhân dân, đầy yêu thương con trẻ, dạt dào tình yêu Tổ
quốc, yêu những người lao động, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội và lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa”. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Hồ Chí
Minh quan niệm đạo đức là cái gốc của con người. Cụ thể như sau: 

- Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là
tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng:

Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, cũng
giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, suối. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc (1947), Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân.” 

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng tinh thần của con người, giúp cho con
người vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách. Có đạo đức sẽ giúp người cán bộ
cách mạng không lùi bước trước khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng. “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại,
không rụt rè, lùi bước”, “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”... Đó cũng là biểu
hiện của đạo đức cách mạng.

Đạo đức có nội hàm sức mạnh to lớn. Như Hồ Chí Minh vẫn thường nói, đối với
con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cán bộ cách
mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang. Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn,
khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con

14
đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không
ngừng của mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Nếu
không có đạo đức cách mạng làm nền tảng, người cán bộ có thể mềm lòng, nản chí,
xuôi tay. Có đạo đức cách mạng sẽ giúp người cán bộ cách mạng không lùi bước
trước khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cách mạng.

- Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc,
phẩm chất mỗi con người:

Trong bài Người cán bộ cách mạng (1955), Hồ Chí Minh yêu cầu “Người cán
bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng… Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do
cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không’’. Bởi vì, có đạo đức cách
mạng trong sáng mới làm được những việc cao cả, vẻ vang. Người quan niệm,
“Việc nước lấy Đoàn thể làm cốt cán. Việc Đoàn thể lấy cán bộ làm cốt cán. Cán
bộ lấy đạo đức làm cốt cán” Theo Hồ Chí Minh, “Đại đa số chiến sĩ cách mạng là
người có đạo đức: Cả đời hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, sinh hoạt ngày thường
thì làm gương mẫu: gian khổ, chất phác, kính trọng của công... Đạo đức ấy có ảnh
hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành xã hội mới và xây dựng mỹ tục thuần
phong”
Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Đạo đức cách
mạng giúp người cán bộ phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện bản thân trong
quá trình tham gia cách mạng, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, chứ không kèn cựa
về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ
hóa. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên
của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi con người trong xã hội.

- Đạo đức luôn được đặt cạnh tài năng, đức và tài phải là những phẩm chất
thống nhất của con người: 

Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hóa
mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy
hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên
cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực
tế.  Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và
chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này,
thiếu mặt kia. Đức là nền tảng của tài, định hướng cho tài phát triển. Ngược lại, tài
là thành tố góp phần tạo nên đức, hoàn thiện đức. Do đó, người cán bộ cần phải có

15
cả hai phẩm chất này. Như Hồ Chí Minh đã phân tích: Người có đức mà không có
tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng
chẳng có ích gì cho loài người. Ngược lại, nếu người có tài mà không có đức, thì
cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp
của công, như vậy, chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự nghiệp của bản thân thì
sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập,
nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao. Khi đã thấy sức không vươn lên được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn
sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước. Ý nghĩa “đức là gốc”
chính là ở chỗ đó.

- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của mỗi con người:

Vai trò của đạo đức còn thể hiện là thước đo lòng cao thượng của con người.
Trong bài Đạo đức cách mạng (1955), Hồ Chí Minh viết: “Tuy năng lực và công
việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ; nhưng ai giữ
được đạo đức đều là người cao thượng” . Thực hành tốt đạo đức cá nhân không chỉ
có tác dụng tôn vinh nâng cao giá trị của mình mà còn tạo ra sức mạnh nội sinh
giúp ta vượt qua mọi thử thách.

Liên hệ thực tiễn tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh đã tự rèn
luyện để có phẩm chất đạo đức cao quý của người cộng sản. Suốt thời gian bôn ba
ở nước ngoài, tìm đường giải phóng cho dân tộc, Hồ Chí Minh đã trở thành người
cộng sản có đạo đức cách mạng sáng ngời.
Hồ Chí Minh là hiện thân của sự hoàn thiện, hoàn mỹ về đạo đức: Yêu đồng
bào, yêu nhân dân, triệt để cách mạng và vô cùng nhân từ; uyên bác mà cực kỳ
khiêm tốn; vĩ đại mà rất mực bình dị.
Bằng lời nói và việc làm, bằng giảng giải và nêu gương, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
cho mọi người thấy thế nào là một đạo đức cao đẹp, một cuộc sống đáng sống.
Người nâng cao tâm hồn và tình cảm của nhân dân, khiến mọi người đều cảm thấy
mình luôn luôn lớn lên và đầy niềm tự hào trước sự nghiệp vĩ đại và trước tấm
gương đạo đức sáng ngời của Người.
Bản thân Hồ Chí Minh đã suốt đời không ngừng tự tu dưỡng, tự rèn luyện mình
về đạo đức để trở thành “tấm gương tuyệt vời về con người mới”, thành hình ảnh
mẫu mực về “người lãnh đạo và người đày tớ thật trung thành của nhân dân”,

16
chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc, mà còn
ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.
Nhiều lãnh tụ chính trị, học giả, nhà văn, nhà báo có tiếng đã viết về sức cổ vũ
kỳ diệu của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với nhân dân nước mình và
chứng minh rằng: Do ngưỡng mộ một nhân cách vĩ đại như vậy, có biết bao lớp
người trẻ tuổi đã đứng vào hàng ngũ các chiến sĩ cộng sản, tình nguyện hiến dâng
đời mình cho cuộc đấu tranh vì tự do độc lập, vì tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
nhân dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy theo từng thời kỳ cách
mạng, Người đã đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp để mọi người phấn đấu rèn
luyện, nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, từ
đó mà giành thắng lợi ngày càng to lớn cho cách mạng.
Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến
đạo đức của người cán bộ, đảng viên. Hai mươi bốn năm trên cương vị Chủ tịch
nước, Người đã kiên trì giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức mới, đạo đức cách
mạng. Nếu quyền lực là sức mạnh để giữ vững những thành quả cách mạng, để tổ
chức và xây dựng chế độ xã hội mới, để phát triển kinh tế và văn hóa, để biến đất
nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành giàu mạnh, văn minh, thì quyền lực lại có
mặt trái của nó là có thể làm tha hóa con người nắm quyền lực, có thể đưa đến
những tổn thất lớn cho cách mạng. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy điều này từ rất sớm,
không phải chỉ ở trong nước, mà còn ở nhiều nước khác. Những vấn đề đạo đức mà
Người đặt ra với cán bộ, đảng viên chính là nhằm ngăn chặn, khắc phục những hiện
tượng tha hóa có thể hoặc đã xảy ra, nhất là để chống lại những khuynh hướng sai
lệch về quyền lực như quan liêu, cậy thế, cậy quyền, lợi dụng quyền lực, lạm dụng
quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, tham
quyền, cố vị... những tệ nạn có thể trở thành nguy cơ làm sụp đổ sự nghiệp của một
người, thậm chí của cả một Đảng Cộng sản.
2.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.2.1 Trung với nước, hiếu với dân

Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng
nhất và chi phối các phẩm chất khác.

Trung và hiếu là những khái niệm đạo đức cũ đã có từ lâu trong tư tưởng đạo
đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và

17
cũng là phẩm chất bao trùm nhất: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Phẩm chất này
được Hồ Chí Minh sử dụng với những nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước,
hiếu với dân”, đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức.
Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo
đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Đầu
năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha
mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu
với toàn dân, với đồng bào”.

Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh không những kế
thừa giá trị yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của
truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ
nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân… Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Đảng và Chính phủ là “đầy tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu
cưỡi cổ nhân dân”, thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với
trước; rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy, điều này càng làm cho tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vượt xa lên phía trước. Trong Thư gửi thanh niên
(1965), Người viết: “Phải luôn luôn nâng cao chí khí cách mạng “trung với nước,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng”. Luận điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời kêu gọi hành
động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không chỉ
trong cuộc đấu tranh cách mạng trước đây, hôm nay, mà còn lâu dài về sau nữa.

Hồ Chí Minh cho rằng, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Trung với
nước, là phải yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho
Đảng, cho cách mạng, phải làm cho “dân giàu, nước mạnh”. Hiếu với dân, là phải
thương dân, tin dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở dân, kính trọng dân, lấy dân
làm gốc, “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách
mạng” ra lệnh ra oai”.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:

Bác Hồ kính yêu dạy chúng ta trung với nước, hiếu với dân. Người dạy
chúng ta bằng chính tấm gương từ cuộc đời Người: “Cả đời tôi chỉ có một mục
đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi

18
phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì
mục đích đó”. 

Tháng 5/1946, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Người sang thăm nước
Pháp. Lúc đó bọn phản động tung tin rằng: Hồ Chí Minh bán nước. Hồ Chí Minh
bán Nam Bộ cho Pháp! Người viết thư cho đồng bào Nam Bộ (1/6/1946): “Tôi xin
đồng bào hiểu rằng nước Pháp mới không phải là nước đế quốc chủ nghĩa, đi áp
bức, đi chia rẽ dân tộc và nước nhà người ta. Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi
xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước… Đồng
bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
đó không bao giờ thay đổi”.

Người coi việc làm Chủ tịch nước là vâng mệnh lệnh quốc dân, như người
lính ra trận. Khi nào đồng bào bảo Người lui thì Người xin lui, về với vườn rau, ao
cá, vui thú cảnh điền viên.

 Với nhân dân, Bác luôn canh cánh một nỗi niềm, lo cho từng cảnh đời của
mỗi con người. Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Bác nêu ra hết sức giản
đơn và dễ hiểu: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân… Chủ nghĩa xã hội là mọi người được ấm no, tự do, hạnh phúc… Chủ nghĩa
xã hội là xã hội do người dân làm chủ. Đã là chủ phải xứng đáng với vai trò làm
chủ. Chính phủ do dân bầu ra phải có trách nhiệm lo cho nhân dân:

“1- Làm cho dân có ăn

2- Làm cho dân có mặc

3- Làm cho dân có chỗ ở

4- Làm cho dân có học hành”

Nhiều lần, Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải ghi nhớ là công bộc của
dân, chứ không phải là quan lại của dân. Không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng
sản mà được dân tin yêu, mến phục?... Người đến với dân như những người thân
yêu, ruột thịt, bình dị. Người đến thăm cánh đồng hạn hán, Người ngồi lên guồng
tát nước, Người cầm gầu dây tát nước… Người đến ngõ hẻm Hà Nội đêm ba mươi
tết với những người dân đang không có tết, những mảnh đời nghèo đói, tần tảo,
manh quần, tấm áo chưa lành…

19
Với Bác, trung với nước, hiếu với dân là một phẩm chất đạo đức cao quý của
người cách mạng, phẩm chất này chi phối và tác động tổng hợp với các phẩm chất
khác trong mỗi hành vi, ý thức của con người. Phẩm chất cao quý này được thể
hiện hết sức cụ thể trong cuộc sống của mỗi người cán bộ, đảng viên, đó là sự
gương mẫu, đó là sự “đi trước”, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ
quốc ngay ở trách nhiệm trước công việc cụ thể thường nhật hằng ngày.

Tấm gương trong sáng hết lòng vì Tổ quốc vì nhân dân của Bác kính yêu bắt
đầu từ những điều bình dị nhất, gần gũi nhất, cụ thể nhất nhưng thật là vĩ đại để
chúng ta noi theo.
2.2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là nội dung cốt lõi của đạo đức cách
mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người.
Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, phản
ánh ngay từ cuốn sách Đường cách mệnh đến bản Di chúc.

Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi
cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm
gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân”. Với ý nghĩa như vậy, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất
“trung với nước, hiếu với dân”.

“Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong
đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù
hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.

“Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai”. “Muốn cho chữ Cần có
nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động
cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng. Phải thấy rõ, “Lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.

“Kiệm là thế nào? Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi. CẦN với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”. Kiệm tức
là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của
bản thân mình; không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù. “Tiết

20
kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không
nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao
nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Việc đáng
tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết
không xa xỉ”. Hồ Chí Minh yêu cầu phải “Cần kiệm xây dựng nước nhà”.

Liêm “là trong sạch, không tham lam… Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm.
Cũng như chữ Kiệm phải đi với chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được”, “Liêm là
không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham
người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ
có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.

“Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng
đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “Đối với
mình - Chớ tự kiêu, tự đại”... “Đối với người - Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem
khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn… Phải thực hành chữ Bác –
Ái... “Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà… việc
thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.

Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực
hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức,
những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu không giữ
đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân.

Chí công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi; là hết sức công
bằng, không chút thiên tư, thiên vị, công tâm, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân
dân, của dân tộc lên trên hết, trước hết; chỉ biết vì Đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên
hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công vô tư là chống chủ nghĩa cá nhân. Người nói: “Đem
lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc”; “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng
nghĩ đến mình trước,… khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”.

Chí công vô tư về thực chất là sự tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính. Người giải
thích: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp
thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục
khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ
Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. 

21
Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân
tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần,
kiệm, liêm, chính còn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu
nước. Để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố cần,
kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cơ bản
của con người, giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất; “Thiếu một đức,
thì không thành người”.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những phẩm chất, những chuẩn mực
đạo đức cách mạng mà chính Người còn là hiện thân của những phẩm chất đó để
chúng ta học tập. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, dù là người
phụ bếp, đốt lò, rửa bát hay trên cương vị là đại biểu Quốc tế cộng sản, Chủ tịch
nước, Người luôn nêu cao lối sống cần, kiệm, giản dị, không màng danh vọng,
không ham của cải, coi khinh sự xa hoa, không chuộng những nghi thức sang trọng.
Và sau này, trên cương vị người đứng đầu đất nước, Bác vẫn luôn dành sự quan
tâm đặc biệt tới đời sống của nhân dân. Bác nói: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon,
mặc đẹp nhưng phải cho đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân còn
thiếu thốn mà người nào đó muốn riêng mình hưởng ăn ngon, mặc đẹp là không
đạo đức”. Trước nạn đói năm 1945, Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước
nhường cơm sẻ áo cho nhau “lúc chúng ta nâng bát cơm lên mà ăn, nghĩ đến kẻ đói
khổ chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và
tôi xin thực hành trước. Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa.
Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy thì những người nghèo
sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”. Bác đã
gương mẫu nhịn ăn vào tối thứ 7, tự tay bỏ gạo vào hũ cứu đói dân nghèo. Chiếc áo
lụa đồng bào tặng, Bác cũng đem bán lấy tiền mua áo ấm tặng chiến sĩ trong mùa
đông giá rét. Số tiền tiết Kiệm từ tiền nhuận bút các báo gửi cho Bác, Bác cũng
đem mua nước ngọt tặng cho các chiến sĩ trực phòng không trong những ngày hè
nóng bức. Những cử chỉ cao đẹp đó không chỉ là tình cảm, tình thương bao la của
Bác với đồng bào, chiến sĩ mà còn thể hiện sâu sắc những giá trị đạo đức cách
mạng ở Hồ Chí Minh.

Sự tiết kiệm, giản dị và thanh liêm còn được thể hiện đậm nét trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày của Bác. Ở cương vị cao nhất của Đảng và Nhà nước
nhưng không bao giờ Bác đòi hỏi mình phải được hưởng đặc quyền, đặc lợi hơn

22
người. Kháng chiến gian khổ, Bác sống như một người bình thường đã đành,
nhưng trong hoà bình, Bác cũng không muốn coi mình là “vua”, xa cách với quần
chúng, cán bộ. Bác nói: “Ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng
ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì không nên”.
Bác chi tiêu rất tiết kiệm, cân nhắc từng đồng. Hàng ngày bữa ăn của Người càng
bình dị. Ông Đinh Văn Cẩn - người nấu ăn cho Bác từ chiến khu Việt Bắc đến
những ngày cuối đời, kể lại: Bác quy định mỗi bữa không quá 3 món: Thức ăn đủ,
tránh lãng phí. Đặc biệt Bác rất thích ăn các món dân gian: Dưa cà, mắm tép, cá
kho. Khi đi công tác địa phương Bác dặn các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm
thức ăn từ nhà hoặc mang nồi cháo đi nấu cho tiết Kiệm, tránh các nơi khi đón tiếp
thường tổ chức linh đình tốn phí. Liên hoan chào mừng ngày thành lập Đảng cũng
chỉ có bát cơm, món xào, tô canh và đĩa cá. Khi tiếp đãi khách, Bác thường nói:
“Chủ yếu là thật lòng với nhau”. Chiêu đãi đồng chí Lý Bội Quần, người Trung
Quốc đã giúp Bác mua chiếc máy chữ từ Hải Phòng mang về, Bác cũng chỉ “khao”
một món canh và hai đĩa thức ăn, có thêm chén rượu gạo, tổng cộng chưa hết một
đồng bạc, thế mà vẫn đậm đà tình cảm giữa chủ và khách.

Trong trang phục hàng ngày, Bác chỉ có bộ quần áo dạ màu đen mặc khi đi
ra nước ngoài; chiếc mũ cát Bác đội khi đi ra ngoài trời; chiếc áo bông, áo len Bác
mặc trong mùa lạnh và một vài bộ quần áo gụ Bác mặc làm việc mùa hè. Nói về sự
giản dị trong cách ăn mặc của Bác, có lẽ hình ảnh quen thuộc mà đồng bào ta
thường thấy là đôi dép cao su và bộ quần áo ka-ki. Đôi dép cao su được Bác dùng
hơn 20 năm đến khi mòn gót phải lấy một miếng cao su khác vá vào, các quai hay
bị tuột phải đóng đinh giữ. Còn bộ quần áo ka-ki Bác mặc đến khi bạc màu, sờn cổ
áo. Những người giúp việc xin Bác thay bộ quần áo mới thì Bác bảo: “Bác mặc
như thế phù hợp với hoàn cảnh của dân, của nước, không cần phải thay”.

Về nơi ở, khi Bác mới về nước là một hang đá thuộc Pác Bó, Cao Bằng. Sau
này, Bác ở nhà riêng nhưng rất đơn giản. Nhà làm nhỏ, bốn bề với tay được vì tiết
kiệm nguyên vật liệu. Đến năm 1954, Chính phủ chuyển về thủ đô Hà Nội, nhiều
người đề nghị Bác ở Phủ Toàn quyền Đông Dương cũ, nhưng Bác đã từ chối và chỉ
chọn căn phòng nhỏ của người thợ điện đơn sơ bên ao cá để ở. Mãi đến ngày
17/5/1958, Bác mới chuyển về ở ngôi Nhà sàn cho đến tháng 8/1969.

Những lời nói của Bác về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt là tấm gương của Bác về thực hành cần kiệm liêm
chính vẫn mãi mãi để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta noi theo.

23
2.2.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa

Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với
việc thể nghiệm chính bản thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác
định tình thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp
nhất. 
       Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm Cách
mạng mới đi làm Cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà
Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân
tộc, tự do hạnh phúc cho con người. 
       Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rộng lớn, trước hết
dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp
bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu không có tình
yêu thương như vậy thì không thể nói đến Cách mạng, càng không thể nói đến chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 
        Tình thương người, yêu đồng loại, yêu đồng bào, yêu đất nước mình là tư
tưởng lớn, là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh, được thể hiện ở sự ham muốn
tột bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đây
là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức và lý tưởng nhân văn
của Người. 
        Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phải được xây dựng trên lập
trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn
bè, đồng chí, anh em, phải được thể hiện ở hành động cụ thể thiết thực. Nó đòi hỏi
mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng
vị tha đối với người khác; phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, tạo
điều kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả những người
nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ “dĩ hòa vi quý”, không phải hạ thấp,
càng không phải vùi dập con người. Bằng hành động và ứng xử của mình, Hồ Chí
Minh truyền lại cho chúng ta một đạo lý làm người là phải biết yêu thương và sống
với nhau có tình có nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, “hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải
sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình
có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Trong Di chúc, Người
viết: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. 

24
Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:
      Tình yêu thương con người của Bác Hồ đồng nghĩa với tình thương dành cho
các dân tộc bị xích xiềng của bọn thực dân đế quốc. Người không chỉ cảm thông
mà còn chỉ dẫn cho họ biết tự mình vùng lên cởi ách nô lệ, giành độc lập, tự do.

     Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta phải trải qua nạn đói khủng
khiếp do thực dân, đế quốc gây ra. Trong tình hình khó khăn ấy, Hồ Chủ tịch phát
động nhân dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Còn bản thân Bác, cứ 10
ngày nhịn ăn 1 bữa để góp gạo vào hũ gạo tiết kiệm cùng nhân dân cứu đói.

      Đi Chiến dịch Biên giới năm 1950, Người không cưỡi ngựa mà cùng đi bộ với
cán bộ, chiến sĩ, để ngựa thồ hành lý, đạn dược đỡ nặng vai cho bộ đội. Có lần khi
đến thăm trại tù binh, do trời đang rét, Bác đã cho viên quan ba thầy thuốc của quân
đội Pháp chiếc áo khoác của mình...

      Giữa bề bộn công việc của đất nước, Bác không quên các em nhỏ, trong đó có
những em bé bán báo, đánh giày, không quên các cụ già… Người còn gửi thiệp
chúc Tết, thư mừng sinh nhật bè bạn gần xa; chia vui với niềm vui của đồng bào,
đồng chí… Niềm vui của Người chỉ trọn vẹn khi đất nước được độc lập, tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

       Thật hiếm có vị lãnh tụ nào lại có tình thương mênh mông, dành cho bao số
phận, mọi kiếp người... như Bác.

       Về tình yêu thương con người bao la ấy của Bác Hồ, cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã viết: “Trong đời hoạt động cách mạng cũng như trong đời sống hằng
ngày, Hồ Chủ tịch đối xử với mọi người luôn có lý, có tình. Bác Hồ muôn vàn yêu
thương đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình yêu đó, có chỗ cho mọi người,
không quên sót một ai và sắp xếp cho mỗi người vị trí chiến đấu, cũng như lo lắng
chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc đòi hỏi,
vừa thương yêu dìu dắt... Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng
hơn biển cả, Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước những đứa con vì
cảnh ngộ mà lạc bầy…”.

       Trong bài thơ “Theo chân Bác” viết tháng 1/1970, một trong những bài thơ
hay nhất viết về Bác, cũng là một trong những bài thơ hay nhất của tác giả, nhà thơ
Tố Hữu đã nói giúp chúng ta lời ca ngợi, biết ơn tình yêu thương của Bác: “Ôi

25
lòng Bác vậy cứ thương ta/Thương cuộc đời chung thương cỏ hoa/Chỉ biết quên
mình cho hết thảy/Như dòng sông chảy nặng phù sa”…

       Năm 1912, Bác Hồ tới thành phố New York, nước Mỹ, vừa kiếm sống vừa
nghiên cứu lịch sử xã hội Mỹ. Thời gian này, Người tranh thủ đến tham quan tượng
Thần Tự do. Trong cuốn sổ ghi cảm tưởng, các chính khách đều ca ngợi ngôi sao
tỏa sáng trên vòng nguyệt quế là ánh sáng tự do. Duy có Bác nhìn xuống chân
tượng và ghi: “Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới
chân tượng Thần Tự do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ
cũng vậy. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự
bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam
giới?”.

       Đọc những dòng này, nhà Sử học người Mỹ Josephine Stenson viết: “... Hồ
Chí Minh là người bình thường; sống hòa đồng trong cuộc sống của xã hội. Người
thương yêu tất cả, chỉ quên mình. Hồ Chí Minh mãi mãi là tấm gương sáng về
nhân cách một con người thời đại cho mọi thế hệ tiếp sau”.

       Ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng còn non
trẻ lại phải đối phó với muôn vàn khó khăn, thử thách trước cảnh “ngàn cân treo sợi
tóc”, cùng với hạn hán, thiên tai, lũ lụt, Nhân dân ta rơi vào tình cảnh chết đói ở
khắp mọi nơi. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân thi đua “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt
giặc ngoại xâm”. Người tin vào lực lượng của Nhân dân, vào tinh thần và sự hăng
hái của toàn dân – nguồn nội lực lớn nhất có thể đưa dân tộc vượt qua mọi khó
khăn, nguy hiểm trong cuộc chiến đấu chống mọi kẻ thù để bảo vệ và xây dựng đất
nước.
       Vì vậy, để khắc phục nạn đói, Người đề nghị Hội đồng Chính phủ phát động
một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở cuộc quyên góp cứu đói. Ngày 07/12/1945,
trong thư gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi: “Tăng gia sản xuất!
Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là cách thiết thực để chúng ta
giữ vững quyền tự do, độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, cả nước thi đua
thực hiện “tấc đất, tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang”. Người cùng các Bộ
trưởng và nhân viên Chính phủ cùng tham gia sản xuất sau giờ làm việc, tăng gia
một cách thực sự, không phải là tăng gia một cách hình thức. Trong khi chờ đợi thu
hoạch ngô, khoai, sắn… Người đề xướng phong trào quyên góp “hũ gạo cứu đói”,

26
kêu gọi đồng bào cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo cứu dân nghèo và Bác đã
tự gương mẫu thực hiện trước. Tại buổi khai mạc cuộc quyên góp tổ chức ở Nhà
hát lớn Hà Nội, Bác đã đem phần gạo nhịn ăn của mình quyên góp trước tiên.
        Tấm gương về việc làm của Bác đã khích lệ đồng bào cả nước hưởng ứng làm
theo. Bằng những lời lẽ thiết tha, xúc động, Người viết thư động viên đồng bào cả
nước nêu cao tinh thần “nhường cơm sẻ áo” để cứu dân nghèo: “Lúc chúng ta nâng
bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề
nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một
bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó để cứu dân nghèo”. Nhờ sáng kiến đó, mỗi
tuần Nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói, giúp cho
nhiều người nghèo vượt qua nạn đói khủng khiếp năm 1945.
        Những năm Người ở và làm việc tại Phủ Chủ tịch (1954 – 1969), tấm lòng
nhân ái bao la của Người càng được phản ánh sâu sắc qua sự quan tâm và sẻ chia
của Bác đối với từng con người: trước hết cho những con người ở vị trí chiến đấu
gian khổ nhất; chia sẻ đau buồn, cảm thông với những người mất mát, hy sinh;
khoan dung độ lượng với những người lầm lỗi, khuyết điểm, nay thành thật hối cải;
thuyết phục những người do dự, phân vân; trân trọng các cháu thiếu niên, nhi đồng;
kính trọng các cụ phụ lão; sống chan hoà, gần gũi với những người giúp việc quanh
mình… Tình thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là lòng
thương hại, cũng không phải là lòng trắc ẩn mà là sự đồng cảm sâu sắc của những
người cùng cảnh ngộ, thấu hiểu những đau khổ, hy sinh của đồng bào.
        Thời kỳ Người ở và làm việc tại Phủ Chủ tịch là những tháng năm đất nước bị
chia cắt làm hai miền Nam – Bắc. Đồng bào miền Nam chịu nhiều mất mát, hy sinh
bởi sự tàn sát dã man của đế quốc Mỹ xâm lược. Bác luôn hướng về đồng bào,
chiến sĩ miền Nam với tình thương yêu sâu nặng: “Một ngày miền Nam chưa được
giải phóng là ngày đó tôi ăn không ngon, ngủ không yên”; “Ở miền Nam mỗi
người, mỗi gia đình đều có những nỗi đau khổ riêng và gộp lại tất cả những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”.
        Tình thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự chăm
sóc, lo lắng đối với đồng bào, đồng chí, các cụ phụ lão, các cháu thanh thiếu niên,
nhi đồng, các chiến sĩ ngoài mặt trận… Người đã dành trọn số tiền tiết kiệm của
mình mua nước giải khát cho bộ đội phòng không uống. Người chia quà cho các
cháu thiếu nhi vào dịp tết Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi. Mỗi khi có gió mùa
Đông Bắc về, Người nhắc nhở chống rét cho các em nhỏ, các cụ già. Người quan
tâm đến những ngày giáp hạt của nông dân, thấu hiểu nỗi vất vả, khó nhọc của

27
những người lao động và tìm mọi cách để góp phần cho cuộc sống người dân bớt đi
phần vất vả. Những khi làm việc đêm khuya, có bát chè bồi dưỡng, Bác cũng xẻ
đôi cho người chiến sĩ bảo vệ cùng ăn. Lúc đi chiến dịch biên giới, Bác không chịu
một mình cưỡi ngựa. Bác bảo cả bảy người cùng đi bộ, để ngựa thồ hành lý cho
anh em đỡ mệt… Những lúc bớt bận rộn, Bác thường dành thời gian đến thăm các
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người nghèo khổ. Thấy các cháu nhỏ sức khỏe
yếu, Bác đề nghị những nhà lãnh đạo địa phương phải chăm lo đến đời sống người
dân từ việc nhỏ nhất.
        Người quan niệm cái gì có lợi cho Nhân dân, cho dân tộc là chân lý và Người
xem phục vụ Nhân dân là phục vụ chân lý, làm công bộc cho Nhân dân là một việc
làm cao thượng. Vì lẽ đó cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là tấm gương
mẫu mực về gần dân, kính trọng, phục vụ Nhân dân.
        Tình cảm của Bác đối với đồng bào, chiến sĩ, với mọi tầng lớp nhân dân hết
sức tự nhiên, hết sức con người. Những việc làm của Bác rất cụ thể, thiết thực, xuất
phát từ tấm lòng của Bác. Về thăm nông dân, Bác ra tận ruộng, hỏi han và cùng tát
nước, gặt lúa với bà con; về thăm công nhân Bác xuống tận công xưởng; Bác thăm
bộ đội ngay tại trận địa pháo; Bác xuống tận bếp ăn hỏi thăm bộ đội có được ăn no
không, cán bộ đại đội, tiểu đoàn có cùng ăn với chiến sĩ không; Bác thăm bệnh xá,
hỏi có đủ thuốc cho bộ đội không, bộ đội hay mắc bệnh gì? Có đêm, Bác đi đến
từng giường các chiến sĩ trong đội bảo vệ, giắt lại màn cho từng người. Một chiến
sĩ ngủ bỏ tay ra ngoài, Bác nhẹ nhàng nhấc bàn tay đặt vào trong, rồi giắt màn lại
cẩn thận.
        Bác đã dành tình cảm đặc biệt cho thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Là Chủ tịch nước, dù bận trăm công ngàn việc, nhưng cứ đến ngày Thương binh
liệt sĩ 27/7, Bác đều gửi thư thăm hỏi thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Những lá
thư của Bác chân tình mộc mạc, ai đọc lên cũng cảm nhận được tình thương yêu vô
bờ bến của Người. Trong thư gửi gia đình bác sĩ Vũ Đình Tụng (tháng 01/1947),
Bác cảm ơn gia đình bác sĩ “đã đem món quà quý báu nhất là con mình hiến dâng
cho Tổ quốc”. Bác viết: “Tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt
Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một
thanh niên thì hình như tôi mất một đoạn ruột…”.
     Tình thương yêu con người của Bác còn dành cho cả những người lầm đường,
lạc lối… Bác vẫn đối xử một cách độ lượng, khoan dung. Năm 1946, Bác tới trại
giam Hỏa Lò để thăm hỏi, khuyên bảo những phạm nhân ở đây. Bác tặng áo khoác
cho họ, ân cần ngồi bên họ, khuyên bảo họ, nghe họ phân trần và Người đã rưng

28
rưng nước mắt. Bác thường căn dặn, với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta
phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết.
        Tình yêu thương con người của Bác không phân biệt miền xuôi hay miền
ngược, già hay trẻ, gái hay trai, hễ là người Việt Nam yêu nước đều có chỗ trong
trái tim của Người. Tấm lòng nhân ái, hết lòng vì con người của Bác, không chỉ
dừng lại đối với Nhân dân Việt Nam, mà còn mở rộng ra với Nhân dân lao động
toàn thế giới. Quan điểm của Hồ Chí Minh là tất cả vì con người. Bác căn dặn: phải
luôn luôn làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, từ đó
nhân rộng gương tốt, việc tốt ra thành nhiều vườn hoa khác đẹp hơn, tốt hơn, toàn
diện hơn.
      Tấm lòng nhân ái, bao dung, tình yêu thương con người là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt trong tư tưởng, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho tới trước lúc đi xa, về
với “thế giới người hiền”, trong lời Di chúc, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Suốt đời tôi
hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù
phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thương
yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi
đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu
thanh niên, nhi đồng quốc tế”.
2.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng

Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất quan trọng nhất của đạo đức
cộng sản của chủ nghĩa. Điều này được bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công
nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn vượt ra khỏi giới hạn quốc gia - dân tộc. 

        Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết
hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong
tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng, hiểu biết, thương
yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với các dân tộc bị áp bức, với tất
cả các dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống
lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc; chống lại chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, sôvanh, biệt lập và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Hồ Chí
Minh nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, nhưng luôn luôn kêu gọi
phải tăng cường đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời phải ra sức ủng hộ và giúp
đỡ đối với các cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập của dân

29
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh theo tinh thần
quốc tế trong sáng: 
                                “Quan sơn muôn dặm một nhà,
                              Bốn phương vô sản đều là anh em !”
      Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp
tinh thần đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đã tạo ra
một kiểu quan hệ quốc tế mới: đối thoại thay cho đối đầu, nhằm kiến tạo một nền
văn hóa hòa bình cho nhân loại; đó là di sản thời đại vô giá của Người về hòa bình,
hữu nghị, hợp tác phát triển giữa các dân tộc.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh : 

Ngay trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh - bấy giờ là
Nguyễn Ái Quốc, đã khẳng định: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có
một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản". Theo Người, tinh thần
quốc tế trong sáng chính là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân
dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức,
bóc lột.

      Tháng 4/1953, trong thư gửi các đơn vị bộ đội được giao nhiệm vụ giúp bạn
Lào tác chiến ở Thượng Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Giúp bạn là tự giúp
mình”. Theo Bác, giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính
là bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Ðây chính là một bước phát triển mới trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. 
      Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa
yêu nước. Người đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ
khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào
ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần
quốc tế không trong sáng có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa
bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc...".
     Có thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn
từ tình thương yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức,

30
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho
con người.
      Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và
xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân
tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và
nhân dân thế giới.

2.3 Quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách
mạng
2.3.1 Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức

Nói đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tội được Hồ
Chí Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng nền đạo đức mới. Nguyên tắc cơ bản này là sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, đã trở thành phương pháp luận trong cuộc sống và là nền tảng
triết lý sống hết sức bình dị mà vô cùng sâu sắc của Người. Trong tác phẩm Đường
cách mệnh, khi đề cập tư cách một người cách mệnh, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Nói
đi đôi với làm”. Trong bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân, Người viết: “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong suốt cuộc đời
mình, Hồ Chí Minh đã giáo dục mọi người và chính Người đã thực hiện điều đó
một cách nghiêm túc và đầy đủ nhất.
Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả, nói một đằng làm một
nẻo, nói nhiều làm ít, thậm chí nói mà không làm. Ngay sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một
số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”. Sau này, Người đã nhiều lần bàn đến
việc quét sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần chúng của một số cán bộ, đảng
viên “Miệng thì nói dân chủ, nhưng là việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì
nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng,
trái ngược với phương châm, chính sách của Đảng và Chính phủ”, làm tổn hại đến
uy tín của Đảng và Chính phủ trước nhân dân.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đông.
Để đạo đức cách mạng thấm sâu, bám chắc vào đời sống xã hội và trở thành nền
tảng tinh thần của nhân dân, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên: “Trước hết,
mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm
gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa”. Sự

31
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm không chỉ là cách thức
để giáo dục đạo đức cho quần chúng, mà còn là một phương pháp để tự giáo dục
bản thân mình. Lời nói đi đôi với việc làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Hồ Chí Minh đã viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm,
và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt
Nam không chỉ bằng  lý luận cách mạng tiền phong mà còn bằng chính tấm gương
đạo đức cao cả của mình.
Theo Hồ Chí Minh, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng
một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng “đạo làm gương”.
Đối với cán bộ, đảng viên, Người nêu luận điểm quan trọng: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần
chúng chỉ yêu mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân,
mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Người nói: “Lấy gương người
tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để
xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới”. Muốn làm được như vậy, phải chú ý phát hiện , xây dựng những điển
hình “người tốt, việc tốt” rất gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động,
sản xuất, chiến đấu, học tập, nghiên cứu, … bởi vì, theo Người: “Từng giọt nước
nhỏ thấm vào lòng đất, chảy về một hướng mới thành suối, thành sông. Biết bao
nhiêu giọt nước nhỏ hợp lại mới thành biển cả… Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở
đâu cũng có. Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên một cái nền rộng lớn,
vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của
mỗi người và của toàn xã hội.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:

Lúc sinh thời Người luôn đề cao phong cách nói đi đôi với làm. Có thể nói,
theo quan niệm của Bác, phong cách nói đi đôi với làm luôn là nguyên tắc đầu tiên
trong ba nguyên tắc đạo đức cách mạng: nói thì phải làm, xây đi cùng với chống và
tu dưỡng đạo đức suốt đời. “Nói thì phải làm” là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối với mỗi người, để
thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận thức đúng và
quyết tâm vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự
cám dỗ của lợi ích cá nhân sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm. Để nói đi đôi với

32
làm, còn cần có sự cố gắng, bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm
vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức
phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Nói đi đôi với làm thể hiện bằng kết
quả công việc, với những sản phẩm cụ thể. Kết quả công việc là thước đo sự cống
hiến của mỗi người.
Theo Người, về bản chất, “nói đi đôi với làm” không chỉ là nguyên tắc đạo
đức, lẽ sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể của việc
quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và
hành động, giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người.
Trong cuộc đời của Hồ Chí Minh đã có bao nhiêu câu chuyện cảm động về
việc nêu gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.
Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân tiết kiệm gạo
để giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: “tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước
và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn  3 bữa.
Đem gạo đó (một bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.
Những năm Người làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế khó khăn, đời sống
nhân dân còn nghèo, mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn, Người đề nghị nhà
bếp là: cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, nấu cơm độn cho Người từng
ấy giống như cán bộ, nhân dân.
Trong chuyến đi thăm các địa phương, nhất là các chuyến đi trong ngày,
Người thường mang theo cơm nắm với muối vừng vì không muốn phiền hà đến cơ
sở.
Về chỗ ở, Người khước từ ở ngôi nhà sang trọng của Toàn quyền Đông
Dương trước đây mà chỉ ở ngôi nhà của người công nhân phục vụ. Người đi dép
lốp, mặc áo vá vai, dùng chiếc ô tô cũ, mà coi đó là “cái phúc của dân, đừng bỏ cái
phúc đó đi”. Mùa hè nóng bức, Hồ Chí Minh dùng chiếc quạt lá cọ, “Để dành điện
phục vụ cho sản xuất, dành điện phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm những việc như thế để thực hiện điều Người nói:
Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt
của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn
làm được như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thấm nhuần sâu sắc đặc trưng truyền thống văn hóa phương Đông là “một tấm
gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” nên nhiều khi
Người đã giải thích lý luận bằng thực tiễn, bằng hành động, bằng việc làm, thấy

33
làm đúng, làm phải, mọi người khác làm theo. Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc sinh
thời đã nhận xét: “Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể.
Nói là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng
thể hiện trong hành động".
2.3.2 Xây đi đôi với chống

Hồ Chí Minh cho rằng, nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền
đạo đức mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng; xây tức là xây dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống
các biểu hiện, các hành vi vô đạo đức, suy thoái đạo đức.
Để xây dựng một nền đạo đức mới , cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống. Trong đời sống hằng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo
đức và cái vô đạo đức thường đan xen nhau, đối chọi nhau thông qua hành vi của
những con người khác nhau, thậm chí trong mỗi con người. Theo Hồ Chí Minh,
“Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay”. Chính vì vậy, việc xây và chống
trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn
xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy xây làm chính.
Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức
của mình, như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc sự trau dồi đạo đức cách
mạng là việc làm “sung sướng và vẻ vang nhất trên đời”. Tiếp nhận sự giáo dục
đạo đức là vấn đề nhất thiết không thể thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau
dồi đạo đức ở mỗi người còn quan trọng hơn.
Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải được tiến hành bằng việc giáo
dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. Việc giáo dục đạo đức mới
phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, phù hợp với từng lứa
tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi
dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi người. Hồ Chí Minh quan niệm, “Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ
của người cách mạng”. Bản thân sự tự giác cũng là một phẩm chất đạo đức cao quý
đối với mỗi người và mỗi tổ chức, trước hết là đối với đảng viên, cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức
mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ
nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập tục lạc hậu, phải loại trừ chủ nghĩa cá
nhân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ, sâu sắc giữa

34
tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng. Muốn giành được thắng lợi
trong cuộc chiến đấu này, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, phải tuyên truyền,
vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh,
trong sạch về đạo đức; phải chú trọng kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường tính
nghiêm minh của pháp luật.
Xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên và hàng triệu, hàng triệu con
người, trước tiên phải chăm lo bồi dưỡng những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức
mới ngay từ trong gia đình, đến nhà trường và xã hội; chống lại cái xấu, cái sai, cái
vô đạo đức. Trong bài Chống quan liêu, tham ô, lãng phí (năm 1952), Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ: “Quan liêu, tham ô, lãng phí là tội ác. Phải tẩy sạch nó để thực hiện cần
kiệm liêm chính”. Nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn là chủ nghĩa cá nhân. Trong bài
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (năm 1969), Người
viết: “do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm… Phải kiên quyết quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh
thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật”. Tuy nhiên, Người lưu ý: “Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân””.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:

Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần
chúng rộng rãi biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát
động rất nhiều phong trào vận động quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành
mạnh, trong sạch về đạo đức. Đó là phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu (năm 1952); đó là phong trào: 3 xây, 3 chống” (năm
1963)... Có phong trào, có cuộc vận động cho toàn Đảng, toàn dân; nhưng lại có
phong trào, có cuộc vận động riêng cho từng ngành, từng giới. Ngoài ra, Người còn
viết sách “người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức lối sống. Thông
qua đó mà lôi cuốn mọi người vào cuộc đấu tranh nhằm xây gì, chống gì rất cụ thể,
rõ ràng để mọi người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao phẩm chất, đạo đức cách
mạng.

2.3.3 Tu dưỡng đạo đức suốt đời

Theo Hồ Chí Minh, Người đã nhiều lần chỉ rõ: “Mỗi con người phải thường
xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày đấy cũng là công việc
phải kiên trì bền bỉ suốt dời, không người nào có thể chủ quan tự mãn”.  Một nền

35
đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự giác tu dưỡng đạo đức ở mỗi
người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy
việc trau dồi cách mạng là một việc “sung sướng vẻ vang nhất đời”. Người nhắc lại
luận điểm của Khổng Tử “ Chính tâm, tu thân”; “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và
chỉ rõ: “Chính tâm tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng là trường kỳ gian khổ, vì đó
là cuộc cách mạng trong bản thân mỗi người. Bồi dưỡng tư tưởng mới để đánh
thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở thành con người mới không
phải là một việc dễ dàng... Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn cải tạo thì nhất định
thành công”.
Đạo đức cách mạng là đạo đức dẫn thân, đạo đức trong hành động độc lập, tự
do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách
mạng mới bộc lộ rõ giá trị của mình. Do vậy, đạo đức cách mạng đòi hỏi mỗi người
phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các
mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc;
phải thấy rõ cái hay, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái xấu, cái dở, cái
ác của mình phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc “rửa mặt hằng
ngày”. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển
và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Nếu
không thường xuyên rèn luyện thì lúc khó khăn có thể vượt qua, có công với cách
mạng, nhưng đến khi an nhàn lại sa vào chủ nghĩa cá nhân trở thành con người
ngăn cản cách mạng, hại dân, hại nước. Cũng chính vì lẽ đó mà tu dưỡng đạo đức
phải gắn với thực tiễn bền bỉ trong mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh, có như vậy
mới phân biệt được đạo đức mơi khác với đạo đức cũ. Theo quan điểm của Hồ Chí
Minh thì mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu vấn đề là không tự lừa dối mình mà
nhìn thẳng vào mình thấy rõ cái tốt, cái thiện để phát huy, thấy cái xấu, cái ác để
khắc phục. Vì vậy, việc tu dưỡng rèn luyện phải được thực hiện trong hoạt động
thực tiễn, Hồ Chí Minh là một tấm gương suốt đời tự rèn luyện và trở thành tấm
gương tuyệt vời về con người mới. Những đức tính quý báu của người không phải
bẩm sinh có được mà do quá trình tu dưỡng rèn luyện học tập, từng bước hấp thụ
tinh hoa đạo đức dân tộc và nhân loại mà đã trở thành tư tưởng bất tử.

Liên hệ thực tiễn tấm gương Hồ Chí Minh:


Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức bền
bỉ, kiên trì. Điều đó được người chứng minh bằng chính cuộc đời hoạt động cách

36
mạng của Người. Với ý chí, nghị lực luôn tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, Hồ Chí
Minh trở thành tấm gương của “Kiên trì và nhẫn nại. Không chịu lùi một phân. Vật
chất tuy đau khổ. Không nao núng tinh thần”. 
Ra đời trong hoàn cảnh nghèo khó của quê hương Nghệ An, Người không bao
giờ nghĩ riêng cho mình một cuộc đời sung sướng. Người thấu hiểu nỗi nhục mất
nước, mất tự do và nghèo khó của đồng bào, càng nung nấu quyết tâm giải phóng
cho đất nước. Những ngày xa Tổ quốc cũng là những ngày nay đây mai đó, trải qua
nhiều nghề vất vả từ anh phụ bếp, đốt lò đến người thợ rửa ảnh, nhà báo… Nhưng
nghèo khổ không chuyển lay được lòng Người. Bị kết án tử hình và trải qua ba
mươi nhà tù nhưng không uy vũ nào khuất phục được Người; Thân thể ở trong lao,
nhưng tinh thần Người vẫn ở ngoài lao, hướng về Tổ quốc và tinh thần sắt đá vào
thắng lợi của cách mạng. Đói rách, bệnh tật, Người vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan
và nằm ngủ với “sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”.
Cuộc đời của Người, từ khi còn bôn ba ở nước ngoài, đến khi làm Chủ tịch
nước vẫn giữ một cuộc đời thanh đạm, giản dị, trong sạch. Hành lý vị Chủ tịch
nước sang dự hội nghị đàm phán với Chính phủ Pháp năm 1946 chỉ xếp gọn trong
chiếc vali nhỏ với hai bộ quần áo. Tài sản riêng của Người để lại cho chúng ta hiện
nay cũng chỉ có hai bộ kaki, đôi dép cao su, cái quạt giấy đã cũ, chiếc đồng hồ mặt
đá đã mờ… Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học mẫu mực, sáng ngời trong việc nâng
cao đạo đức cách mạng “Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công vô tư”, ý thức tổ
chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, phục vụ nhân dân, đấu tranh, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí.
Là người đứng đầu Ðảng và Nhà nước nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
quyền lực thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác. Còn mình thì như một người
lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, “bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì
tôi rất vui lòng lui”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suốt đời không ngừng tự tu dưỡng,
tự rèn luyện mình để trở thành“tấm gương sáng ngời về con người mới”, thành
hình ảnh mẫu mực về “người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân” chẳng những có sức lôi cuốn, cảm hóa mãnh liệt đối với toàn thể dân tộc, mà
còn ảnh hưởng sâu rộng trên toàn thế giới.

37
Chương III. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh
3.1 Thực trạng đạo đức sinh viên hiện nay
3.1.1 Thực trạng

Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định rằng: "Tuổi trẻ phải có đức và có tài. Có
tài mà không có đức thì giống như người anh rất giỏi về kinh tế, tài chính nhưng lại
đi xuống dưới, chẳng những không làm được việc gì có lợi cho xã hội mà còn bất
lợi cho xã hội. Nếu có đức mà không có tài, như phật thì chẳng hại gì, nhưng cũng
chẳng có ích gì cho nhân loại". Do vậy, việc tu dưỡng, rèn luyện tư tưởng đạo đức
đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi sinh viên hiện nay, bởi đức và tài đều
phải song hành với nhau thì mới thành một con người toàn diện, giúp ích cho bản
thân và đất nước.

Khi bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế, một làn sóng mới đã ảnh hưởng đến việc hình thành tư tưởng, đạo đức của

38
con người Việt Nam. Đó là nền đạo đức đã phát huy được những giá trị tốt đẹp
truyền thống của dân tộc như: yêu nước, yêu thương con người, thủy chung, nghĩa
tình, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đoàn kết,... cùng với đó là sự hội nhập,
học hỏi những điều mới của thời đại. Nhờ đó mà đa số sinh viên, học sinh, trí thức
vẫn giữ được lối sống lành mạnh, trong sáng, thân thiện, khiêm tốn, cần cù, chịu
khó; dũng cảm, vượt khó không ngừng vươn lên trong học tập và cuộc sống, dám
đương đầu với khó khăn; dám thử sức với những điều mới, và dám chịu trách
nhiệm trước những lời nói và hành động của mình; luôn cố gắng đấu tranh vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh đó, sinh viên cũng bị ảnh hưởng nhất định bởi những yếu tố thời
đại, yếu tố du nhập như lối sống thực dụng chạy theo danh lợi, bất chấp đạo đức,
không nhận thức được rõ ràng những thông tin, hành động trái chiều, phản
động,...điều này đã ảnh hưởng nhất định đến niềm tin, tư tưởng, ý chí, đời sống của
sinh viên, trí thức trẻ. Thực tế cho thấy có nhiều sinh viên đã có biểu hiện sống tiêu
cực, thiếu trách nhiệm, buông thả bản thân, thờ ơ với gia đình, bất lương, gian lận
trong thi cử,...đó là những biểu hiện tiêu cực cần phải được lên án, đẩy lùi. Một số
bộ phận thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng không có chí hướng rõ ràng,
chưa hiểu biết đầy đủ về những truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc,
chưa thực sự quan tâm đến tình hình chính trị trong nước và quốc tế, ý thức vươn
lên trong học tập còn kém, thậm chí còn bị những kênh truyền thông sai lệch làm
lung lay tư tưởng, bị lôi kéo, kích động làm những hành vi trái pháp luật,...
3.1.2 Đánh giá

a) Thành tựu đạt được


Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng và nhà nước, gia đình, nhà
trường, toàn xã hội, sự nỗ lực của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và Hội Sinh viên Việt Nam, công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh, sinh viên đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần đào
tạo ra một thế hệ thanh niên đủ sức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Thế hệ trẻ ngày nay ngày càng năng động, hăng hái tham gia các hoạt động tình
nguyện, hoạt động trao đổi thông tin, giao lưu, hội nhập quốc tế, thông minh, tự tin,
tự chủ, không ngừng phát huy sức mạnh nội lực để đạt được những thành tích cao
vì vậy có rất nhiều bạn trẻ có những thành tựu từ khi còn rất sớm. Đa số sinh viên
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sống có trách nhiệm, có ước mơ, hoài bão, dám nghĩ,
dám làm, dám thành công.

39
b) Vấn đề đặt ra
Bên cạnh những kết quả đạt được, sinh viên cũng bị ảnh hưởng nhất định bởi
những yếu tố thời đại, yếu tố du nhập như lối sống thực dụng chạy theo danh lợi,
bất chấp đạo đức, không nhận thức được rõ ràng những thông tin, hành động trái
chiều, phản động,…điều này đã ảnh hưởng nhất định đến niềm tin, tư tưởng, ý chí,
đời sống của sinh viên, trí thức trẻ. Thực tế cho thấy có nhiều sinh viên đã có biểu
hiện sống tiêu cực, thiếu trách nhiệm, buông thả bản thân, thờ ơ với gia đình, bất
lương, gian lận trong thi cử,…đó là những biểu hiện tiêu cực cần phải được lên án,
đẩy lùi. Việc học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của
sinh viên hiện nay còn một số hạn chế:
- Nội dung giáo dục hiện nay chưa kết hợp tốt giữa giáo dục đạo đức, giáo dục văn
hóa với giáo dục khoa học, công nghệ và kỹ thuật, nội dung chưa phù hợp với nhu
cầu và xu thế thị trường lao động trong nước và quốc tế.
 Đặc biệt có một thời gian dài, chúng ta xem nhẹ việc giáo dục đạo đức cho thanh
niên, nếu có thì chỉ mang tính hình thức, kém hiệu quả.
 - Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay vẫn chỉ
mới tập trung vào những vấn đề như giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục tri thức,
giáo dục nghề nghiệp, công ăn, việc làm... Trong khi đó có những nội dung cơ bản,
quan trọng và cấp bách vẫn chưa được quan tâm đúng mức, trong đó đặc biệt là
những vấn đề giáo dục đạo đức.
- Phương pháp giáo dục thanh niên thời gian qua vẫn chủ yếu sử dụng phương pháp
truyền thống, còn lạc hậu, chậm đổi mới, chậm hiện đại hóa, chưa gắn với đời sống
xã hội và lao động nghề nghiệp, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và năng
lực thực hành của thanh niên…
- Vẫn còn một bộ phận sinh viên không có chí hướng rõ ràng, chưa hiểu biết đầy đủ
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, ít quan tâm đến tình hình của đất
nước, quốc tế. Một bộ phận sinh viên “nhạt Đảng, phai Đoàn, xa chính trị”, không
có ý thức vươn lên trong học tập và rèn luyện, có những sinh viên giảm sút niềm
tin, thiếu niềm tin, bản lĩnh non kém, thậm chí bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích
động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật.
- Một bộ phận sinh viên hiện đang chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt, lợi ích cá
nhân của mình. Số này chỉ quan tâm đến việc học tập chuyên môn; tập trung vào
việc đi học, sau đó, đi làm thêm, ít quan tâm tới các vấn đề xã hội, chính trị; ít tham
gia các phong trào, các hoạt động xã hội.

40
- Một bộ phận sinh viên còn chịu tác động ảnh hưởng của các hoạt động tuyên
truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch; tư tưởng còn bị dao động; nhiều lúc còn
mơ hồ, thiếu kiên định, thiếu hoài bão, không tích cực tham gia các phong trào và
hoạt động xã hội.
3.2 Giải pháp học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

- Trong công tác, sinh hoạt, cuộc sống đời thường, hội viên, sinh viên cần:
 Dành thời gian thỏa đáng tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách và tấm
gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với
làm.
 Tự soi mình, sửa mình và rèn luyện, tạo được thói quen cho bản thân làm
theo lời Bác dạy.
 Phấn đấu trở thành tấm gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính
trung thực, luôn nói đi đôi với làm để cho người khác noi theo.
 Tham gia tích cực, hiệu quả các phong trào của Đoàn Thanh niên, Hội
Sinh viên các cấp. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện đạt danh hiệu "Sinh viên
5 tốt" với các tiêu chí: Đạo đức tốt, Học tập tốt, Thể lực tốt, Tình nguyện
tốt, Hội nhập tốt.
- Hội viên, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ tích cực học tập và làm theo Bác về
trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm mà còn phải:
 Tích cực tuyên truyền, làm cho nhiều xung quanh mình có nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích to lớn của
tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm; chỉ rõ tác hại của
những hành vi vô trách nhiệm, sự giả dối, nói một đàng làm một nẻo,
hoặc "nói thì hay mà làm thì dở" đối với bản thân, gia đình và xã hội.
 Chú ý phát hiện, tuyên dương, nhân rộng các gương điển hình thanh niên,
sinh viên hoặc các cơ sở Đoàn, Hội có những ý tưởng, sáng kiến, cách
làm hiệu quả trong thực hành theo tư tưởng, tấm gương của Bác về tinh
thần trách nhiệm, trung thực nói đi đôi với làm.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên cần xác định rõ trách nhiệm của
mình đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân; sẵn sàng xung phong cống hiến, hy
sinh vì sự nghiệp chung của đất nước:
 Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chúng ta không một phút
nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn
toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và
trên toàn thế giới".

41
 "Nhiệm vụ của thanh niên không phải là hỏi nước nhà đã cho mình
những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm
thế nào cho ích lợi nước nhà nhiều hơn? Mình đã vì lợi ích nước nhà mà
hy sinh phấn đấu chừng nào?".
 Phải dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm. Sẵn sàng nhận nhiệm
vụ và có trách nhiệm với nhiệm vụ của mình, nỗ lực hết sức mình để
hoàn thành nhiệm vụ, không tránh né, đùn đẩy nhiệm vụ qua cho hoàn
cảnh hay người khác. Sẵn sàng nhận lỗi và gánh chịu hậu quả xấu đến
với mình khi mình không hoàn thành nhiệm vụ, không đổ thừa cho hoàn
cảnh hay người khác.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, nêu cao tinh
thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đôi với làm:
 Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, Với Tổ
quốc, với Đảng, với giai cấp. 
 Dũng cảm
 Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: "Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó thanh niên làm", "gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người".
 Khiêm tốn 
 Cần nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công
việc và trong cuộc sống, coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm
giá của mỗi người.
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm,
trước hết phải nói đi đôi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân
cách:
 Tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải.
 Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm.
 Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị,
sửa chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy
ưu điểm và mặt tích cực.
- Mỗi đoàn viên, hội viên, thanh niên, sinh viên gắn tinh thần trách nhiệm, được
tính trung thực, nói đi đôi với làm và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công việc
chuyên môn của cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức đoàn, hội, đội:
 Hội viên, sinh viên cần Chủ động học tập kiến thức, tích cực tu dưỡng
đạo đức, rèn luyện sức khỏe, có lối sống lành mạnh, không vướng vào tệ
nạn xã hội, không nói dối thầy cô, cha mẹ.

42
 Không gian lận trong thi cử, làm tròn trách nhiệm của người con ngoan,
trò giỏi.
 Tích cực vận dụng kiến thức học được từ nhà trường áp dụng vào cuộc
sống hằng ngày, vào công việc.

Kết luận

Một tờ báo nước ngoài đã viết “ Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là
một ý chí sắt thép. Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng
không có gì uy hiếp nổi”. Đúng vậy,  ở Hồ Chí Minh người ta tìm thấy  chân dung
một con Người rất đỗi bình dị trong cuộc sống đời thường, nhưng lại toát lên những
phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, một tinh thần quật khởi anh hùng, một ý
chí sắt thép của một người lãnh tụ cách mạng vĩ  đại đã suốt đời đấu tranh cho công
cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Phải khẳng định rằng, những phẩm
chất đạo đức của Hồ Chí Minh đã  nâng tầm thành hệ tư tưởng đạo đức kế thừa
được truyền thống đạo đức dân tộc, kết hợp với tinh hoa đạo đức nhân loại, lấy đạo
đức cộng sản Mác-Lênin  làm cốt lõi.

Tư  tưởng đạo đức mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta có ý
nghĩa và giá trị vô cùng to lớn. Đặc biệt là đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn nước nhà bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xu thế toàn cầu hóa, đã và đang mang lại những cơ hội, thuận lợi nhưng
cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cần được giải quyết. Nhất là vấn đề sự
nghiệp giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, cho các cán bộ đảng viên, cho mọi người

43
dân Việt Nam. Hơn lúc nào hết, vấn đề giáo dục đạo đức đã trở thành một bài toán
khó cho Đảng và nhà nước, một vấn đề nhức nhối cho toàn xã hội. Mà để giải
quyết được bài toán ấy không phải là dễ, nhưng cũng không phải là khó nếu mỗi
người dân Việt Nam, nhất là mỗi sinh viên chúng ta – thế hệ tương lai của nước
nhà, tự mình ý thức được vai trò của đạo đức, rèn luyện, tu dưỡng theo tư tưởng
đạo đức của Người, nói cách khác, trong giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi mỗi cá
nhân phải biết tự “xoá đói về thông tin, về trí tuệ”, phải biết tự “xoá nghèo về nhân
cách và đạo đức làm người”  để thực sự trở thành những công dân vừa “hồng” vừa
“chuyên” nhằm xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ đã
từng mong đợi.

Tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà
Nội, 2021.

2. Trung với nước, hiếu với dân - Phẩm chất hàng đầu trong chuẩn mực đạo đức
Hồ Chí Minh (2021), Báo Nhân Dân.

3. Học tập và làm theo tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Chủ
tịch Hồ Chí Minh (2019), Trang tin điện tử Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh.

4. Hồ Chí Minh - Người yêu thương tất cả chỉ quên mình (2020), Thời báo tài chính
Việt Nam. 

5. Tinh thần quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh (2020), Báo điện tử VTV - Đài
truyền hình Việt Nam. 

6. Thanh Huyền, Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm,
Trang tin điện tử Ban quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban tuyên giáo tỉnh ủy
Thái Bình, 2014.

44
7. PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa Nội dung cơ bản của học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Tạp chí tuyên giáo, 2016.

8. Đạo đức Hồ Chí Minh - nền tảng sự phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay,
(2015), Trang tin điện tử Bộ Nội Vụ.

9. Bùi Tuấn An, Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh năm 2023, Luật Minh Khuê, 2023

45

You might also like